T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

T.Vấn: Người trai thời chiến

clip_image002

Nhà thơ Như Hoa Lê Quang Sinh, tác giả tập truyện ký “Người Trai Thời Chiến”, sinh năm 1929, có nghĩa là năm nay ông đã 84 tuổi, số tuổi mà cuộc đời một con người đã bao trùm trọn vẹn những giai đọan rất đặc thù của đất nước: sinh ra, lớn lên trong thời buổi lọan lạc, dấn thân vào cuộc chiến với tư cách một chiến binh, ra khỏi chiến tranh chỉ để tiếp tục một cuộc sống tù đày không kém gian nan bất trắc, đến khi thóat cảnh cá chậu chim lồng thì tóc đã đổi mầu, nhưng thân phận người trai nước Việt rất điển hình ấy vẫn không còn lựa chọn nào khác là lại lên đường, khởi đầu một kiếp lưu vong cho đến ngày nhắm mắt.

Trong khỏang thời gian 84 năm ấy, hầu như mỗi một người trai trong thế hệ chúng tôi đều tìm thấy nhiều khỏang thời gian ăn khớp với những biến cố riêng cuộc đời mình. Mỗi một khỏang đời trong 84 năm của nhà thơ cựu binh Như Hoa, đều có thể dùng để mô tả những đọan đời của bao người trai nước Việt khác.

Ở tuổi 84, ông đúc kết lại đời mình, bằng tập truyện ký “Người Trai Thời Chiến” dầy hơn 600 trang, bằng sự thanh thản của một người đã chuẩn bị xong hành trang để lên đường cho một cuộc viễn du mới, hẳn là cũng không kém phần bất trắc so với những đọan đời chiến binh, tù đày, lưu vong trong quá khứ .

Có phải đây sẽ là nỗ lực cuối cùng của một ông già 84 tuổi thân thể mảnh mai gầy còm nhưng sức sống bền bỉ đến độ làm kẻ hậu sinh là tôi phải ganh tị?

Gần 15 năm trước, khi ông cho xuất bản tập thơ “Chuyện ngày xưa”, tôi đã viết đôi hàng cảm khái gởi ông, với tâm trạng của người sợ hãi trước bước đi vùn vụt của thời gian: “ . . . Cuộc đời phù du dâu bể, vật chất phù vân sớm về tối đi … Hay nói một cách khác, cuộc đời vốn bấp bênh. Mới đó mà đã mất tăm. Mới đó mà đã biền biệt. Còn chút tình nào cho nhau, xin hãy cho ngay hôm nay. Đừng nấn ná chờ đợi. Kẻo đến một lúc nào đó … qúa muộn. Tuổi ông đang mấp mé bên bờ tử biệt. Mà hình như tôi cũng vậy. Nào ai biết được, khi buổi sáng thức dậy không còn biết trước hiên nhà có vuông nắng ngọt ngào, nhìn thấy mà thèm sống đến muốn … chết được. Hay một buổi sáng không còn thức dậy được nữa. Mà đã lặng lẽ một mình về cõi quạnh hiu. Cái bến bờ hiu quạnh ấy ai cũng sẽ một lần qua, nhưng bởi không biết bao gìờ nên cuộc đời này vẫn còn được chút niềm vui. . .” .

Năm ấy, ông vừa ở ngưỡng cửa “thất thập cổ lai hy”, còn tôi thì mon men “ngũ thập tri thiên mệnh” . Năm ấy, tôi không thể tưởng tượng được những họat động mạnh mẽ nhất về văn hóa nghệ thuật của nhà thơ Như Hoa vẫn còn chưa xẩy ra, vẫn mới chỉ manh nha thành hình, ở tuổi 70. Quá khứ mấy mươi năm chiến tranh, quá khứ 8 năm tù đầy xứ Bắc, đã là những phần đời cần bỏ lại sau lưng. Ở tuổi 70, ông đã tạo đủ mọi điều kiện cần thiết để sẵn sàng cuộc chiến mới còn ở phía trước, cuộc chiến mà như ông đã bộc bạch ở trang cuối cùng tập truyện ký với tiêu đề “Một Tấm Lòng” :

“Năm nay tôi đã trên 80, đã có một thời cầm súng chiến đấu trong 25 năm đất nước can qua, 8 năm tù cải tạo, và 8 năm sống dưới chế độ độc tài cộng sản. Cuộc đời đã 41 năm gắn liền với vận nước nổi trôi, và đến nay, đã 22 năm làm thân lưu vong trên đất khách quê người; vui buồn, sướng khổ đều đã trải nghiệm.

Nghĩ lại bao nhiêu anh em đồng đội cùng môt chiến tuyến đã hy sinh trên chiến trường, bao nhiêu đồng bào mình đã chết oan uổng vì súng đạn của kẻ thù độc ác, để mình còn được sống đến ngày hôm nay, nhưng rồi chẳng làm được gì gọi là một chút đền đáp công ơn hầu khỏi phụ lòng họ. Tôi chỉ có một tấm lòng. Trước kia cầm súng bắn kẻ thù, nay cầm bút để nói lên nỗi lòng của mình đối với quê hương, với bạn hữu -những người đã khuất cũng như còn sống, và góp phần xây dựng nền văn hóa Việt hải ngoại để cho các thế hệ con cháu mai sau còn giữ được truyền thống văn hóa của ông cha. . .”

Người Trai Thời Chiến 84 tuổi Như Hoa Lê Quang Sinh vừa chọn một dấu mốc để dừng lại, ngỏanh nhìn một đọan đời dài đã đi qua, đọan đời 22 năm làm thân lưu vong trên đất khách quê người.

Quả thật, ông chẳng có chút gì để phải thẹn lòng. Ngòai những tập thơ, truyện riêng của cá nhân ông, thành tựu nổi bật nhất phải kể đến 14 tuyển tập Cụm Hoa Tình Yêu. Ở Tuyển tập CHTY thứ nhất, mới chỉ có 17 người tham gia. Đến Tuyển tập thứ 14, đã có hơn 350 văn thi sĩ góp mặt. Họ ở khắp nơi trên thế giới, mang nhiều quốc tịch khác nhau. Mọi công việc, thông tin liên lạc, thu thập bài vở, biên tập, sửa chữa, trình bày đến lo việc ấn lóat, phát hành, vẫn là ông già mảnh mai năm nay đã 84 tuổi. Kế đến là những nỗ lực ông dành cho việc tổ chức các kỳ đại hội thi ca quốc tế ở khắp các tiểu bang Hoa Kỳ và Paris, Pháp quốc, các buổi Ra Mắt Tuyển tập CHTY cả ở Mỹ lẫn các quốc gia châu Âu như Đức, Bỉ, Hòa Lan, Pháp v.v.. vừa tạo cơ hội để các thành viên hội thơ tài tử có dịp gặp gỡ, kết bạn vừa để giới thiệu những thành tựu văn hóa của cộng đồng người Việt hải ngọai. 14 Tuyển tập Cụm Hoa Tình Yêu luôn được in ấn trang trọng và 8 kỳ đại hội Thi Ca Quốc Tế trong 15 năm họat động không phải là thành tựu mà ai cũng có thể làm được, nhất là khi người ấy đã ở tuổi “thất thập cổ lai hy”.

clip_image004

( Nhà thơ Như Hoa trao tặng Tuyển tập Thơ CHTY 14 cho bà Lê Lam Ngọc, Chủ Tịch CĐNVQG thành phố Dallas )

Tôi biết ông từ những ngày còn ở trại tù Vĩnh Quang, Vĩnh Phú, nhưng chỉ thực sự gần gủi ông khi chúng tôi được chuyển về trại Z30A Xuân Lộc năm 1982. Ngày ấy, tôi làm sao có thể tưởng tượng được cái ông già tánh tình nhỏ nhẹ, thân thể gầy còm, chân bước thấp bước cao vì chứng bệnh thần kinh tọa, lại mang trong mình một thứ nghị lực mạnh mẽ và sức làm việc bền bỉ đến như thế?

Hơn 30 năm sau, nơi mảnh đất lưu vong xứ người, cầm quyển Truyện Ký một đời của Như Hoa, lần giở từng trang như lần giở từng mảnh đời, của ông, của tôi, của bạn bè –kẻ sống cũng như người đã chết – lòng tôi tràn ngập một cảm giác ngưỡng mộ. Tôi tin rằng ông đã sống một đời đáng sống. Tôi tin rằng ông đã “tận nhân lực”, đã làm hết sức mình những gì ông có thể làm được.

Gặp ông lần cuối hồi tháng 10 năm 2012 nhân dịp Đại Hội Thi Ca Quốc Tế kỳ 8 tại thành phố Dallas, TX, tôi đã trông thấy dấu hiệu mệt mỏi không thể tránh khỏi trên nét mặt không bao giờ thiếu nụ cười của ông. Bằng giọng nói nhỏ nhẹ cố hữu, ông bảo tôi có lẽ đây là đại hội thi ca cuối cùng do ông tổ chức. Bỗng đến giữa năm 2013, tôi được tin ông chuẩn bị ra mắt tác phẩm truyện ký “Người Trai Thời Chiến” đồ sộ, kể cả buổi ra mắt tổ chức ở miền Nam California hồi cuối tháng 6 năm 2013, rồi buổi ra mắt sách dự trù tổ chức ở thành phố Dallas tháng 9 năm 2013 nhưng phải dời lại đến tháng 11 cùng năm .

Ở trên tôi đã đặt câu hỏi: Có phải đây sẽ là nỗ lực cuối cùng của một ông già 84 tuổi?

Tôi tưởng mình hỏi tức là đã trả lời, nhưng nhìn lại suốt khỏang thời gian quen biết ông, tôi không tin lắm ở ý nghĩ của mình. Có lẽ chỉ đến khi ông trăm tuổi rồi, tôi mới dám quả quyết một điều gì đó về ông.

Còn bây giờ, tôi vẫn sẽ phải chuẩn bị tâm tư để đón nhận những bất ngờ đến từ một đời họat động không hề biết đến mệt mỏi của nhà thơ Như Hoa Lê Quang Sinh, “Người Trai Thời Chiến” thật tiêu biểu của ít nhất hai thế hệ Việt Nam đã từng kinh qua chiến tranh, tù đày và lưu vong.

T.Vấn

05 tháng 10 năm 2013

 

©T.Vấn 2013

Phụ Lục :

Lời Giới Thiệu

Người Trai Thời Chiến

Truyện Ký của Lê Quang Sinh.

Gíao Sư Tiến Sĩ Đàm Trung Pháp

(Buổi Ra Mắt Sách tại thành phố Dallas, TX ngày 1 tháng 6 năm 2014)

Kính thưa quý vị,

Tôi rất hân hạnh được có đôi lời giới thiệu với quý vị tập truyện ký “Người Trai Thời Chiến ” của văn hữu Như Hoa Lê Quang Sinh, Hội Trưởng Hội Thơ Tài Tử Việt Nam Hải Ngoại. Tác phẩm này mới được Nguyệt san Bút Tre ở Tiểu bang Arizona xuất bản 1000 cuốn vào mùa Hè năm 2013.

Đây là một cuốn sách đồ sộ 640 trang, với nội dung được biên tập kỷ lưỡng và ngoại hình được trình bày rất trang nhã.

Ngay sau khi tác phẩm này được in xong, anh Như Hoa đã ưu ái tặng cho tôi và nhà tôi một cuốn. Tôi đón nhận món quà văn học này như là một thứ “của tin gọi một chút này làm ghi” từ tác giả, một văn hữu vong niên tài hoa và khả kính của tôi tại Dallas gần 10 năm nay.

Tôi rất thích đọc những hồi ký đứng đắn và khả tín của người khác để tìm hiểu thêm về những quảng thời gian đã mất, qua kinh nghiệm sống của các tác giả. Chẳng hạn, qua cuốn”Dọc Đường Gió Bụi” (NXB Vĩnh Sơn, Saigon, 1949) của sử gia Trần Trọng Kim, tôi được biết những gì đã xãy ra tại quê nhà khi cụ Trần được Vua Bảo Đại chỉ định làm Thủ Tướng đầu tiên của Quốc Gia Việt Nam năm 1945, một trọng trách mà Cụ chỉ đảm nhiệm được trong bốn tháng. Về văn học, thi sĩ Đinh Hùng trong hồi ký “Đốt Lò Hương Cũ” (NXB Lửa Thiêng, Saigon,  1971) đã thuật lại cho người đọc  những giai thoại kỳ thú giữa các nhà thơ, nhà văn lẫy lừng tên tuổi ở HàNội trước khi đất nước bị chia đôi năm 1954.

“Người Trai Thời Chiến” là một truyện ký sống động, thành tâm, và đậm sâu cảm xúc về cuộc đời nhiều gian khổ, lắm thử thách, nhưng lúc nào cũng đầy nghị lực và lý tưởng của một người trai khi còn trẻ thì can trường bảo vệ nền tự do dân chủ của đất nước bằng súng đạn, và khi về già nơi đất khách thì làm việc chẳng kể giờ giấc để góp phần vào sứ mệnh bảo tồn văn hóa và ngôn ngữ Việt bằng trái tim và bằng ngòi bút trong lãnh vực thi ca. Đọc kỷ truyện ký “Người Trai Thời Chiến” tôi đã được biết thêm nhiều điều về cuộc đời, vui có, buồn có, xấu có, đẹp có, tủi nhục có, hãnh diện có, qua kinh nghiệm sống của một nhà thơ với tâm hồn luôn luôn hướng thượng.

Tác giả là một người kể chuyện đời rất có duyên khiến người đọc không muốn rời cuốn sách. Hơn nữa, văn phong kể chuyện của anh từ tốn, nhẹ nhàng, giản dị, mạch lạc khiến người đọc không thể hiểu lầm hoặc bị hụt hẫng chút nào. Này nhé, khi nhắc đến hồi còn mài đũng quần trong trường tiểu học, anh kể một câu chuyện vui nhộn như sau:

“Tôi học hành cũng khá siêng năng và có hạng trong lớp, nhưng cũng rất nghịch ngợm, thích cải nhau và đánh lộn…Có một lần đánh nhau dữ dội, đối thủ bị tôi đánh gãy hai cái răng cửa. Cả nhà nó, nào cha mẹ, nào chị em đến bắt đền ba má tôi. Mặc dù ba má tôi rất cưng tôi vì là con út và con trai một, nhưng cũng phải bắt tôi nằm xuống phết mấy roi vào đít cho vừa lòng gia đình họ” (trang 27).

Những câu chuyện đời buồn vui lẫn lộn như trên có rất nhiều trong cuốn sách, chuyện nào cũng dí dỏm làm tôi phải bật cười thành tiếng, chẳng hạn như  lời anh kể lại về kinh nghiệm đi chăn dê trong trại tù cải tạo cùng với một bạn tù tên là anh Huyên:

“Người đời bảo “ba mươi lăm dê xồm” quả thật không ngoa! Cả đoàn dê chỉ có một con đầu đàn là con dê đực. Nó cao lớn lực lưỡng hơn người, râu ria xồm xoàm rậm rạp, hai cái sừng dài cong nhọn trông thấy khiếp. Ra đến bãi cỏ chúng tôi dùng nước muối rải lên, thế là đàn dê bu vào gặm. Chúng tôi ngồi chơi xơi nước, khỏe re! Ấy thế mà cũng có lúc phải vất vả với con dê đực đầu đàn. Nó ăn ba miếng xong là nó bắt đầu “quậy”. Mấy “em tin” (teen) làm sao chịu nổi nó. Nó rượt theo môt hồi là thấy bá thở rồi, đến khi xong việc nó bỏ đi tìm em khác thì em này đã ngả lăn ra cỏ xỉu luôn. May mà nó tỉnh lại, nếu không, anh Huyên và tôi sẽ mang họa với nó vì để cho dê chết không có “lý do chính đáng” (trang 76).

Nhà thơ Lê Quang Sinh là người trọng nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Lòng nhân của anh nổi bật hơn cả. Khi đó là ngày 28-4-75, Trung Tá Lê Quang Sinh đang chỉ huy binh sĩ phòng thủ Trường Sĩ Quan Bộ Binh Thủ Đức (đã dời về tại Long Thành). Anh kể lại một cách mạch lạc:

“Một anh lính bộ đội bị trọng thương nằm ngoài hàng rào phòng thủ của trường, rên rỉ và liên tục kêu cứu với mẹ mình: “Mẹ ơi cứu con với…”Trong lúc dầu sôi lửa bỏng, hai bên đang đánh nhau, thế mà tôi cầm lòng không đậu đã cho y tá và binh sĩ vượt rào kẽm gai để mang anh ta vào trạm y tế cứu chửa, nhưng vết thương ở ống chân quá nặng, phần bị mất máu nhiều nên bác sĩ đành bó tay. Anh bộ đội này tuổi chừng 16. Chúng tôi chôn cất anh tử tế bên cạnh tuyến phòng thủ” (trang 43).

Ba mươi năm sau (2005) tại hải ngoại, nhớ lại ngày anh và đồng đội đã cố gắng cứu anh lính bộ đội tại hàng rào kẽm Trường Bộ Binh Thủ Đức (Long Thành), anh đã viết bài thơ mang tựa đề “Con Chờ Mẹ Bên Rào Kẽm Gai”. Thi hào Alfred de Musset đã quả quyết rằng “những bài ca tuyệt vọng nhất là những bài ca đẹp nhất” (Les plus désespérés sont les chants les plus beaux). Theo quan niệm ấy thì bài thơ tuyệt vọng vô cùng dưới đây phải là một bài thơ đẹp lộng lẫy:

“Năm mười ba / Giã từ mẹ/Anh đi bộ đội /Vượt Trường Sơn / Năm mười lăm / Anh có mặt Saigon / Tháng tư bảy lăm / Chiến cuộc bùng nổ / Anh xông pha lửa đạn / Một lòng cho đảng / Đảng dạy / Anh là con của Bác / Không phải con của mẹ / Anh tin, vì anh còn bé / Một chiều tháng tư bảy lăm / Đất Long Thành dậy sóng / Bom đạn trút hờn căm / Nhiều bộ đội hy sinh mạng sống / Và chính anh / Không thoát khỏi số phận / Anh lết nằm / Bên rào kẽm gai đồn địch / Hoàng Hôn đổ / Buông màn u tịch / Trong cơn tử sinh / Anh chợt nghĩ đến mẹ/ Người đã sinh ra anh / Anh kêu lớn: “Mẹ ơi cứu con với!” / Giờ đây anh chỉ còn có mẹ / Anh lịm dần / Thì thào qua chút tàn hơi: /

“Mẹ ơi! Con đang chờ Mẹ đây /  Bên rào kẽm gai này!  Con đang chờ… Con…  Mẹ!” (trang 55-57).

Chúng ta khó có thể đo lường được nỗi thống hối của anh, khi anh đang khốn đốn trong tù cải tạo thì cả cha lẫn mẹ anh lần lượt qua đời, cách nhau chỉ có một năm. Con người nhân hậu, hiếu thảo này chỉ còn có thể khóc hai bậc sinh thành bằng những câu thơ đứt ruột mà thôi. “Mẹ Tôi” là bài thơ khóc mẹ, trong đó có những câu hờn tủi như: “Vận nước nổi trôi / Chí trai không tròn / Tôi đi tù / Mẹ già không ai nương tựa / Thương con – Nỗi nhớ – Hao mòn / Mẹ tôi mất / Sáu tháng mới nghe tin / Không cầm được nước mắt / Lòng đau -Vỡ nát con tim.” Bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú tuyệt tác tựa đề “Tưởng Niệm” là để khóc cha: “Chín chục xuân thiên giác mộng lành / Nào hay trẻ tạo nở đành hanh / Ba năm con đợi ngày sum họp / Một phút cha lìa cõi tử sanh / Thanh đạm một đời: cao phẩm cách / Nhân hiền muôn thuở: sáng thanh danh / Ôi! Ơn dưỡng dục chưa đền đáp / Hận kiếp làm trai chí chửa thành”(trang 59-62). Thống Tướng 5 sao Douglas Mac Arthur đã hãnh diện tuyên bố trong bài diễn văn giã từ vũ khí sau 52 năm quân vụ, trước lưỡng viện quốc hội Hoa Kỳ năm 1951: “Những chiến sĩ già không bao giờ chết cả; họ chỉ mờ dần đi mà thôi” (Old soldiers never die; they only fade away). Câu nói để đời đó của vị danh tướng Hoa Kỳ cũng thấy đã được thể hiện trong cuộc đời người cựu chiến sĩ này vừa tròn 85 tuổi Lê Quang Sinh của chúng ta. Từ 20 năm nay, nơi đất khách anh đã ấp ủ và thực hiện nguyện ước đóng góp tích cực vào lý tưởng bảo tồn ngôn ngữ và văn hóa quê mẹ bằng phương tiện thi ca.  Tôi thấy anh đã đi được một chặng đường rất dài, anh đã thành công, anh có quyền hãnh diện.

Sức làm việc của anh trong cái giai đoạn “mờ dần đi mà thôi” làm tôi choáng váng! Vì trong cương vị Hội Trưởng Hội Thơ Tài Tử Việt Nam Hải Ngoại từ năm 1994 đến nay, gần như đơn thương độc mã, anh đã biên tập 14 thi tập “Cụm Hoa Tình Yêu” tổng cộng cả sáu , bảy ngàn trang giấy, và đã tổ chức được 8 kỳ Đại Hội Thi Ca Quốc Tế tại Hoa Kỳ và Pháp Quốc.

Anh mê văn chương lắm; chẳng thế mà anh dã dành hơn quá nửa truyện ký “Người Trai Thời Chiến” đồ sộ này cho thi ca. Thân ái, nhã nhặn, thành tâm, và thủy chung, anh viết về văn thơ cũng như về cuộc đời của hàng trăm văn hữu mà đa số là hôi viên của Hội Thơ Tài Tử Việt Nam Hải Ngoại.

Hà Thượng Nhân, vị thi sĩ được mọi người mến mộ về cả tài lẫn đức mới qua đời năm 2011, được anh nói tới một cách trung thực như sau: “Có thể nói Hà Thượng Nhân là một hiền nhân quân tử, một kẻ sĩ. Ông có tài nhưng rất khiêm tốn. Ông làm nhiều thơ nhưng không muốn in thành sách để được người đời vinh danh. Cũng có người đề nghị phổ thơ ông thành ca khúc để lại tiếng tăm cho đời nhưng ông đã khước từ” (trang 467-468).

Kính thưa quý vị,

Tôi đoán đến đây sẽ có người trong quý vị tự hỏi: “Bộ cuộc đời nhà thơ Như Hoa của chúng ta chỉ khô cằn như diễn giả trình bày từ nãy đến giờ hay sao? Xin thưa ngay là không đâu. Với một tâm hồn nhạy cảm dễ rung động trước cái đẹp, trái tim anh đôi lúc cũng lãng mạn và tình tứ lắm chứ. Mùa Xuân 1974, đúng một năm trước khi miền Nam bị bức tử, anh từ giả Trường Hậu Đại Học Hải Quân tại Monterey (Californa) và cô bạn “mắt xanh màu đại dương” của anh. Anh ghi lại cái giây phút mong manh khó quên đó bằng một bài thơ tiếnh Anh rất chỉnh, dưới hình dạng môt cuộc đối thoại giữa anh và nàng. Đây là đoạn kết bài thơ “Farewell  Monterey” mà chính anh đã dịch sang tiếng Việt: “Hè Monterey / Tôi từ biệt nàng / Cuối đường Fremont / Chảy dài ra bể/ Nàng hỏi, Chiến tranh khi nào dứt?/  Tôi đáp, Không nói được tương lai / Tôi hỏi, Tình ta khi nào thôi?/ Nàng nhìn tôi / Đôi mắt xanh biếc/ Chẳng nói” (trang 135).

Kính thưa quý vị,

Còn có biết bao nhiêu điều lý thú nữa đang chờ quý vị thưởng thức trong cuốn sách quý này của tác giả Lê Quang Sinh! Tôi biết chắc quý vị sẽ mến mộ và gìn giữ nó như một món quà văn học từ một thi nhân rất đáng được kính trọng trong cộng đồng hải ngoại chúng ta.

Trân trọng kính chào quý vị.

Garland, TX , 1-06-2014

 

 

 

Bài Mới Nhất
Search