T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không: Cái bóng

clip_image002

Mở cửa ra vườn. Cánh cửa mở ra mưa ra nắng…

Một cánh cửa được mở ra thì cánh cửa khác phải khép lại. Khép lại cùng một kiếp lai sinh. Một chuỗi thời gian không muốn nhắc chẳng muốn nhớ. Còn cánh cửa mở bước ra ngòai. Dù nắng hay mưa. Mảnh vườn vẫn quạnh hiu. Ở đấy lão trồng một khóm trúc. Kê một hòn đá thô làm cái bàn. Lão ngồi độc ẩm ngắm trời đất rưng rức hoang vu. Mắt đau đáu đợi hoa nở chờ trăng lên.

Rồi lão gục gặc cái đầu đi vào giấc miên trường.

***

Nhưng giấc ngủ chỉ là một cái chớp mắt ngắn ngủi. Vì trúc đã lan gần hết mảnh vườn. Một ngày lão ngớ ra lâu nay nghiệp dĩ với lão là kèo cột. Vậy mà vẫn chưa có một cơ ngơi ra hồn để ấm thân. Thế nên tự cho rằng cũng nên có một kiệt tác cho mai hậu. Ẩn tàng đâu đây không vang danh bốn bể thì cũng lưu danh thiên cổ. Lão sáng tạo cái phòng ngủ có chiều sâu. Lão mang cuốc xẻng ra vườn hì hục đào…một cái hố. Giường lão giăng màn làm mái che mưa nắng và cũng để ngắm trăng. Đỉnh màn là tấm vải trắng bồng bềnh như mây giăng giăng đầu núi. Lão thích nơi trú ẩn của mình. Khỏang không gian ba chiều có hơi co quắp. Nhưng cũng vừa khuôn với thân hình chật hẹp của lão.

Sau lão nới rộng thêm một phòng vãng lai. Cũng là chỗ để thọ trai và tiểu tiện. Cái chuồng xí lão xới cái lỗ bé con con. Ở đấy lão ngồi chồm hổm đọc sách kim cổ kỳ thư. Nước uống lão khóet một cái giếng sâu hun hút. Lâu lâu lão chúi đầu xuống giếng. Lão đối thọai với…lão. Chỉ nghe tiếng “om om” vang vọng đáp lại.

Phòng này cũng là nơi đàm trường viễn kiến với hai đệ tử của lão. Ấy là con bọ ngựacon ve sầu. Ngày trời tháng Bụt lão giảng kinh Địa Tạng cho chúng nghe. Con ve sầu ẩn tu dưới lòng đất cả chục năm. Vậy mà đạt chánh quả lại là con bọ ngựa.

Để thành chuyện…

***

Chuyện là lão muốn có một bức tranh treo trên vách. Lão nhờ vả đến con bọ ngựa. Là kiếm sĩ nên nó vẽ bức tranh thiền. Một lá trúc mỏng như thanh kiếm sắc. Một con ve sầu không có cánh. Con ve sầu này bám trên…một nhánh trúc. Góc đề tựa bài kệ:

Con ve sầu

Bứt hai cánh

Quả ớt

(Thơ Haiku – Yoda)

Với chỉ bài kệ ngắn không thôi. Kiếm sĩ bọ ngựa diễn tả kiếp nhân sinh và thuyết vạn vật nhất thể của nhà Bụt. Kiếm sĩ thảo bài thơ trên góc bức tranh. Nét bút tung hòanh như những đường kiếm tuyệt luân. Sau nó thấy công danh sự nghiệp trong cõi ta bà này,chẳng qua là hư ảo phù phiếm của thế tục, chỉ là giấc mộng đầu hôm cuối bãi. Nên sau một mùa hạ đầy nắng quái chiều hôm, kiếm sĩ vai khóac tay nải, chân đi dép cỏ, đầu đội nón mê xuống núi học đạo. Nó dơ hai càng chắp vào nhau vái chào giã biệt lão. Như vái một …sư cọ. Tiễn đưa người tình bỏ ta đi trong hoang lạnh. Con ve sầu ỉ ôi với âm điệu…đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt, trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt.

Tường phòng vãng lai có kệ sách. Chữ bị sách dồn nén tơi tả mốc meo. Như lão vậy. Lại nữa đọc sách mà chẳng chịu tiêu hóa cho. Thế nên lão chẳng hay hai đệ tử con nào là đực là cái. Ấy vậy mà lão biết phòng ốc có hơi u tối thật. Chắc phải thửa cái đèn hột vịt. Chưa có đèn. Lão đục khung cửa sổ lấy ánh sáng. Cũng để nghe động tĩnh của người. Người lại không biết đến sự hiện hữu của lão. Dòng đời cứ thế mà lặng lẽ trôi đi. Lão làm cửa ra vào. Trên treo cái gương bát quái. Lão tâm đắc với tác phẩm tuyệt tác để đời: Một cái nhà không kèo không cột.

Con bọ ngựa gọi lão là…sư cọ. Ý nó là lão đang lão hóa. Cơ thể già nua của lão giống như căn nhà lâu năm. Dầm kèo mọt rỗng mưa dột tứ tung. Lão ngủ không ngon giấc lại đâm…thiền. Nói cho ngay lão đang lửng lơ giữa nửa cõi tu nửa cõi tục. Lão đang có những lao xao trong một ngày nhạt nắng. Vốn dĩ lão mượn văn chương thiên cổ để dưỡng tính. Sưu tầm đồ cổ để…đồ cổ sưu tầm lão. Nhưng lão cứ nôn nao thiếu vắng một nỗi gì. Rõ ra trồng bụi trúc trong vườn chưa hẳn là thanh tao. Khách ít đến chơi nhà chẳng hẳn là lánh tục. Lão sống bình thường như cỏ cây. Xuân sang ngắm hoa nở. Thu đến quét lá rụng.

Lá vàng rơi xào xạc đẩy đưa lão có một nỗi niềm. Nỗi nhung nhớ say đắm người. Để được người đắm đuối lại. Không uổng phí thời gian. Chẳng lãng phí tuổi tác. Ấy là những lao xao lúc này của riêng lão. Riêng hôm nay là một ngày nắng ráo. Một ngày với những đổi thay của đất trời. Nên lão đốc chứng muốn gặp người. Có thể lão sẽ gặp. Sẽ chẳng còn cô đơn. Với nghiệp duyên lão sẽ gặp. Biết đâu. Chẳng có gì mà túc tắc.

Vì lúc này lão đang có bạn và bạn lão là…một hòn đá.

Con ve sầu và lão tiễn đưa kiếm sĩ. Lão ậm ừ với nó. Rằng: Kinh sách ở đây. Chuông mõ ở đây. Tìm đạo ở đâu. Nó nhấc hai cái càng lên che mắt. Lão thở ra vớt vát tiếp: Tu trên núi dễ. Tu ở chợ khó. Không ở giữa đời làm sao hiểu đời đục hay trong. Nó lấy hai càng úp vào tai. Lão nhủ thầm đệ tử lão chẳng thóat nghiệp. Cái nghiệp dĩ giữa đời và đạo. Gặp ma hay Bụt?. Nó đưa hai cái càng lên bịt mồm. Lão tặc lưỡi chuyện đâu còn đó. Trời xanh mây tím nắng vàng. Lão thả bộ xuống núi với một công đôi việc. Lão ghé thị trấn bên đàng tìm cái đèn hột vịt. Con ve sầu râm ran gọi xuân hạ thu đông…một chiều ngồi say…một đời thật nhẹ…Ngày qua…vừa tàn mùa xuân rồi tàn mùa hạ…một ngày đầu thu…

Cánh cửa khác được khép lại cùng những đổi thay.

***

Thu liễn…

Xa lánh chốn nhân gian đã lâu. Vượt đèo lội suối. Qua những thửa đồng bến bãi. Cảnh vật đã đổi thay. Cùng chuyến xuống núi qua sông này. Lão chỉ thấy núi là núi. Sông là sông. Vậy thôi. Vào đến thị trấn là gặp phố chợ. Khỏang vài bước là có nhà. Nhà là nhà. Lão đang đơn độc trong phố vắng đìu hiu. Bỗng va vào mặt lão một quán nhỏ chơ vơ cuối lộ. Ngòai mặt tiền treo tấm biển “Thiền quán”. Tên chữ thảo nét mực tàu. Quán là quán. Không có gì với một ngày như mọi ngày và lão bước vào. Quán tươm tất và thanh tịnh. Vớ cái ghế thô cạnh cái bàn cộc kệch lão ngồi xuống. Trà khách ai nấy cúi đầu lặng lờ. Họ tọa đàm với với tách trà tìm vô ưu. Họ đối thọai trong tĩnh mặc. Không một tiếng động. Vô thanh vô ngã. Họ buông xả cái kiếp hiện tại đằng sau. Những mảnh đời xô bồ trở thành bất động.

Khói trà tan dần mong manh như một giải lụa. Giải lụa phất phơ bay. Qua hương khói vật vờ. Mô Phật. Ngồi đối diện lão là một nữ nhân. Khỏang cách tuổi tác là cái đèn hột vịt đỏ đèn. Váy một mảnh của nữ nhân mầu rêu. Mầu rêu nhạt giống tảng đá vườn nhà. Và lão có khuôn mặt tẻ nhạt giống hòn đá. Cho đến tuổi này ngẫm chuyện nhân sinh. Lão chưa gần gũi một người khác phái nào cả. Với lão khi gặp người có cặp lông mày lá tre. Là chỉ vướng vào vòng phiền não. Nổi trôi trong chốn mê lầm. Lão là người có căn tu thiền định. Đã dứt bỏ được cõi u mê của thói đời.

Trong viên mãn. Lão an nhiên tự tại và…tịnh khẩu.

Thế nhưng mắt lão mắc vướng vào nghiêp chướng sở cuồng. Cặp mắt một chiều hoang dại của lão âm thầm và lần lần tháo cởi mười một cái cúc của cái váy. Cái váy từ từ kẽo kẹt mở ra như cánh cửa. Cánh cửa mở vào hư vô. Lão hiểu tèng beng téc béc theo nghĩa vô là vào. Là Vô môn quan. Lão nhầng nhầng nhìn…“vào” sâu thẳm. Hư hư thực thực. Lão thấy…”núi”…”sông”. Thiện tai thiện tai. Đỉnh đầu lão có những sợi khói bảng lảng như khói bếp lam chiều. Thôi rồi khí tồn tại não. Lão lâm râm đọc kinh Bát Nhã niệm Bụt cầu an. Nhưng tâm không an có cầu cũng vô ích. Lão bấm huyệt đan điền. Khói bốc lên ngùn ngụt như siêu nước sôi pha trà. Nghĩ đến…nước nôi rửa sạch cái tâm. Lão đọc kinh Thủy sám hối cũng không xong. Ắt hẳn là phải nấp bóng cửa thiền chi đây. Lão bèn thủy quán tưởng vào tách trà để khai mê phá ngộ. Ấy là quán tưởng thứ hai trong thập lục quán của Quán vô lượng thượng kinh. Từ làn sóng lặng lờ của tách trà.

Khuôn mặt hồng diện của nữ nhân lăn tăn hiện lên.

Mắt lão vừa tháo gỡ xong cái nút cuối ở phía dưới. Cái đầu ngập rác rưởi của lão bị khuấy động. Khói trà bốc lên ào ạt như cuồng phong. Sóng trà dậy lên cuồn cuộn như sóng thần. Khi chưa bước qua cửa Thiền quán. Lão thấy núi là núi. Sông là sông. Nay lão thấy núi chẳng là núi. Sông chẳng là sông.

Lão lắc đầu xua đuổi ám chướng và ngắm trộm nữ nhân qua trà đạo. Nữ nhân tủm tỉm cười nhìn lại lão. Bốn mắt chạm vào nhau. Như gặp nhau từ kiếp lai sinh. Qua ánh đèn, bóng nữ nhân hắt lên tường mênh mông xa vắng. Lão cúi xuống thổi tắt ngọn đèn. Khỏang không gian cách biệt chìm vào bóng tối. Cái bóng biến mất. Để rồi lão cứ chôn vùi trong khuôn mặt đầy cảm tính và một nụ cười eo óc. Ấn chứng côi cút trong lão là…

Nữ nhân nhấp ngụm trà với cái miệng mỏng tang.

Về đến nhà có cái đèn hột vịt trong tay. Học thói người đời ngắm mình vào cái gương cám dỗ. Mong đi tìm…cái ảo với sắc là không. Lão cầm cái đèn săm soi với cái gương bát quái. Để đi tìm chân ngã của mình. Thế nhưng cái gương giả dối ấy lại phản chiếu trung thực cái nhân tướng: Lão là lão. Hòai cố nhân có con mắt óc eo. Lão xóa hình vẽ con ve sầu và bài kệ của con bọ ngựa. Lão quẹt thêm hòn đá rêu phong ẩm ướt mầu giống cái váy. Đàm hoa lạc khứ. Góc bức tranh của lão thiếu một bài kệ.

***

Đông tàn…

Bức tranh thiền có hòn đá quá nặng. Nên không thể treo lên vách được. Muốn đốt bức tranh lại chẳng có bếp lửa. Vì lão ăn chay niệm Bụt. Lão quẳng nó vào hố xí. Lão thò tay lên giá sách tìm bộ Pháp hoa kinh. Nhè đúng kinh thư Bùi Giáng viết tấm quần em rách đường tơ, cỏ trong mình mẩy bâng quơ mọc nhiều. Thơ thẩn không đưa lão vào giấc Nam kha với cái quần rách. Ai rỗi hơi đọc dâm thư nhảm nhí. Lão quẳng Bùi Giáng xuống giếng. Lại tiếc nuối với nền văn hóa tàu tàu. Dâm thư trong Thanh Hiên thi tập của cụ Nguyễn Du qua bài thơ Điệp tử thư trung thì Hán tự là sách qúy. Nhìn xuống giếng. Nước trong veo. Chiều tối đất. Một nỗi buồn lạnh lẽo bể dâu. Cây ngòai vườn rào rạt. Lão thiếp vào giấc ngủ. Đột nhiên có tiếng xao xác mơ hồ. Lão dụi mắt nhìn lên bầu trời đêm đen đặc quánh. Gió rít đơ đơ. Tiếng tre trúc cọ xát vào nhau ngon ngót. Lão vén màn đi tìm cái lỗ tiểu tiện.

Lão khựng lại. Một bóng trắng hiện ra trên vách. Không phải bóng lão. Vì khi lão đứng dậy. Cái bóng vẫn ngồi yên…

Lò mò vào tủ tìm bộ áo nâu sồng và chuỗi hạt bồ đề. Vừa đi lão vừa luận giải vô thường. Cái đèn hột vịt không đặt sau lưng. Sao có thể hắt bóng lão lên vách. Nếu là cái bóng phải là đen chẳng thể là trắng. Đang lục lọi lại nghe có tiếng “..u..u..” trong u ắng. Tiếng con ve sầu râm rỉ…trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ…lại thấy trong ta hiện bóng con người…Lão trở về ngồi ở thành giường đối diện với…bóng con người. Cái bóng chăm chăm nhìn lão. Bộ áo không làm nên thầy tu. Mầu áo già lam hóa thân lão khác gì một thiền sư. Lão lần chuỗi hạt và vật lộn với cái gương bát quái. Cái bóng vẫn nhìn lão. Lặng lờ từ mầu đất nâu của tường. Thành mầu rêu non của đá. Cái bóng lồ lộ có mặt có ngực. Phập phồng ẩn hiện hai trái chanh trái mùa…

Bất giác lưỡi lão ứ ra rớt rãi lỏng le…

Tiếng “..u..u..u…” bên vành tai lão cất tiếng thì thầm: “Ới lão ơi. Nói chuyện được không? Ngó lão…thiền sư quá”. Lão sững người. Âm vọng rù rì tiếp: “Tội nghiệp thiền sư. Đang tuổi yêu lại khóac áo nhà chùa tập đời chay tịnh”. Cái bóng nheo mắt có đuôi hấp háy: “Tội gì không để tóc. Ăn mặn. Làm người trần cho sướng cái thân”. Qua ánh đèn mù u cái bóng thoắt đẹp. Thoắt man dại. Diễn tả thế nào cho đúng đây. Lão chỉ thấy cái bóng rất…”ma”. Lão lắp bắp hỏi: “Tên…tên…gì…”. Có tiếng cười khúc khích: “Cứ gọi tôi cái tên nào mà thiền sư thích”. Bụt chỉ là cái tên. Lão lại nhai văn nhá chữ với một chuyện người đi tìm Bụt. Hóa ra Bụt ngay ở ngay trong nhà. Mở cửa bước vào là gặp. Nào tìm đâu xa như con bọ ngựa. Mãi hậu kiếp lão mới đốn ngộ.

Chợt cái bóng giọng chùng thấp: “Trong tôi phần thú nhiều hơn phần người”. Thêm âm vọng dư thừa đam mê bí ẩn: “Phúc bất tận hưởng. Thiền sư chọn điểm. Tôi chọn giờ ”.

Cái bóng biến mất. Con ve sầu không còn “..u..u..u…” nữa.

***

Xuân sinh…

Quẳng cái đèn hột vịt đi. Không có đèn không có bóng. Thế là sang xuân lão lại gặp nữ nhân và con ve sầu. Chớm xuân. Thiên nhiên nở phồng náo động. Phấn hoa bay lòa xòa trong gió. Chim chóc rủ nhau về gọi tình ngòai bìa rừng. Tối hôm ấy lão cởi trần ôm cái chăn. Linh tính ai đang nhìn sau lưng. Quay lại. Nữ nhân đang ngồi chành bành trên vách. Như bà Nữ Oa. Nữ nhân chúm môi chõ qua giường: “Đừng trải phơi ra như vậy. Mất đi chất thiền sư”. Lão chổng mông tung túc bò qua mảng nền đất. Như gặp lại người tình tự trăm năm. Lão chộp lấy chân nữ nhân. Nữ nhân gỡ tay lão ra. Xỉa trán lão và cười tủm: “Tôi thích cái vẻ ngu ngơ của lão”. Chẳng hiểu nghĩ sao? Nữ nhân xọac cả hai chân ra và nói: “Nắm đi”. Xong lắc đầu dẫu môi: “Đó là vật dễ cháy..”.

Lão ngu ngơ cúi đầu định nắm…Mới định thôi mà lửa tỏa ngập thân lão. Lão ngộ chứng ra rằng…Dục vọng là lửa và chính người đốt lại cháy. Lão hóa ngộ hóa khùng thêm: Lửa lòng trong lão đã tắt từ lâu. Thế nhưng không có nỗi ám ảnh của lửa dục vọng. Lão chẳng còn lẽ gì mà sống. Bao năm qua lão đã sống với ngọn lửa âm ỉ ấy. Lão không hề tự hay biết. Lại nữa trong nữ nhân phần thú nhiều hơn phần người. Nữ nhân sinh ra để được…”yêu”. Dường như nữ nhân chỉ thích những mối tình ngang ngược cách biệt của tuổi tác. Nên mới tìm đến lão. Để khơi ngọn lửa đang tàn lụi…Lão đợi ngọn lửa bùng lên trở thành bất tử hay tắt ngúm. Từ bé đến lớn chưa xả báo thân để biết..”yêu” là gì.

Số lão nặng căn nên vẫn còn tân.

Lửa dục vọng vật lộn với lửa từ bi lan xuống chân lão. Hai chân lão giật giật. Con bọ ngựa vừa lúc có mặt. Nó đi tầm đạo mong thóat kiếp phù sinh. Chịu tam quy ngũ giới. Khổ hạnh thân xác diệt dục phá chấp. Nay về đến am chuôm để cứu chúng sinh khổ ải. Với lòng từ tâm vô biên của nó. Lão sẽ thóat khỏi kiếp nạn. Nó chụm hai cái càng vái lia lịa vào quyển Hoa nghiêm kinh. Thêm một lần lóng ngóng. Lão nhúm ngay tập thơ của Vi Thùy Linh. Trong có câu quỷ ám Cái lưỡi mềm của anh nơi gan bàn chân em. Lão chợt nhớ ra sách Tàu dậy ái ân tên Tố nữ kinh. Rằng những cô gái chân nhỏ mang nhiều dâm tính. Thế nên họ bị bó chân. Giây thần kinh chân bị dồn nén. Dục vọng của những cô gái ấy bị thôi thúc đòi hỏi. Để phục vụ tà dâm đám đàn ông Tàu.

Vô hình chung chân nữ nhân lại nhỏ. Học mót…cái lưỡi mềm của người tình nữ sĩ. Lão trầm mặc cúi xuống. Lão lè cái lưỡi không xương quét một đường dọc. Như ông từ giữ đền cầm chổi quét lá đa. Lão quệt thêm một đường ngang. Giống như họa sĩ với cái bút lông. Nhầy nhụa sơn nước qua bức tranh thiền.

Cục thịt lưỡi lướt trên gan bàn chân nữ nhân. Hai lòng bàn chân nữ nhân e lệ úp vào nhau giống hai cánh hoa sen. Những ngón chân mềm ướt lạnh tanh. Những ngón chân còn lại cuống quýt co cụm lại. Cụp ra. Cụp vào. Lưng nữ nhân cong lên né tránh. Nhắm mắt. Ngửa người ra phía sau tường. Mặt hứng đầy trăng. Trăng mười sáu ngập lá trúc lá tre pha sắc trời một mầu lạ lẫm. Bỗng khi không nữ nhân thở ra như…bò thở. Giọng dểnh dảng lạc hẳn đi trong cuống họng: “Bò tiếp lên đỉnh đi thiền sư”.

Lên đỉnh đi…Anh linh Bùi Giáng hiện về xúi dục lão. Lão mò xuống giếng giống Lý Bạch mò trăng. Vớt lên tập thơ Bùi lão. Trang sau có hai câu: Tháng năm về điểm sơn xuyên – Trên tàn phế dựng muôn ngàn cỏ hoa. Thơ thẩn gì mà ẩm thấp âm u. Qua ca dao dân gian. Lão hình tượng…miệng nào ngao ấy. Miệng nữ nhân chúm chiếm…cười khó hiểu. Nhưng lão vẫn không chịu hiểu với câu tiếp của Bùi quân: Bây giờ em đứng nơi đâu – Cỏ trong mình mẩy em sầu ra sao. Thế là lão trườn đầu lên ngắm cỏ. Lão u mê cỏ trong sầu bi. Ngõ ngách xa xa. Ngai ngái mùi ẩm mốc…

Lão nhắm mắt quán tưởng viễn cảnh siêu thóat tịnh độ. Đám cỏ cây phổng phao như khu rừng già. Mở mắt ra lão chỉ thấy hang hốc và vách đá cheo leo. Lão lặng lờ đắm chìm trong vô thức đi tìm giải thóat của cái nghiệp. Lắng đọng trong tâm thức: Rằng từ lãu lão không bị giao động bởi cái đẹp trần tục. Nay sắp sửa thành trúc chẻ ngói tan. Lão ngờ hình ảnh đẹp đẽ kia chỉ là ảo ảnh. Xác thịt ngay trước mặt hiện ra lồ lộ đó trong chốc lát. Rồi sẽ bị hủy diệt tan lõang vào hư không. Lão cho rằng ôm ấp xác thịt đàn bà. Không có gì khác hơn là biểu tượng của nhục dục. Nhục dục là một cái gì không sờ mó thấy nên chẳng hiện hữu. Xác thịt là một bức tranh có núi có sông để ngắm. Sông với núi đang đợi lão trong khu rừng nhân sinh u ám? Vì lão chưa một lần trong đời lão gần gũi với thân xác. Nên…cực lạc vẫn chỉ là…hư vô.

Bằng cách nào không rõ. Lão nổi trôi lên đỉnh cao cảm xúc. Lão đang đi tìm chân đế chân như. Lão tâm chướng từ gót chân lướt qua đầu gối. Hai đầu gối cuống qúyt không biết chạy đi đâu. Hai bắp vế e lệ gặp nhau rồi dang ra. Ảo giác hiện dần. Di động. Nhập nhòa tan biến trong con mắt một chiều bên sông của lão. Tan biến như bọt đầu sóng nước. Bỗng đôi chân nữ nhân quấn cổ lão. Như thể muốn nghiền nát một tục tử tham lam. Nữ nhân thở nhẹ nhấp nhô. Thần trí bơi ra biển. Cả thân xác bơi ra biển. Những đợt sóng lan từng phân vuông vùng da thịt. Và ngừng lại ở đầu ngực. Hai nhúm ngực bằng đầu đũa. Nóng lên như hai đốm nhang. Lão nhổ mặt mình ra khỏi bắp vế. Lão dòm nháo nhác. Nữ nhân đắm đuối nằm đó…Như một con lươn. Lão bưng nữ nhân ra khỏi bức tường và đặt ngửa xuống. Mắt nữ nhân ngó trăng hay ngó sao. Nhìn bầu trời hay nhìn bóng đêm. Lão quỳ bên cạnh sinh vật sống ấy. Hơi thở gợn mong manh dưới bụng trên ngực. Làn da bụng chuyển động theo thủy triều. Bộ ngực thấp tủn. Hồi tưởng lại ở Thiền quán hôm nào. Lão thấy núi chẳng là núi. Sông chẳng là sông. Thế mà nay nhập chốn yên vui tĩnh mịch y nhiên.

Lúc này lão lại thấy núi vẫn chỉ là núi. Sông vẫn chỉ là sông.

Tình yêu nhục cảm của lão sao mà thanh khiết. Lão vẫn chưa khai mê phá ngộ. Vừa lúc có âm vọng trong chân không: “Nghe nè. Không dọa đâu. Ai đi sâu vào trong người tôi đều phải chết.”. Nào lão có nghe thấy gì đâu. Lão vẫn còn đang lúng túng với cái giải rút quần. Vì lão chưa trần trụi trước tha nhân. Hai con mắt lão sầu bi trong thinh không. Bỗng nữ nhân bung tiếng van vỉ: “Yêu cho chết luôn. Nghe tôi đi. Phần thú trong tôi mạnh hơn người”.

***

Lão vẫn cứng đơ với cây gậy chống trời. Đột nhiên trời đất nổi cơn vần vũ. Tháng sáu trời mưa. Trời mưa không dứt. Phải chăng là mùa động tình của con bọ ngựa? Nó đưa cái càng ngo ngoe ra dấu. Và lão đóan chừng ra rằng: Khi xưa đức Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt. Vì chay mặn là hình tướng bên ngòai. Chẳng can hệ gì đến giác ngộ bên trong. Thuyết xong nó leo lên lưng con ve sầu. Lão hình tượng con ve sầu là người Trương Chi xấu xí như lão. Hay nói khác đi là một con ruồi trâu cục mịch. Bất chợt…con bọ ngựa râm ran xúi bẩy lão:

 

clip_image004

tôi lang thang em…

tôi ma mãnh em…

tôi xanh xao em…

tôi tiết canh em…

(Dương Tường)

Cái tai nghễng ngãng lão lại nghe ra là con ve sầu. Ai đặt tên “ve sầu” là oan cho nó. Tiếng hát chỉ ve ve không “sầu” tí nào. Mà dài hơi và đầy sức sống. Lão vật lộn với chính lão. Không có sức sống và ngắn hơi. Con ve sầu như kim thiền thoát xác là lão. Bằng cách thân xác con ve sầu đang bất động như lão. Lão chau mày ngờ ngợ! Có một cái gì đó ở con bọ ngựa mà lão nghĩ không ra?. Chẳng phải chuyện nó bỏ chùa xuống núi. Nó học được đời có đục có trong. Không bỏ đời theo đạo được thi đem trò đời dậy lão. Cái ngày giã biệt. Lão đã viễn kiến trên mê lộ tầm đạo. Đệ tử lão gặp ma chứ chẳng gặp Bụt. Nay nó là thằng ma tịt với hai cái càng trước đang chống lên. Lão lè lưỡi lắc đầu kinh khiếp quá thể. Vì rằng bao năm trong hang hốc tịch mặc. Lão bị giằng co bởi sở chướng. Mê lầm đã tuyệt. Đã bao lâu đốt cháy dục tính hoặc dập tắt ham muốn. Thế nên lúc này đây lão đâm khó khăn với tục lụy. Bất thình lình cái phần mềm bé tí tẹo của con bọ ngựa. Như trái ớt hiểm đầu mùa. To bằng đầu kim ngập vào con ve sầu. Như lão cầm cái xẻng đâm sâu xuống đất vườn nhà…Trồng cây gieo quả. Tác thành nghiệp báo. Nữ nhân liếc thấy chúng đang thăng hoa. Vô niệm vô chung. Như có tiếng chuông tỉnh thức khơi bởi nhẽ ấy. Bùng kêu lên thảng thốt: “Mở cửa ra”.

Làm gì mà toang tóac lên như vậy. Thì mở cửa có sao đâu.

Trong cơn mê trần nữ nhân thả hồn đi hoang với gió. Gió thốc chui qua khe cửa. Hòa nhập vào thân thể. Len lỏi từ dưới lên trên. Chỉ là cơn gió nhẹ thổi hồn nhiên xuyên qua đùi. Gió lùa trên bờ non qua vùng thảo nguyên. Cứ thế gió mơn man đi ra đi vào. Gió chui vào gió chui ra. Gió len vào tận dạ con. Gió tan lõang trong ngõ ngách. Để lại những mầm sống. Nữ nhân nhắm mắt thở nhẹ và rùng mình một cái…vì lạnh. Lão vẫn còn loay hoay với cái giải rút quần. Còn xa bến giác. Chưa gần cực lạc. Tất cả chỉ là hư ảo. Vẫn còn đang lúng túng với sông là sông. Nhưng lão chứng ngộ ra một nhẽ. Chỉ bằng trái chanh. Thế nên: Núi chẳng là…núi.

Cùng lúc ấy cái lưng con bọ ngựa lẩy bẩy tháo động. Nó cũng rùng mình một cái như bị trúng…gió. Hộc lên một tiếng tắc nghẹn giống bị bóp cổ. Một cái càng che mắt. Một càng nó ra dấu: “Đóng cửa lại” . Hết mở cửa lại đóng cửa. Cái vòng kim cô bị xiết cứng bởi chữ sân. Lão chửi bá ngọ. Nó đưa càng bịt miệng. Ắt hẳn vì câu chửi đổng. Càng kia che tai. Nó hất đầu về chồng kinh thư. Lão hiểu cái bịt miệng khục khục của nó. Rằng đức Như Lai tịnh khẩu 49 ngày dước gốc bồ đề. Nào có giảng kinh một nhời. Vậy mà trong tàng kinh các lão ngập những kinh kệ. Đọc ba trăm sáu mươi quyển kinh – Chẳng thánh phật tiên nhưng khác tục. Nhưng khác tục một nỗi là lão u mê lọan ngôn lọan chữ. Ngay như cái mũi lão ngay trước mắt mà lão không nhìn thấy. Trước sau là một chuỗi ngúc ngắc những ngộ nhận với tha hóa vong thân…

Lần này con bọ ngựa giơ càng chỉ ngay vào thi tập của nữ sĩ nhục thể họ Vi. Gì nữa đây. Lão lẩm nhẩm đọc…Hồn thơ chẩy lai láng ướt nhèm Ô hay con bọ ngựa thiến nỗi buồn – Yêu nhau đứt lưỡi. Lão nhủ thầm ô hay dại gì mà tiết canh rồi…thiến. Còn yêu nhau đến đứt lưỡi thì…bịt mồm là phải. Lão đọc tiếp vần thơ tân hiện đại ở trang kế Nhai lại từ đầu một con đực khác – Tràn trề sinh lực cho tháng tám của con bọ ngựa. Lão ớ ra: Thêm một ngộ nhận tháng sáu trời mưa. Và trái ớt hiểm bé bằng đầu kim.

***

Vì…cái mũi ngay ở trước mắt mà không thấy. Hóa ra nó là…con bọ ngựa cái. Với phần thú hơn phần ngườị. Để tăng sinh lực như người đời vẫn ăn mật rắn. Nó giơ lưỡi kiếm. Tính phạt ngang đầu con ve sầu. Rồi bỏ vào miệng nhai rau ráu…Như mỗi lần gần gũi yêu nhau. Một dấu ấn cho một lần gặp gỡ. Con ve sầu trong cái vòng tròn vô thủy vô chung. Cất tiếng tịt tịt giọng giống đực như lão. Và ngâm nga bài kệ của kiếm sĩ:

clip_image006

Quả ớt

Bứt hai cánh

Con ve sầu

(Thơ Haiku – Basho)

Kiếm sĩ chợt…ngộ. Chao ơi chỉ một cái đảo ngược hồi văn của bài kệ. Ấy vậy mà đường trường vạn thủy thiên sơn của nó. Có khi trọn đời tu dưỡng. Kiếm sĩ chưa chắc đã vượt qua nổi cái sát kiếp nặng căn của mình. Trong một sát na. Kiếm sĩ bọ ngựa bừng tỉnh giữa mê và ngộ. Thu kiếm lại tra vào vỏ.

Ngửng đầu nhìn gió thổi mây bay…

Đầu lão đau như búa bổ. Lão nằm vật ra đất với ý nghĩ: Đàn bà là…con bọ ngựa cái. Thế là lão cung cúc vội chạy lên chùa. Mong cung bái sư ông xin một công án cứu nhân độ thế. Vừa lúc sư…chống gậy đi đâu về. Cửa trai phòng khép lại. Sư cụp mắt xuống hỏi: “Chuyện gì thối inh vậy”. Lão cười như mếu: “Cái bóng nặng như…một hòn đá”. Sư ông đằng hắng: “Cái bóng là dục vọng”. Sư hoằng pháp: “Sắc tức là không. Vậy mà mấy ai hiểu được”. Sư ê a tụng: “Mấy ai xả được những tưởng là bọt bèo. Kể cả thân ngã. Vì thân xác đó không phủ nhận được nhục dục. Cái làm ra thân xác. Vốn khởi đầu sắc là sắc. Không là ở khúc sau. Cái thật chẳng thể quyết đóan là không ảo”. Lão hỏi cầu âu: “Làm sao vất bỏ được cái bóng”. Sư nhướng mắt mệt mỏi: “Đã tu dưỡng giới luật phải trút bỏ hết những trói buộc mê muội”. Sư tặc lưỡi: “Hãy quẳng hòn đá ấy đi”.

 

***

Như vừa cập bến giác trong một ngày bảng lảng bóng chiều hôm. Về đến nhà lão leo lên giường ngồi kiết già. Nhắm mắt tập trung với tâm quán tưởng. Xong lão mở mắt ra. Tĩnh tâm nhìn vào vách đất. Tưởng tượng có một chấm đen bằng hạt cát. Qua nửa thẻ nhang. Cái chấm đen lớn bằng hòn sỏi. Rồi thì to bằng hòn đá. May không bằng quả núi Tu Di. Lão bị phân tâm. Giời ạ lại…núi nữa. Tiếp lão nhất chiếu tâm ý vào nhất điểm. Hòn đá nhỏ lại bằng hòn sỏi. Rồi bằng hạt cát. Lão trong tĩnh không. Hòn đá không còn trong đầu. Lão vừa quẳng hòn đá đi. Trong lão không còn dục vọng nữa.

Khi lão đứng lên. Cái bóng vẫn còn trên vách.

Giữa cái yên ắng của tịnh cốc. Cái bóng bước ra khỏi bức tường. Tay bưng bộ ấm trà và ngồi lên lòng lão. Cái bóng nằm ưỡn ra. Ôm cổ lão dính cứng không rời. Miệng thì thào: “Thiền sư dùng trà. Trà diệt dục”. Lão chậm rãi hớp một ngụm trà nóng. Bàn tay lão đậu trên đầu gối. Ngón tay lão rời vùng vải mỏng bò lên phần trên. Có tiếng âm vọng như vang vọng: “Trà nguội bây giờ ”. Trong lão đang sôi sục tòan thân nỗi nôn nao làm thú. Mong có thêm một nguồn sống cùng một kiếp nhân sinh. Bàn tay lần mò cửa ngõ dẫn vào vùng cỏ hoa lạc lối. Hình như có tiếng tách trà chạm nhỏ vào cái đĩa. Cái bóng gỡ nhẹ tay lão ra. Cái bóng khẩn khỏan: “Đừng…Thiền sư ”. Hơi thở cái bóng đứt quãng. Nỗi sợ lúc càng thấy rõ. Áo quần chưa kịp tháo bỏ… Tay lão bò vào vùng cỏ cây hoa lá.

Năm móng ngón tay của cái bóng bấu cứng vào đùi lão.

Lão chợt thấy những vật sắc nhọn đâm thấu tim gan. Nhức nhối đau buốt. Cái đau cao dần cao dần. Chân lão mỗi lúc một dài ra. Mười ngón chân lão dài ra mãi và cắm sâu xuống đất. Tay lão thon nhỏ thành những chiếc lá. Lão chẳng hiểu chuyện gì xẩy ra. Người lão cứ dâng lên mãi. Cao hơn cả đám cây sau vườn nhà. Cho đến khi lão kịp hòan hồn…Thì…thì thấy thân hình mình đã khẳng khiu. Và thả một cái bóng dài xuống Trúc gia trang. Lão đã thành một cây trúc từ lúc nào không hay…Vắt ngang cành trúc là bóng trăng. Để rồi lão bằng lòng với thực tại.

Đâu đó bóng trăng bị đuổi ra. Cái bóng không chơi với trăng. Từ dạo ấy lão lấy cái bóng làm bạn và rong chơi với nó. Cuối xuân sang hạ. Lão trải cái bóng xuống mặt đất. Trông như tấm vải mịn mỏng và nhẹ. Lão kéo lê cái bóng đi chơi. Quờ quạng thế nào lão giẫm phải cái bóng. Cái bóng kêu: “Úi da! Đau”. Cái bóng nhăn nhó: “Xin thiền sư bước qua một bên”. Lão hóa ngộ. Vì ngộ ra rằng ai đó cũng có thể thấy đau. Khi cái bóng của mình bị người khác giẫm lên. Lão tự nhủ thầm. Trong suốt quãng đời còn lại. Nếu lão không làm gì cho cái bóng vui thì lão sẽ chẳng làm gì cho cái bóng buồn đau.

Thế nên lão bước qua một bên. Để tránh đè lên cái bóng: Thương em không biết để đâu – Để trong túi áo lâu lâu lại nhòm. Thế là đi đâu lão bỏ cái bóng vào…túi quần. Chỉ khi về đến hang ổ của mình. Lão mới móc cái bóng ra. Cả hai ngồi bên tảng đá. Lão xì xầm với cái bóng. Xế chiều. Cái bóng xầm xì với lão.

Sau đấy lão thảnh thơi uống với cái bóng…một lon bia.

Kiến ngã bất vi. Hậu sự ít ai hay: Lão đang có một người tình là…cái bóng. Kiếp hiện tại nói cho cùng. Lão bằng lòng với cảnh giới ấy. Tận cùng của cái có là cái không.

***

Hạ trưởng…

Cánh cửa mở ra mưa ra nắng.

Sáng thức dậy ra vườn

Lòng nhẹ tênh mùi đạo

Tai vừa nghe chim hót

Đã thấy mình vô vi

(Khuyết danh)

Và cánh cửa khác được khép lại.

 

Trúc gia trang

Lập hạ, Quý Tỵ niên 2013

Ngộ Không Phi Ngọc Hùng

Phụ chú: Bài viết được góp nhặt qua

truyện chớp trên mạng lưới máy vi tính.

 

 

©T.Vấn 2013

Bài Mới Nhất
Search