T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không : Tác Giả và Tác Phẩm – Hồ Hữu Tường (I)

clip_image002

Tiểu Sử :

Sinh : 8 tháng 5, 1910

Chết : 26 tháng 6, 1980

Bút hiệu : Pierre Vutren, Ý Dư, Nguyễn Huệ Minh (tên vợ), Khổng Cưu, Duy Phong…

Tác Phẩm : ( Xem phần viết về Hồ Hữu Tường của Nguyễn Ngu Í

Vài hàng về tác giả

(Theo Nguiễn Ngu Í)

Hồ Hữu Tường sinh ngày 8 tháng 5, 1910 tại làng Thường Thạnh, quận Cái Răng, tỉnh Cần Thơ, trong một gia đình tá điền nghèo. Nhờ may mắn được sang Pháp học lúc mười sáu tuổi. Kết bạn với Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, vào đảng Ðệ Tứ Quốc Tế. Giữa 1939, bị Pháp bắt đày Côn Ðảo với một số chính trị gia như: Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu; đến cuối 1944, được trả tự do. 1955, kẹt trong “Mặt trận thống nhứt toàn lực Quốc gia” (Cao Ðài, Hòa Hảo, Bình Xuyên) chống lại ông Ngô Ðình Diệm, bị bắt ở Rừng Sát, bị kết án tử hình, và đưa ra Côn Ðảo. Ðược trả tự do sau khi chế độ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ (30 tháng 1, 1964). (Ông mất ngày 26 tháng 6, 1980, khi được thả từ nhà tù Chí Hòa, nhưng ông đã từ trần khi vừa về đến ngõ nhà!)

Hồ Hữu Tường

(19101980) là một chính trị gia, nhà văn, nhà báo Việt Nam.

Ông sinh tại làng Thường Thạnh, quận Cái Răng, tỉnh Cần Thơ.

Năm 1926, Hồ Hữu Tường sang Pháp học tại trường Đại học Marseille và nạp luận án thi Cao học Toán tại Đại học Lyon. Tại Pháp ông kết bạn và tham gia hoạt động chính trị với những nhà ái quốc lưu vong như Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Tạo, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh v.v. và gia nhập Đệ Tứ Quốc tế.

Vận động thời Pháp thuộc

Năm 1930, Hồ Hữu Tường được giao làm chủ nhiệm báo bí mật tên là Tiền quân. Thành viên của ban biên tập là những chính khách sau này như Tạ Thu Thâu, Hồ Văn Ngà, Phan Văn Chánh, Huỳnh Văn Phương, Lê Bá Cang…Báo chưa phát hành số đầu thì ban biên tập bị bắt vì tổ chức cuộc biểu tình ngày 22 tháng 5 năm 1930 trước điện Élysée (dinh Tổng Thống Pháp) để xin giảm án cho các liệt sĩ trong cuộcKhởi nghĩa Yên Bái bị kết tội tử hình. Cả nhóm bị trục xuất về Việt Nam, ngoại trừ Phan Văn Hùm và Hồ Hữu Tường trốn thoát sang Bỉ. Sau đó ông về nước.

Tháng 11 năm 1932, Hồ Hữu Tường bị Pháp bắt vì phụ trách tạp chí lý luận chính trị bí mật Tháng Mười (theo xu hướng Trotsky chỉ trích hoạt động của đảng Cộng Sản Đông Dương), đến ngày 1 tháng 5 năm 1933 bị xử án treo ba năm. Sau đó ông được mời gia nhập ban biên tập của nhật báo Công luận và tuần báo Đồng Nai. Năm 1936, Hồ Hữu Tường xuất bản tạp chí Thường trực Cách mạng, một tạp chí bí mật duy nhất trong nước được in bằng chữ in. Tạp chí này được dùng làm công cụ đối lập với Đảng Cộng sản Đông Dương. Cũng trong thời gian này ông bỏ nhóm La Lutte và cho xuất bản một tuần báo tiếng Pháp tên là Le Militant (Chiến sĩ), công khai công kích chủ nghĩa Stalin. Cùng với Đào Hưng Long ông cho ra tờ Thày Thợ cổ xúy đường lối của Đệ tứ Quốc tế.

Từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản

Tháng 6 năm 1939, ông tuyên bố từ bỏ Đệ Tứchủ nghĩa Mác. Ngày 29 tháng 9 năm 1939, chính phủ thuộc địa mở chiến dịch tổng đàn áp, bắt hết những đảng phái đối lập. Đến cuối năm 1940 Hồ Hữu Tường bị đày ra Côn Đảo cùng với các nhà cách mạng chống Pháp khác như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu… Năm 1944, ông được trả tự do. Trong thời gian ở tù, Hồ Hữu Tường đã hình thành một hệ thống tư tưởng mới: chủ nghĩa dân tộc, không lệ thuộc Tây, Tàu, Nga, Mỹ. Ông tuyên bố: “Tôi trở về con đường dân tộc; tôi cho rằng việc giai cấp vô sản giải phóng nhân loại là một huyền thoại lớn của thế kỷ 19 và tiềm năng cách mạng của giai cấp vô sản ở châu Âu và Bắc Mỹ là một huyền thoại lớn của thế kỷ 20.”

Năm 1945, Hồ Hữu Tường ra bắc. Trong thời gian này ông viết Xã hội học nhập môn, chống lại phép biện chứng và một loạt sách chính trị, kinh tế khác như: Muốn hiểu chánh trị, Kinh tế học, Kinh tế chánh trị nhập môn, Tương lai kinh tế Việt Nam, Vấn đề dân tộc, Tương lai văn hóa Việt Nam

Năm 1946, Hồ Hữu Tường được mời tham dự hội nghị Đà Lạt với tư cách cố vấn trong phái đoàn Việt Nam. Sau đó, ông tham gia soạn chương trình sách giáo khoa bằng tiếng Việt cho bậc trung học cho bộ Giáo Dục Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Năm 1947, Hồ Hữu Tường bị Pháp bắt trong lúc tản cư về Hải Dương. Sau đó ông trở về Sài Gòn viết văn, làm báo. Năm 1948, Hồ Hữu Tường hợp tác với báo Sài Gòn Mới và bắt đầu viết tiểu thuyết Phi Lạc sang Tầu.

Cổ võ con đường trung lập

Năm 1953, Hồ Hữu Tường đưa ra giải pháp Trung lập chế (Neutrality). Năm sau ông sang dự hội nghị Genève, ra sức vận động cho giải pháp trung lập Việt Nam nhưng không thành công.

Tháng 03 năm 1955, Hồ Hữu Tường bị bắt vì làm cố vấn cho Mặt trận Thống nhất (Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên) chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm.

Năm 1957, Hồ Hữu Tường bị kết án tử hình, nhưng nhờ Albert Camus và những trí thức khác như thủ tướng Ấn Độ Nehru viết thư can thiệp nên chỉ bị đày ra Côn Đảo. Ngày 31 tháng 1 năm 1964 (sau khi Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam sụp đổ) Hồ Hữu Tường được trả tự do rồi được đại xá ngày 14 Tháng Bảy 1967.[1] Ra tù, ông viết bài cho tờ Ánh Sáng và đưa ra giải pháp Siêu lập: đề nghị Liên Hiệp Quốc hóa miền Nam Việt Nam.

Năm 1965, ông làm Phó Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh và vào ban biên tập tuần báo Hòa đồng Tôn giáo.

Năm 1967, Hồ Hữu Tường trúng cử dân biểu đối lập trong Hạ Viện Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa, thời gian này ông tham gia viết bài cho các tờ báo: Tiếng Nói Dân tộc, Quyết Tiến, Đuốc Nhà Nam, Tin Sáng, Sài gòn Mới, Điện Tín v.v…

Sau sự kiện 30 tháng 4, 1975, ông bị chính quyền bắt đưa đi học tập cải tạo. Năm 1980, được trả tự do và ít lâu sau mất vào ngày 26 tháng 6 năm 1980 tại Sài Gòn.

Tác phẩm:

Chính trị, kinh tế, tiết học:

 

1. Xã hội học nhập môn (Minh Đức, 1945)

2. Kinh tế học và kinh tế chánh trị nhập môn (Tân Việt, 1945)

3. Tương lai kinh tế Việt-nam (Hàn Thuyên, 1945)

4. Phong kiến là gì? (Minh Đức,1946)

5. Vấn đề dân tộc (Minh Đức,1946)

6. Muốn tìm hiểu chánh trị (Minh Đức,1946)

7. Tương lai văn hóa Việt-nam (Minh Đức,1946, Huệ Minh, 1965).

§ Văn học sử:

1. Lịch sử văn chương Việt-nam (quyển 1) (Lê Lợi, 1950).

§ Văn phạm:

1. Phép nói và viết hỏi ngã (1950)

2. Em học tiếng mẹ (1950)

3. Em tập đọc (1951).

§ Dịch:

1. Tam quốc chí (quyển 1, 1951)

§ Truyện:

1. Bộ Một thuở ngàn năm (truyện trào phúng chính trị) gồm có: Phi Lạc sang Tàu (Sống Chung, 1949), Phi Lạc náo Hoa Kỳ (Vannay, Paris, 1955), Tiểu Phi Lạc náo Sàigòn (Nam Cường, 1966), Diễm Hồng xuất giá (Nam Cường, 1966).

2. Bộ Hồn bướm mơ hoa (tiểu thuyết lịch sử xã hội, miền Hậu Giang) gồm 4 tập: Mai Thoại Dung, Tam nhơn đồng hành, Ông thầy Quảng, Bủa lưới người (Nam Cường, 1966).

3. Bộ Gái nước Nam làm gì? (tiểu thuyết tranh đấu chống Pháp) gồm Thu HươngChị Tập (Sống Chung, 1949).

4. Nỗi lòng thằng Hiệp (Lê Lợi, 1949).

5. Kế thế (tiểu thuyết dã sử) (Huệ Minh, 1964).

6. Bộ Thuốc trường sanh gồm 3 tập: Xây mộng, Phúc đứcVẹn nguyền (Huệ Minh, 1964). Hoa dinh cẩm trận (tiếp theo Thuốc trường sanh).

7. Người Mỹ ưu tư (tác giả xuất bản, Paris, 1968)

§ Tiểu luận: “Những kỹ thuật căn bản của nghề làm báo (in tại Paris, 1951, Hòa Đồng, 1965), “Trầm tư của một tên tội tử hình” (Lá Bối, 1965), “Luận lâm I” (Huệ Minh, 1965), “Nói tại Phú Xuân” (những bài tham luận đọc tại Đại Học Huế) (Huệ Minh, 1965).

§ Truyện ngắn, tạp văn: “Quả trứng thần” (1952), Kể chuyện (Huệ Minh, 1965), Nợ tinh thần (Huệ Minh, 1965).

§ Tự truyện và hồi ký: Thằng Thuộc con nhà nông (An Tiêm, 1966), 41 năm làm báo (Trí Đăng, Đông Nam Á tái bản tại Paris, 1984), “Un fétu de paille dans la tourmente” (Paris, 1969, chưa in).

Hồ Hữu Tường: Những ngày cuối đời

Phan Chính

Bài viết dưới đây có thể được coi như một tài liệu lịch sử của nhân chứng/ tác giả Phan Chính, một bác sĩ đã chăm lo cho nhà văn/nhà chính trị Hồ Hữu Tường trong những ngày cuối cùng của ông, trước khi ông qua đời vì bệnh xơ gan cổ chướng.

Theo lời tác giả Phan Chính, Hồ Hữu Tường đã được cho phép rời trại giam ở Hàm Tân (Bình Thuận) để về Sàigòn chữa trị, nhưng xe chở ông gần về đến tư gia ở Đa Kao thì ông mất. Bài viết cũng chất vấn những dư luận trước đây (của Thụy Khuê và Đỗ Thái Nhiên) về cái chết của Hồ Hữu Tường. Lời thuật của Phan Chính về cái chết của Hồ Hữu Tường được Nhã Ca xác nhận trong Hồi Ký của Một Người Mất Ngày Tháng (Thương Yêu: 1991), qua lời cùa bà Huệ Minh, vợ Hồ Hữu Tường

(”Dạ thưa, nhà tôi sống được từ trại tù, tới đầu con ngõ tắt thở ngay đầu ngõ , ” tr. 450-451.)

Vào năm 1926 Hồ Hữu Tường sang Pháp du học và tham gia hoạt động chính trị với những nhà ái quốc lưu vong như Tạ Thu Thâu và Phan văn Hùm. Trong thời gian này ông gia nhập Đệ Tứ Quốc Tế, ủng hộ lập luận của Trotsky về một giai cấp lao động quốc tế chống đế quốc tư bàn, và cũng chống lại chính sách của Stalin chỉ chú trọng đến đường lối phổ biến xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ một quốc gia.

Vào năm 1939, Hồ Hữu Tường tuyên bố từ bỏ Đệ Tứ Cộng sản và chủ nghĩa Marx.  Từ năm 1940-1944 ông bị chính phủ thuộc địa Pháp đày ra Côn Đảo cùng với các nhà cách mạng chống Pháp khác như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu…. Trong thời gian ở tù, Hồ Hữu Tường đã hình thành một hệ thống tư tưởng mới: chủ nghĩa dân tộc, không lệ thuộc Pháp, Trung Hoa, Nga, hay Hoa Kỳ. Ông tuyên bố: “Tôi trở về con đường dân tộc; tôi cho rằng việc giai cấp vô sản giải phóng nhân loại là một huyền thoại lớn của thế kỷ 19 và tiềm năng cách mạng của giai cấp vô sản ở châu Âu và Bắc Mỹ là một huyền thoại lớn của thế kỷ 20.”

Vào năm 1953, Ông đưa ra giải pháp Trung lập chế (Neutrality). Năm sau ông sang dự hội nghị Genève, ra sức vận động cho giải pháp trung lập Việt Nam nhưng không thành công.

Tháng 3 năm 1955, Hồ Hữu Tường bị bắt vì làm cố vấn cho Mặt trận Thống nhất (Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên) chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm.

Năm 1957, Hồ Hữu Tường bị kết án tử hình, nhưng nhờ Albert Camus viết thư can thiệp nên chỉ bị đày ra Côn Đảo. Vào cuối tháng Giêng năm 1964, Hồ Hữu Tường được trả tự do sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ. Ra tù, ông viết bài cho tờ Ánh Sáng và đưa ra giải pháp Siêu lập: đề nghị Liên Hiệp Quốc hóa miền Nam Việt Nam.

Năm 1965, ông làm Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh.  Năm 1967, Hồ Hữu Tường trúng cử dân biểu đối lập trong Hạ Viện Việt Nam Cộng Hòa. Thời gian này ông cũng tham gia viết bài cho các tờ báo: Tiếng Nói Dân tộc, Quyết Tiến, Đuốc Nhà Nam, Tin Sáng, Sài gòn Mới, Điện Tín v.v…

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Hồ Hữu Tường bị bắt đưa đi học tập cải tạo. Ông mất ngày 26 tháng 6 năm 1980 tại Sài Gòn.

Hồ Hữu Tường có tư thế của một cây đại thụ trên lĩnh vực báo chí, văn học và còn là một nhà chính trị độc lập nổi tiếng ở Miền Nam trước năm 1975. Cuộc đời ông có cái duyên nợ với mảnh đất La Gi- Hàm Tân (Bình Thuận) như một tình cờ nhưng với tôi lại có những điều đáng nhớ. Tập “Kể chuyện” (Huệ Minh xuất bản 1965) gồm 9 câu chuyện kể viết cùng Nguiễn Ngu Í là một nhà văn nhiều giai thoại và cách tân chữ viết, quê ở Hàm Tân. Như một định mệnh, Hồ Hữu Tường có những ngày cuối đời sau 70 năm thăng trầm khổ ải rồi dừng lại ở đây.

Trên một số trang Web từ nước ngoài đều ghi rằng Hồ Hữu Tường sau những năm cải tạo, được trả tự do và mất tại Gia Định. Có trang viết một cách mập mờ là “Hồ Hữu Tường- một người chết u uẩn” có gì đó ám chỉ về chế độ lao tù. Thật sự theo tôi không có chuyện “được trả tự do, ít lâu sau mất” hoặc “cái chết u uẩn” như Thụy Khuê, Đỗ Thái Nhiên kể…Nhưng có chính xác ngày chết của Hồ Hữu Tường là ngày 26.6.1980. Thời gian này tôi đang làm việc tại Bệnh viện huyện Hàm Tân ( tỉnh Thuận Hải- năm 1992 trở lại tên Bình Thuận) phụ trách phòng Y vụ, một bộ phận trực tiếp với Giám đốc về chuyên môn. Đây là cơ sở cũ trước ngày giải phóng 23/4/1975 là Bệnh viện phối hợp Dân Quân y tỉnh Bình Tuy mà tôi cũng từng làm việc ở đây dưới lớp áo Quân y VNCH.

Năm 1980, bệnh viện này là tuyến huyện với 120 giường, tình trạng trang thiết bị hầu như tận dụng lại những gì đã có, tiếp tục hư hỏng ngày càng nhanh và nhếch nhác. Số bác sĩ cũ không còn, một số có trình độ trung cấp, sơ học được sử dụng lại gọi là lưu dụng nhưng lần lượt bị loại dần do lý lịch… bù vào số cán bộ từ khu về, từ miền Bắc chi viện. Ngoài 5-6 bác sĩ còn lại rất nhiều chức danh Y sĩ (xếp ngang trình độ trung cấp y tế sau này), được quyền mang ống nghe khám bệnh kê đơn, giữ các chức vụ Bệnh viện phó, trưởng khoa, nhưng các tên thuốc Tây chỉ viết toa thuốc bằng phiên âm theo cách đọc- Trong khi đó Cán sự điều dưỡng học 4 năm chỉ xếp là Y tá trung cấp, làm theo chỉ định của Y sĩ. Có lúc chiếc máy X Quang với chức năng chụp phim chẩn đoán rất hiện đại, đặt trong phòng có vách chì cản tia phóng xạ độc hại cho người lại bị đập bỏ cho rộng và chỉ dùng bộ phận rọi ( gọi là rọi kiếng) tức xem trực tiếp theo kiễu cũ cách đó trên 20 năm. Kết quả thế nào tùy thuộc do nét bút vẽ mô tả của Y sĩ đứng máy thay vì có phim như trước đây. Thuốc men thì cũng rất khó khăn phải phát động phong trào đông tây y kết hợp. Loại thuốc Xuyên-tâm-liên, trị bá bệnh tức bệnh nào cũng uống được, mỗi lần hàng chục viên đắng đến nỗi… hết bệnh. Sốt xuất huyết thì cây cỏ mực chưng cất thành xi rô, sốt rét có lá mãng cầu ta sao vàng sắc uống … Các loại Vitamine tiêm thì cao cấp hơn như B1, B6, B12 được mua hoá chất từng ký về hòa nước cất sản xuất tại chỗ, vào ampule hoặc lọ Pénicillin đã dùng …Dịch truyền loại 5%, 10% cũng vậy. Dây chuyền, kim tiêm phải luộc đi luộc lại nhiều lần để tiết kiệm, được coi là có sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Không có băng keo cố định kim tiêm dịch truyền cho bệnh nhân được thay bằng sợi dây nang lá buông.

Tôi nhớ đến Đỗ Hồng Hùng, là dược sĩ đại học Y Sài Gòn, bị động viên mang lon trung úy, gia đình liệt sĩ, đi cải tạo 3 năm về xin làm xã viên HTX Phân hữu cơ, ngày 4 tiếng đồng hồ phải dầm mình xuống Bưng Ngang đĩa bám rát da, anh trân mình ngụp lặn móc từng vốc bùn để trộn tro rơm rạ chế biến phân bón. Mãi sau này nhờ có ông anh con bác ruột làm Phó chủ tịch huyện, bệnh viện nhận vào để “pha chế” thuốc… đông y. Bệnh dù có nặng mấy đi nữa cũng phải đi theo hệ thống tuyến xã, huyện , tỉnh, trung ương…cơ quan, đơn vị ở địa bàn nào cũng theo con đường đó. Từ Bệnh viện huyện muốn chuyển bệnh nhân lên bệnh viện tỉnh phải có biên bản tập thể Y bác sĩ các khoa hội chẩn, cho nên có trường hợp bệnh sản đẻ khó mà bác sĩ, y sĩ khoa Nhi hoặc Đông y cũng được tham dự và cho “quan điểm”. Có khi phải xin thêm ý kiến Bí thư Chi bộ dù anh ta chỉ là cán bộ chính trị. Có sự ràng buộc đó cũng vì sự khắt khe quái ác của các chỉ tiêu tử vong, chuyển viện…Nhiều quá thì mất điểm thi đua. Như vậy thì không thể nào có bệnh nhân được chuyển thẳng về các Bệnh viện ở Sài Gòn dù biết bệnh tình có ra Phan Thiết cũng chào thua.

Trước đó không lâu, tôi là một trong những người trực tiếp với trường hợp đại sứ Đinh Bá Thi, là đại sứ đại diện Chính phủ CHXHCNVN ở Liên Hợp quốc (tại Mỹ) về nước công tác tại Bộ Ngoại giao. Chuyến xe đi mua hàng thực phẩm mỗi sáng sớm của Trại giam Z30C chở 4 nạn nhân và 1 trẻ em đến bệnh viện. Ông Thi bị vết thương đầu lột cả mảng da tóc khá rộng, còn người vợ bị nhiều chấn thương đã hôn mê. Người chị vợ, anh lái xe và đứa cháu ngoại 7 tuổi của ông Thi chỉ xay xát nhẹ. Lúc vào viện Ông Thi còn tỉnh táo và bảo cố gắng chăm sóc người khác, ông không tự giới thiệu mình là ai! May mà anh Lái xe còn tỉnh táo mới cho biết đó là ông Đinh Bá Thi trên đường công tác sau đêm ngủ tại nhà khách Uỷ ban tỉnh ở Phan Thiết, sáng đi Thành phố Hồ Chí Minh đến căn cứ 8 thì bị một chiếc xe tải cùng chiều ép làm cho chiếc Comancar lật nhào mấy vòng. Tôi nhận ra đây là một yếu nhân, biết tiếng ông từng là người cùng bà Nguyễn Thị Bình đại diện cho Chính phủ Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam tại bàn hoà đàm Paris. Sau này biết thêm, ông trên đường đi truyền đạt chỉ thị quan trọng trước sự đe dọa can thiệp của Trung Quốc với chiêu bài cứu nạn kiều Sài Gòn khi chiến tranh biên giới vừa nổ ra. Sau mấy giờ cấp cứu chờ xe 05 của Bệnh viện Tỉnh đưa đội phẩu thuật vào thì ông Đinh Bá Thi tắt thở, xác quàng tạm ngay trong phòng mỗ chờ ý kiến của Tỉnh. Huyện giao cho Xí nghiệp cơ khí gấp rút làm chiếc hòm kẽm có thêm một lớp chứa được đá lạnh để giữ tươi thi hài đem đặt tại hội trường Ủy ban huyện. Khuya đêm đó xe của Văn phòng đại diện Bộ Ngoại giao phía Nam ra và chuyển vào áo quan đem về Sài gòn. Nhắc đến sự kiện này để thấy tình trạng nghèo nàn của hệ thống y tế dù đã gần 6 năm giải phóng. Nhiều người so sánh nếu có máy bay cấp thời chở ông Thi về Chợ Rẩy có khả năng qua khỏi. Cách bệnh viện chừng 300 mét, sau nhà Bưu điện bây giờ trước giải phóng có một sân bay trực thăng, bất cứ đêm ngày có bệnh nặng cần chuyển cấp cứu đều đáp xuống chở ra Hạm đội 7 hoặc bệnh viện dã chiến Long Bình.

Trở lại trường hợp Hồ Hữu Tường, khoảng đầu tháng 6 năm 1980, xe của Trại giam Z30C chở đến với yêu cầu điều trị. Trên địa bàn Hàm Tân, xã Tân Minh lúc này có 2 trại giam Z30C và Z30D nằm liền kề, còn gọi là trại Thủ Đức, rộng hàng ngàn hec- ta đất rừng tiếp giáp Núi Bể và cặp đường quốc lộ I, giáp ranh đất tỉnh Đồng Nai. Tù nhân cải tạo hầu hết là thành phần quan chức, sĩ quan tướng tá chế độ cũ và mắc tội chính trị chống đối sau này. Nay nhập một gọi là Trại Z30D thuộc Cục quản lý Trại giam (V26) Bộ Công An, xe chạy bắc-nam ngang qua thấy trạm xăng Đức Khải rất đồ sộ với màu sắc đỏ mà chủ nhân là người có tên Anh Lâm, trước đây bị án chung thân về tội buôn lậu, cũng là tù nhân “siêu đặc biệt” của trại này. Trước khi đến Trại giam Z30C, từ năm 1977 Hồ Hữu Tường đã vào tù từng qua các trại giam Phan Đăng Lưu, Chí Hoà và Long Bình…Theo cán bộ canh giữ, ông được giao chăm sóc vườn thuốc nam Bệnh xá của Trại. Hồ Hữu Tường cao lớn, cặp vành tai của tướng mạo trường thọ, tóc đậm sắc muối tiêu còn đi đứng được. Trong hồ sơ có ghi đến chức vụ của ông tham gia tổ chức phản động là Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa trung lập phục quốc Việt Nam gì đó, tôi nhớ chưa đầy đủ lắm! Chẩn đoán là Xơ gan cổ chướng, bụng ông to độn lên áo trông thấy rõ. Nhập vào khoa Nội 2, bác sĩ Nguyễn Văn Thảo phụ trách. Với tên tuổi của ông làm khuấy động sân khấu chính trị miền Nam từ thời Diệm đến Thiệu….

Mới đó, Hồ Hữu Tường với danh nghĩa dân biểu Hạ nghị viện đã cùng báo giới làm cuộc biểu tình “Ngày ký giả ăn mày” (10/1974) đòi tự do báo chí. Rất sớm, năm 1926 Hồ Hữu Tường sang Pháp học đại học Marseille, đỗ thạc sĩ toán đại học Lyon…rồi làm chính trị, làm báo, viết văn…rồi thời Pháp thuộc, đến lúc Mỹ sang và sau cùng là Thiệu tù tội với ông đều nếm trải, Diệm từng kêu án tử hình và có văn hào Pháp Albert Camus viết thư can thiệp. Trong hàng chục tác phẩm của Hồ Hữu Tường tôi chỉ nhớ được một ít tựa sách và chỉ đọc đôi quyển như Phi lạc sang Tàu, Phi lạc đại náo Hoa Kỳ, Kể chuyện, Luận Lâm, Người Mỹ ưu tư…Trong bài tựa của tập kể chuyện, ông viết :”…Mục đích của tôi là lập một cuộc tạ ơn những vị giáo sư đã dạy tôi viết văn nhà quê, hoang đường, trào lộng và châm biến, đặc biệt của nông dân miền Tây nam bộ vào đầu thế kỷ XX này”…Ông sinh ra ở Cái Răng, Cần Thơ đã thấm đậm cái chân chất Nam bộ nhưng ông là con người có tư tưởng xuất chúng hiếm hoi. Ông thật lòng nói, “thầy dạy là những người bạn có lúc đồng chí hướng như Phan Văn Hùm “ khuyến khích và chịu khó năn nỉ dạy không công cho tôi viết văn, tôi lại lười biếng”.! Nhiều chính khách nhận xét về Hồ Hữu Tường là con người của chủ nghĩa dân tộc, người đề xướng giải pháp trung lập chế v.v…Với những điều đó tôi hiểu rất lờ mờ, đơn giản chỉ thấy lay động trước tên tuổi một Hồ Hữu Tường.

Ngay chiều ấy tôi ghé nhà cậu ĐĐC- Châu Anh báo tin này vì Châu Anh là bạn Nguiễn Ngu Í biết Hồ Hữu Tường khi làm báo ở Sài Gòn nhưng cậu ngại không đến thăm. Là tù nhân chính trị nên Trại cử một anh Công an theo canh giữ nên không ai dám đến gần bắt chuyện dù là nhân viên y tá trong khoa. Tôi có lợi thế làm công tác y vụ tức bộ phận quản lý điều hành chuyên môn ở Bệnh viện nên có lý do tiếp xúc với ông công khai không bị ai dòm ngó. Ông than với tôi chiếc mùng vải xô của bệnh viện phát bị thủng rách nhiều chỗ quá, muỗi chui vào cắn không ngủ được. Thêm nữa, tôi hỏi ông thèm ăn gì ? Ông nói cá, cá…Nhà tôi ở xóm Phò Trì cách bệnh viện 2 cây số, đi làm bằng chiếc xe đạp cọc cạch thường tuột xên, nhà chỉ có một chiếc xe này may là vợ tôi đi dạy học ở một trường nhỏ gần nhà. Vợ tôi mua mấy lát cá thu, chỉ tẩm một ít gia vị, chút nước mắm nhạt vì bệnh ông không được ăn mặn. Hai lát cá thu vừa đủ trong một hộp nhựa để mang đi kín đáo. Ông ăn một cách ngon lành và trông ông hiền từ như ông Phật. Tôi gói mấy đoạn chỉ và kim may để ông vá lại các lỗ thủng chiếc mùng. Ông cứ loay hoay vá, lại vá, tôi hỏi bác làm gì nhọc vậy. Ông cười, quen rồi đời tôi cũng thế, phải vá mãi! Trong cái túi đồ dùng của ông có nhiều thuốc Tây ngoại và ma-gi (xì dầu) cũng ngoại, ông nói nhờ các con ở nước ngoài gởi về. Khi ông có chút tin tôi, ông mới nhờ tôi nhắn tin cho gia đình. Lúc ấy chỉ có viết thư điện tín ở Bưu điện, chuyển bằng moọc tít tít te te. Hai ngày sau vợ ông – bà Nguyễn Huệ Minh đi xe than từ Sài gòn ra đến Bệnh viện gần cuối chiều. Hai ông bà ôm chầm lấy nhau một cách tự nhiên ở ngay hiên khoa nội, làm ai cũng thấy lạ nhưng thật bùi ngùi. Tôi lén lút đưa bà về nhà tôi để tắm rửa và bàn chuyện bệnh tình của ông vì sau mấy ngày nhập viện bệnh ông có triệu chứng nặng hơn, theo chuyên môn phải chuyển viện, mỗi ngày phải dùng bơm tiêm lớn chọc dò rút ra cả lít dịch axit từ màng bụng ông mới dễ thở. Chỉ báo lại trại Z30C họ sẽ mang ông ra bệnh viện Phan Thiết thôi, là xong.

Nhưng ra đó là chết và coi như chết trong tù, chôn cất theo tù… Tôi nghĩ đến điều đó phải xảy ra. Tôi không có một xu hướng chính trị nào, trước đây cũng vậy dù Cộng sản hay Quốc gia, chỉ mong đợi hoà bình, bên nào cũng được…Hồi năm 1974, Thiếu tướng Nguyễn Xuân Trang, Tham mưu phó Bộ Tổng tham mưu QLVNCH ký lệnh thuyên chuyển số 11075 đẩy tôi về Bệnh viện Tiểu Khu An Xuyên (Cà Mau) với lý do ghi rõ: Có tư tưởng hành động chống chánh phủ cũng như chánh quyền địa phương” cho đến sau ngày giải phóng tuy còn tiếp tục làm việc với ngành y nhưng không phải yên ổn gì, mỗi năm không ít 3-4 lần khai lại lý lịch. Những câu hỏi của cơ quan an ninh từ một hồ sơ nào đó trong tàng thư của cơ quan Cảnh sát VNCH để lại (sau này tôi biết có Phiếu điều tra lý lịch của Ty CSQG Bình Tuy lập 5/5/1974) ghi về mối quan hệ anh em với Dân biểu Trần Ngọc Châu và Điệp báo Cộng sản Trần Ngọc Hiền ( Trần Ngọc Hiền vào Nam hoạt động lúc Trần Ngọc Châu làm tỉnh trưởng Kiến Hoà tức Bến Tre và Hiền bị bắt lúc Châu là dân biểu Tổng thư ký Hạ viện). Sự thực Trần Ngọc Châu với tôi là anh em cùng mẹ khác cha, còn Trần Ngọc Hiền với Châu là anh em cùng cha khác mẹ. Nhưng lúc này Trần Ngọc Châu đã bị Tổng thống Thiệu bỏ tù không liên quan gì. Với Hồ Hữu Tường, tôi ngưỡng mộ ông ở văn tài, con người minh triết chứ tôi không mê ông ở phương pháp hành động.

Đọc truyện “Con thằn lằn chọn nghiệp” trong tập“Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta” (NXB Sóng-Sg 1974) cũng theo lời bà Huệ Minh là ông tâm đắc nhất. Phải chăng kiếp con thằn lằn có gì đó là hình ảnh của kiếp người ông đang cưu mang? Suốt đời lầm lũi tìm đủ phương kế ngăn chặn kẻ cuồng tín, u mê, tự hủy hoại, giết hại nhau… vì một mục đích hão huyền, lại cho đó là thiên đường! Chuyện kể trong tù, một hôm có người tù trẻ cùng phòng hỏi Hồ Hữu Tường : Bác Tường ơi, bác biết tại sao từ thời Pháp đến Mỹ, rồi cả bây giờ bác cứ ở tù dài dài không? – Ông nói, mày trả lời giùm tao đi! Anh ta nhanh nhẩu:- Dễ quá, Bác có tên là Hữu Tường nên bác “hưởng tù” dài dài thôi! Ông trầm ngâm, có thể thằng này nói đúng!

Như có cùng một suy nghĩ, Bác sĩ Thảo làm rất đầy đủ bệnh án của một bệnh nhân bị đe dọa tử vong bất cứ lúc nào. Bác sĩ Thảo học y khoa Huế trước giải phóng và sau giải phóng mới tốt nghiệp rồi xin về Hàm Tân. Sau này lấy vợ cùng ngành rồi đi theo đường bảo lãnh qua Mỹ. Tôi nhanh chóng hoàn tất hồ sơ cho Giám đốc bệnh viện Vương Xuân Long ký với yêu cầu Z30C sớm đưa về chữa trị ở Sài gòn, đây là một ngoại lệ. Có sự bàn bạc thế nào ở Trại giam và họ báo với bà Huệ Minh phải làm đơn bảo lãnh xin đưa về Sài gòn. Sau đó bà Minh quay về Sài Gòn và thay bà là người em gái của ông. Mấy ngày sau, Z30C có văn bản của Bộ Công An quyết định tạm tha Hồ Hữu Tường để đi điều trị.

Có lẽ ai cũng tiên lượng được tình trạng bệnh tật của ông đã liền kề cái chết và cũng tránh dư luận xấu về cách đối xử với một nhân vật nổi tiếng nên dễ dàng có một quyết định như thế. Được biết trước khi ông chuyển về trại Z30C, có phái đoàn Ân xá quốc tế đến thăm hỏi và can thiệp. Có được giấy tạm tha, nhưng người em gái của ông với tuổi ngoài 60 chân quê, không tính toán được gì và tôi phải làm một cái gì giúp ông. Tôi gặp người bạn Nguyễn Phát Minh, anh có chiếc xe tải Daihatsu chở cá ướp đá chạy đường Quốc lộ 46 – La Gi, giá xăng xe 200 đồng để gấp rút chở ông về Sài Gòn. Xe ghé nhà tôi lấy chiếc nệm giường cá nhân, lót lên sàn xe và lên Bệnh viện nhận bệnh. Lúc ấy bác sĩ Nguyễn văn Khánh, chuyên khoa răng – muốn về thăm nhà, tôi can thiệp để bác sĩ Khánh nhận làm y tá chuyển bệnh. Tôi báo lại cơ quan có việc nhà xin nghỉ phép, lánh mặt về nhà dắt con gái Bảo Vy 6 tuổi lên đầu dốc Tân An đón xe chở ông lên. Xe đến Tân Minh thì trời mưa tầm tã, phải dừng lại để kiểm tra khi qua mấy trạm quản lý thị trường vì đây là loại xe thường chở hàng hải sản. Chai dịch chuyền đong đưa dưới mui xe cạn dần và tôi phải tiêm cho ông mấy mũi campho…Xe đến Gia Định khoảng 5 giờ chiều, hướng về nhà ông ở Đa-kao vì trước đây bà Huệ Minh nói nếu đưa được ông về Sài gòn thì có người bạn thân là bác sĩ Lương Phán, bác sĩ Nguyễn Thị Lợi chăm lo.

Theo giấy chuyển viện chỉ được chuyển đến Bệnh viện Chợ Rẩy thôi nhưng tôi chuẩn bị thêm một giấy chuyển viện ký khống để dự phòng.

Với ý định ghé nhà để hỏi ý kiến vợ ông quyết định. Chỉ còn khoảng 100 mét quanh qua góc đường Trần Quang Khải là đến nhà, Hồ Hữu Tường tắt thở trên xe. Lúc này cảnh nhà trống vắng không có ai, mới biết bà Huệ Minh vừa ra Hàm Tân hồi sáng nay. Người em gái ông loay hoay cùng tôi và Minh khiêng xác ông vào nhà. Tôi chỉ kịp thấy căn nhà lầu bề thế, phòng khách có một bức tranh rất rộng treo trên tường. Chuyện tiền xe lúc này tôi không dám hỏi để trả cho Minh đổ xăng vòng về, nhưng có hỏi thì biết ai. Chúng tôi về Phú Thọ ngủ lại đêm nhà em tôi và sáng ghé qua nhà ông, bà Huệ Minh chưa thể về kịp, người em gái ông gởi lại tiền xăng cho Phát Minh…. Từ ngày đó tôi không còn liên lạc gì dù nhiều lần về Sài Gòn vì không muốn vương víu đến chuyện nghĩa ơn. Sau này bà Huệ Minh cho tôi biết, khi bà từ Hàm Tân về nhà thì tin dữ đến với gia đình. Hồ Xích Tú người trai đầu của ông bà bị bắt tại Bến Tre do vượt biên. Trước giải phóng Tú là giám đốc Nha nhân viên hàng không nhưng trong những ngày cuối cùng Sài Gòn sụp đỗ, Tú chần chờ để cùng với cha ra đi nhưng Hồ Hữu Tường tin rằng mình là người yêu nước, quyết định ở lại. Sau này nghe nhà văn Lê Phương Chi nói đám ma Hồ Hữu Tường đông lắm, có nhiều người không dám nhập vào đoàn đưa tang mà âm thầm đi trên lề đường đưa tiễn. Anh còn gợi ý tôi viết lại chi tiết những ngày cuối của Hồ Hữu Tường, đó là một nhân vật đặc biệt kỳ tài.

Khoảng tháng sau tôi nhận được dòng thư ngắn của bà Huệ Minh “Chú Chính, không biết lời nào để nói hết được lòng biết ơn của gia đình tôi đối với chú” kèm theo 30 đồng. Tôi mới nhớ lại hôm bà ra chăm sóc ông, đến ngày phải về Sài Gòn bà lúng túng bảo rằng không còn tiền và tôi vét được 30 đồng đưa cho bà. Lương tôi lúc đó là 47 đồng, tiêu chuẩn gạo tháng 13 kg nhưng trên 60% là độn bột mì hoặc bo bo…Nói đến chuyện cơm áo thời đó có khi kể lại thế hệ trẻ bây giờ cho là cổ tích, hoang đường. Không đâu, có một gia đình, anh chồng đang làm nhân viên đưa thư, vợ nấu bếp cho cửa hàng Thương nghiệp mà phải nuôi 6 đứa con. Tiêu chuẩn mỗi gia đình chỉ được 2 nhân khẩu lương thực ăn theo. Hai vợ chồng phải đưa nhau ra tòa ly dị (tất nhiên là giả) để có thêm tiêu chuẩn lương thực ăn theo! Thời ấy còn khổ lắm, những người trước đây sống bằng đồng lương công chức, làm lính chế độ cũ đối mặt với sự thay đổi, bị hụt hẫng nên rất sợ lao động ruộng rẫy và không có việc làm nào để sống, chập chờn viễn cảnh vùng kinh tế mới âm u. Mà bám vào một tập thể cỡ Hợp tác xã hay cơ quan nhà nước là coi như có chiếc phao cứu sinh. Hồi ấy thường thấy trong bản lý lịch cá nhân luôn có phần kê khai 2-3 người bạn thân nhất, bóp bụng và dẹp sĩ diện lục tìm trong trí nhớ cho được người bạn nào đó có thành tích cách mạng, nếu đương chức quyền uy thì càng hay. Nói đến điều này, tôi lại tự hỏi mình khi có những quan hệ với Hồ Hữu Tường trong tình cảnh đó có phải là “liều” lắm không? Trong lòng tôi khi ấy không có gì lưỡng lự và thật sự thấy rất nhẹ nhàng. Khi ghi lại những dòng này thì câu chuyện tưởng mới đây mà đã trôi qua 28 năm rồi, nghe đâu bà Nguyễn Huệ Minh cũng đã chết. Đời người sao ngắn ngủi quá!

Hồ Hữu Tường và “Người Mỹ ưu tư”

Nguyễn Mạnh Trinh

Viết về Hồ Hữu Tường, có lẽ một bài không đủ. Bởi có quá nhiều chi tiết về chân dung con người ấy. Nguyên cuộc đời của ông, cũng là một đề tài. Những ngày tù tôi, từ khám tối của thực dân Pháp, đến khám tử hình của chế độ Ngô Đình Diệm rồi khám Chí Hòa của Cộng sản và chết trong tù ngục đỏ. Thời gian bị cầm giữ với ông lại là những ngày để suy tư và tâm thức luôn bay bổng vượt qua những rào cản để tới những viễn kiến cho những phương trời rộng mở. Rồi ông là một học giả, một chính trị gia, một nhà văn, và cũng là người theo Cộng sản Đệ Tứ rồi rời bỏ, đi làm cố vấn cho Bảy Viễn nên bị chế độ Ngô Đình Diệm kết án tử hình, rồi lập thuyết, tìm một “minh đạo “cho văn hóa Việt Nam. Sang thời kỳ đệ nhị của chính thể VNCH, ông trở thành dân biểu, và viết “Người Mỹ ưu tư’, gửi thư cho John Steinbeck, người đoạt giải Nobel văn chương và hậu thuẫn cho sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ vào Việt Nam.
Với tôi, tôi đã đọc truyện Hồ Hữu Tường từ khi bắt đầu vào trung học khi tìm thấy sách của ông ở những tiệm cho mướn sách. Tôi đọc truyện kiếm hiệp song song với đọc Hồ Hữu Tường. Tôi đọc bộ sách “Gái Nước Nam làm gì?” với Thu Hương, Chị Tập, cũng như đọc bộ “Ngàn Năm Một thuở “với Phi Lạc Sang tàu, Phi Lạc bỡn Nga, Phi Lạc náo Hoa Kỳ. Những nhân vật như thằng mõ Cổ Nhuế, thằng mõ Phù Ninh… đã làm cho tôi hồi đó chỉ thấy được cái nét châm biếm, như một chuyện tiếu lâm mà không để ý đến những điều sâu xa hơn từ cách thế trào lộng. Với một đứa bé hơn mười tuổi, đọc để mà đọc nhưng đã vô tình tạo một tâm thức trong trí óc non nớt của tôi lúc ấy. Tôi đọc Thu Hương, Chị Tập, để biết những người kháng chiến chống Pháp thời đó ra sao và có một chút ngưỡng mộ với những anh thư ấy…
Nhân vật chính của bộ truyện này là hai người phụ nữ tiêu biểu cho hai thành phần trong xã hội cùng tham gia trong cuộc đấu tranh chống Pháp. Thu Hương thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản sống ở thành thị trong khi Tập thuộc thành phần lao động ít học. Thu Hương là nữ sinh viên trường Y Khoa Hà Nội, đảng viên của một đảng cách mạng bí mật, là một cô gái kiên cường có bản lãnh, đã thi hành những công tác nguy hiểm như tổ chức cướp sân khấu để tuyên truyền, ám sát bọn chó săn cũng như viên chức Pháp giửa thành phố… Còn chị Tập là một người thuộc giới cùng đinh, bị cha mẹ bán lấy tiền, trải qua nhiều nỗi khổ đau, bị tù tội, đầy ải sống chung với những người cách mạng và cả những tên đầu trộm đuôi cướp. Khi được tha khỏi trại giam, Tập trở thành một đảng viên nồng cốt tham gia những việc như làm thổ phỉ, buôn lậu, tổ chức cướp vũ khí của quân Nhật, xây dựng căn cứ địa để đánh Pháp…Bộ truyện này có nhiều diễn tiến mạnh, tạo được những hình ảnh của những người phụ nữ, không kể lao động hay trí thức, hết mình hy sinh cho đất nước…
Còn ở bộ “Ngàn Năm Một Thuở”, tôi tím thấy những nét trào phúng từ nhân vật Phi Lạc. Một người đậm nét của xã hội bình dân Việt Nam, dốt nát nhưng lại hay khoe khoang chữ nghĩa,, rất tự cao tự đại nhưng lại xun xoe nịnh hót những người có quyền thế để thủ lợi, cũng như đầy đủ những cá tính tiểu sảo vặt. Những cá tính thời đại này không phải chỉ có tiêng ở nhân vật Phi Lạc mà còn thấy nhan nhản những con người như thế ở chung quanh trong xã hội. Từ thằng mõ đến ông tiên chỉ, rồi đến các nhà bác học, những vị anh hùng… tất cả từ đời trước đến đời sau, như trong một tấn tuồng bi hài mà ở đó sự có lý và vô lý như bàn tay lúc ngược lúc úp, thay đổi dễ dàng như trong một hài kịch có khi bi thảm, có lúc nực cười…
Trong Phi Lạc Sang Tàu, câu chuyện về nguồn cội của nhân vật bắt đầu cho một tấn tuồng ảo hóa. Vai chính là thằng mõ làng Phù Ninh, vô học nhưng đầy khóe lường gạt lại mồm mép giả danh là hậu duệ họ Hồ của tông tộc Hồ Thơm Nguyễn Huệ. Lại có một tên lừa bịp khác là thằng mõ làng Cổ Nhuế, muốn phá đám tên mõ làng Phù Ninh nên bán đứt cho một vị sư từ Tàu qua tên là sư Hồng Hạc. Oâng này là một vị chân tu có sư mạng là qua Việt Nam tìm đến “thảo lư” tìm kiếm một vị vạn đại quân sư như Khổng minh đời Tam Quốc xưa để thành một thánh sư đời nay để trong mưu vọng phục quốc phản Thanh phục Minh.. Những nhân vật này được xếp đặt trong những cục diện, những tình thế tròng tréo, viết theo kiểu truyện Tàu với những hồi, với những chương nối tiếp nhau. Truyện thâm ý bài xích cái tinh thần vọng ngoại và cái tập tục ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc. Từ chữ nghĩa, tới tên địa danh, tên nhân vật,.. đều là những biểu tượng có hai nghĩa, có hàm ý mỉa mai, và ở trong những điều kiện ràng buộc với nhau như trong một bố cục liên hệ. Những câu hỏi liên tiếp nhau. Tại sao sư Hồng Hạc lại đi kiếm thánh sư ở phương Nam? Tại sao lại đến làng Phù Ninh? Tại sao lại liên lạc với mõ làng cổ Nhuế? Tác giả đã nối các chi tiết với nhau. Sư Hồng hạc qua Việt Nam vì sấm truyền của Minh Thái Tổ để lại và đến làng Phù Ninh bởi vì làng này là nơi sinh trưởng của công chúa Ngọc Hân thì chắc là phải có hâu duệ của Hồ Thơm Nguyễn Huệ. Và liên hệ với làng Cổ Nhuế bởi vì làng này nổi tiếng là buôn phân người nhưng đồng thời cũng là làng có nhiều nhân tài và nhiều người đỗ đạt nhất. những chi tiết ấy trộn lẫn với nhau, rối nùi trong cái mê đồ để khiến người đọc nghĩ đến những trò đành hanh của con tạo, của những bất ngờ, những cái duyên có khi tình cờ có khi là hậu quả của nhửng trò đùa của cuộc đời. Trong đó, cái hóm hỉnh của truyện Trạng Quỳnh, cùng cái chửi đời châm biếm của Ba Giai, Tú Xuất, làm nổi bật lên chủ đích của tác giả. Hầu như mọi giá trị đêu bị đảo lộn, những câu khoác lác, những trò lừa bịp lại có ảnh hưởng rộng lớn, và bao nhiêu người tài giỏi trên đời này nhiều khi lại thua mưu kém trí những tên vô học bới những trò tiểu sảo tầm thường. Những lý thuyết nhiều khi trống rỗng và các danh nhân nhiều khi chĩ là cái bóng mờ nhạt…. Đọc tới đoạn thằng mõ, thuộc giai cấp mạt hạng trong xã hội mà lại luận đàm thuyết lý, nói chuyện tế thế an dân với những Khổng Minh, những Hồ Thích, có phải là một hài kịch được dàn dựng để trong đó gờn gợn những ý tưởng phản kháng xã hội và xét lại tất cả những gì được gọi là khuôn vàng thước ngọc của xã hội…
Lớn lên một chút, tôi đọc “Tương lai văn hóa Việt Nam”, một tác phẩm mà tôi nghĩ là những suy tư khởi đầu của ông để từ văn hóa bước sang những phạm vi khác như chính trị, tôn giáo, xã hội… để thành một người lập thuyết. Hồi nhỏ thì không ảnh hưởng lắm nhưng bây giờ đọc lại, tôi thấy có những suy nghĩ tới bây giờ vẫn còn giá trị. Trước hết, đây là những tâm huyết của một người muốn nói những điều mà biết rằng sẽ có ít âm vọng nếu không nói là tiếng kêu trong sa mạc. “Tôi muốn cất tiếng mà kêu to. Kêu thật to để ai nấy cùng nghe. Tôi muốn có một giọng tha thiết. Thực tha thiết để ai nấy cùng cảm. Tôi muốn có những luận điệu đanh thép. Thực đanh thép để ai nấy cùng tin. Nghe, cảm, tin…để cùng tôi đem một cái vinh quang chưa hề có trên quả địa cầu về cho dân tộc ta, dân tộc Việt…”.
Câu văn biền ngẫu, ý hướng tha thiết, tác giả Hồ Hữu Tường còn muốn vạch ra một con đường văn hóa, thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc và Tây phương. Theo ông, “Văn trong nghĩa cầu nguyên của nó là đẹp đẽ, là hiền lành, trái với võ là hung bạo. Hóa trong nghĩa cầu nguyên của nó là thay đổi. Hia chữ đó mà ghép lại thì tôi cho rằng đó là cái gì làm cho người ngày càng cao quý hơn, đẹp đẽ hơn, làm cho người (hạ tiện, xấu xa) hóa ra Người (cao quý, đẹp đẽ)…”
Oâng cho rằng mọi ý thức hệ chỉ có tác dụng trong một thời điểm mà thôi trong ý nghĩa tích cực của nó. Nhưng khi không còn thích hợp với cuộc sống thì nếu không bị triệt tiêu đi mà còn tồn tại sẽ thành những chướng ngại vật chống cản lại chiều hướng phát triển và ở trong một ý nghĩa tiêu cực sẽ thành một hiểm họa cho nhân loại. Như vậy, chúng ta phải xây đắp một nền văn hóa dân tộc, luôn luôn thay đổi theo chiều hướng phát triển của cuộc nhân sinh và thoát ra được sự kềm hãm và chi phối của các ý thức hệ lỗi thời. Con đường ấy, không bị chi phối bởi Đông hay Tây phương, nhưng kết nạp và thu liễm những tinh túy của người để biến thành của mình. Con đường ấy là con đường văn hóa, và nâng cao trình độ và vị thế của con người.
Tác giả còn cho rằng tây phương chưa có văn hóa mà chỉ có quái hóa. Quaí hóa ấy có thể tạo thành ở hình thức văn chương, nghệ thuật, triết học, khoa học… nhưng ở nội dung thì chỉ là những phương tiện để đi chinh phục. “Chính quái hóa này đã biến đổi những tư tưởng đẹp đẽ như “tự do, bình đẳng, bác ái, thành phương tiện, thành khí giới để chinh phục. Quái hóa đã xui khoa học chế ra đại bác, chiến xa, tàu chiến, phi cơ, hơi ngạt, vi trùng, bom nguyên tử để giết người, để chinh phục kẻ yếu, để đè nén áp bức chúng ta…” Và ông kết luận: ”Văn hóa làm cho con người trở nên Người. Quái hóa biến văn chương, nghệ thuật, triết học, khoa học thành phương tiện. Bởi nó không theo con đường nhân bản. Còn mượn Đạo học của Đông phương ư? Nhưng ở Đông phương chỉ có thuật tu dưỡng, chớ đã có văn hóa bao giờ?”
Cái độc đáo và cũng là đầu đề tranh cãi khi ông cho rằng cả Đông lẫn Tây phương không có văn hóa. Ông tạo ra con người có khuynh hướng “mở” biết thay đổi để có một tiến trình nhân bản đến chân thiện mỹ. văn hóa luôn ở trong trạng thái động, là một thái độ, một phong cách luôn luôn suy tưởng kiếm tìm. Cuộc đời văn học của Hồ Hữu Tường có nhiều gia đoạn sáng tác khác nhau. Mới đầu, ông chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác Lênin theo khuynh hướng đệ tứ và thời gian này ông coi như là những năm tháng ô nhục của thời gian lầm đường lạc lối. Ông không để lại một chút gì dấu vết lưu lại bởi vì ông chối bỏ lối lập luận kiểu duy vật biện chứng. Sau khi từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản, ông bị Pháp bắt giam đầy đi Côn Đảo lần thứ nhất và ông suy nghĩ đến một hệ thống tư tưởng mới độc lập với các hệ tư tưởng ngoại lai như Pháp, Tàu, Nga, Mỹ… mà ông gọi là chủ nghĩa dân tộc. Rồi tiếp theo là thời kỳ ông nghiên cứu để viết lên những suy tư mới về xã hôi, kinh tế, chính trị, dân tộc. Thời kỳ này ông viết Tương Lai Văn Hóa Việt Nam. Ông có cách nghiên cứu tìm tòi của một học giả và sự luôn luôn khao khát với cái mới đã thúc đẩy ông trong biệc thiết lập một hệ tư tưởng riêng biệt của dân tộc.
Sau khi bị chế độ Ngô Đình Diệm kết án tử hình và đầy đi Côn Đảo lần thứ ba, ông viết rất nhiều và sau này in lại như Kế Thế, Hồn Bướm Mơ Hoa, Thuốc Trường Sanh, Trầm Tư của Một Tên Tội Tử Hình…Sau năm 1963, ông tiếp tục sáng tác với những tiểu thuyết như Chuyện con thằn lằn chọn nghiệp, Thằng Thuộc con nhà nông… và Hồi ký 41 năm làm báo. Có một tác phẩm khá đặc biệt là Người Mỹ Ưu Tư, một cuốn sách được in với ấn bản viết bằng tay của tác giả. Mới đầu được in hàng ngày trên nhật báo Sống và sau có một phong trào xin chữ ký giới thiệu để đề cử vào giải Nobel văn chương. Theo bác sĩ Trần Ngươn Phiêu là người khơiû xướng công việc này thì đã có tới hơn mười ngàn chữ ký để đề cử. Ông viết về một đề tài lúc đó tới giờ hơn bốn chục năm mà vẫn còn chất sống động của thời thế. Vấn đề con lai mà về sau này chính quyền Mỹ đã phải giải quyết để có hàng chục ngàn con lai được định cư ở Hoa Kỳ nơi quê nội của họ.
Trong 5 bức thư gửi cho John Steinbeck, giải Nobel văn chương, coi như lời nói đầu của bộ truyện, Hồ Hữu Tường đã viết:
“Ở xứ tôi những nhà văn không tên tuổi thường dùng một cái thuật để tiến thân như sau đây hễ thấy một áng văn chương được nhiều người hoan nghinh thì họ bèn viết nối theo áng văn chương nọ, với đầy đủ những nhân vật của áng nọ, và nếu cần thì có những con, những cháu thêm vào. Thuật ấy gọi là cái thuật viết “hậu”. Trên văn đàn quốc tế tôi không có tên tuổi. Tôi bèn dùng cái thuật viết “hậu” ấy mà tháp tác phẩm của tôi vào tiểu thuyết của Graham Greene, mà gá thân một chút xíu gì của những vấn đề của tôi, nhưng vẫn để cho độc giả nào đã đọc The Quiet American cũng bị cám dỗ bởi cái nhan đề “hậu” The Unquiet American.
Tuy nhiên nhân vật chánh của sáng tác của tôi phải là Pyle, phải là Phượng(hay phải là con của họ nếu cần), phải là tất cả những nhân vật đã sống trong tiểu thuyết của Graham Greene. Có gì hay bằng điển hình một nhân vật Amerasien bằng một đứa con chung của Pyle và Phượng? Đứa con ấy, tôi đặt tên cho là Loan, một đứa con gái năm ấy được mười lăm tuổi!”
Với cách nói và diễn tả của Hồ Hữu Tường, lòng vòng, thường xử dụng ngôn ngữ gián tiếp, những câu chuyện kể trở thành những chuyện ngụ ngôn nhiều ẩn ý. Ông mượn những chuyện đời xưa tới đời nay, từ chuyện dương gian đến chuyện âm phủ, để thành những nối tiếp của những suy tư nhiều khi không liên hệ với nhau nhưng lại là những gợi ý để khơi mở sang những ẩn dụ, những hình tượng khác..
Ông viết cho Steinbeck:
“Người phương Tây của ông ít khi bận rộn về những suy tư, tôi không dám nói là siêu hình mà tôi xin nói là “ngoiạ hình” như vậy. Người Việt chúng tôi, mấy nghìn năm trước ở vào vùng ảnh hưởng của Ấn Độ trước khi bị ảnh hưởng của Trung Hoa từ miền Bắc tràn xuống. Nên chi tâm tư của chúng tôi ngày nay không ít thì nhiều phảng phấtnhưng nét ngoại hình như vậy. Mà những nét ấy coi chẳng ra sao lại cứ ám ảnh chúng tôi mãi…
Pyle chỉ là một oan hồn phiêu bạt, làm sao mà sống được một đoạn lịch sử vô cùng sôi động của đất nước chúng tôi. Để rồi chứng kiến sự nổi loạn của Phượng và Loan và để bưng chén mật tương thân mà uống khi chứng kiến Loan xuống tóc mà làm một ni cô, một ni cô mang một bào thai Amerasian mà chính nàng cũng là một Ameriasian nữa. Thế giới ngày nay là một thế giới “bốn biển một nhà, năm châu một chợ”. Sự lai chủng tộc là một sự hiển nhiên, không sao tránh được. Cũng như rất hiển nhiên là chúng ta đang sống trong thời nguyên tử.
Tinh lưc nguyên tử mà ta cho nổ thì nó tàn sát biết bao nhiêu người? Tinh lực nguyên tử mà ta áp dụng để phụng sự hòa bình thì kết quả tốt đẹp là bao? Sự lai chủng tộc mà ta cho nổ thì nó gây ra bao nhiêu rắc rối cho nhân loại? Sự lai chủng tộc đã cho nổ rồi mà ta lại thêm nuôi các đương sự bằng những “chùm nho uất hận” thì ta có thể đo lường nổi sự tai hại của nó chăng?..
Tôi nói rằng Pyle là người Hoa Kỳ ưu tư. Mà chính tôi cũng là người ư tư. Và tôi muốn rằng sự ưu tư của tôi được truyền nhiễm đến ông, đến tất cả những người Hoa Kỳ là “bên nội “của đám Amerisian này. Vấn đề Amerisain là một vấn đề quốc tế của thời ’bốn biển một nhà, năm châu một chợ” Tôi cảm thấy rằng đem những “chùm nho uất hận” mà giải quyết vấn đề này chỉ đem thêm hận thù mà chồng chất lên bất công. Vì lẽ đó mà tôi kính tặng loạt thơ thay lời tựa này cho tác giả của “Chùm Nho Uất Hận” “
Tiểu thuyết “Người Mỹ ưu tư” quả là “hậu” The Quiet American, tiểu thuyết của Graham Greene, Ccũng với những nhân vật ấy. Và, Fowler, nhân vật ký giả người Anh lại đóng vai người kể truyện. Thêm một nhân vật, là Loan, đứa con lai của Pyle (người Mỹ bị giết chết trong The Quiet American) và Phượng. Câu chuyện bắt đầu như một truyện ma quái. Fowler gặp hồn ma của Vigot, một viên chức mật thám Pháp lai để được dẫn đến một cái cốc hoang vắng gặp một hồn ma thông thái đã đậu bằng tiến sĩ văn chương ở Pháp với một luận án về Pascal. Và sau cuộc gặp gỡ này Fowler ngủ li bì một giấc đúng 15 ngày mới tỉnh dậy. Dù là cơn mê gặp gỡ những người âm nhưng anh vẫn còn giữ được hộp trà có bốn hình tiên nữ với 4 câu htơ chữ hán bắt đầu bằng bốn tiết: Thanh minh, Tiểu thử, Hàn lộ, Tiểu hàn. Sự việc quái dị ấy và những câu chuyện luận đàm thế sự, triết lý cuộc sống đã gieo vào đầu óc chai sạn của Fowler những ý nghĩ siêu hình của phương Đông. Còn Vigot, thì bị chết đuối ở Vũng Tàu, chỉ 5 phút sau khi từ trần đã dẫn Fowler đến cái cốc hoang vắng như đã kể ở trên. Một sự kiện quái dị khác là khi Vigot sống lại thì bị linh hồn Pyle nhập vào. Thành ra Pyle là Vigot và ngược lại Vigot là Pyle, một mà hai, hai mà một. Pyle và Loan, thành một cặp vợ chồng và sống ở Việt nam, trôi nổi theo thời sự thăng trầm đầy biến cố ở đây. Pyle thực ra là cha ruột của Loan, một mối tình loạn luân kỳ lạ vì Phượng dù nhận lời làm vợ Fowler nhưng lại có con với Pyle. Và, tác gỉa kết cuộc: Loan cắt tóc coi như đi tu nhưng trong bụng lại mang giọt máu của Pyle.
Tiểu thuyết của Hồ Hữu Tường rất đặc biệt kiểu.. Hồ Hữu Tường. Luôn luôn trong cốt truyện hoặc trong những câu đối thoại ông cố tình mang vào những kiến thức để tạo ra những gợi ý khác nhiều khi không ăn nhập gì đến diễn tiến câu chuyện. Nếu dùng luận lý thông thường thì tiểu thuyết của ông có nhiều điều vô lý không tưởng, nhưng, đi sâu hơn một chút, thấy được sự độc đáo và cái cảm giác khi đọc là sẽ nhiều bỡ ngỡ với lối kết cấu bừa bộn những suy tưởng và bị dẫn đi trên những con đường mà trong vô lý thấy sự hữu lý…
Tromh bài phỏmg vấn của Nguyễn Ngu Ý, Hồ Hữu Tường đã nhận xét về tác phẩm của mình như sau:
“ Tác phẩm mà tôi mong được dịch ra tiếng Pháp, tiếng Anh… và xuất bản ở Aâu Mỹ để làm bức thư cảm ơn chung cho nhửng ai ở ngoại quốc và ở trong nước đã ký tên để xin ân xá cho tôi. Là bộ “Thuốc Trường Sanh”. Tôi viết nó ở tù Côn Đảo, tháng tư và tháng năm nặm. Đó là một quyển khảo cứu về triết học trình bày dưới hình thức tiểu thuyết có tính thời đại. Nó khảo cứu về thuyết nhân quả, về hành động, về đức tin. Các nhà văn Âu Châu tả sự cô đơn của cá nhân, trong Thuốc Trường Sanh rôi tả sự cô đơn của tập thể, sự cô đơn của nhóm Tuyết Lê, trong thế giới hai phe đang chống đối nhau kịch liệt bằng máu lửa, mà không theo một bên nào được, nên đuổi theo mộng “lấp cái hố của đấu tranh, của hận thù”. Và nhân vật chánh xủa tiểu thuyết tượng trưng này, tôi dành cho loài cọp, mà tôi thấy hơn loài người, cọp giết người vì bản tính tự nhiên còn người giết người lắm khi vì một cớ không đâu…”
Hồ hữu Tường cũng tự nhận xét về tác phẩm “Thằng Thuộc con nhà nông”:
“Tôi viết tự truyện Thằng Thuộc con nhà nông” là để tôi tìm hiểu lại tôi, cái tôi thật ẩn náu tận đáy lòng, ở trong tiềm thưc 1sau này tô lên một lớp sơn dày. Mà ‘Thằng Thuộc con nhà nông” là quyển đấu của bộ “Một kinh Nghiệm Sống”. Quyển kế sẽ là “Căm hờn”, tả nỗi lòng của tôi rụ kỷ ý thức được thân phận của mình, thân phận của một con nhà nông nghèo bị đè đầu, bị hiếp đáp, bóc lột, phải phục thù, tôi chụp lấy cái khí giới Mác Lê. Quyển ba là “mê Ly Đồ” người tín đồ cuồng tín của chủ nghĩa Mác Lê là tôi đã hành động, rồi băn khoăn để tỉnh ngộ ra sao, đó là đại ý quyển này…”
Và, có khi như tự trách mình khi làm việc ôm đồm và thường xuyên bỏ dờ nhiều công việc:
‘Nhiều anh em – trong đó có anh- trách nhẹ tôi hay bỏ mứa trong công việc viết.. Bỏ dở dang những công trình đã khởi sự. Như dịch Tam Quốc Chí,, thì dịch có quyển đầu. Viết Lịch Sử Văn Chương Việt Nam thì chỉ cho ra quyển một. Có biết đâu, viết, viết văn cũng như viết báo, đối với tôi là việc nhỏ, việc phụ.
– Thế việc lớn, việc chánh của anh là…
– Là Sống. Khi mà cái tiểu tiết là viết, là gì gì khác mà không hợp với đại thể là tôi gạt qua bên…”
– Thực ra khó mà định hình được chân dung Hồ Hữu Tường. Ông là một chính trị gia thất bại, ở tù nhiều lần, và coi thời gian ở tù như thời gian để chiêm nghiệm để suy tư. Và cuối cùng ông chấm dứt cuộc sống ở tù ngục Cộng Sản. Đọc những trang sách của ông, cái phong cách độc đáo, không giống bất cứ một tác giả nào khác và đôi khi cũng khác với cả những điều ông viết từ trước. Tôi không được đọc hết các tác phẩm của ông, nhưng, tôi vẫn có cảm giác rằng ông là một người luôn đi kiếm tìm một con đường để thực sự Sống, không phải cho riêng ông mà cho cả dân tộc Việt Nam nữa.

Hồ Hữu Tường, Người chết u uẩn
Đỗ Thái Nhiên

Thời gian chẳng bao giờ chờ đợi bất kỳ người nào, thời gian chỉ biết miệt mài vun vút lao tới Thế nên, một trong những tình cảm căn bản của con người là lòng nuối tiếc thời gian đã qua đi. Lòng nuối tiếc này khi gặp các điểm mốc của thời gian đã biến thành nỗi xao xuyến, bồi hồi. Thực vậy, trong không khí giao tiếp giữa đêm đen của năm cũ và sáng hồng của năm mới, có lẽ không ai trong chúng ta không bùi ngùi nghĩ đến quá khứ và không băn khoăn nhìn về tương lai. Bằng tất cả bùi ngùi và băn khoăn vừa kể, bài viết này đã chọn cái chết của Hồ Hữu Tường như một mảng quá khứ và chọn những toan tính của đảng CSVN chung quanh cái chết này như những tia sáng chiếu rọi vào thực chất điều được gọi là “đổi mới” của CSVN trong hiện tại và tương lai.
Lúc bấy giờ là mùa thu năm 1978, tôi được di chuyển từ phòng biệt giam qua phòng giam tập thể thuộc trại giam số 4 Phan Đăng Lưu Trại giam này, công an Cộng sản dành riêng để giam tù chính trị trong thời kỳ thẩm vấn. Tù chính trị đối với Cộng sản bao gồm: những người có tư tưởng chống cộng trước hoặc sau năm 1975, những người trước kia đã làm công tác an ninh tình báo dưới các chế độ của VNCH, và những người tham dự vào các tổ chức chống cộng tại Việt Nam sau năm 1975.

Khoảng 4 giờ chiều ngày hôm ấy, sau nhiều tháng nằm xà lim, tôi bước vào phòng giam tập thể bằng cảm giác ấm áp của một người được trở về với xã hội loài người, dầu là xã hội tù. Tôi lại càng cảm thấy ấm áp hơn khi chợt nhận ra cùng phòng với tôi có Hồ Hữu Tường. Do cách biệt về tuổi tác và khác biệt về nghề nghiệp, tôi không có dịp quen biết với Hồ Hữu Tường trước khi vào tù. Tuy nhiên, nhà Hồ Hữu Tường và nhà tôi ở cùng xóm. Vì vậy hình ảnh của Hồ Hữu Tường lập tức gợi cho tôi nhớ khu xóm cũ cùng với những bà con láng giềng của tôi. Gợi nhớ này chính là nguồn gốc của cảm giác ấm áp. Có lẽ Hồ Hữu Tường cũng nhận ra tôi là hàng xóm láng giềng ngày trước nên ngay phút đầu gặp tôi, Hồ Hữu Tường vừa giữ thế kẻ cả, vừa tỏ ra thân mến. Tôi hoàn toàn không cảm thấy bị xúc phạm trước cung cách kẻ cả của Hồ Hữu Tường. Ngược lại, kiến thức của Hồ Hữu Tường cộng với tuổi đời 70 của ông ta lúc bấy giờ, cộng với “chất Việt Nam” mà Hồ Hữu Tường đã thể hiện trong mỗi suy tư và hành động đã dễ dàng chinh phục tôi đến độ tôi không còn nhận biết Hồ Hữu Tường đã trở thành người “bạn tù” khả kính và thân thiết của tôi tự lúc nào. Tôi gọi Hồ Hữu Tường là bạn bởi vì có lần, sau một lúc hàn huyên, Hồ Hữu Tường đã nói với tôi: “Tao cho phép mày xem tao như bạn, tình bạn giữa tao và mày là tình bạn vong niên, tình bạn không phân biệt tuổi tác: tuổi tao gấp đôi tuổi mày”. Vả lại, không riêng gì đối với cá nhân tôi, Hồ Hữu Tường bao giờ cũng giữ được mối liên hệ vui vẻ đối với mọi ngượi. Đặc biệt đối với những người tù trẻ tuổi, mỗi tối sau giờ cơm, Hồ Hữu Tường thường giúp họ giải khuây bằng cách kể cho họ nghe chuyện cổ tích, chuyện Tàu, chuyện ma Bình Thuận. Liên hệ giữa Hồ Hữu Tường và những người tù trẻ này thân mật và vui vẻ đến độ: Có một hôm, cả phòng tù đang nghỉ trưa, một anh tù người Việt gốc Hoa nằm ở đầu phòng bỗng ngồi nhỏm dậy nói lớn tiếng cho Hồ Hữu Tường nằm ở cuối phòng nghe được:
— Bác Tường ơi! Thời Tây, thời Ngô Đình Diệm và cả thời này nữa, thời nào Bác cũng ở tù Bác có hiểu tại sao Bác cứ ở tù hoài hoài vậy không?
Hồ Hữu Tường nhìn Lý Hùng (tên chú tù trẻ) vừa cười vừa hỏi dò chừng:
— Mày trả lời giùm tao đi, tại sao?
Lý Hùng nhanh nhẩu trả lời:
— Dễ quá mà! Tên Bác là “Hữu Tường” nên Bác phải “hưởng tù” dài dài thôi! Câu nói của Lý Hùng làm cả phòng cười rộ lên. Riêng Hồ Hữu Tường không cười, mắt nhìn xa xăm trông thật buồn, ông ta nói nhỏ giọng:
— Có thể thằng này nói đúng!
Sau một vài tiểu tiết để bạn đọc thấy rõ hơn hình ảnh của Hồ Hữu Tường trong tù, đến đây bài viết xin quay trở về câu chuyện chính: Cộng Sản vốn xem Duy Vật biện chứng như chiếc đũa vạn năng. Vận dụng chiếc đũa vạn năng này vào khung cảnh nhà tù, Cộng sản chỉ cho tù ăn vừa đủ để không bị chết vì đói. Do đó bất kỳ người nào bước vào nhà tù Cộng sản đều thấy về mặt bao tử, tù được phân làm hai loại :
– Tù được thăm nuôi là loại tù đã chấm dứt giai đoạn thẩm vấn, có thân nhân và được công an cho phép gia đình tiếp tế lương thực hàng tháng
– Tù không được thăm nuôi là loại tù chưa kết thúc thủ tục thẩm vấn. Thủ tục này có thể kéo dài từ 3 tháng đến 3 năm hay hơn thế nữa. Có nhiều trường hợp một người tù đang được thăm nuôi lại có lệnh cấm thăm nuôi. Điều này có nghĩa là đương sự đã vi phạm kỷ luật nhà tù, hoặc đã bị nghi ngờ khai sai sự thật trong giai đoạn thẩm vấn.
Thông thường nếu không là bạn thân, tù nhân thường ăn cơm chung nhóm với nhau theo sự phân biệt có hay không có thăm nuôi. Tù không được thăm nuôi phải ăn cơm một mình, hoặc chỉ ăn cơm chung với những người cùng không được thăm nuôi. Mặt khác tù không thăm nuôi phải không hề nói hoặc làm bất kỳ điều gì nhằm xin hưởng lương thực của người khác. Đó là “luật tự trọng” trong những phòng giam tập thể. Vào lúc chuyển từ xà lim qua nhà giam tập thể, tôi là tù không được thăm nuôi. Vừa muốn giữ lòng tự trọng, vừa muốn làm cho những lần ăn cơm gạo mốc với nước muối bớt phần cô quạnh, tôi tìm cách làm quen và ăn cơm chung với hai người thuộc loại “con bà phước” (không được thăm nuôi): một người tên Phạm Văn Luyện, người kia tên Phạm Anh Phong là một cựu binh nhì nhảy dù, can tội rải >truyền đơn chống cộng, tuổi dưới 25, điệu bộ ngổ ngáo. Tôi tiến đến chiếu nằm của Phong, ngồi xuống, nheo mắt nhìn Phong cười, vào đề rất tự nhiên:
— Ê bồ! Tôi vừa mới ở xà lim qua, đang rất mệt mõi, bồ cho tôi được ăn cơm chung với bồ được không?
Phong đưa hai tay nắm lấy vai tôi, nghiêng đầu, nhìn thẳng vào mặt tôi cười thành tiếng:
— Ông thầy này ngộ ghê! Thầy ăn cơm chung với tôi hay ăn một mình thì thầy và tôi đều ăn cơm với nước muối, cần gì phải xin phép! Mà này, tôi đang ăn chung với một thằng Việt cộng, thầy có chịu ăn chung với nó không ?
— Thằng Việt cộng đó tên gì? Phạm tội gì? Nó đã ở tù bao lâu rồi?
Phong trả lời thật rõ ràng:
— Tên anh ta là Phạm Văn Luyện, phạm tội tổ chức đưa người vượt biên để kiếm tiền Luyện mới vào phòng này khoảng hai tuần, anh ta tự nhận là cán bộ tình báo của Hà Nội, kể chuyện tình báo rất hấp dẫn, tôi khoái nghe chuyện nên tôi ăn cơm chung với anh.
Từ đó Luyện, Phong và tôi ăn cơm chụng. Luyện khoảng 42 tuổi, người ốm, dong dỏng cao, da đen sạm, tóc quăn. Nghe Luyện nói chuyện, từ giọng nói đến cách dùng chữ, người ta nhận ra ngay là Luyện đã hấp thụ trọn vẹn chế độ giáo dục của Cộng sản Miền Bắc. Phòng giam của tôi gồm toàn những người chống cộng gay gắt, thế nhưng tôi không hề nhận ra bất kỳ người nào có vẻ có ác cảm với Luyện. Phải chăng vì Luyện có dáng dấp phong trần, có lối nói dễ hiểu, có nhiều chuyện hấp dẫn?
Phải chăng vì Luyện không giống những tên Việt cộng mà người ta thường gặp: Luyện không hề có vẻ thủ thế mỗi khi nói chuyện với người khác, nhất là nói về những nhân vật cao cấp của Cộng sản Hà Nội? Phải chăng vì Luyện không bao giờ có ý dòm ngó, không làm điềm chỉ viên, và nhất là vì Luyện không bao giờ bỏ qua cơ hội có thể giúp đỡ người khác, dĩ nhiên toàn là những người chống cộng? Thiện cảm mà phòng tù của tôi dành cho Luyện có nguyên nhân là tổng số của những cái “phải chăng” kể trên.
Đối diện và cách nhà giam của tôi khoảng ba thước là một dãy xà lịm. Mọi liên lạc (nói chuyện hoặc tiếp tế thức ăn) giữa xà lim và nhà giam tập thể đều bị nghiêm nhặt cấm chỉ. Người tù nào vi phạm luật cấm này sẽ bị lính canh hoặc còng tay vào song cửa của phòng giam (trong trường hợp này, người tù đương sự bị buộc phải đứng chứ không thể ngồi, kể cả giờ ngủ ban đêm), hoặc bị đánh đòn ngay trước cửa phòng giam. Chiều hôm ấy, khoảng 6 giờ, thủ tục điểm danh đã xong và cơm chiều đã qua, đang khi mọi người chuyện trò to nhỏ với nhau, Luyện lén ném vào cửa gió (bằng hai bàn tay) của xà lim đối diện một ít thuốc lá và diêm quẹt. Ngay lúc đó, Luyện bị lính canh bắt gặp quả tạng. Tên lính canh quát tháo ầm ĩ:
— Mày mới ném thuốc lá vào xà lim, tao bắt gặp, tao sẽ cho mày chết! Mày tên g ?
Luyện bình thản trả lời:
— Tôi tên là Phạm Văn Luyện
Người lính canh chạy lên phòng giám thị một lúc rồi quay trở lại. Tôi không thấy người lính canh cầm theo chìa khoá hay còng tay. Nét mặt của người lính canh cũng không còn hung hăng như cách đó vài phút. Anh ta gọi Luyện đến gần cửa song sắt, nói giọng ôn tồn:
— Đây là lần thứ nhất anh vi phạm kỷ luật Vì vậy phòng quản giáo tha cho anh. Nếu tái phạm anh sẽ bị nghiêm trị.
Nói xong, người lính canh bỏ đị. Cả phòng nhìn Luyện kinh ngạc. Theo tập quán trong tù: mỗi lần phạm kỷ luật (nhất là liên lạc với tù bị giam trong xà lim) là mỗi lần bị phạt, công an không cần biết lần đầu hay lần cuối.
Trước đó nhiều ngày, Luyện thường nói cho Phong biết trước ngày giờ mà Luyện sẽ được công an gọi đi thẩm vấn. Sự thể này là điều rất khác lạ, bởi vì, công an Cộng sản không bao giờ báo cho tù nhân biết trước ngày giờ của các cuộc thẩm vấn.
Bài viết ghi lại hai chi tiết nhỏ kể trên với chủ ý ghi nhận Luyện như một “người tù đặc biệt”. “Người tù đặc biệt” này nói chuyện dễ dàng với tất cả các bạn tù, nhưng nhất thiết không nhờ vả bạn tù nào, đặc biệt là về mặt lương thực. Điều đáng chú ý là Luyện giao thiệp với mọi người trong phòng giam, ngoại trừ Hồ Hữu Tường.
Mãi sau hai tháng có mặt bên cạnh Hồ Hữu Tường, một tối cơm nước xong, lần đầu tiên tôi thấy Luyện bước đến chiếu nằm của Hồ Hữu Tường. Hai người to nhỏ với nhau khoảng hơn một tiếng đồng hồ. Ngồi ở một góc phòng, quan sát đôi mắt, hoặc chú ý, hoặc trầm tư của Hồ Hữu Tường, tôi biết Hồ Hữu Tường rất quan tâm đến những điều Luyện nói. Câu chuyện giữa hai người chỉ chấm dứt sau tiếng kẽng báo ngủ của trại tù. Câu chuyện giữa Phạm Văn Luyện và Hồ Hữu Tường có lẽ đã làm cho vị học giả này suy nghĩ lung lắm. Thế nên sáng hôm sau, Hồ Hữu Tường nói chuyện với tôi ngay:
— Mày có biết tối qua thằng Luyện nói chuyện gì với tao không?
— Chuyện gì vậy Bác? Tôi làm sao đoán được!
— Câu chuyện ngộ lắm! Thằng Luyện cho tao biết nó là tù giả. Hồ sơ phạm tội tổ chức vượt biên của nó chỉ là hồ sơ giả. Nó bảo nó là người của Lê Đức Thọ Nó được gài vào nằm chung phòng giam với tao trong hai tháng qua chỉ để quan sát xem “Bác Tường ngày nay có còn là Bác Tường của các năm 1945 nữa hay không”? Ngay các lời nói đầu của nó, tao đã cảm thấy sự việc sẽ không đơn giản. Do đó, thay vì đi thẳng vào câu chuyện do Luyện mở đề, tao đã lái câu chuyện đi hướng khác để thăm dò về cá nhân nó. Nó bảo với tao : “Đầu thập niên 1960, Võ Nguyên Giáp hợp tác với Ung Văn Khiêm âm mưu lật đổ Hồ Chí Minh, công việc bại lộ, Võ Nguyên Giáp bị thất sũng. Buồn vì “tình đời đen bạc”, hằng ngày Võ Nguyên Giáp đi học nhạc cổ điển Tây Phương “để giải sầu”. Thằng Luyện lúc bấy giờ được tình báo Hà Nội bố trí làm người hầu cận cho Giáp, nên hằng ngày phải ôm nhạc cụ đi theo Giáp. Nghe Luyện nói tới đây, tao làm bộ hỏi nó vài vấn đề căn bản về nhạc cổ điển Tây Phương. Những câu trả lời của thằng Luyện quả tình làm tao vô cùng kinh ngạc: nó thực sự có những hiểu biết căn bản về nhạc cổ điển. Sau câu chuyện nhạc cổ điển, thằng Luyện còn cho tao biết: do công vụ, nó đã rất nhiều lần đóng vai hầu cận Tôn Đức Thắng và Lê Duẫn. Tao vội vồ lấy cơ hội này để hỏi dò Luyện vài câu về cá tính và về sức khoẻ của Thắng và Duẫn. Lần thứ hai Luyện làm tao ngạc nhiên: Luyện nói về cá tính và bệnh tật riêng của hai người này đúng như tao đã biết. Thời Pháp, tao ở tù chung nhiều năm với Lê Duẫn Đối với Tôn Đức Thắng, gia đình vợ tao rất thân thiết với gia đình vợ Thắng. Tối hôm qua, thằng Luyện nói chuyện với tao rất nhiều, nhưng nội dung chủ yếu là bấy nhiêu. Mày có ý kiến gì không?
Tôi nhìn thẳng vào mắt của Hồ Hữu Tường, đôi mắt còn giữ nguyên vẻ mệt mỏi của một đêm thao thức. Tôi trả lời Hồ Hữu Tường, giọng cố làm ra vui vẻ để khoả lấp những ưu tư trên trán của Hồ Hữu Tường:
— Câu chuyện có vẻ ly kỳ và hấp dẫn, phải không Bác? Tôi tin là Bác đã ghi nhận những điểm cần ghi nhận. Tuy nhiên xin nói thêm các chú ý của tôi về Luyện. Thứ nhất: Luyện liên lạc với xà lim nhưng không bị phạt. Thứ hai: Luyện biết trước ngày giờ công an thẩm vấn nó. Thứ ba: Luyện sống trong tù rất bình thản, không giống bất kỳ tên Việt cộng tham ô nào. Thứ tư: trắc nghiệm bất ngờ của Bác đối với Luyện về nhạc cổ điển Tây Phương, về Duẩn và về Thắng. Thứ năm: những lúc nói chuyện với tôi, Luyện thường nhắc tới các sinh viên Saigon theo cộng sản thời Mậu Thân: Nguyễn Hữu Thái, Trần Triệu Luật, Huỳnh Tấn Mẫm, Đỗ Hữu Cảnh, Trịnh Đình Ban, v.v… Luyện cho rằng những người này hoặc làm việc trung thành với Mỹ, hoặc đi hàng hai. Luyện nói chính xác về tính tình của mỗi người trong nhóm sinh viên vừa kể.Tôi bảo là “chính xác” bởi lẽ tôi cũng đã hiểu biết rành rẽ về nhóm sinh viên này vào thời kỳ tôi sinh hoạt với Tổng Hội Sinh Viên Saigòn từ 1963 đến 1970. Điều đáng chú ý là Luyện đã được đào tạo tại Miền Bắc, nhưng lại có tin tức chi tiết về sinh viên Saigon trước năm 1975. Dĩ nhiên Phạm Văn Luyện sẽ còn tìm tới nói chuyện với Bác nhiều lần nữa, và câu chuyện sẽ phải có kết luận. Tôi nói với Bác các chú ý của tôi về Luyện để đề nghị Bác không nên xem Luyện như một thằng tù bất bình thường, bịa chuyện ra để giải trí.
Hồ Hữu Tường vỗ vai tôi, trở về với điệu bộ xuề xoà của các bậc lão niên Miền Nam :
— Mày nói tao đồng ý. Tao phải thận trọng trong giao dịch với thằng Luyện Giao dịch này sẽ rất phức tạp. Nếu quả thật Luyện là người của Lê Đức Thọ, thì Thọ muốn gì?
Ba ngày liên tiếp sau đó, mỗi ngày từ 6 giờ chiều (sau giờ cơm) đến 9 giờ tối, Luyện đều tìm đến nói chuyện với Hồ Hữu Tường. Câu chuyện được trần thuật tổng hợp như sau:
Tôi hỏi Hồ Hữu Tường:
— Bác nghĩ gì về chương trình này?
Hồ Hữu Tường vừa nhâm nhi miếng gừng tươi trong miệng, vừa trả lời tôi:
— Ngày nay, sau 52 năm lăn lộn trên chính trường, Cộng Sản đối với tao chỉ là sự ngu dốt cộng với tính xảo trá bất tận. Lịch sử phát triển của đảng CSVN chính là lịch sử của những cuộc “thay đào đổi kép” nhưng không đổi tuồng. Thay đổi đào kép chỉ nhằm mục đích dối gạt dư luận, là tuồng đã đội Chính phủ Liên Hiệp do thằng Luyện trình bày là thí dụ điển hình của kỹ thuật dối gạt theo kiểu “tuồng cũ, đào kép mới”. Tuồng cũ là tuồng chuyên chính vô sản. Vở tuồng này ngay từ đầu đã đi ngược lòng dân, đã xa rời thực tại. Tao không chấp nhận tuồng cũ thì làm sao tao có thể chấp nhận đóng vai đào kép mới?
Hồ Hữu Tường nói tới đây, tôi nóng nảy đặt câu hỏi:
— Như vậy Bác đã dứt khoát từ chối mọi đề nghị của thằng Luyện chưa ?
— Chưa, tao bảo với nó : “Hãy để tao suy nghĩ vài ngày”.
Vài ngày sau đó, liên hệ giữa Hồ Hữu Tường và Luyện vẫn bình thường, vẫn Bác Bác Cháu Cháu. Thế rồi một buổi sáng đầu tuần, nhân viên công an thuộc Sở Công an Thành phố gọi Hồ Hữu Tường lên phòng thẩm vấn. Khoảng hai tiếng đồng hồ sau, Hồ Hữu Tường trở lại phòng giạm. Chờ cho nhân viên giám thị khoá cửa phòng và đi khuất mắt, Hồ Hữu Tường tiến đến cạnh tôi, nói vừa đủ cho tôi nghe:
— Sáng nay thằng công an chấp pháp yêu cầu tao trả lời bằng viết mươi câu hỏi ghi sẵn của Sở Công an Thành phố về hồ sơ cá nhân của tạo. Trước khi trả lời mười câu hỏi vừa kể, tao yêu cầu thằng chấp pháp cho tao được nói chuyện riêng của tao. Nó đồng ý. Tao liền kể cho thằng công an này nghe toàn bộ chi tiết câu chuyện giữa thằng Luyện và tao. Tao càng nói, nét mặt của thằng công an chấp pháp càng lộ vẻ kinh ngạc và bối rối. Nói xong, tao hỏi nó nên đối xử như thế nào đối với thằng Luyện. Nó chỉ hỏi tao thêm một số chi tiết về Luyện và tuyệt nhiên không đưa ra bất kỳ đề nghị nào. Sau đó tên công an thẩm vấn bảo tao trả lại nó giấy bút và mười câu hỏi. Nó không còn quan tâm đến mười câu hỏi nữa. Nó ra về.
Quả thực câu chuyện vừa kể đã làm tôi bàng hoàng Tôi nói cho Hồ Hữu Tường nghe về những lo lắng của tôi:
— Thằng Luyện đã rất nhiều lần dặn Bác tuyệt đối giữ kín những gì nó nói với Bác Nếu bất kỳ tên công an cộng sản nào, không thuộc nhóm Lê Đức Thọ, biết được công tác của Luyện thì tức thời nhóm Thọ sẽ một mặt phủ nhận Luyện, lúc đó Luyện từ tù giả thành tù thật, mặt khác thủ tiêu Hồ Hữu Tường để trả đũa và để nhận chìm câu chuyện. Sáng nay, Bác phản ứng như vậy nhằm mục đích gì?
Hồ Hữu Tường thản nhiên trả lời:
— Dĩ nhiên là tao nhằm mục đích phá vỡ kế hoạch của Lê Đức Thọ, nếu quả thật thằng Luyện là nguòi của Thọ Phe Thọ trách cứ tao ư? Tao sẽ trả lời rằng, tao là tù, tao phải tôn trọng nội qui phòng tù. Im lặng về vụ Luyện tức là tao vi phạm kỷ luật trại giam. Lê Đức Thọ có tin tao thực tâm tôn trọng kỷ luật hay không, tao chẳng cần biết. Còn tánh mạng của tao ư? Bọn Hà Nội chắc hẳn không ưa gì tao, nhưng đối với chúng nó thì tao là “con gà đẻ trứng vàng”. Bộ óc của tao sản sinh ra trứng vàng. Hà Nội đang vô cùng bối rối trước hiện tình quốc nội và quốc tế, ngày nào đó Hà Nội sẽ cần đến ý kiến của tao, giết con gà, Hà Nội sẽ mất trứng vàng Tao chưa thể chết đâu, mày đừng lo!
— Tại sao Bác lại tin rằng Hà Nội xem ý kiến của Bác là ý kiến vàng?
— Câu hỏi của mày phải được trả lời rất dài dòng. Tao chỉ nói với mày một cách khái quát rằng: Hiện nay Hà Nội xem tao là một trong vài người hữu hiệu nhất trong vai trò làm gạch nối giữa đám Hà Nội ngu dốt và Thế Giới Tự Dọ Tao còn nhớ, những ngày còn ở tù chung với Lê Duẩn thời Pháp thuộc, có lần tao đã nói với Lê Duẩn rằng: “Trên địa bàn sinh hoạt chính trị của thế giới, anh đừng bao giờ quên rằng mình là người da vàng, và cũng đừng bao giờ quên rằng người da trắng lúc nào cũng canh cánh bên lòng mối ưu tư mà họ gọi là “hoạ da vàng”. Á Châu ổn định là một trong các yếu tố trội yếu của thế giới ổn định Á Châu chỉ ổn định chừng nào Á Châu có được thế chân vạc tạo bởi ba khối: Khối Trung Hoa, Khối Ấn Độ và Khối Đông Nam Á. Tôi tin là một lúc nào đó, bằng cách nào đó, Trung Hoa chỉ còn là Hoa Bắc Cộng với Hoa Trụng Hoa Nam sẽ kết hợp với các nước Đông Nam Á tạo thành Liên Bang Đông Nam Á. Trong trường hợp này, Trung Hoa (hiểu theo nghĩa Hoa Bắc + Hoa Trung), Liên Bang Đông Nam Á và Ấn Độ, mỗi khối sẽ có dân số trung bình khoảng 500 triệu, thế chân vạc sẽ ổn cố về kinh tế cũng như về chính trị, quân sự”. Lê Duẩn rất chú ý tới ý kiến vừa kể. Hẳn nhiên Lê Duẩn sẽ tìm cách khai thác ý kiến này theo tính toán của người Cộng sạn Phần tao, tao vẫn đi con đường trung lập chế. Nghệ thuật và kỹ thuật cao cấp của chính trị chính là khả năng biến ý đồ của địch thành kế hoạch của ta. Trong tình huống căng thẳng ngoại giao giữa Hoa và iệt như hiện nay, chắc hẳn Lê Duẩn sẽ phải suy nghĩ nhiều hơn về Hoa Bắc, Hoa Trung, Hoa Nạm Cuối con đường suy nghĩ này, Lê Duẩn sẽ gặp tao
— Tôi đồng ý với Bác là có thể Lê Duẩn rất quan tâm đến thế chân vạc của Á Chậu. Tuy nhiên như Bác đã biết, đảng CSVN hiện nay rất phân hoá Lê Duẩn cũng chỉ là một phe bên cạnh nhiều phe khác. Thế nên khi phá vỡ tính chất bí mật của kế hoạch khai sanh ra chính phủ Liên Hiệp, Bác có thể gặp một trong hai trường hợp kể sau:
a/ Phe Lê Đức Thọ sẽ thủ tiêu bác để bít đầu mối, để trả đũa Bác đã làm vỡ kế hoạch của họ
b/ Phe chống Lê Đức Thọ sẽ thủ tiêu Bác để phá Lê Đức Thọ. Bác nghĩ như thế nào về sự lo ngại của tôi?
Hồ Hữu Tường im lặng một lúc rồi chậm rãi trả lời:
— Ý kiến của mày không phải không có căn cứ.Tuy nhiên, ở vào hoàn cảnh của tao, tao không còn cách chọn lựa nào khác hơn là phá vỡ kế hoạch của Thọ, phá vỡ âm mưu “tuồng cũ, đào kép mới”.
Nói chuyện với tôi xong, Hồ Hữu Tường trở về chiếu nằm của ông ta. Tôi thấy Hồ Hữu Tường và Phạm Văn Luyện nhỏ to với nhau trong chốc lát. Luyện vốn là người rất thâm trầm, khó mà nhìn thấy cảm nghĩ của Luyện xuất hiện trên nét mặt. Thế nhưng hôm ấy, lần đầu tiên tôi thấy Luyện biến sắc mặt. Những ngày sau đó, Luyện không còn nói chuyện với Hồ Hữu Tường nữa. Luyện mất hẳn vẻ hoạt bát thường lệ. Luyện chỉ nói cho Phong (anh binh nhì nhảy dù) biết là 7 ngày sau anh ta sẽ rời phòng. Cuối cùng Luyện từ giã chúng tôi đúng như lời anh ta đã báo trước. Lúc bấy giờ là trung tuần tháng 12 năm 1978. Cuối tháng 6 năm 1979, công an ra lệnh cho Hồ Hữu Tường ôm vật dụng cá nhân rời khỏi trại Phan Đăng Lưu.
Tháng 8 năm 1979, tại khám Chí Hoà, tôi nghe tù nhân bàn tán với nhau về chuyến xe chở Hồ Hữu Tường từ khám Chí Hoà đi trại lao động đã bị phục kích, một số tù chết, số khác bị thuơng Hồ Hữu Tường bị thương và được mang trở lại bệnh xá của khám Chí Hoà. Những tháng đầu tiên tại khám Chí Hoà, tôi ở cùng phòng với Cao Dao Nguyễn Trần Huyên, người tự nhận là một trong các sáng lập viên của báo Nhân Dân Hà Nội.
Vào dịp Giáng Sinh năm 1979, ông Cao Dao đã được phép gặp Uỷ Ban Ân Xá Quốc Tế cùng với người
con trai của ông ta có mặt trong Uỷ Ban nạy Nhân lần gặp gỡ này, ông Cao Dao có nói lại với bạn tù cùng phòng rằng: Uỷ Ban Ân Xá Quốc Tế đã nhiều lần yêu cầu được gặp Hồ Hữu Tường nhưng công an cứ từ chối, viện cớ Hồ Hữu Tường đang bị bệnh. Đó là tin tức cuối cùng tại khám Chí Hoà về Hồ Hữu Tường.
Đầu năm 1981, vài nguòi tù trong khám Chí Hoà nhận được tin từ những người đi thăm nuôi: Hồ Hữu Tường hấp hối tại trại tù Hàm Tân, đuọc công an cho phép mang về nhà và từ trần tại tư gia.

***
Tin Hồ Hữu Tường qua đời làm cho tôi vô cùng thắc mắc. Nếu cần chọn một ông già thất tuần khoẻ mạnh nhất, tôi không ngần ngại chọn Hồ Hữu Tường. Hồ Hữu Tường là người có thừa hiểu biết và kinh nghiệm về các phương cách giúp cho người tù bảo vệ sức khoẻ trong điều kiện của lao tù. Vì vậy hơn một năm ở chung phòng với Hồ Hữu Tường, tôi không hề một lần thấy Hồ Hữu Tường bị bệnh, dầu chỉ là hắt hơi hay sổ mũi. Gần như trọn ngày, Hồ Hữu Tường bao giờ cũng ở trần, cũng ngậm gừng tươi trong miệng Trong khoảng từ 1 đến 4 giờ sáng, nếu người nào thức giấc nửa đêm đều thấy Hồ Hữu Tường đầu đội mũ ni che tai, mình mặc bà ba nâu, ngồi đánh cờ tướng một mình: tay phải đánh với tay trái, đêm nào cũng như đêm nào. Mặc dầu ngủ ít theo tuổi già, ban ngày kể cả giờ ngủ trưa rất ít khi người ta thấy Hồ Hữu Tường nằm nghĩ. Người đàn ông có sức khoẻ bền bĩ đó chỉ hai năm sau đã phải từ trần vì lý do “suy nhược toàn diện”. Hẳn nhiên, chẳng còn cái chết nào đáng hoài nghi hơn.

Hồ Hữu Tường (1910 – 1980)

Thụy Khuê

clip_image003

 

Hồ Hữu Tường, chính trị gia, nhà văn, nhà báo và là một nhân vật kỳ lạ, sống 70 năm trong thế kỷ XX, trả nhiều vòng tù tội dưới tất cả các chính quyền: thực dân, quốc gia và cộng sản. Tác phẩm của ông phản ảnh tính chất nổi loạn trong con người, một con người vừa trào lộng vừa bị đát suốt đời đi tìm phương cách giải phóng dân tộc ra khỏi mọi hình thức quản tri giáo điều: từ bị trị đến hủ tục, từ độc tôn đến độc tài, nhưng cũng suốt đời “thất bại” trong việc “chống lại định mệnh,” cho đến phút chót vẫn muốn “cưỡng lại số trời” mà không được. Có lẽ ở bên kia thế giới, Hồ vẫn tiếp tục con đường thiên lý của một Phi Lạc đã đại náo trần gian: Tây, Tàu, Nga, Mỹ và giờ đây, xưống âm ty đại náo địa ngục.

Cuộc đời tranh đấu trên hai mặt trận chính tri và văn hóa của Hồ Hữu Tường đầy tính cách tiểu thuyết chiêu hồi như một truyện Tàu, nhưng cũng lại gắn bó sâu xa với định mệnh bát nháo của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ vừa qua. Hồ Hữu Tường luôn luôn giữ hai vai: một Tôn Ngộ Không nổi loạn trong Tây Du Ký và một quân sư du thuyết trong Tam Quốc Chí, khi Khổng Minh, Lỗ Túc, lúc là thằng mõ Cổ Nhuế, thằng mõ Phù Ninh….

Hành động của nhà chính trị Hồ Hữu Tường và những người cùng thời biến thành những thế võ tiếu lâm, hài hước trong tiểu thuyết, hồi ký của nhà văn. Hồ Hữu Tường là tác giả hiếm hoi, trong một xã hội đầy nghi thức, đã hóa giải những trịnh trọng của chính trị thành chuyện giễu để hóm hỉnh chọc cười và đó là một trong những lý do khiến không chế độ nào “dung” Hồ Hữu Tường. Nhưng có lẽ lý do sâu xa nhất vẫn là những gì Hồ Hữu Tường thuyết minh trong tác phẩm toát ra một chủ nghĩa dân tộc độc đáo, lấy văn hóa dân tộc làm phương châm và mục đích cấu thành. Hồ Hữu Tường suốt đời biện hộ cho một Việt Nam trung lập chế, chống chiến tranh. Hồ dùng văn hóa thay súng ống để giải phóng dân tộc ra khỏi cảnh tối tăm nô lệ. Tranh đấu chống thực dân bắng ngòi bút của nhà báo, bằng tổ chức thợ thuyền tổng đình công, muốn đánh đuổi hai chữ “căm hờn” mà ông gọi là ác quỷ ra khỏi tâm hồn người Việt.

Con đường ông đi không có nhiều đồng hành, bởi tiếng kêu gọi của ông chỉ là những tiếng kêu trong sa mạc, không ai nghe và cũng ít người hiểu. Một con người như thế, từ đâu đến và những lý do nào đã thúc đẩy ông có một nghị lực khác thường triền miên trong hành động đấu tranh cũng như trong ngòi bút?

Hồ Hữu Tường xuất thân trong một gia đình nghèo, cha mẹ phải làm tá điền cho người cậu là điền chủ, hội đồng. Tại nhà cậu, sáu tuổi đã đọc Nam Phong. Đọc đâu nhớ đấy. Cha đặt cho cái tên là thằng Thuộc vì đọc gì cũng thuộc. Bị Nam Phong “đầu độc,” gieo và đầu chất “tân hủ nho” từ nhỏ, sau phải nhờ Phan văn Hùm “gột rửa.” Lớn hơn chút nữa, đọc và chịu ảnh hưởng tinh thần yêu nước của Đông Pháp Thời Báo. Tại trung học Cần Thơ, Hồ Hữu Tường và các bạn tổ chức tờ báo “trường” đầu tiên. Báo tiếng Việt, nhưng Hồ viết bài tham luận bằng tiếng Pháp để “cho Tây nó đọc,” ký tên Pierre Vutren, Vutren là chữ nói lái của Ventru, dịch từ biệt hiệu Tường Bụng (Tương bụng to). Ký tên như thế là “lậy ông tôi ở bụi này,” thêm việc tổ chức bãi khóa nhân vụ xử Nguyễn An Ninh, cả nhóm bị đuổi.

Lúc ấy mới 16 tuổi, gia đình cho Hồ Hữu Tưởng sang Pháp du học, năm 1926. Tại Pháp, kết bạn với Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, vào đảng Đệ Tứ Quốc Tè. Bốn năm sau, 1930, Hồ Hữu Tường ở Lyon đang chuẩn bị thi thạc sĩ toán học thì được tin cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Nguyễn Thái Học và các đồng chí bị xử tử; Hồ bỏ học, lên Paris, liên lạc với Phan Văm Hùm. Ta Thu Thâu, làm báo bí mật lấy tên là Tiền Quân. Báo chưa ra thì ban biên tập bi bắt vì tổ chức những cuộc biểu tình, đặc biệt là biểu tình trước điện Elysée, cả bọn bị trục xuất về Việt Nam, trừ Phan Văn Hùm và Hồ Hữu Tường trốn thoát, chạy sang Bỉ, liên lạc với nhóm cách mạng cộng sản ở Bỉ, rồi trở lại Paris tiếp tục làm tờ Tiền Quân trong năm tháng trước khi về nước hoạt động chính trị.

Từ 1931 đến 1939, Hồ Hữu Tường làm lý thuyết gia cho nhóm Đệ Tứ ở Việt Nam, đồng thời dạy học để sinh sống và điều khiển các tờ báo bí mật như tờ Tháng Mười, từ 1931 đến 1932, tờ Thường Trực Cách Mạng từ 1934 đến 1937, tờ Quần Chúng từ 1937 đến 1938. Hoặc các tờ báo công khai như Le militant năm 1936, tờ Tháng Mười năm 1938, tờ Tia Sáng năm 1939 và tham gia tờ La lutte của Nguyễn An Ninh và Tạ Thu Thâu.

Tháng 11 năm 1932, Hồ Hữu Tường bi Pháp bắt lần đầu, giam sáu tháng. Ngày 1/5/1933 ra tòa bị xừ án treo ba năm. Trong thời gian bị giam giữ, ông xuất bản nhật báo “nhẩm” Thiên Thu. Thiên Thu là “cứu cánh” của tạp chí Tháng Mười sau này. Trong suốt mười năm làm báo (1930- 1939), ông đã viết rất nhiều nhưng nay không còn lưu lại được gì.

Đầu tháng 6 năm 1939, Hồ Hữu Tường bỏ Đệ Tứ và chủ nghĩa Mác; ngày 29 tháng 9 năm 1939, bị nhà cầm quyền Pháp bắt, cuối năm 40 bị đầy đi Côn Đảo cùng với Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hốm, Tạ Thu Thâu… và những người chống Pháp khác. Đến cuối năm 1944 mới được trả tự do (Phan Văn Hùm bị phù thũng, Nguyễn An Ninh mất trong tù ngày 14/8/1943).

***

1945 Nhật đảo chính Pháp. Hồ Hữu Tường ra Hà Nội để sang Tầu nhưng bị kẹt tại Hà Nội cùng với Tạ Thu Thâu; có đề nghị với Hồ Chí Minh nên để Việt Nam trung lập nhưng không được chấp nhận. Thời gian này bắt đầu viết Xã hột học nhập môn, chống lại biện chứng pháp, và một loạt sách chính trị, kinh tế khác.

1946 Hồ Hưu Tường được mời tham dự hội nghị Đà Lạt với tư cách cố vấn trong phái đoàn Việt Nam nhưng cũng không phát biểu gì. Kế đó, ông giúp bộ Giáo Dục Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, thiết lập chương trình soạn và in sách giáo khoa bằng tiếng Việt cho bậc trung học. Năm 1947 bị Pháp bắt trong lúc tản cư về Kẻ Sặt (Hải Dương). Rồi ông lại trở về Sài Gòn viết văn, làm báo.

Từ 1948 đến 1949, hợp tác với báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà. Viết tiểu thuyết Phi Lạc sang Tầu, in dần trên Sài Gòn Mới dưới bút hiệu Ý Dư, đồng thời viết Thu HươngChị Tập.

Mùa xuân năm 1949, sang Pháp vì lý do chính trị. Tại đây, năm 1952, chủ trương tạp chíPacific, thử vạch một “đường lối thứ ba” cho các nước Á Phi.

1953, Hồ Hữu Tường về nước, chủ trương nhật báo Phương Đông, đưa ra giải pháp “Thung lập chế”.

1954, với tư cách ký giả, ông sang dự Hội nghị Genève, hết sức vận động cho giải pháp trung lập Việt Nam nhưng thất bại.

Tháng ba năm 1955, vì có liên lạc với các nhóm trong Mặt Trận Thống Nhất (Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên), chống lại Ngô Đình Diệm, ông bị bắt Ở Rừng Sát. Năm 1957 ra tòa và bị kết án tử hình, nhưng nhờ những trí thức ở Pháp trong đó có Albert Camus viết thư can thiệp nên án lệnh được đình chỉ và bị đưa ra Côn Đảo. Sau khi chính quyền Ngô Đình Diễm đổ, Hồ Hữu Tường được trả tự do ngày 31/1/1964. Ra tù, kiệt lực, phải nửa năm sau mới viết lại được. Ông cộng tác với nhật báo Ánh Sáng, xét lại biện pháp Trung lập chế và đưa ra giải pháp Siêu lập: đề nghị miền Nam trở nên lãnh thổ của Liên Hiệp Quốc.

1965, cộng tác với tuần báo Hòa Đồng để phát huy nền văn minh tổng hợp: kỹ sư, chính ủy và tu sĩ. Làm Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh.

1967 được bầu làm dân biểu trong Hạ Viện Việt Nam Cộng Hòa.

Sau tháng tư năm 1975, bị đi học tập cải tạo, khi được trả tư do vừa về đến nhà ở Gia Định thì mất, ngày 26/6/1980.

***

Hồ Hữu Tường viết nhiều thể loại:

Chính tri. kinh tế. triết học: Xã hội học nhập môn (Minh Đức, 1945), Kinh tế học và Kinh tế chánh trị nhập môn (Tân Việt, 1945), Tương lai kinh tế Việt-nam (Hàn Thuyên, 1945),Phong kiến là gì? (Minh Đức,1946), Vấn đề dân tộc (Minh Đức,1946), Muốn tìm hiểu chánh trị (Minh Đức,1946), Tương lai văn hóa Việt nam (Minh Đức,1946, Huệ Minh, 1965).

Văn học sử: Lịch sử văn chương Việt nam (quyển 1) (Lê Lợi, 1950).

Văn pham: Phép nói và viết hỏi ngã (1950), Em học tiếng mẹ (1950), Em tập đọc(1951).

clip_image004

Dịch: Tam quốc chí (quyển 1, 1951)

Truyện: Bộ Một thuở ngàn năm (truyện trào phúng chính trị) gồm có : Phi Lạc sang Tàu (Sống Chung, 1949), Phi Lạc náo Hoa Kỳ (Vannay, Paris, 1955), Tiểu Phi Lạc náo Sàigòn (Nam Cường, 1966), Diễm Hồng xuất giá (Nam Cường, 1966),

Bộ Hồn bướm mơ hoa (tiểu thuyết lịch sử xã hội, miền Hậu Giang) gồm 4 tập: Mai Thoại Dung, Tam nhơn đồng hành, Ông thầy Quảng, Bủa lưới người (Nam Cường, 1966).

Bộ Gái nước Nam làm gì? (tiểu thuyết tranh đấu chống Pháp) gồm Thu HươngChị Tập (Sống Chung, 1949).

Nỗi lòng thằng Hiệp (Lê Lợi, 1949).

Kế thế (tiểu thuyết dã sử) (Huệ Mình, 1964).

Bộ Thuốc trường sanh gồm ba tập: Xây mộng, Phúc đứcVẹn nguyền (Huệ Minh, 1964). Hoa dinh cẩm trận (tiếp theo Thuốc trường sanh).

Người Mỹ ưu tư (tác giả xuất bản, Paris, 1968) …

Tiểu luận: Những kỹ thuật căn bản của nghề làm báo (in tại Paris, 1951, Hòa Đồng 1965), Trầm tư của một tên tội tử hình (Lá Bối, 1965), Luận lâm I (Huệ Minh, 1965), Nói tại Phú Xuân (những bài tham luận đọc tại Đại Học Huế) (Huệ Mình, 1965).

Truyện ngắn, tạp văn: Quả trứng thần (1952), Kể chuyện (Huệ Minh, 1965), Nợ tinh thần(Huệ Minh, 1965).

Tự truyện và hồi ký: Thằng Thuộc con nhà nông (An Tiêm, 1966), 41 năm làm báo (Trí Đăng, Đông Nam Á tái bản tại Paris, 1984), Un fétu de paille dans la tourmente (Paris, 1969, chưa in).

Sách viết cho nhà Hàn Thuyên, ký tên Nguyễn Huệ Minh (tên vợ), sách viết cho nhà Tân Việt ký tên Khổng Cưu, cho nhà Minh Đức ký tên Duy Minh, Huấn Chi, cho nhà Sống Chung ký tên Duy Cúc.

***

Trước khi tìm hiểu tư tưởng và phong cách Hồ Hữu Tường, chúng ta thử nhìn lại nguồn gốc dòng họ Hồ, như Hồ Hữu Tường đã trình bày qua các tác phẩm và có lẽ đó cũng là một cách để phân tích những đường hướng chính trong tư tưởng của Hồ Hữu Tường.

Hồ Hữu Tường sinh ngày mùng 8 tháng 5 năm 1910 tại làng Thương Thạnh, huyện Cái Răng, tỉnh Cần Thơ. Cha là Hồ Văn Sây, mẹ là Võ Thị Nữ và ông nội là Hồ Văn Điểu.

Dòng họ Hồ này khi xưa ở đất Nghệ An. Sau thi Hồ Quý Ly thất thế, đầu thế kỷ XV đã bị xua vào đất Qui Nhơn sinh sống. Đến thế kỷ XVIII, trong họ xuất hiện ba anh em Nhạc, Huệ, Lữ, nổi lên cầm đầu phong trào Tây Sơn. Khi nhà Tây Sơn bại liệt, tất cả những người họ Hồ, bà con xa gần với Tây Sơn đều phải lánh nạn. Tỉnh Qui Nhơn bị Nguyễn Ánh đổi tên thành Bình Định. Sự đổi tên này, đối với họ Hồ, có nghĩa là một sự trả thù, một sự đàn áp.

Để tránh sự trả thù của nhà Nguyễn, một thanh niên tên là Hồ Văn Phi trốn vào Nam, lưu lạc đến rạch Cái Răng Ở miệt Cần Thơ, lập nghiệp. Vợ chồng Hồ Văn Phi chưa có con trai, nuôi một đứa nhỏ tên là Điểu mà mẹ nó dường như là một người trong hoàng tộc nhà Tây Sơn lánh nạn. Khi trao con lại cho Hồ Văn Phi, bà dặn dò rằng: Cha nó cũng họ Hồ, tôi cho nó cho ông là để nó giữ họ. Khi nó lớn lên, ông bà dặn nó nên nêu lên hai chữ Kế Thế mà thờ giữa hai chữ Hồ phủ, và truyền lại mãi mãi với con cháu nó nên làm như vậy.

Chữ Kế Thế rút từ những chữ “Kế thế vi đức, dĩ hữu thiên hạ,” hàm súc cái mộng làm đế vương.

Người con nuôi của Hồ Văn Phi có dòng dõi bí mật, đế vương ấy (dòng Quang Thiệu), chính là Hồ Văn Điểu và là ông nội của Hồ Hữu Tường. Đó là những điều mà Hồ Hữu Tường thuật lại về dòng dõi của mình trong cuốn tự truyện Thằng Thuộc, con nhà nông và tiểu thuyết dã sửKế Thế.

Đúng hay sai là công việc của những nhà nghiên cứu lịch sử. Đối với chúng ta, người đọc và tìm hiểu Hồ Hữu Tường, thì đây là một trong những yếu tố giải thích tư tưởng cải tổ chính trị và văn hóa của Hồ Hữu Tường, giải thích chí hướng tân tạo lại Việt Nam, chấn hưng đạo Bữu Sơn Kỳ Huơng, một đạo do con cháu nhà Tây Sơn dựng nên, sau này hưng vượng trong tinh thần đạo Hòa Hảo (có lẽ đó là lý do khiến Hồ Hữu Tường có cảm tình với tướng Ba Cụt và đạo Hòa Hảo, và cộng tác với nhóm Mặt Trận chống Nhất, chống lại Ngô Đình Diệm và nhất là quyết tâm tái lập tinh thần Minh Đạo mà Hồ Quý Ly đã xướng lên từ thế kỷ XIV, để xây dựng một con đường văn hóa Việc Nam, một hệ tư tưởng Việt Nam không lệ thuộc ngoại bang, phù hợp với một nước Việt độc lập và tân tiến.

***

Tâm tư Hồ Hữu Tường dường như chia làm hai nhánh: nhánh vọng Tây Sơn và nhánh hướng nhà Hồ. Cả hai tạo nên một hệ “bàng thống” giao thoa hai vua Quý Ly và Quang Trung, cùng một dòng họ. Hệ bàng thống này, độc lập với chính quyền trung ương, tạo thế chân vạc, muốn đứng lên chấn hưng đất nước theo một đường lối thứ ba, từ một miền đất mới: miền Hậu Giang.

Vọng Tây Sơn, giữ nguồn gốc nông dân nổi dậy, chống sự đàn áp của thực dân và phong kiến, nhưng khác với cách mạng cộng sản, dựa vào đấu tranh giai cấp và duy vật sử quan, Hồ Hữu Tường muốn bảo tồn một truyền thống tâm linh dân tộc phát xuất từ miền Hậu Giang, thờ hai bà Chúa Tiên và Chúa Ngọc. Chúa Tiên tương truyền là Ngọc Hân công chúa và Chúa Ngọc là Ngọc Mân, em sinh đôi của Ngọc Hân. Những truyền thuyết này được Hồ kể lại trong tiểu thuyết dã sử Kế Thế, theo lời kể của một nhân vật bí mật là ông Thầy Quảng (gốc gác từ Quảng Nam). Thầy Quảng trong bộ tiểu thuyết Hồn bướm mơ hoa, là một lãnh tụ chính trị, đội lốt thầy bói và đạo sư, truyền bá đạo Bữu Sơn Kỳ Hương (thờ hai bà chúa), chủ trương cải cách đạo Phật, chấn hưng nhà Tây Sơn, cổ động cho những thuyết “Minh Đạo tái sanh,” “Thiên địa dân tạo,” “Việt Nam phục nghiệp.” Tất cả những sứ mệnh này xác định hướng thứ nhì: vọng nhà Hồ, tiếp tục con đường mà Hồ Quý Ly đã mở ra từ thế kỷ XIV về việc canh tân đất nước trên toàn diện chính trị, văn hóa và xã hội.

Xin nhắc lại, từ cuối thế kỷ XIV, Hồ Quý Ly đã áp dụng những chính sách:

– Dùng chữ Nôm thay chữ Hán để chấn hưng quốc học. Dịch các kinh sách chữ Hán sang chữ Nôm.

– Soạn 14 thiên Minh Đạo nội dung phê phán Nho giáo một cách có hệ thống, đặt Chu Công lên trên Khổng Tử; phê bình Khổng Tử, nêu bốn điểm đáng ngờ trong Luận Ngữ; chỉ trích Hàn Dũ, Trình, Chu… là những bậc hủ nho; ca ngợi vua Trần Minh Tông không chịu rập theo khuôn mẫu lễ giáo của người Tầu.

– Về mặt xã hội, Hồ Quý Ly lập nhà thương, làm lại sổ hộ tịch, định lại thuế khóa, thống nhất đo lường, phát hành tiền giấy, cải cách ruộng đất, v.v…

Ngoài ra Hồ Quý Ly còn là một nhà thơ chữ Nôm và chữ Hán, kiêm dịch giả.

Nối tiếp và giao thoa con đường của hai tiền nhân Quý Ly và Quang Trung trong tinh thần độc lạp đối với ngoại bang, từ chính trị, xã hội, đến văn hóa, dường như đó là điều mà Hồ Hữu Tường muốn thực hiện qua hành động và tác phẩm.

***

Suốt đời vào tù ra khám, Hồ Hữu Tường là khuôn mặt trí thức độc đáo của Việt Nam trong thế kỷ XX: một trí thức hành động. Là nhà chính trị, nhưng biết lợi khí của văn hóa, ông luôn luôn tuyên bố: “Tôi là kẻ dụng văn, chớ không phải nhà văn.” Lời tuyên bố có vẻ khiêm tốn này nói lên tính chất minh họa tư tưởng trong các tác phẩm của Hồ Hữu Tường. Là một tác giả đa năng, đa dạng, ông viết nhiều thể loại, nhưng thành công nhất ở những tiểu luận, tham luận, tự thuật, truyện ngắn và tiểu thuyết trào phúng.

Cuộc đời và sáng tác của ông trải nhiều giai đoạn.

Từ 1930 đến 1939, theo Đệ Tứ và chủ nghĩa Mác-Lê, thời kỳ mà sau này ông gọi là “sự căm hờn dẫn đi lạc lối trong chín năm,” viết rất nhiều báo nhưng không lưu lại được gì, có thể vì đó là thời kỹ còn lập luận theo duy vật biện chứng, nên sau này ông không cho in lại. Nhưng đối với những nhà nghiên cứu, tìm lại những bài viết của Hồ Hữu Tường trong thời kỳ “Đệ Tứ” cũng là một điều cần thiết

Thời kỳ 39-44: Giữa 1939 bỏ Đệ Tứ và Mác Lê, rồi bị Pháp bắt tới cuối 1944. Đó là thời kỳ Côn Đảo lần thứ nhất. Trong năm năm ở tù, Hồ Hữu Tường đã hình thành một hệ thống tư tưởng mới: chủ nghĩa dân tộc, không lệ thuộc Tây, Tàu, Nga, Mỹ.

45-46: thời kỳ lập thuyết mới. Từ 1945, khi ra Hà Nội, Hồ Hữu Tường viết những tác phẩm đầu tiên Xã hội học nhập môn, Kinh tế học và chính trị nhập môn, Tương lai kinh tế Việt Nam, Vấn đề dân tộc, Tương lai văn hóa Việt Nam … theo con đường tư tưởng mới.

Từ 1948 trở đi, bắt đầu sáng tác tiểu thuyết: Phi Lạc sang Tầu, Thu Hương, Chị Tập … Ngay cả thời kỳ Côn Đảo lần thứ nhì (57-64), ông vẫn tiếp tục sáng tác nhưng cũng bị mối cắn, nhiều tập phải viết lại. Những tác phẩm như Kế thế, Hồn bướm mơ hoa, Trầm tư của một tên tội tử hình, Thuốc trường sanh … đều viết tại Côn Sơn và phát hành sau khi được trả tự do.

Trong bài tựa cuốn Luận Lâm I, Hồ Hữu Tường viết:

“Tôi bước vào mê ly đồ của chủ nghĩa Mác-Lê đầu tháng 6 năm 1930. Tôi bước chân ra ngoài cái mê ly đồ ấy vào đầu tháng 6 năm 1939. […] Trong 9 năm này, những bài luận của tôi viết thảy đều lập trên nền tảng của duy vật luận biện chứng pháp.

Từ tháng 6 năm 1939 đến tháng 6 năm 1945, ngoài những bức thơ ngắn cho gia đình, tôi không có viết gì khác. Đến Hà Nội vào đầu tháng 6 năm 1945, tôi đã sắp dàn bài cho quyển Xã hội học nhập môn mà tôi viết xong khi khởi đầu tháng 11.

Từ hai mươi năm nay, tôi chưa trước tác được tài liệu nào vững chắc và khoa học để đả kích chủ nghĩa của Marx, hơn tập sách nhỏ này. Cả phương pháp biện chứng và duy vật sử quan đều bị “lật vích,” nền tảng triết lý và cơ sở xã hội học của Marx đều bị lật ngược, thế mà kiểm duyệt Việt Minh đọc không hiểu nên chẳng bôi chữ nào.

Từ ấy, phương pháp biện luận của tôi không còn là biện chứng pháp nữa. Trong năm năm nằm ở Côn Đảo, trong những ngày tàn của chế độ thực dân, tôi đã suy tư tìm thấy và thường nói với Nguyễn An Ninh rằng duy vật luận của Marx hóa ra siêu hình, chánh là do Marx đội cho nó cái lốt của biện chứng pháp […].

Năm năm tù dưới chế độ thực dân đã giúp cho tôi “cai” biện chứng pháp, cũng như người nghiện cai thuốc phiện.

Và, rời bỏ tư duy siêu hình của biện chứng pháp, tôi trở về với tư thái khoa học […] Khoa học, bao giờ cũng cho phép ngoại suy để mở rộng phạm vi hữu hiệu của mình. Nhưng bao giờ những cuộc ngoại suy này phải phê phán cho chặt chẽ, kẻo bị lầm. Nói theo một danh từ mới xuất hiện, mà đã tràn lan khắp nói, là cần phải “xét lạị”. Thế mà, biện chứng pháp, tin tưởng như là một giáo điều, không cho tín đồ của chủ nghĩa Marx ‘xét lại’.” (trích bài Tựa cuốn Luận Lâm I do Huệ Minh xuất bản năm 1965, tại Sài Gòn). Tiếc rằng hiện nay chúng tôi chưa tìm được cuốn Xã hội học nhập môn để trình bầy những lập luận chống Marx của Hồ Hữu Tường.

Sách in những năm 45-46 phần lớn ký tên Duy Minh. Với bút hiệu Duy Minh, Hồ Hữu Tường muốn nói lên sự lựa chọn: không nhận cái Tâm trong duy tâm chủ quan của triết học Hegel, cũng không nhận cái Vật “vô tri vô giác” trong cái duy vật của triết học Các-Mác, mà chọn Duy Minh, bởi vì có duy minh thì mới đến được cái giác của nhà Phật. Hồ Hữu Tường chủ trương: muốn cải thiện đời sống – bởi vì chỉ có sống là quan trọng nhất – thì con người phải tổng hợp cả ba nền văn minh lớn: kỹ sư, chính ủy và tu sĩ, nói cách khác: khoa học, triết học và tôn giáo thành một thể toàn bích thì mới mong đạt tới thiên đường hạnh phúc. Tôn giáo Ở đây là Đạo Phật đổi mới. Sự cách tân đạo Phật có trong tinh thần đạo Bưu Sơn Kỳ Hương và đạo Hòa Hảo sau này, và có lẽ đó cũng là tinh thần “Hậu Giang” mà Hồ Hữu Tường là một trong những người đề cao và cổ động.

***

Trở về với tác phẩm chủ yếu đầu tiên của Hồ Hữu Tường, cuốn Tương lai văn hóa Việt Namdo Minh Đức in, ký tên Duy Minh, cuốn sách đắc ý nhất của ông, một bản tuyên ngôn tư tưởng của nhà chính trị và nhà văn hóa, trình bày con đường tư tưởng mới: lấy văn hóa dân tộc thay thế cho tất cả các ý thức hệ. Tư tưởng sau này sẽ được đào sâu và phát triển trong toàn bộ tác phẩm của tác giả.

Sách in năm 1946, 500 quyển, những bản quý in trên giấy “sắc thần” chế tạo riêng tại làng Bưởi, bìa do Tô Ngọc Vân vẽ. Sau này được in lại nhiều lần nhưng đã bị cắt bỏ, trừ bản chính của nhà Minh Đức và bản in trên tuần báo Sanh Hoạt (Sài Gòn) của Phạm Mậu Quân là đầy đủ. Đây là một tập văn xuôi có giọng trầm bổng như thơ, một tập “thơ tư tưởng,” lời lẽ thống thiết. Hồ Hữu Tường viết:

“Tôi muốn cất tiếng mà kêu to. Kêu thật to để ai nấy cùng nghe. Tôi muốn có một giọng tha thiết. Thực tha thiết để ai nấy cùng cảm. Tôi muốn có những luận điệu đanh thép. Thực đanh thép để ai nấy cùng tin. Nghe, cảm, tin, … để cùng tôi đem một cái vinh quang chưa hề có trên quả địa cầu về cho dân tộc ta, dân tộc Việt” (trích Tương lai văn hóa Việt Nam in lần thứ ba, Huệ Minh, Sài Gòn 1965).

Đó là Tiếng gọi đàn của Hồ Hữu Tường năm 1945. Ngay lúc ấy ông đã biết rõ rằng “dù có thét lo đến bực nào, dù có một giọng tha thiết như thế nào, dù có những luận điệu đanh thép cách nào, tiếng gọi đàn của tôi cũng sẽ là tiếng kêu trong sa mạc” (sđd, trang 12).

Biết là kêu trong sa mạc nhưng vẫn kêu. Biết gọi không ai nghe nhưng vẫn gọi. Tâm sự bi thiết ấy đã đeo đẳng Hồ Hữu Tường suốt đời như một thân phận con người, như một số phận dân tộc.

Nhưng Tương lai văn hóa Việt Nam không chỉ dừng lại ở mức kêu gào mà mang một nội dung suy tưởng sâu sắc. Trước hết Hồ Hữu Tường định nghĩa thế nào là văn hóa: “Văn, trong nghĩa cầu nguyên của nó, là đẹp đẽ, là hiền lành, trái với võ, là hung bạo. Hóa, trong nghĩa cầu nguyên của nó là thay đổi. Hai chữ đó mà ghép lại, thì tôi cho rằng đó là cái gì làm cho ngưòi ngày càng cao quý hơn, đẹp đẽ hơn, làm cho người (hạ tiện, xấu xa) hóa ra Người (cao quý, dẹp đẽ)” (trang 6). Tóm lại cái làm cho người trở nên Người là văn hóa: “Tôi vẫn muốn rèn, luyện, uốn, nắn, hun đúc tôi, cho tôi ngày nay đẹp đẽ hơn ngày hôm qua, cho tôi ngày mai càng đẹp hơn tôi ngày nay, để rồi bây giò tôi là “người” dần dần theo đuổí ‘Người‘” (sđd, trang 18).

Người đọc có thể tìm thấy ở “cái tôi ngày hôm nay phải hơn cái tôi ngày hôm qua,” một ảnh hưởng xa gần nào đó của Nietzsche. Chữ Người viết hoa của Hồ Hữu Tường có những yếu tố tương đương với siêu nhân (surhomme) của Nietzsche (chính Hồ Hữu Tường cho biết Nguyễn An Ninh là người Việt Nam đầu tiên đọc Nietzsche và rất thích). Nhưng Hồ đi theo một hướng khác: ông muốn hành trình người (tầm thường) nên Người (cao cả) trở thành lộ trình bình thường của mỗi người Việt Nam, và đó là tương lai văn hóa dân tộc. Tại sao như vậy? Ông giải thích: bởi mọi ý thức hệ, khi mới thành lập đều có thể giúp ích cho xã hội tiến bộ. Nhưng khi nó không còn thích hợp với điều kiện sống cụ thể nữa, thì cái xác nó, chướng ngại vật phản tiến hóa, là lực lượng phản động, là một tai họa cho nhân loại. Khi đã biết được luật sống thừa của các ý thức hệ, bạn hãy cố gắng xây đắp một nền văn hóa Việt Nam, dựa trên nguyên tác biến đổi, ngày hôm nay phải đẹp hơn hôm qua, và như vậy bạn sẽ thoát ra được sức chi phối của các ý thức hệ sống thừa (trang 20). Đó là tinh thần chủ yếu trong tư tưởng Hồ Hữu Tường.

***

Tinh thần này xuất hiện năm 45-46, khi phần đông người Việt chưa biết Hồ Chí Minh là ai, và phần đông thế giới chưa biết cộng sản là gì. Hồ Hữu Tường đã đi trước thời đại, vượt qua những người đồng thời để sớm nhận ra ngõ cụt của những ý thức hệ, trong số đó có chủ nghĩa cộng sản. Lập luận của ông trong tập sách nhỏ này cho thấy một dân tộc như Việt Nam, “muốn tìm con đường sống đầy đủ ý nghĩa trong thời kỳ phi cơ, bom nguyên tử và độc quyền đế quốc này, thì dân tộc Việt Nam phải chọn một kế hoạch văn hóa (trang 32), phải tạo ra một nền văn hóa rưc rỡ: văn hóa Việt Nam phải làm cho người trở nên Ngưòi (trang 37-38). ông vtết:

“Hiện nay, bạn thấy Tây phương đắc thắng, chiếm địa vị tối thượng, hãnh diện với thế giới. Về quân sự, về kinh tế, về chính trị, Tây phương là tất cả. Bạn cho Tây phương là cái gương duy nhất, rồi bạn toan nêu cái “văn hóa” Tây phương làm văn hóa Việt Nam.

Tôi van bạn. Tôi ước mong bạn xây đắp riêng cho Việt Nam một nền văn hóa rực rỡ, để trình trước Đại hội đồng nhân loại làm sự nghiệp của mình.” (trang 39)

“Sứ mạng của bạn là sứ mạng sáng tác.” (trang48)

Tìm một đường đi, không theo Đông không theo Tây, mà chọn lọc và kết nạp những tinh hoa của cả Đông lẫn Tây trên con đường sáng tạo của mình: văn hóa Việt Nam là do người Việt Nam sáng tác và xây đắp nên, nó làm cho người Việt Nam trở nên Người. Cái hành trình đó là hành trình văn hóa chúng ta chưa biết nó thế nào, bởi mỗi ngày nó một thay đổi.

Hồ Hữu Tường đã tìm ra cách thúc đẩy hành động sáng tạo, nói lên tính cách biến hóa của sáng tạo, đồng thời coi sáng tạo như một sứ mạng của con người. Một định nghĩa vừa trừu tượng, vừa cụ thể: Con đường sáng tạo là con đường văn hóa. Nó khiến con người từ vị thế tầm thường, kém cỏi, trở nên Người (văn hóa). Một sự hướng thượng mà nhân loại chưa làm được. Từ đó, Hồ bảo rằng phương Tây chưa có văn hóa, bởi tất cả những gì họ sản xuất ra trong văn chương, nghệ thuật, triết hoc, khoa học… đã bị cái mà ông gọi là “quái hóa” khuất phục. Chính cái quái hóa này đã biến đổi những tư tưởng đẹp đẽ như “tự do, bình đẳng, bác ái”, thành phương tiện, thành khí giới để chinh phục. Quái hóa đã xui khoa học chế ra đại bác, chiến xa, tàu chiến, phi cơ, hơi ngạt, vi trùng, bom ngyên tứ để giết nguời, để chinh phụckẻ yếu, để đè nén, áp bức, dày xéo chúng ta” (trang 42).

Văn hóa làm cho con người trở nên Người.

Quái hóa biến văn chương, nghệ thuật, triết học, khoa học… thành phương tiện. Bởi nó không đi theo con đường nhân bản.

Còn mượn Đạo học của Đông phương ư? Nhưng ở Đông phương chỉ có những thuật tu dưỡng, chớ đã có văn hóa bao giờ? (trang 48)

Cho nên ta không thể bắt chước Đông hoặc Tây, để làm văn hóa, mà phải tạo văn hóa bằng sáng tạo, làm cho người Việt Nam trở nên Người. “Nó là cuộc vận dụng thường xuyên của tinh thần, không phút nào ngừng, không khi nào nghỉ (trang 5), văn hóa (phải) làm sao cho cái chân, cái thiện, cái mỹ, thấm nhuần lý trí, tình cảm, bản năng, cơ thể mọi người, của mọi chế độ, của mọi tương quan xã hội. (trang 54-55)

“Lương tri sẽ là sản phẩm của người. Nó có nguồn gốc ở ngưòi. Nó là một vật nhân bản.” (trang 56)

“Khoa học, văn chương, triết học, nghệ thuật, luân lý, tôn giáo… là những ngành của cây sinh hoạt. Còn văn hóa là nhựa sống trong thân cây, trong các ngành, các lá (trang 57)

***

Khi cho rằng Tây phương đã biến những thành tích của văn hóa như văn chương, triết học, khoa học … thành những phương tiện để chinh phục và đàn áp, Hồ Hữu Tường có thái quá chăng? Hẳn là không. Ông chỉ muốn minh họa một thực tế hiển nhiên: Hitler, Staline đã trưng dụng khoa học để làm vũ khí, cũng như Hitler đã trưng dụng tư tưởng surhomme của Nietzsche và Staline đã sử dụng triết học Các-Mác trong các chiến dịch thanh trừng và tiêu diệt đồng loại.

Ngày nay trong tình thế mới, người ta cũng có thể đặt câu hỏi: đệ nhất cường quốc Hoa Kỳ có đang dùng khoa học (bom đạn) như một phương tiện để “san định” thiên hạ theo đúng quan niệm “dân chủ” và “bình đẳng” của Hoa Kỳ?

Điểm cực đoan và cũng gây sốc mạnh trong Tương lai văn hóa Việt Nam là “Tây phương và Đông phương chưa có văn hóa.” Nhưng đó chính là điểm độc đáo trong tư tưởng Hồ Hữu Tường: ông coi văn hóa không phải là những thành quả đã gặt hái được trong các lãnh vực văn chương, khoa học, nghệ thuật, triết học, mà là một trạng thái động, là một thái độ, một phong cách: Con người thường trực sống trong suy tưởng để tiến tới chân thiện mỹ. Và một con người như thế là con người văn hóa.

“Văn hóa” như vậy rất gần với hành trình tiến đến cõi niết bàn của nhà Phật, tìm đến đỉnh cao của con người. Nhưng đạo Phật tìm sự xuất thế, giải thoát cho chính mình, Hồ Hữu Tường tìm sự nhập thế: tiếr đến chân thiện mỹ trong hành đông để phụng sự xã hội, con người; và đó là lý do cần phải “cải tiến” đạo Phật, đi từ sự tu thân (Đông phương) để tiến tới sự nhập thế hành động, thay đổi diện mạo nhân loại.

Con đường tư tưởng

Tiếp tục con đường tư tưởng đã vạch ra trong Tương lai văn hóa Việt Nam, những bài tiểu luận hoặc tham luận đến sau, đào sâu và mở rộng thêm đường hướng nhân văn và dân tộc của Hồ Hữu Tường.

Trong cuốn Luận Lâm I (Huệ Minh, 1965), ông chọn chín bài viết trong khoảng 1948 đến 1964, mỗi bài một chủ đề khác nhau (văn hóa, chính trị kinh tế, tư tưởng) mà ông cho rằng “biện chứng pháp không thể áp dụng được.” Luận Lâm (tuy đề Luận Lâm I, nhưng chỉ ra có một quyển) đưa ra những đề tài có thể gây tranh luận, với chủ đích đẩy sự nghiên cứu và suy tưởng đi xa hơn.

Trước hết với đề nghị “Tìm (lại) nguồn gốc của dân tộc Việt Nam” Hồ Hữu Tường cho rằng không có một thứ chủng tộc nào là thuần túy. Người Việt, là sự hòa đồng hai mặt: thổ dân sống trên giải đất này kết hợp với các sự chinh phục đến từ nơi khác. Bắc do Lạc Việt, Trung do Chàm (Chăm) và Nam do Miên (Khmer) đến chinh phục rồi lần lần bị đồng hóa. Giai đoạn kế tiếp là sự thống nhất theo lối phong kiến: người Việt (ở Bắc) tiêu hủy quốc gia Chàm (Trung) và đồng hóa người Chàm, chiếm Chân Lạp và đồng hóa người Khmer. Nền văn hóa Việt cao hơn hai nền văn hóa Chàm và Khmer nên tồn tại nhưng vẫn chứa đầy ảnh hưởng của hai nền văn minh này trong ngôn ngữ, âm nhạc, tư tưởng.

Về tư tưởng, ngươi phương Bắc (Trung Hoa) chú trọng đến cảm giác chủ quan: Khi nhìn con ngựa, họ thấy mầu trắng trước, cho nên họ nói bạch mã, cũng như ngã phụ (tôi cha) (cái tôi đi trước). Tư tưởng Việt Nam (thuộc người phương Nam), gần gũi với Miến Điện, Xiêm, Mên, Chàm… mang tính phân tích và đi từ khách quan đến chủ quan, cho nên nói ngựa trắng, cha tôi v.v…

Về ngôn ngữ, Hồ Hữu Tường không nhận tiếng Việt hoàn toàn đơn âm, mà cho rằng những tiếng mượn từ chữ Hán thường đơn âm, còn những tiếng thuần Việt như éo le, oái oăm, lim dim… không thể bảo là đơn âm được.

Về âm nhạc, những điệu hò Huế, những bài vọng cổ chứng thực hiện tượng hòa hợp văn hóa Việt-Chàm, Việt-Miên. Tóm lại, theo Hồ Hữu Tường, muốn “tìm nguồn gốc dân tộc Việt Nam” trước hết phải chấp nhận những tiền đề:

– Gốc thổ dân sống trên giải đất này;

– Bãi bỏ thuyết chủng tộc và công nhận thuyết hợp chủng và đồng hóa;

– Nền văn hóa cao nhất trong các dân tộc hợp chủng sẽ sống còn;

– Lịch sử Việt Nam không phải là lịch sử của một cuộc Nam tiến mà là sự thống nhất theo đường lối phong kiến;

– Tư tưởng Việt (thuộc phương Nam) khác với tư tưởng Trung Hoa (thuộc phương Bắc).

Vẫn trong chiều hướng cổ võ cho sự thay đổi quan điểm suy tưởng và nghiên cứu, trong bài“Đầu năm, nhắc một món ăn trân mỹ” (Luận lâm), phê bình hai bộ văn học sử: Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi và Việt Nam văn học sử của Dương Quảng Hàm, Hồ Hữu Tường cho rằng quan niệm văn học sử của hai nhà nghiên cứu này đã lỗi thời và đề nghị một hướng mới: Theo ông, văn học sử Việt Nam là văn học sử viết bằng tiếng Việt, cho nên phải loại các tác giả viết chữ Hán, chữ Pháp ra ngoài, chỉ khảo cứu những tác phẩm:

– văn chương bình dân, ca dao, tục ngữ…

– văn chương chữ Nôm,

– văn chương chữ quốc ngữ

và phụ thêm có thể đưa ra bộ Việt Nam tư tưởng sử để khảo cứu xem người Việt đã phát biểu tư tưởng của mình bằng tiếng Việt, tiếng Tầu, tiếng Pháp, tiếng Anh như thế nào.

Ngoài ra ông còn đề nghị phải tìm hiểu thêm hai thời kỳ văn chương nhà Hồ và văn chương đời Tây Sơn (nhóm Hồng Sơn văn phái, ngoài Nguyễn Du và truyện Kiều, còn để lại bản dịch sáu bộ tài tử của Tàu ra lục bát mà Hoàng Xuân Hãn đã nhắc tới, nay chưa tìm ra) mà chữ Nôm đã có một chỗ đứng quan trọng.

Đề nghị này của Hồ Hữu Tường, có hai ý nghĩa: trở về với văn hóa dân tộc và đẩy xa việc nghiên cứu quốc âm. Nhưng việc ứng xử với nền văn học chữ Hán là một vấn đề phức tạp.

Nếu dựa theo cách viết văn học sử trên thế giới nói chung, và Pháp, nói riêng là đúng. Nhưng Việt Nam có một lịch sử và lịch sử văn học không giống những dân tộc khác: Nếu những quốc gia khác từ thời lập quốc không bị đô hộ (lâu dài) hoặc không đổi ngữ tự, thì ngược lại, Việt Nam vừa bị đô hộ, vừa đổi ngữ tự.

Thời kỳ văn học chữ Hán là kết quả 1000 năm đô hộ của Tàu. Người Việt “bắt buộc” phải diễn tả tư tưởng của mình bằng Hán tự. Vì không có chữ viết hoặc nếu có, cũng không thể phát triển được. Sự đô hộ đã ảnh hưởng lâu dài đến những thế hệ sau: chữ Hán trở thành chữ thi cử, “quốc tự” chữ “thánh hiền.” Do đó, chữ Hán trong nhiều thế kỷ là chữ viết để chuyên chở nội dung ý nghĩ, tư tưởng Việt Nam. Vấn đề đặt ra ở đây là: Chữ viết là chính hay ý nghĩ là chính? Hiển nhiên là cả hai, bởi chữ viết chuyên chở văn phong lẫn tư tưởng. Viết văn Tàu, văn Pháp phải tuân theo quy luật của Hán văn, Pháp văn, hoàn toàn khác với văn phong Việt Nam. Tóm lại, một áng văn chương chữ Hán, chữ Pháp, do người Việt (thấm nhuần văn hóa Việt và có tâm hồn Việt) viết, thường là sự kết hợp hài hòa giữa hai nền văn hóa Hán- Việt, Pháp-Việt, tạo nên một tác phẩm “lai” và có chỗ đứng trong cả hai nền văn hóa gốc.

Mở rộng thêm vấn đề về trường hợp của những người Việt sống ở nước ngoài, một người (quốc tịch) Pháp hoặc Mỹ, gốc Việt, viết văn bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, nên xếp vào văn học sử Pháp, Mỹ hay văn học sử Việt? Trong trường hợp này, “bản chất” của tác phẩm cung cấp nhiều thông tin hơn quốc tịch của tác giả. Ví dụ, Linda Lê, dù là gốc Việt, nhưng khó tìm thấy dấu ấn (văn hóa và tâm hồn) Việt, trong tác phẩm của chị; ngược lại, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Tiến Lãng, dù viết tiếng Pháp nhưng tác phẩm của họ thấm đậm tâm hồn và tâm thức Việt Nam. Cho nên vấn đề Hồ Hữu Tường đặt ra chỉ nên xem là một cách thúc đẩy mọi người khai triển và tìm kiếm những hướng đi khác trong cách viết văn học sử, đặc biệt nên chú ý đếnnhững mảng văn chương bị các chính thể khai trừ, thậm chí tiêu diệt, và đó là điều thường trực xẩy ra ở mọi nơi, mọi thời.

Bài “Tìm một ý thức hệ cho thời đại” trong Luận lâm và bài “Cái nghiệp tiên thiên” trong“Trầm tư của một tên tội tử hình” (Lá Bối, Huế, 1965), phát triển tư tưởng Minh đạo đưa ra giải pháp: Canh tân đạo Phật, làm sao cho đạo Phật từ xu hướng tu thân, xuất thế, giải thoát cái khổ cá nhân, trở nên một Minh đạo, nhập thế, tìm giải pháp cho cái khổ tập thể của con người thời đại, chìm trong áp bức và chiến tranh.

“Có lẽ hồi thời của Phật, kinh tế còn là tự nhiên, con người ít bị đớn đau mỗi ngày vì bị bóc lột, chính tri còn là đơn sơ, thần dân ít bị khổ sở vì thiếu sự tổ chức xã hội; nên khi nhìn nhận cái khổ, Người chỉ thấy rõ có sinh, lão, bệnh, tử […] Cái khổ này là cái khổ cá nhân, thì tìm sự giải thoát bằng phương pháp cá nhân là một việc giải thích được. Nhưng loài người càng phát triển, liên hệ xã hội càng phức hóa, thì một cái khổ khác tràn lên, cái khổ tập thể bởi sự tổ chức xã hội không thay đổi kịp để mãi thích ứng cho sự tiến triển nầy.” (Tìm một ý thức hệ cho thời đại, Luận lâm, nxb. Huệ Minh, 1965, trang 57)

“Đạo Phật, và chỗ này nó khác hơn các tôn giáo khác, là một sự tu luyện, theo nghĩa tầm nguyên của danh từ này: tu là làm cho càng tốt đẹp thêm mãi, luyện là làm cho tinh ròng thêm mãi. Phật tử tu luyện để làm cho lý trí càng thuần thục hơn hầu đến cái giác. Nếu sự tu luyện ấy dùng để dư bị vấn đề, chuẩn bị các điều kiện, vạch lối trước bằng trực giác hay thị kiến cho các sự giải đáp các vân đề này, thì tôn giáo sẽ là hướng đạo cho đại đội quân của khoa học. Chừng ấy Niết bàn sẽ không còn là một cái chứa không có gì đựng ở trong và chỗ nhắm của các vị bồ tát (tự giác nhi giác tha) mới đạt được.” (trích Cái nghiệp tiên thiên, trong Trầm tư của một tên tội tử hình, trang 36-37, Lá Bối, 1965)

Nếu trong quá khứ ảnh hưởng đạo Phật thời nhà Lý đã đem đến các vị vua nhân từ như Thái Tông, Thánh Tông, Thần Tông.. . và đưa nước Việt đến một thời kỳ phát triển cực thịnh: thì ở đây, trong lý thuyết Minh đạo mới này, Hồ Hữu Tường dường như muốn mở rộng tính chấtđạo trị hơn, muốn tâm thức thiền sư đi vào lòng người, qua phương pháp giáo dục, một cách “trồng người” mới, để tất cả đều có phương tiện đi tới bến giác ngay trong cuộc sống, tạo ra một cõi niết bàn tại thế. Vai trò của một Maitreya – Di Lặc thời nay – thời mạt pháp – là phải tạo ra một nền văn minh tu sĩ tức là đem đạo đức tôn giáo vào đời sống chính trị. Tôn giáo phải đồng nhất với chính trị để tạo ra những con người nói chung, và người cầm quyền, nói riêng, có đạo đức, thấm nhuần lòng từ bi, bác ái, thâm hiểu ý niệm bình đẳng và tự do. Tóm lại, sự đào tạo con người trong tinh thần Minh đạo tổng hợp bốn nền móng cơ bản: tôn giáo, triết học, khoa học và chính trị. Ở đây, Hồ Hữu Tường lấy lại hai chữ Minh đạo của Hồ Quý Ly để đưa ra một nội dung tư tưởng mới.

Vấn đề đạo đức tôn giáo nói chung và đạo đức nhà Phật nói riêng, ngày nay cũng đang thịnh hành ở Tây phương, đạo Phật phát triển rất mạnh ở Pháp. Dường như trong một thế giới “võ trị” như ngày nay, sự trở về với đạo đức, niềm tin, là một điều kiện cần thiết, và lý thuyết Minh đạo mà Hồ Hữu Tường đề nghị cách đây hơn nửa thế kỷ vẫn còn rất hợp thời.

Lập thuyết Minh đạo đánh dấu giai đoạn chuyển biến tư tưởng thứ nhì của Hồ Hữu Tường. Trong năm năm tù Côn Sơn lần thứ nhất, dưới thời Pháp thuộc, Hồ Hữu Tường đã “trầm tư” ra chủ thuyết dân tộc để thay thế chủ nghĩa Mác- Lê. Ở Côn Đảo lần thứ nhì, dưới thời Ngô Đình Diệm, kẻ bị kết án tư hình “trầm tư” ra chủ thuyết Minh đạo: Tổng hợp chủ nghĩa xã hội và đạo Phật. Và đó là điều mâu thuẫn lớn lao trong tư tưởng Hồ Hữu Tường: suốt đời đánh đổ những ý thức hệ, và suốt đời lập thuyết. Nhưng chính điểm mâu thuẫn ấy là đức tính lớn lao của ông, tạo dựng tư cách độc đáo của một nhà văn, nhà chính trị và nhà tư tưởng: bộc lộ tính chất hành động trong tư tưởng Hồ Hữu Tường.

Cuốn Nói tại Phú Xuân (Huệ Minh, Sài Gòn, 1965) tập hợp những bài tham luận đọc tại Huế trước cử tọa thanh niên, Hồ Hữu Tường phân tích tất cả những nhược điểm trong ngành giáo dục của ta, thiếu sách vở, thiếu thày …, và ông đã dùng tất cả tài năng hùng biện của mình để thúc đẩy tinh thần sinh viên, nêu lên những nguyên tắc rèn luyện tinh thần:

– Thứ nhất: Tinh thần súc tích (esprit d’accumulation). Súc là chứa, cất, tích là dồn lại. Kẻ đi học, với tinh thần súc tích ví chẳng khác anh nông dân, mùa khô gặt lúa, chứa thóc vào bồ để quanh năm lấy ra mà dùng. Nhưng người đi học mà chỉ có tinh thần súc tích thôi, thì khi ra đời chỉ có thể làm cán bộ thừa hành. Cho nên tinh thần súc tích chưa đủ.

– Phải có tinh thần phê phán để xét lại tất cả những thông tin mà mình thu thập được.

– Rồi tới tinh thần tìm tòi và tinh thần phát minh.

Nhưng bao trùm lên hết là tinh thần dân tộc. “Tinh thần dân tộc là kết hợp rất nhiều phức cảm về màu da, về tiếng nói, về tập quán, về ý thức … chung quanh cái ý muốn chung làm cho dân tộc Việt được trường tồn […] Tôi cho là tinh thần dân tộc không phải chỉ là cảm tình, là bản năng, nó còn có thể là sinh lý nữa […] đọc bài văn tế các trận vong chiến sĩ của Nguyễn Đình Chiểu thì rơi nước mắt rồi dấn thân vào con đường kháng Pháp. Lùi lại lịch sử mấy trăm năm, đọc bài Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, chúng ta vẫn còn thấy tim rung động.” (trang 42-45)

Đối với Hồ Hữu Tường, sinh viên, nếu muốn tìm một phương pháp rèn luyện cá nhân để phụng sự dân tộc, thì phải nhìn thấy mấu chốt của vấn đề: Tinh thần súc tích, tinh thần phê phán và tinh thần phát minh là ba cái chân vạc của một cái đỉnh thờ: tinh thần dân tộc. Hồ Hữu Tường có cực đoan quá chăng? Không, bởi vì ông đã sống trong một thời kỳ mà đất nước bị người Pháp đô hộ, tiếp theo là cuộc nội chiến ý thức hệ giữa hai miền, do ngoại bang điều khiển. Rồi cuộc thống nhất đất nước, lại phát triển thêm hai cực:

– Một hướng tự đại, triệt để đề cao “bản sắc dân tộc” qua những nội dung trống rỗng, coi Việt Nam là trung tâm của vũ trụ, không cần học hỏi trên tòi;

– Một hướng tự ti, vọng ngoại, lấy ảo ảnh Tây phương để thay thế cho ảo ảnh thiên đường xã hội chủ nghĩa.

Trong cả hai trường hợp, một tinh thần dân tộc đích thực, trong sự học hỏi, tìm kiếm và phát minh để xây dựng một tương lai văn hóa Việt Nam trong chiều hướng văn trị, vẫn còn cần thiết, nhất là khi hiện tượng toàn cầu hóa có thể phát triển trong chiều hướng võ trị.

Số kiếp con mọt và con thằn lằn

Nếu Hồ Hữu Tường luôn luôn nhắc nhở “tôi không phải là nhà văn, tôi chỉ là kẻ dụng văn,”thì những truyện ngắn của ông lại từ chối lời nhận xét trên đây và công nhận điều sau này:“Đọc tiểu thuyết hay của các nước, tôi rất hiểu tiểu thuyết xây dựng thế nào, nhưng tôi không chịu viết tiểu thuyết, mà chỉ bám vào lối văn “kể chuyện.”[…] Tôi chỉ muốn “kể chuyện” cho hoang đường, cho hóm hỉnh, cho trào phúng, cho quê mùa, như những giáo sư văn chương của tôi mà thôi. Con nhà trâm anh thế phiệt, ông, bác, có, anh, thảy đều khoa hoạn, thì viết văn điêu luyện như Nguyễn Du, việc ấy hợp lý, hợp tình. Con nhà nông như tôi, mà viết văn nông dân, việc ấy cũng hợp lý, hợp tình nữa.

Con vua thì đặng làm vua Con sãi ở chùa thì quét lá đa

có cái văn tâm như thế, nên trong chín năm theo chủ nghĩa Mác-lê, giáo điều của chủ nghĩa này dạy phải viết theo đường lối “tả chân xã hội” (réalisme socialiste), thà tôi nhịn viết văn chớ tôi không chịu phản lại giai cấp tôi. […] Cái văn tâm như thế đem những văn tứ “cổ điển” lại, chuyện “ma”, chuyện “thần tiên”, chuyện hoang đường, chuyện tiếu lâm châm biếm … “cổ điển” là cổ điển của thứ văn chương nông dân ta vào thế hệ của tôi.” (trích bài Tựa cuốn Kể chuyện, nxb Huệ Minh, Sài Gòn, 1965).

Như vậy rõ ràng là trong cách viết văn, Hồ Hữu Tường đã cố tình lựa chọn lối kể chuyện, ông không gọi là truyện ngắn, mà lấy ngay hai chữ kể chuyện làm tên sách. Và cách kể chuyện thần tiên, ma quỷ của Hồ Hữu Tường cũng là một cách chống lại “duy vật biện chứng” bằng con đường dân tộc: “Về chuyện ma, kỷ niệm của tôi là kỷ niệm chung của tất cả, tất cả trẻ con Việt ở nhà quê. Một đêm tối om, bên cạnh ngọn đèn dầu leo lét, ba bốn người ngồi lại mà nghe kể chuyện, một thằng nhỏ giõ tai nghe. Một lát nó nhảy vào giữa, run sợ. Mà càng run thì nó càng thấy lý thú […] Thế mà, vào nhà trường, học khoa học của Tây phương, thầy cấm đứa nhỏ ấy tin truyện ma, cho đó là dị đoan […] Khi nhập vào chủ nghĩa Mác-Lê, thì giáo điều của duy vật luận biện chứng pháp lại càng nghiêm khắc với chuyện ma hơn nữa. Thế mà sự thật lại khác hẳn. Năm 1932, nhà của một người bạn của Tạ Thu Thâu là trạng sư Blaquière, ở đầu đường Taberd (nay là Nguyễn Du), xéo xéo nhà thờ lớn, lại có ma dời bàn, khiêng ghế, dựng ván đứng lên, làm “trò khỉ” (mượn lời của cựu thủ tướng Hương). Nhà mác-xít Tạ Thu Thâu tức quá, luôn ba đêm đến đó ngủ, để nghiên cứu bọn ma có quyền lực gì, mà làm cái công việc mười người lực lưỡng chưa chắc làm nổi… Nhưng vì quyền lợi của chủ nghĩa duy vật mà chúng tôi đương vác cờ, không cho phép chúng tôi nói đến.” (Kể chuyện, trang 4-5)

Hồ Hữu Tường có tin ma hay không, điều đó không quan trọng. Ma chỉ là cái cớ để ông phát lộ tinh thần dân tộc: người dân mình tin ở thần linh, ma quỷ, thì mình cũng không thể xóa chúng trong sổ văn chương của mình. Tính chất duy linh là một phần “dân tộc tính” vẫn còn hiện hữu và Hồ Hữu Tường đã dùng duy linh để đối chọi với duy vật (vô thần). Ma như một cõi âm bí mật, không biết, chưa biết, giao thoa giữa siêu linh và tâm thần, nhưng ma có thể giúp người nói đến nhiều việc thực dụng, hiện hữu (Bồ Tùng Linh); ma là một trong những đề tài mà văn học có thể sử dụng để đưa đến những kết quả nghệ thuật bất ngờ: Hồ Hữu Tường đã “dụng ma” như ông đã “dụng văn” để trình bày tư tưởng của mình.

Những chuyện kể của ông, gom góp in lại thành sách, chỉ có ba tập. Cuốn Quả trứng thầngồm nhiều truyện thần tiên, in năm 1952, nay đã thất lạc; trong bài Tựa cuốn Kể chuyện(1965), tác giả có lời rao: bạn nào có cuốn sách này xin cứ mượn lại

Kể Chuyện (Huệ Minh, Sài Gòn, 1965) gồm bẩy truyện ngắn, những mẩu tiếu lâm về Quặp râu và một vở kịch trào phúng.

Cuốn Nợ tinh thần (Huệ Minh, 1965), do Nguyễn Ngu Í biên tập, là cuốn tạp văn, có bốn bài tiểu luận đặc sắc: Một bài phi lộ, đề xuất những kế hoạch nghiên cứu triết học, khoa học và thể hiện văn chương; Tân Xuân Thu (hai bài) so sánh thời chúng ta với thời Xuân Thu; Xuân Thu cũ và Xuân Thu mới, phê bình bộ Đông Chu liệt quốc, và hai truyện ngắn hay: Tù trong tùChuyện con tin lằn chọn nghiệp.

Cách kể chuyện của Hồ Hữu Tường rất đa dạng: Răng đen (trong Kể chuyện) là một “truyện thật ngắn” (ba trang) cô đọng và đặc sắc, vạch trần chính sách nham hiểm của thực dân: Hai sinh viên nhược tiểu (Maroc – An nam) gặp nhau trên “mẫu quốc”. Trong ba năm học chung, họ rất quý mến nhau, nhưng đến khi tôi (tác giả) lên đường về nước, Ali mới thổ lộ: Tôi sợ anh lắm. Vì sao? Bởi Ali vẫn đinh ninh rằng nước “Đại Pháp” đã dẹp tan quân “phiến loạn” Abd-el-Krim, nhờ bọn “tirailleurs annamites” (lính khố xanh) nổi tiếng ăn sống thịt người đến nỗi máu khô đọng lại nhuộm đen răng!

Xuân An Hải (trong Kể chuyện) là một chuyện ma “thật sự” xẩy ra ở An Hải, một làng cổ ở Côn Đảo. Người tù bị “ma giấu” là một anh cộng sản chính hiệu và những người chứng kiến việc “ma giấu” này (gần 200 mạng) phần đông đều theo chủ nghĩa duy vật. Lập lờ giữa mê tín và giả đò, Hồ Hữu Tường muốn chế giễu cả biện chứng lẫn con người duy vật: tất cả chỉ là một trò giả đò như ma giấu hay chăng?

“Bỗng có tiếng hú vang, tiếng hú xa tít từ trên chót núi Chúa đưa xuống, lẫn với tiếng cây cối rung chuyển ào ào, như cơn bão rừng, như đạo binh rần rộ từ trên cao kéo xuống, nghe lạnh xương sống. Trông theo tiếng hú, thì thấy anh Xa mắt nhắm nghiền, hai tay đưa ra trước như nắm một dây cương ngựa tưởng tượng, từ trên cao phóng xuống như bay. Điều mà giữa ban ngày không ai dám làm, nữa là ban đêm, cái đêm cuối năm đen như mực xạ. […] Thế mà Xa cứ chạy, chạy như bay, lướt trên mặt đá lởm chởm.” (Kể chuyện, trang 18)

Một quang cảnh rất siêu thực do bàn tay phù thủy sắp đặt: Tiếng hú trên núi Chúa đưa xuống, trông theo tiếng hú, thấy anh Xa mắt nhắm nghiền, chạy như bay… tất cả chỉ là phù phép, hỏa mù xung quanh một “thực thể” ghê gớm “tiếng hú từ núi Chúa.” Cả anh Xa, lẫn những kẻ “trông” thấy tiếng hú (gần 200 mạng tin theo duy vật), ở đây đều đã mu muội, đang lên đồng theo lệnh của Chúa. Điểm ngời ngời duy nhất sáng trưng ở đây là núi Chúa, nơi Chúa ngự. Chúa không ra mặt nhưng Chúa điều khiển, Chúa giật dây, Chúa làm lóe mắt, ù tai những kẻ “nghe” và “nhìn” thấy “Chúa.”

Đồng thiếp giữa giả và thật để hóm hỉnh nhạo báng các hạng “chúa tể” trên đời: Chúng chính là ma. Người bị ma giấu, mê hoặc trong một trận đồ, trở thành cuồng tín, nhảy nhót, đằng phi, đi mây về gió… vô tình làm trò đùa cho những cuộc chơi đồng thiếp, làm quân trong những trận “cờ người”?

Một hình thức “ma giấu” khác nằm trong truyện ngắn Cọp hú. Cọp hú (trong Kể chuyện) rút từ một huyền thoại miền Cà Mau. Người bị “cọp hú” cũng tương tự như bị quỷ ám, sẵn sàng dâng cả thể xác lẫn linh hồn cho cọp. Cọp hú là một hình thức ngụ ngôn thấm đậm màu sắc địa phương, dân dã, một mặt nói lên những mu muội của người ăn phải bả cọp (ngoại bang hay lý thuyết ngoại bang), quay trở lại “ăn thịt” đồng bào ruột thịt mình.

Côn Lôn là một ngục tù lũy thừa bốn: ông, cha, con, cháu. Kẻ ở trên đảo là kiếp tù ông. Trong đảo có banh (bagne), kẻ ở trong banh là kiếp tù cha. Trong banh có khám, bị nhốt trong khám là tù con. Tù con mà còn bị còng chân là tù cháu. Đó là thân phận tù trong tù.

Qua bốn cửa ải, vào vòng tận của khổ đau, trong cuộc đời gần 20 năm tù tội, Hồ Hữu Tường rất ít khi nhắc đến những đọa đầy thân xác trong tù, họa hoằn viết một vài hàng như: “tôi lướt qua cơn dông tố mà ba phần tư anh em, vì yếu đuối vượt qua không nổi, phải gởi xương ngoài đảo.”

Tù trong tù giúp chúng ta hiểu tại sao Hồ Hữu Tường có đủ nghị lực để vượt lên những cơn dông này: phải có một hoạt động tinh thần hàng ngày, phải tìm cách “đằng phi trên vòm trời tư tưởng.”

“Ấy là tôi có được người bạn đường (Nguyễn An Ninh) để ông phi trên vòm trời tư tưởng.

Nhờ sự đằng phi trên vòm trời tư tưởng ấy, xét nét lại cả những hệ thống triết học, tôn giáo, tư tưởng, mà tôi quên rằng thời gian qua mau hay là quên chú ý đến những khổ cực nặng nề của đời tù con.” (Tù trong tù, Nợ tinh thần, Huệ Minh, 1965, trang 71)

Hồ cố gắng vươn lên, từ đớn đau của thể xác và tối tăm của định mệnh, một đời sống tinh thần phong phú, liên tục, một sức sáng tác không ngừng, trong tim, trong óc. Bao nhiêu người chết gục trong tù, riêng Hồ, để khỏi chết, trầm tưkể chuyện, sáng tác “nhẩm,” hoặc viết, mặc dầu biết cái viết của mình đôi khi chỉ làm mồi cho mối mọt. Đó là bí quyết tồn tại. Lối “kể chuyện” của Hồ Hữu Tường, một lối kể bình dân, truyền thống như Nguyễn Đình Chiểu, như Hồ Biểu Chánh… rất miệt vườn, gắn bó với vùng đất mới Hậu Giang, nhưng đã biến dạng thành một lối kể đa diện và luôn luôn biểu lộ những suy tư của tác giả về cuộc sống, về sáng tác. Tiêu biểu nhất có lẽ là hai truyện Nàng mọt sách (trong Kể chuyện) và Chuyện con thằn lằn chọn nghiệp (trong Nợ tinh thần).

***

Nàng mọt sách là một truyện thần tiên, không dựa theo cổ tích mà do tác giả sáng tạo. Truyện bắt đầu bằng những hàng: “Ngày xưa … Ở đất Hậu Xuyên có chàng học trò nọ, họ Hồ, tên Lân- Trinh, tự là Khổng Cưu…”

Lối mở đầu này cho thấy ngay đây là một tự truyện vì cả Lân Trinh lẫn Khổng Cưu đều là biệt hiệu của Hồ Hữu Tường.

Lân Trinh nghèo lấm, không có tiền mua sách để đọc. Gặp buổi loạn ly, chàng phải lánh nạn ở một cái am nhỏ của một vị đạo sĩ. Một hôm quét am, Lân Trinh lượm được cuốn sách xưa, mừng quá mở ra đọc, thì than ôi, không trang nào nguyên vẹn. Một con mọt hai đuôi đang vội vã lẩn trốn, định giơ tay giết nó, nhưng không nỡ vì chàng tự hỏi nó ăn sách để sống cũng như ta ăn cơm vậy, có tội lỗi gì? Không ngờ con mọt là hậu kiếp của Tiên Dung, con gái Ngọc Hoàng. Xưa Ở Thiên Đình, nàng phải hâm rượu cho cha đãi quần tiên, nhưng vì mê đọc sách làm cạn cháy rượu đào, bị vua cha đầy xuống trần gian. Tiên Dung xin được làm kiếp con mọt để đi hết nhân gian tìm lại cuốn sách quý mà nàng mới lật vài trang, chưa kịp đọc hết (trong tủ sách Thiên Đình). Đây là một truyện ngắn xác định văn tâm và văn tài của Hồ Hữu Tường, quảng bá tư tưởng “văn hóa trị.” Về giai đoạn văn trị ở hạ giới, sao Thái Bạch tâu với Ngọc Hoàng: “Sở dĩ loài người đang ngoan ngoãn thế này, ấy bởi họ đương trải qua một hồi “văn trị.” Họ không mê say việc chiến đấu, giết lẫn nhau. Họ không thèm nghĩ đến việc hại nhau, lừa nhau.”

Ở thời kỳ văn trị này, loài người chỉ có một lối tranh đấu duy nhất là chọn con đường văn tự (gọi là thơ). “Thơ có thể làm cho con người say mê như mê gái đẹp,” đó là một “tôn giáo mới mà giáo chủ là Nàng Thơ”. Kẻ tín đồ của tôn giáo này cũng say mê, cũng khổ hạnh, cũng phải hi sinh, đôi khi tử vì đạo. Thỉnh thoảng cũng có kẻ “đắc đạo.” Kẻ đắc đạo sẽ lên cõi Tao Đàn, trở thành Tiên, và Tiên được các tín đồ gọi là Thi sĩ. Thi sĩ không cần uống thuốc trường sanh mà vẫn bất tử. Mỗi vị để lại những phù chú riêng của mình, ghi lại trong những thứ gọi là sách. Mỗi tín đồ, muốn tìm đến vị Tiên của mình thì chỉ việc giở sách ra là có thể đàm đạo được. Nghe Thái Bạch “báo cáo” những đặc điểm của chính sách văn trị ở hạ giới, Ngọc Hoàng sinh lòng ham muốn, bèn truyền cho các vì sao đi khắp nhân gian, thu lượm các kiệt tác văn chương đem về “nộp bổn,” tạo ra tủ sách Thiên Đình cho chư Tiên, Phật cùng thưởng lãm. Ngày lễ khánh thành thư viện, Tiên Dung, con gái Ngọc Hoàng, vì đam mê những kỳ lạ trong văn phong và tư tưởng của loài người nên mắc nạn, bị đầy xuống trần. Sự đầy đọa này lại đáp ứng đúng nguyện ước của Tiên Dung: muốn thoát khỏi thiên đàng “vô văn hóa” để đến với hạ giới văn hóa. Tiên Dung xin làm kiếp mọt để thỏa mãn đam mê tha thiết và nhỏ nhoi nhất của mình: Xuống trần để được sống trong “cõi văn,” tìm lại cuốn sách hay mà nàng đang đọc dở. Sống kiếp mọt… bao lần bị loài người giết… nàng vẫn tái sinh thành mọt, Tiên Dung có tìm thấy hạnh phúc không? Hay chỉ là một kiếp lẩn tránh nguy cơ không ngừng bị tiêu diệt, mỗi lần gặp được một… “con người.” Hay chỉ là một trần gian bụi bậm, mà loài người đã bỏ rơi … văn. Sách vở không ai đọc, làm mồi cho… mối, mọt? Thời kỳ “văn trị” đã qua rồi, hay tất cả chỉ là ảo tưởng? Một thiên đường tưởng tượng, chưa bao giờ hiện hữu? Lân Trinh và Tiên Dung là một kiếp: Hồ Hữu Tường.

Nếu trong Nàng mọt sách Hồ Hữu Tường còn có những giây phút lạc quan, tin tưởng vào một thời điểm hạ giới văn trị mà loài người không chém giết nhau, thì ở Chuyện con thằn lằn chọn nghiệp Hồ nói lên tất cả những hoang mang, thất vọng của mình về con người võ trị.Chuyện con thằn lằn chọn nghiệp cũng là một tự truyện, mang tính bi đát của một “tiếng kêu trong sa mạc.”

Đó là chuyện một thiền sư già, tu đã sắp thành chánh quả. Vị thiền sư đinh ninh rằng Phật Thích Ca khi đặc đạo có dặn là hai nghìn năm trăm năm về sau -thời mạt pháp-, Di Lặc sẽ xuống trần cứu độ chúng sanh. Tính ngày, tính tháng, thiền sư thấy thời hạn đã đến. Vì vậy ông nguyện sẽ tụng đủ một nghìn lần kinh Di Lặc để được đắc đạo. Nhưng dự định của ông có con thằn lằn nghe được, bèn tìm cách ngăn cản, vì nó biết chắc là sau khi tụng kinh đến lần thứ một nghìn, thiền sư sẽ lên giàn hỏa, tự thiêu, để đến cõi Niết Bàn. Đêm ấy, vị thiền sư tụng kinh (lần thứ một nghìn) dưới đĩa đèn dầu lạc. Thằn lằn bèn bò lên bàn thờ Phật, dần dần uống cạn đĩa dầu cho đèn tắt, nhà sư không tiếp tục tụng kinh được nữa. Nhiều lần như thế, thiền sư không hiểu nguyên do. Một đêm ông bèn vừa tụng kinh, vừa rình xem kẻ nào là thủ phạm vụ tắt đèn, và ông bắt quả tang thằn lằn tại trận. Nổi xung lên, nhà sư ngưng gõ mõ và mắng rằng:

“- Loài nghiệt súc! Té ra mi ngăn ngừa không cho ta được đắc đạo!

Rồi tay cầm dùi mõ, nhà sư nhằm ngay đầu con thằn lằn mà đập mạnh. Con thằn lằn bị đánh vỡ đầu chết ngay.”

Kiếp thằn lằn phải chăng cũng lại chính là kiếp của Hồ Hữu Tường? Suốt đời muốn ngăn chặn sự mù quáng, u mê, tự sát, chém giết… nhưng thất bại và chính bản thân mình bị đồng loại trù dập, triệt hạ.

Nhà sư phải chăng là cõi nhân sinh? Một nhân sinh tin vào những thiên đàng bánh vẽ , muốn tranh thủ niết bàn bằng mọi giá, bất kể phương tiện, thậm chí cả việc sát sinh?

Muốn cứu người ư?

Muốn độ người ư?

Thằn lằn phải làm cách nào mới đạt được kết quả? Vì không thể bắt buộc người rời bỏ sự mê tín, cũng không thể bắt buộc người phải hướng thượng. Đó là câu hỏi mà Hồ Hữu Tường muốn đặt ra cho chính mình. Dường như ông đã nhìn thấy sự không tưởng trong các lập thuyết hướng thượng, đồng thời cũng nhận thấy sự cô đơn tuyệt đối của mình trước định mệnh, nên ông viết:

“Hồn con thằn lằn từ ấy trôi theo mây gió, không biết trụ vào đâu. […] Thật chưa hề lúc nào có một linh hồn bị trừng phạt phải đau khổ đến thế.”

***

Đó là đoạn kết trong Chuyện con tin lằn chọn nghiệp viết năm 1953. Đến năm 1966, Hồ Hữu Tường viết thêm một đoạn, do Nguyễn Thái sưu tầm, in trên báo Quê Mẹ, số xuân 1983, nội dung ngụ ý:

Hồn thằn lằn vẫn muốn độ người. Nhưng loài người vì vẫn mắc tham sân si, nên tất cả đã phải đầu thai làm kiếp chuột. Muốn cứu người, thằn lằn bèn xin Thích Ca cho được đầu thai làm chuột, lấy tên Long Thử. Long Thử thấy loài chuột đông như kiến mà sợ hãi không dám chống lại một chú Mèo. Nó bèn kiếm kế rử Mèo vào bẫy, nhưng rút cục kế của Long Thử cũng không thực hiện được vì loài chuột quá hèn nhát và ưa phản bội. Cuối cùng Long Thử lại bị đem ra xử tử hình một lần nữa về tội “Thử gian.” Muốn cứu người không dễ. Bởi người không tự cứu.

Hồ Hữu Tường bộc lộ sự tuyệt vọng tuyệt đối về con người: không có cách nào cứu vãn được. Dù đầu thai đến kiếp thứ mấy, con người vẫn y nguyên như cũ, với tất cả tham sân si cố hữu. Nhưng cũng không thể không có những kiếp thằn lằn, suốt đời tìm cách cứu độ nhân sinh, đưa người hướng thượng nhưng vô hiệu và những kẻ chọn nghiệp thằn lằn biết chắc con đường mình đi sẽ không dẫn đến chỗ nào khác ngoài cái chết.

Hồi ký và tiểu thuyết

Tiểu thuyết là thể loại sáng tác phong phú nhất của Hồ Hữu Tường, có thể chia làm hai loại: xã hội và trào phúng.

– Khuynh hướng xã hội (đấu tranh) có những bộ Gái nước Nam làm gì?, gồm hai quyển: Thu HươngChị Tập (Nxb Sống Chung, 1949), Thuốc trường sanh, ba cuốn: Xây mộng, Phúc đức và Vẹn nguyền (Huệ Minh, 1964); Hồn bướm mơ hoa, bốn cuốn: Mai Thoại Dung, Ông thầy Quảng, Tam nhơn đồng hànhBủa lưới người (Nam Cường, 1966) và những tác phẩm khác như Kế thế, tiểu thuyết dã sử, (Huệ Minh, 1964), Người Mỹ ưu tư (tác giả xuất bản tại Pháp, 1968) viết về bối cảnh và thân phận những đứa con lai Mỹ-Việt

– Khuynh hướng trào phúng có bộ Ngàn năm một thuở hay Một thuở ngàn năm, gồm bốn quyển đã in Phi Lạc sang Tàu (Sống Chung, 1949), Phi Lạc náo Hoa Kỳ (Vanay, Paris, 1955),Tiểu Phi Lạc náo Sài gòn (Nam Cường, 1966) Diễm Hồng xuất giá (Nam Cường, 1966).

Tự truyện và hồi ký:Thằng Thuộc con nhà nông, tự truyện (An Tiêm, 1966) và cuốn hồi kýBốn mươi mốt năm làm báo (Trí Đăng, Sai Gòn; Đông Nam Á, Paris, 1984). Ngoài ra còn một cuốn hồi ký tiếng Pháp, Un fetu dễ paille dans la tourmente (Cọng rơm dập vùi), viết tại Paris năm 1969, chưa in.

Hồ Hữu Tường là một trong những nhà văn có cách viết tư thuật và hồi ký vô cùng duyên dáng, hóm hỉnh, mà lại phản ảnh được cuộc đời thăng trầm đầy sôi động của một người làm cách mạng bằng ngòi bút. Nhờ hai cuốn Thằng Thuộc con nhà nôngBốn mươi mốt năm làm báo mà người đọc không những có thể biết rõ tiểu sử, tâm sự, con đường đấu tranh và xuất xứ mỗi tác phẩm của Hồ Hữu Tường, mà còn thấy được chân dung và tâm tình của những nhà ái quốc khác như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu … trong bối cảnh hoạt động của họ, liên hệ đấu tranh, tư tưởng, tương quan lực lượng giữa những cá nhân hay đoàn thể đã hoạt động cùng thời với họ.

Với Thằng Thuộc con nhà nông, Hồ Hữu Tường vừa muốn xác nhận nguồn gốc nông dân, vừa muốn bác bỏ tính duy vật mà chủ nghĩa Mác Lê gán ghép cho họ: Hồ đề cao tính duy linh trong tâm hồn Việt như một cá tính độc đáo không thể loại trừ: tin tướng số, quỷ thần, sấm trạng, điềm, vận… Hồ không hề đứng ở địa vị nhà khoa học để phán xét nhân dân, ông luôn luôn đứng về phía quần chúng bình dân để nhìn đời. Toàn bộ triết lý sống của Hồ Hữu Tường dường như nằm trong mấu chốt đó, ông sống và viết như một nông dân chính hiệu. Muốn được như vậy, trước tiên, ông phải “là” nông dân (mặc dù có học). Hồ đã thành công trong sự :là” ấy. Từ lúc chưa ra đời, Hồ đã là “nông dân” trong lòng mẹ: sinh trong điềm và sấm. Hồ tự “khai sinh” cho mình trong lòng dân tộc, từ dân tộc tính Việt Nam.

Họ Hồ thật, gốc nông dân thật, ở Hồ không có dấu vết giả dối nào, từ nguồn gốc đến danh hiệu, có lẽ để đối chiếu với một sự giả mạo họ tên khác của người cùng thời trong lịch sử.

Gia đình họ Hồ, khi Tây Sơn thua, chạy đến miệt Cái Răng là đã kiệt quệ lắm. Hồ Hữu Tường thuật lại rằng: “Tía tôi, Hồ Văn Sây, lớn lên trong cảnh nghèo nàn, thất học từ nhỏ, ông được cả lang chú ý vì tánh tình ngay thẳng, cương trực, hiền lành” (Thằng Thuộc con nhà nông, trang 14- 15). Mẹ Hồ Hữu Tường, bà Võ Thị Nữ, tuy con nhà giàu nhưng mồ côi cha năm mười hai tuổi, mẹ tái giá để con lại cho bà cô (giàu) nuôi; cô gả Nữ cho Sây (người làm công) vì muốn cháu gái có chồng họ Hồ, “Họ của ba vua” (Quý Ly, Thái Đức, Quang Trung).

Ngoài cha mẹ, Hồ Hữu Tường còn nhắc đến một nhân vật khác, khá huyền bí là Thầy Quảng (gọi là Thầy Quảng vì có giọng nói Quảng Nam). Thầy Quảng, người đỡ đầu, vừa là thầy bói, vừa là đạo sư, và là đảng trưởng đảng Bửu Sơn Kỳ Hương, đã ảnh hưởng sâu xa đến cha con Hồ Hữu Tường. Khi Hồ ra đời, Thầy Quảng bói một quẻ: “Năm Canh Tuất, tháng ba, ngày hai mươi chín, giờ dần thì tốt lắm, mà cũng xấu lắm. (Nếu) Không có “Tuần” và “Triệt” thì số này là số Đế vương…” (trang 24). Rồi Thầy Quảng đặt tên : “… đặt tên cho nó là Hồ Hữu Tường, nghĩa là họ Hồ có điềm lành. Nó có “văn xương”, “văn khúc” thì ắt không phải là nông dân như ông cha. Ít nữa cũng là một văn sĩ. […] Vậy tôi đặt cho nó cái tự là Khổng Cưu, ứng vào câu “khổng cưu đắc hữu tường.” Khổng là to, cưu là bói, Khổng Cưu Đắc Hữu Tường là bói một cái bói to mà được điềm lành.” (trang 26). Thầy Quảng còn đặt tên hiệu là Bửu Liên (vì hôm sánh Tường, tía nằm mộng thấy có người đem tặng một đóa sen quý). Tất cả những “điềm”, “số” và “sao” như vậy đã “vận” vào Tường từ lúc ra đời: Tường mang “mệnnh đế vương,” chào đời với “sứ mạng hưng vượng dòng họ” “tân tạo quốc gia”, “giải phóng dân tộc.” Rủi thay, cái tên chữ “Hữu Tường” đang gánh những kỳ vọng “hay ho” như vậy lại bị kỵ húy đúng tên ông dượng ghẻ (chồng thứ nhì của bà ngoại), Hữu Tường bèn bị tía đổi tên là thằng Thuộc cho gọn, bởi nó đọc đâu thuộc đấy!

Đó là thủ pháp “kể chuyện” của Hồ Hữu Tường: đem xuất xứ dòng họ đặt lên đỉnh, có lẽ muốn giải thích thái độ cao ngạo của mình, rồi đùng một cái, lật ngược đỉnh xuống đáy bằng chính “nội dung” lời kể: Thằng Thuộc lật nhào Hữu Tường, chữ nôm đánh đổ chữ Hán, nguồn gốc nông dân đánh đổ nguồn gốc đế vương… Nghệ thuật ở đây là hạ bệ. Sự hạ bệ này còn nhiều lối hành ngôn khác không kém phần thâm thúy, cao ngạo và hóm hỉnh: ví dụ về cuộc gặp gỡ chính trị với nhân vật đệ tam là Tôn Quan Phiệt. Sau khi gặp Hồ Hữu Tường và Tạ Thu Thâu, Tôn Quang Phiệt kể lại với Đào Duy Anh rằng: “Hai đứa nó là kỳ tài phải lắm. Tạ Thu Thâu tướng con vượn. Hồ Hữu Tường tướng con khỉ đột. Con vượn yểu tướng, e Tạ Thu Thâu chết sớm. Con khỉ đột sống dai hơn. Đào Duy Anh thuật lại lời ấy rồi, thì vài tháng sau, tôi nghe Tạ Thu Thâu bị giết ở Quảng Ngãi” (sđd, trang 45). ở đây ông đặt hai cặp phạm trù đối cực: kỳ tài-khỉ vượn, chuyện tếu-bị giết, trong một câu, khiến hai “đối cực” ấy tự triệt tiêu nhau, một cách tương đối hóa, hài hước hóa những chuyện không hài hước (ám sát, thủ tiêu …). Hồ Hữu Tường tạo cho cuộc đời một chiều kích mới: tất cả đều có thể nhìn dưới con mắt khoan dung, độ lượng, nếu ta coi sống, chết, như những cuộc chơi, mà sự “mất”, “còn”, đáng cười hơn đáng khóc. Chỉ với nhân sinh quan như thế, Hồ Hữu Tường mới có thể sống còn trong những cuộc thanh trừng, trại tù mà Côn Lôn khét tiếng là mồ chôn người yêu nước.

Hồi ký Bốn mươi mốt năm làm báo, viết vào khoảng năm 1971, do Trí Đăng xuất bản tại Sài Gòn, và Đông Nam Á in lại ở Paris năm 1984, là một tác phẩm giá trị về hai mặt tư liệu lịch sử và nghệ thuật viết hồi ký. Đây là một thiên phóng sự đầy tính phóng túng và hài hước về suốt giai đoạn từ 1930 đến 1971, trong cuộc đời hoạt động cách mạng và làm báo của Hồ Hữu Tường cùng với những nhà cách mạng khác, các bậc đàn anh như Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền hoặc những bạn đồng hành như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, v.v… một thế hệ thông minh xuất chúng, coi ngục tù, cái chết như không, loại những bi thảm bằng tiếng cười, và trên tất cả là lý tưởng giải phóng quê hương và niềm tự hào dân tộc.

Với nghệ thuật kể pha trộn cả bi lẫn hài, giao thoa ký ức và tư liệu lịch sử, Hồ Hữu Tường đã vẽ được những chân dung cực kỳ sống động của Nguyễn Thế Truyền, Phan văn Trường, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Trịnh Hưng Ngẫu, Phan Văn Hùm… với những giai thoại lý thú như: nguồn gốc cái tên Nguyễn Ái Quốc, làm báo “nhẩm” Thiên Thu, mối tình Bruxelles, Nguyễn An Ninh bán dầu cù là, Phan văn Hùm dậy Hồ Hữu Tường viết văn Việt…

Tiêu biểu cho tác phong hài hước hoá những chuyện nghiêm chỉnh, có thể kể màn Nguyễn An Ninh dạy thanh niên phân biệt đệ tam với đệ tứ:

“- Mấy em còn nhỏ, chưa biết vợ con. Thế nào ra đời rồi cũng phải cưới vợ. Vậy để qua dậy cho em học làm chồng có lẽ có ích lợi hơn là học làm cách mạng với mấy anh đó, nói cái gì mà mấy em không hiểu. Đây qua hỏi các em vậy chớ l… có mấy lỗ? Đừng có cười chớ! Các em làng chàng, không học bài căn bản này, rủi làm bậy vợ nó chết thì làm sao?

Mấy cậu thanh niên ngơ ngác nhìn nhau, thì Ninh dậy: “- … có ba lỗ, một cái lỗ để đái, một lỗ để đẻ và một lỗ để đ… các em phải thuộc cái đó bằng không thì không được đa!

Bọn trẻ cười lăn, nhưng cũng nghe Ninh kết luận:

– Ừ thì Đệ tam một lỗ, Đệ tứ một lỗ, và con đường dân tộc cũng một lỗ. Các em làng chàng đi sai đường, thì không khác nào cưới vợ mà đ… sai lỗ vậy (…)

– Ừ thì các em cứ cười cho đã đi, rồi nghe qua nói một câu nầy. Tất cả con trai cưới vợ, nào để nhìn nó đái? Như nghèo, thêm sợ nó đẻ. Chỉ muốn cưới vợ vì cái chuyện vợ chồng mà thôi. Thì Đệ tam hay Đệ tứ gì thì cũng ví như đái và đẻ. Chớ toàn dân thảy đều muốn cuộc cách mạng dân tộc, giải phóng dân tộc mình khỏi gông cùm ngoại bang. Có phải vậy không?” (Hồi Ký, trang 99-100)

Lối tái tạo chân dung Nguyễn An Ninh trên đây đã làm sáng tỏ một lúc hai nhân cách: Một Nguyễn An Ninh hóm hỉnh tuyệt vời, đi vào lòng quần chúng qua ngả tư biện hài hước, dùng thực chứng để giải thích những lý thuyết khô khan về chính trị, dùng tục để đáp với thanh. Một Hồ Hữu Tường xuất sắc trong nghệ thuật: không “tả” Ninh mà “kể” Ninh, nhưng sự “kể” của ông cũng là “tả”: ông đồng hóa nghệ thuật kể và tả. Từ lời nói hóm hỉnh của Nguyễn An Ninh toát ra lòng yêu nước của người anh hùng, nhưng nét đặc biệt ở người anh hùng này, Ninh là “người” trước và “hùng” sau, hoặc ít ra “người” đi đôi với “hùng”, khác những thần tượng thường được suy tôn: chỉ có “hùng” hết là “người”.

Nguyễn An Ninh, qua lời kể của Hồ Hữu Tường là một nhân vật anh hùng phản anh hùng, pha trò, nói tục, cám dỗ thanh niên bằng tâm hồn trào phúng, bằng biện chứng phản biện chứng, bằng ngôn ngữ gợi hình độc đáo, ý nhị. Cái tục ở Nguyễn An Ninh-Hồ Hữu Tường là tục đắc địa, tục của những người có bản lãnh, tục mà vẫn giữ được đạo theo nghĩa Bồ Đề Đạt Ma: siêu tục, siêu tục dẫn đến những nụ cười Xuân Hương, Duy Tốn. . . rất thế tục, khác hẳn với cái dung tục tầm thường, không nghệ thuật, tục để mà tục, ít khi phản ảnh một thực tại sống thật nào.

Trào phúng đối với Hồ Hữu Tường trở thành một liều “thuốc trường sanh,” chữa bách bệnh, là dưỡng khí nuôi sống người tù. Ký ức tù của ông khác với nhiều người, không chứa khổ đau, không gây căm phẫn, hờn oán. Dường như, những điều ấy không có gì đáng nói, đáng kể; điều đáng ghi lại là những trầm tư của một “tên tội tử hình,” nghĩ về tương lai dân tộc hoặc những giây phút hạnh phúc của đời tù: kể chuyện Tàu, làm báo nhẩm, sự “bột phát” của tác phẩm nhẩm: Phi Lạc hoài thai từ nền văn chương nhẩm với những tiểu thuyết đã “có màu Tự Lực Văn Đoàn lắm.”

Tất cả những hình thức sáng tác nhẩm này, là để chữa căn bệnh biệt giam “bị nhốt với người khác còn trò truyện mà trí khuây khoả (…) Chớ bị nhốt một mình, thì mình luôn luôn nói chuyện với mình, mệt trí không tưởng tượng nổi. Có khi câu chuyện mình nói với mình khuya rồi mà chưa dứt, thì tiếp tục nói hoài, sanh ra bịnh mất ngủ. Mà hễ mất ngủ luôn, thì dễ sang qua điên.” (Hồi Ký, trang 54).

Toàn bộ tập hồi ký là một giọng coi thường cái chết, tương đối hóa khổ đau, hài hước hoá những trầm trọng, bi kịch; coi tất cả chỉ là đùa chơi, không có gì quan trọng. Từ những kinh điển, những “tư tưởng lớn,” đến những lý tưởng, lập thuyết, cái gì cũng có mặt trái của nó. Hồ Hữu Tường vạch mặt trái của tất cả kể cả chính mình, vì vậy mà ông chiếm được lòng tin của độc giả qua những điều tự thuật, rất có thể “có chỗ bịa” nhưng bịa y như thật, điều mà ông không mấy thành công trong địa hạt tiểu thuyết xã hội.

Tiểu thuyết của Hồ Hữu Tường thường dài dòng và hay giải thích, phần tâm lý nhiều khi sơ sài, giả tạo, nhưng ông có óc hiện thực xã hội, óc tưởng tượng và óc trào phúng rất cao.

Ở loại xã hội, Hồ Hữu Tường dùng tiểu thuyết như một phương tiện tuyên truyền, xác định lập trường yêu nước; ở loại trào phúng, tiểu thuyết của ông phủ định tất cả: chế giễu chính trị, phê phán xã hội, đả phá những “trịnh trọng” của lập thuyết, coi tất cả là chuyện tiếu lâm, hài hước, tán dóc, tán nhảm. Hai khuynh hướng này đối lập nhau, tiêu biểu hai nét tương phản trong con người Hồ Hữu Tường: Có một Hồ Hữu Tường nghiêm chỉnh, ưa lập thuyết và một Hồ Phi Lạc trào lộng, đánh đổ tất cả những gì có tính cách lý trí, biện luận.

Hai cuốn tiểu thuyết xã hội đấu tranh đầu tiên của ông là Thu HươngChị TậpChị TậpThu Hương, viết năm 1949, trong bộ Gái nước Nam làm gì? là kết quả của một thử nghiệm “tiểu thuyết mới” mà ông cho biết là đã bàn bạc với Khái Hưng ở Hà Nội năm 1945, và trao đổi thêm với Đông Hồ ở Sài Gòn. Chị Tập và Thu Hương tiêu biểu cho hai từng lớp đấu tranh trong giai đoạn đầu cách mạng. Tập xuất thân từ quần chúng lao động, Thu Hương trí thức, tiểu tư sản, thành thị. Thu Hương được mô tả qua hình ảnh cô Cúc sau này là nha sĩ, kiêm điêu khắc gia Điềm Phùng Thị, mà thời ấy, tác giả có quan hệ tình cảm. Ông viết Thu Hương theo lời “yêu cầu” của “người đẹp” và lại ký bút hiệu Duy Cúc. Thu Hương trong truyện là sinh viên trường thuốc Hà Nội, đảng viên một đảng cách mệnh bí mật, một cô gái đẹp và gan dạ, dám cướp sân khấu để tuyên truyền, dám ám sát giữa thành phố,… Chị Tập, con nhà nghèo, bị cha mẹ đem bán, trải bao khổ đau, tù tội, sống chung với trộm cướp và những người làm cách mạng. Được thả, Tập trở thành đảng viên đắc lực, nhận những công tác nguy hiểm, cổ động tuyên truyền, đình công bãi thị, buôn lậu, làm thổ phỉ, cướp khí giới Nhật, xây dựng chiến khu … Hai phụ nữ, hai giai cấp, hai trình độ, gặp nhau trong kháng chiến, tạo ra những mẫu người lý tưởng, huyền thoại mà thời đó rất cần.

Viết Thu Hương, Chị Tập, Hồ Hữu Tường đã dùng tiểu thuyết để tuyên truyền cho lý tưởng cách mạng, ông đặt vấn đề làm sao kết hợp các thành phần xã hội khác nhau, các đảng phái khác nhau? Làm sao đánh động lòng yêu nước? Làm sao củng cố lực lượng du kích? Làm sao khắc phục những khuyết điểm để đi đến thành công? Đó là thời kỳ Hồ Hữu Tường còn trẻ, còn tin vào sứ điệp cách mạng.

Trong thời kỳ ở Côn Đảo lần thứ nhì, ông viết hai bộ trường thiên khác, nói lên sự chán nản của mình trước các trường tranh đấu. Bộ Thuốc trường sanh in năm 1964, lấy bối cảnh kháng chiến Nam Bộ những năm 50-52. Nhân vật chính là Tuyết Lê và bác sĩ Tâm, những người trí thức không cộng sản, từ thành vào bưng, theo kháng chiến. Họ có nhiệm vụ phải tìm cho ra một thứ “thuốc trường sanh,” như một phát minh khoa học tân kỳ, đem uy tín cho cách mạng. Muốn bào chế thuốc trường sánh, thì phải lấy được chân con cọp Mun, nổi tiếng chúa tể vùng Hậu Giang. Cuối cùng, Tuyết Lê và Tâm hạ được cọp, nhưng cũng lại sa vào nanh vuốt của cọp.

Thuốc trường sanh nói lên sự mất mát niềm tin, nói đến sự cô đơn tập thể, những chán nản hầu như tuyệt vọng về những nẻo đường kết hợp dân tộc. Tất cả chỉ là nghi ngờ và thủ đoạn, là cô đơn và chia rẽ. Thuốc trường sanh là tâm sự của những người “ngoại đạo,” muốn nhập vào dòng chính thống cách mạng, nhưng không thể được. Kết quả là phải đào thải, chia lìa.

Tập Hồn bướm mơ hoa cũng là một trường thiên tiểu thuyết phiêu lưu, tranh đấu, có tính chất “ngự lâm pháo thủ,” viết về những người thân quyến hoặc còn lưu luyến nhà Tày Sơn, lưu lạc vào Nam, quyết dựng nên tổ chức Bửu Sơn Kỳ Hương, chống Nguyễn, nhưng việc không thành. Hồn bướm mơ hoa có những trang rất hay về đời sống sông lạch miền Hậu Giang, cảnh tù vượt Côn Đảo, tâm trạng của con người trong “xã hội Nam Kỳ” theo đuổi ngấm ngầm lý tưởng, hoài bão “tự trị,” nhưng chưa thực hiện được. Hồn bướm mơ hoa ấp ủ giấc “mơ hoa” của “cánh bướm” Hữu Tường: muốn chọn con đường thứ ba cho đất nước, nhưng không ai theo, không ai tin, tất cả chỉ là thất bại.

Tiếc rằng phần lớn truyện dài của Hồ Hữu Tường đều dựa trên những cốt truyện quá “tiểu thuyết,” những nhân vật quá giả tạo, bởi ông luôn luôn muốn thổi phồng người đàn bà. Không kể Ngọc Mân trong tiểu thuyết dã sử Kế thế, thuần tính huyền thoại, từ Thu Hương, chị Tập đến Tuyết Lê, Mai Thoại Dung, Lệ Dung-Mỹ Dung trong Hồn bướm mơ hoa hay Loan, Phượng trong Người Mỹ ưu tư … đều là những mẫu người khó tìm thấy trong cuộc sống, vì họ giỏi quá hoặc cao thượng quá. Họ không thật. Ngoài ra, những cảnh huống mà Hồ đẩy nhân vật vào, thường gượng ép. Ví dụ Tuyết Lê và bác sĩ Tâm tìm cách “sáng chế” thuốc “trường sanh” trong bưng biền. Ai tin được? Rồi hai người lại tự sống chung như một cặp vợ chồng “giả”. Việc Mai Thoại Dung đem tất cả gia sản của mình cúng cho thầy Quảng (anh hùng phái nam, hiếm hoi trong truyện của Hồ Hữu Tường) để xây dựng đảng Bửu Sơn Kỳ Hương, bỏ con, bỏ cái theo “lý tưởng”. Rồi cặp bài trùng “Lệ Dung-Mỹ Dung” cũng là những tay “quái kiệt”; Lệ Dung vừa đẹp, vừa thông minh, mưu lược (cỡ Tuyết Lê), Mỹ Dung võ nghệ cao cường, tâm hồn tuyệt vời cao cả, “gả” chồng mình cho Lệ Dung vì “đại sự”. Những chi tiết này làm giảm sút giá trị bộ Hồn bướm mơ hoa, có lẽ là hay nhất trong loạt tiểu thuyết xã hội phiêu lưu của Hồ Hữu Tường, vừa có những tình tiết ly kỳ, hấp dẫn kiểu Dumas, vừa vạch ra được những nét đạo đức và lý tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương của người Nam Bộ.

Cuốn Người Mỹ ưu tư viết tay, tác giả tự xuất bản tại Paris năm 1968. Khởi đầu in hàng ngày trên nhật báo Sống, theo Hồ Hữu Tường cho biết ở trang đầu, thì bác sĩ Trần Ngươn Phiêu đã kêu gọi được gần mười ngàn người ký tên đề cử Người Mỹ ưu tư tranh giải thưởng Nobel. Người Mỹ ưu tư muốn đưa ra một vấn đề thời sự xã hội rất thương tâm : vấn đề con lai Mỹ-Việt và đòi hỏi một sự công bằng trong lương tâm tòa án. Để “thay lời tựa,” Hồ Hữu Tường viết năm lá thư gửi văn hào J. Steinbeck, những bức thư này nhắc nhở tác giả Chùm nho uất hận đến thực tại phũ phàng của những đứa con lai Mỹ-Việt, đặt câu hỏi với lương tâm của một người đã từng cảm thông nỗi bất hạnh của những kẻ bị áp bức, khốn cùng. Ngày hôm nay, trong lương tâm ấy còn sót lại giọt nước mắt nào cho những người đàn bà lỡ làng bụng mang dạ chửa đứa con lai:

“Ông cỡi phản lúc mà đi vào chiến trường […] Nhưng tôi cũng tin rằng ông không làm sao vào những xóm tồi tàn nhà lụp xụp làm bằng các hộp bỏ mà nghe những câu chuyện thương tâm của những bà mẹ bóp mũi con chết, chỉ vì hài nhi có mắt đục, tóc hoe và không cha.”(trang 42-43)

Tiếc rằng cuốn Người Mỹ ưu tư tiếp đó lại rơi vào hướng khác. Hướng của một truyện dài trinh thám với những chi tiết éo le, những nhân vật chính đều có những hành tung ly kỳ và nhất là Loan Phượng có những nét “phi phàm,” khó chiếm được lòng tin của độc giả.

Sở trường của Hồ Hữu Tường là tiểu thuyết trào phúng. Phi Lạc là một trong những nhân vật nổi tiếng của tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX. Chính Hồ Phi Lạc đã làm “thành danh” Hồ Hữu Tường. Bộ Ngàn năm một thuở gồm bốn cuốn đã in, nhưng chỉ cuốn đầu, Phi Lạc sang Tàu là thành công hơn cả. Những cuốn sau, viết vội, viết nhiều, đâm nhàm, làm giảm giá trị toàn bộ.

Là một thứ Ngộ Không made in Việt Nam “thời mới,” Phi Lạc làm nổi bật những nét “đặc thù” trong “dân tộc tính” Việt Nam: dốt nát, khoác lác, thấy người sang bắc quàng làm họ, tự cao tự đại nhưng lại ranh vặt và ưa nịnh hót … Những nét “đặc thù” này, không chỉ nằm trong “bản chất” Phi Lạc mà dường như chúng là “nội dung tư tưởng” của toàn thể nhân quần xã hội: từ thằng mõ đến ông tiên chỉ, từ ông tiên chỉ đến các vị bác học, anh hùng, đời trước, đời này, thảy đều rất tuồng, rất rỗng, khôi hài và bi đát.

Bi hài kịch của Phi Lạc bắt đầu từ… nguồn cội: Nó vốn là thằng mõ làng Phù Ninh, vô học, nhưng trót giả danh dòng dõi họ Hồ, có bà con với Hồ Thơm Nguyễn Huệ. Sự phét lác của nó đến tai thằng mõ Cổ Nhuế, một tên bịp bợm khác. Nhân muốn trả thù mõ Phù Ninh, Cổ Nhuế bèn “bán đứt” Phù Ninh cho sư Hồng Hạc, một vị chân tu người Tàu, được sứ mệnh xuôi Nam, tìm đến “thảo lư” rước Khổng Minh hiện đại về làm thánh sư, với nhiệm vụ phò Minh đuổi Thanh, phục quốc. Câu chuyện đưa ta vào một thế đồ bát quái, một thứ tiểu thuyết chiêu hồi lối Tàu, mà chống Tàu, trong đó tất cả những địa danh, tên người như Phù Ninh, Cổ Nhuế, Hồ Thơm, Hồ Thích, Phi Phúc, Phi Lạc… đều có những ẩn nghĩa trào phúng, dây mơ rễ má với nhau, đều có thể đảo lộn trật tự chính-tà, thật-giả, nhanh như chớp.

Tại sao sư Hồng Hạc lại có sứ mệnh đi Nam tìm thánh? ấy bởi bốn câu sấm đồ rằng của Minh Thành Tổ. Tại sao tìm đến mõ Phù Ninh? Bởi làng Phù Ninh (quê Ngọc Hân) ắt hẳn phải “sản xuất” ra con cháu… Hồ Thơm. Tại sao Hồng Hạc lại tin lời mõ Cổ Nhuế? (làng Cổ Nhuế vừa nổi tiếng buôn phân vừa chuyên sản xuất nhân tài, Cổ Nhuế xứng danh với Hồ Thơm) vì Hồng Hạc “tham khảo” ý kiến cụ Bác Cổ Viễn Đông Nguyễn văn Tố và chính cụ Tố “giới thiệu” mõ Cổ Nhuế cho Hồng Hạc như một sư phụ chuyên trị “cái biết” mà chẳng cần dựa vào “sách nào, trang mấy, tờ a hay tờ b, dòng thứ mấy” …

Tất cả những vòng vo rất tam quốc này, nói lên tính chất lằng nhằng bòng bong của cuộc sống, nhưng đồng thời cũng bộc lộ tính hú họa, mà người ta thường gọi là “ngẫu nhiên” của cuộc đời: Sai một ly, đi một dặm. Một sự nói láo có thể dẫn đến hậu quả hy mã lạp sơn hay tai ương chín tầng địa ngục. Nhất là khi những cái “hú họa” ấy lại được các vị bác học kim cổ như Hồ Thích đem ra phân tích và cho nó một “chứng từ” (trường hợp cái tên Hồ Phi Lạc) thì phải biết là uyên bác.

Phi Lạc sang Tàu là một tác phẩm phản kháng toàn diện. Một sự nổi loạn chống lại tất cả các hình thức từ chương, khuôn mẫu bào chế tư tưởng, chế nhạo những sự “mượn nhầm họ” mà họ Hồ là “nạn nhân” thời đại. Sự phản kháng của Phi Lạc có nguồn gốc sâu xa từ tự ái dân tộc, từ tình yêu dân tộc, nằm trong máu-óc Hồ Hữu Tường. Ông dùng một nhân vật cùng đinh, cùng khổ: thằng mõ (Cổ Nhuế hay Phù Ninh), cho nó làm đảo lộn trật tự tiên chỉ, làng xã; nó được thỉnh sang Tàu, sang Mỹ, sang Nga, như một cố vấn, một vị phu tử; nó làm “khuynh đảo” những “nền văn minh vĩ đại” bằng sự… tán dóc, nói láo. Sự đại náo của Phi Lạc, cũng như sự đại náo của Ngộ Không, tiêu biểu cho cuộc cách mạng thường trực của tư tưởng: luôn luôn phải đặt lại vấn đề, chống lại những trật tự có sẵn của những bậc thánh hiền hoặc giả hiền.

Trong Phi Lạc sang Tàu, Hồ Hữu Tường tấn công vào vạn lý trường thành của một ngàn năm đô hộ: Người Việt đã trở thành một thứ con nuôi của nhà Hán, sách vở “mở ra thì nếu không phải là ‘Tử viết’ thì cũng là một anh ba Tàu nào đó viết, chớ không có ai trích lục tư tưởng của một người Việt nào đó để mà viết.”

Đối với Hồ Hữu Tường, sự thần phục người Tầu trên hơn hai ngàn năm, phát xuất trên núi từ Khổng Tử, Mạnh Tử, rồi hạ san xuống đến Mao, hậu Mao… như một feuilleton hồi đoạn, một sự xuống dốc ăn theo độ trượt không phanh của nước Tàu.

Để chống lại sự leo thang xuống dốc ấy, Phi Lạc như một con rối, đứng ngã ba đường, huơ tay, huơ chân, đánh trống, khua chuông, hú hồn những nhà tư tưởng Việt Nam như Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm, như Đức Phật Thầy Tân An, như Cống Quỳnh… về nhập thế. Họ nhập vào Phi Lạc, nói ra những điều “minh triết” trong tư tưởng Việt.

Hình thức truyện nhại Tây Du, có chia hồi như Tam Quốc Chí. Cuộc Tàu du của Phi Lạc gần giống như cuộc Tây du của Ngộ Không và Hồng Hạc là hiện thân của Đường Tam Tạng. Tại sao lại đi Nam? Vì “xét ra không đâu mà Phật giáo được thịnh hành như ở cõi đất Nam này.”

Hồng Hạc, muốn phiêu du, bèn vào trong một cái liêu để nhập thiền. Đang phiêu phiêu thì thấy một đứa trẻ ngâm mấy câu thơ, làm người giật mình tỉnh dậy, té ra là nó đang đọc Sấm Trạng Trình… Người bèn theo hướng sấm dẫn dắt mà đi ra khỏi Sài Gòn, đến Đa Kao gặp Cầu Bông, qua cầu tới một nơi khói hương nghi ngút. Hỏi ra là đền thờ Tả quân Lê Văn Duyệt. Tả quân thương tình, gọi sư Hồng Hạc ra mà giới thiệu với nhà khảo cứu nổi tiếng nhất nước Nam là Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, và chính nhờ sự bác học của cụ Tố mà sư Hồng Hạc tìm được thánh nhân Hồ Phi Lạc, đưa về Tàu tôn lên làm cố vấn.

Hồ Hữu Tường đã thay Huyền Trang bằng Hồng Hạc, Ngộ Không bằng Phi Lạc và Tây Trúc bằng làng Phù Ninh. Một sự Việt hóa điển tích và chế biến kinh điển thành chuyện tiếu lâm hài hước, trong một thế giới mà Tả quân Lê Văn Duyệt đối thoại với Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố mà thằng mõ Cổ Nhuế, Phù Ninh, trò truyện chính chị, triết lý, văn chương với Khổng Minh, Hồ Thích. Phi Lạc sang Tàu quảng bá cho đảng Bửu Sơn Kỳ Hương, cho nó một ý nghĩa lịch sử chính trị trong sự chế giễu xã hội và các biện chứng của lý trí: đưa ĐiềmSấm ra như một ý thức dân tộc (duy linh) chống lại cái duy vật vô thần.

Phi Lạc sang Tàu còn là tiếng cười cay đắng của người dân nhược tiểu, biết mình kém thua đủ đường nhưng vẫn muốn nổi loạn, tìm chỗ đứng cao nhất trong lòng một cộng đồng nhân loại mà phi lý và bất công phủ trùm lên tất cả. Đây là một sự phản kháng toàn diện của những người thấp cổ bé miệng, của những trí thông minh xuất chúng, không tháo gỡ được thân phận mình ra khỏi sự gò ép của những cơ chế cứng nhắc mà tựu trung chỉ là những trò hề lập nghiêm. Phi Lạc đã đi vào lòng người và sẽ ở lại lâu dài bởi nó đã cười lên được cái bi đát của những thân phận cùng khốn, những kiếp mõ làng trong lòng những dân tộc nhược tiểu.

Paris, tháng 6/2003

Giữa đất trời giao hưởng/Theo sóng từ trường/

Gặp gỡ Thụy Khuê/Trên một chặng bút trình

(Trích đoạn Hồ Trường An mạn đàm với Thụy Khuê)

Hồ Trường An: Ở cuốn ‘’Sóng Từ Trường III ‘’và ở chương ‘’Hồ Hữu Tường Và Chủ Nghĩa Dân Tộc’’, chị có cho rằng qua bài ‘’Tiếng Gọi Đàn’’, Hồ Hữu Tường chủ trương rèn luyện con người bằng văn hóa để trở thành Người (chữ N viết hoa). Người ở đây tương tự như Siêu nhân (le surhomme) của Nietzsche. Nhưng hình như muốn có siêu nhân xuất hiện và tồn tại, ông Nietzsche đòi phải tiêu diệt những người thất bại, yếu kém, trái hẳn tinh thần Bác Ái của đấng Christ. Cho nên Nietzsche lại hô hào nên bài trừ Phúc Âm, bài trừ những gì Giáo Hội dẫn dạy. Như thế lối so sánh của chị nhắm vào điều gì?

Thụy Khuê: Khi đọc cuốn Tương lai văn hóa Việt nam, tôi thấy Hồ Hữu Tường chịu ảnh hưởng tư tưởng siêu nhân của Nietzsche. Một mặt khác, tôi lại chắc ông cũng đã đọc Nietzsche, vì khi viết về Nguyễn An Ninh (Hồ rất hâm mộ Nguyễn An Ninh, coi Ninh như người anh, người thày) ông «khoe» Nguyễn An Ninh là người Việt Nam đầu tiên đọc Nietzsche.

Nietzsche được coi là «ông tổ» của triết học hiện sinh vô thần. Ông không tin vào Thượng đế. Đây cũng không phải là điều mới. Kant là người đầu tiên, dù viết về Thượng đế một cách kinh cẩn, nhưng Kant cũng trả lời nước đôi kiểu Khổng Tử: là những gì mình không thể biết được thì đừng nên bàn. Đạo đức học của Kant dựa trên nền tảng lương tri con người. Theo Kant: anh phải hành động theo lương tri của anh. Cứu người vì lương tri bảo phải cứu, mặc dù việc đó có thể gây họa cho anh. Kant đặt con người đứng trước lương tri để hành động chứ không hành động (hay giúp người) vì Thượng đế, Phật, Chúa, hay một đấng thần linh nào khác bảo phải làm như vậy. Kant đã làm cuộc cách mạng triết học, khi đem người trở về với con người: con người hành động theo lẽ phải vì lương tri của mình bảo vậy.

Triết học hiện sinh, thừa hưởng tinh thần Kant, cũng đưa con người về với con người, cũng đặt con người trước bổn phận và trách nhiệm của mình. Nhưng Nietzsche thường có giọng cực đoan, ông bảo: Thượng đế đã chết rồi. Phải giết Thượng đế thì người hùng, tức người siêu nhân (surhomme) mới có cơ xuất hiện. Mà người siêu nhân là gì? Người siêu nhân là người đã tự giác. Người siêu nhân của Nietzsche là người tự do, người làm chủ mình, không chịu lệ thuộc vào bất cứ ai. Nietzsche cho rằng nhân loại đầy người, nhưng toàn bọn hèn mọn, bảo sao nghe vậy, đạo thiên chúa làm «mê muội» con người, biến người thành những con chiên. Triết học của ông độc đáo trong đạo tu thân, thúc đẩy con người phải tiến triển không ngừng: nghiã là anh không thể sống ù lỳ như «cây cỏ», chỉ biết ăn, ngủ, rồi chết; sống như thế là không đáng sống, sống như thế thì chết đi cho rồi. Nietzsche thúc đẩy con người luôn luôn phải tự vượt mình: sáng tạo trong tinh thần đừng để mất mình, cái tôi hôm nay phải hơn cái tôi hôm qua và kém cái tôi ngày mai. Nếu Hồ Hữu Tường và Lê Văn Trương lấy lại tư tưởng siêu nhân của Nietzsche để giáo dục thanh niên thì cũng là điều dễ hiểu. Nhưng triết thuyết nào cũng có thể bị hiểu lầm, bị trưng dụng trong những ý đồ bất chính: triết thuyết của Nietzsche bị Hitler và Mussolini xuyên tạc và xử dụng để tôn vinh dòng giống Aryen thành surhomme/siêu nhân, cần được bảo tồn, và loại trừ dòng giống Do Thái, bị coi làsoushomme/ hạ nhân, dưới người.

Đọc văn Hồ Hữu Tường

 

Con thằn lằn chọn nghiệp

Cái nghiệp của một con thằn lằn. Tác giả của nó, Hồ Hữu Tường, theo người viết, cũng là một thứ đạo gia, xuống núi hành hiệp, qua những vai trò: hiệp sĩ, khi chấp nhận triết lý hành động của một Đệ Tứ, nhà văn, khi viết Phi Lạc, thiền sư, trong Trầm Tư Của Một Tên Tội Tử Hình, và sau cùng, một người dân Miền Nam, như tất cả mọi người, sau 1975.

Câu chuyện Con Thằn Lằn mở ra tại một ngôi chùa hẻo lánh, tại một miền đất xa xôi. Bữa đó, có hai người khách lãng du tình cờ ghé qua. Đúng vào ngày cuối cùng, trước khi quyết định lên giàn hỏa tự thiêu của vị sư trụ trì. Nhân câu chuyện lúc cùng khách, vị sư cho biết, ông đã tụng đủ mấy ngàn lần một bộ kinh, và theo như truyền thuyết, sau khi tụng xong lần cuối cùng vào tối nay, ông sẽ lên giàn hỏa, tự thiêu, và sẽ thành… Phật. Hai ông khách, khi về phòng riêng, nói chuyện với nhau, cho rằng nhà sư đã hiểu lầm ý nghĩa của bộ kinh, hơn nữa còn hiểu sai Phật Giáo, vốn cấm con người tự huỷ mình. Không ngờ khi họ nói chuyện, con thằn lằn trong chùa đã nghe được. Đây là một con thằn lằn đã tu nhiều đời, hiểu được tiếng người. Và nó cũng đã tin tưởng như nhà sư, và cũng tính theo ông lên giàn hoả, sau khi nghe ông tụng xong lần cuối bộ kinh. Thế là con thằn lằn cố tìm cách cứu mình, và cứu vị sư. Bằng cách uống dầu đèn, nó làm cho vị sư không làm sao tụng xong lần thứ… chót của bộ kinh, để lên giàn hoả tự thiêu. Vị sư sau cùng khám phá ra, và tiện tay cầm vồ tụng kinh, ông đập chết con thằn lằn, rồi tụng tiếp, và tự thiêu. Hồn cả hai lên gặp Phật. Phật quở vị sư, tu mà còn đủ sân si, lại còn thêm tội sát sinh, bắt trở lại làm người, tu tiếp. Còn con thằn lằn, Phật giải thích, tuy đã ngộ ra được một phần chân lý, nhưng phương tiện “nuốt dầu” như thế là còn có tính “bạo động”, ép buộc, và “ngẫu nhiên”. Phật cho phép con thằn lằn được tự chọn nghiệp, trước khi đầu thai, và phải “độ” cho được, tất cả con số chúng sinh đầu thai thành người, từ tro than của “nhục thân” một con thằn lằn, tức là kiếp trước của nó. Như người viết còn nhớ, truyện lần đầu chấm dứt ở đây, nhưng sau đó (trên tờ Văn ở Sài Gòn, sau 1954, trước 1975), tác giả viết thêm, cho con thằn lằn đầu thai, làm một nhà văn hóa.

Liệu có thể coi Cửa Tùng Đôi Cánh Gài, là một tiếp nối Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp? Đây là câu chuyện một vị sư trẻ xuống núi hành hiệp, mang theo một cây gươm, và một cái kiếng chiếu yêu. Nhờ kiếng chiếu yêu, chàng dũng sĩ trong chiếc áo thầy tu đã dùng cây kiếm trừ khử được rất nhiều yêu quái đội lốt người… nhưng dần dần, anh ít sử dụng tới kính chiếu yêu, và do đó, cũng ít phải có dịp rút kiếm ra khỏi vỏ, như thể thiên hạ đã hết cả yêu quái… Rồi tới một ngày kia, nhớ thầy, nhớ chùa, anh trở lại. Cửa chùa ngày anh còn, thường luôn luôn mở rộng, sao nay khép lại, trước anh? Buồn rầu, anh ngồi bên con suối xưa, thấy bóng mình trên dòng nước: một con người mệt mỏi, chán chường… Anh tự dưng có ý định soi một lần bóng mình, trên kiếng chiếu yêu… và rụng rời thấy, một con quỉ trên mặt suối giận dữ nhe nanh…

Không hiểu Hồ Hữu Tường đã từng đọc Nhất Hạnh, và tự hỏi như trên: liệu có thể coi Cửa Tùng Đôi Cánh Gài là một tiếp nối Con Thằn Lằn, và vị dũng sĩ thiền sư đã thất bại, như chính ông đã từng thất bại… ?

Và Nhất Hạnh, đã có lần nào đọc (lại) Cửa Tùng?

Jennifer Tran

***

 

1.

Giữa một đường truông thăm thẳm, vắng vẻ và âm u, không một xóm nhà, ít người qua lại, có một cái am nhỏ . Am ấy mới cất, độ non ba năm thôi . Trong am, chỉ có một sư cụ già, thui thủi một mình, quanh năm chẳng được ai thăm viếng . Trước am, nơi giữa sân, chất sẵn một đống củi, vừa lớn , vừa cao ngất, củi sắp vuông vắn, thẳng thắn, dường như được săn sóc chẳng khác một vườn kiểng do một vị lão trưởng giả chăm nom .
Một hôm, trời đã tối rồi, nhà sư vừa lên đèn được một chặp, thì có hai người khách đến trước ngưỡng cửa, vái mà thưa rằng :
– Bạch sư cụ , nhờ ngọn đèn dắt dẫn, chúng tôi mới dõi đến đây . Mong nhờ sư cụ cho tá túc một đêm , sáng mai chúng tôi sẽ lên đường .
Nhà sư ung dung , chắp tay đáp :
– Mô Phật , cửa thiền bao giờ cũng mở rộng cho người lỡ bước .
Rồi dừng một phút, dường như để trấn tĩnh nỗi vui đương sôi nổi trong lòng, nhà sư tiếp :
– Ngót ba năm nay, tôi mở am nơi này, không được một ai đến viếng . Ngày nay là ngày ước nguyện, may được hai ngài quá bước, ghé nghỉ chân . Âu cũng là duyên trước ….
Nói xong, nhà sư dọn cơm chay cho khách dùng, và câu chuyện không đề, vô tình dẫn khách đến câu hỏi :
– Bạch sư cụ, chẳng hay sư cụ thích tụng kinh nào ?
Vui sướng, vì như gặp bạn tri âm, nhà sư đáp :
– Tôi quy y Phật pháp từ thuở bé, rừng thiền có thể nói rằng đã viếng khắp nơi . Cách ba năm nay, lòng huệ được mở ra …. Và từ ấy, tôi chỉ tụng kinh Di Lặc .
Một người khách hỏi :
– Sư cụ có thể cho tôi biết duyên cớ vì sao chăng ?
– Mô Phật . Chỉ có lời nói mà độ được người, tôi sao dám tiếc lời ? Vậy tôi xin vui lòng nói cho hai ngài rõ . Bởi tôi đọc qua các kinh sách, thấy rằng Phật Thích Ca khi đắc đạo, có dạy : Hai ngàn năm trăm năm về sau, Phật pháp sẽ đến chỗ chi ly, ấy là hồi mạt pháp . Di Lặc sẽ xuống trần mà cứu độ chúng sanh và chỉnh đạo lại . Nay cũng đã gần đến kỳ hạn . Chắc là Phật Di Lặc đã xuống trần mà độ kẻ thành tâm tu hành . Bởi lẽ ấy tôi có nguyện tụng đủ một nghìn lần kinh Di Lặc . Nếu lời nguyện được ỵ, ấy là tôi sẽ đắc đạo .
Người khách thứ hai hỏi :
– Sư cụ đã tụng được bao nhiêu lần rồi ?
– Đã được chín trăm chín mươi chín lần rồi . Bây giờ, chỉ còn lần thứ một nghìn; lần tụng của đêm nay . Chắc hai ngài trước có duyên lành, đêm nay đến mà chứng kiến tôi tụng lần thứ một nghìn ấy ….
Đến đây, bữa cơm chay đã mãn . Khách mệt mỏi, xin ngả lưng . Nhà sư dọn dẹp trong am cho thanh khiết, rồi bước tới trước bàn Phật, khêu bấc đèn dầu, mở kinh ra mà khởi sự tụng . Tiếng tụng kinh chậm rãi, như nện vào không gian . Thỉnh thoảng một tiếng chuông ngân lên, đánh dấu chuỗi tiếng mõ dài đăng đẳng ….
2.
Trước khi nhắm mắt ngủ, hai người khách còn trao đổi vài câu :
– Tội nghiệp thay cho sư cụ già , quá mê tín, mất sáng suốt, mà không giác ngộ . Phật pháp lập ra đã hai nghìn năm trăm năm về trước, tránh sao cho chẳng có chỗ lỗi thời . Nhận thấy chỗ lỗi thời, các môn đệ ắt phải lo tài bồi, phát xiển mối đạo . Thế là có tư tưởng này, học thuyết nọ ; rồi sanh ra môn ra phái . Ấy là nguồn gốc của sự chi li . Nay rừng thiền đã hơn tám mươi bốn ngàn cội khác nhau , ấy là lẽ dĩ nhiên vậy .
– Tôi cũng đồng ý với anh về chỗ đó , và nghĩ thêm rằng : Nếu bây giờ có một vị Di Lặc xuống trần, thì vị ấy có trọng trách cất nhắc Phật pháp cho kịp với mọi sự tiến hóa của mọi sự việc từ hơn hai nghìn năm nay . Và trách nhiệm của mỗi tín đồ của Phật là dọn mình cho sẵn, để đón rước cái Pháp mới sắp ra đời . Chớ mê mải trong việc gõ mõ tụng kinh, há chẳng phải là phụ lòng mong của Thích Ca chăng ?
Lời nói của hai người khách giữa cái am vắng vẻ, không dè có kẻ trộm nghe . Kẻ nghe trộm này là một con thằn lằn, đến ở am khi am vừa mới dựng lên , và đã từng nghe 999 lần kinh, nên có linh giác, nghe được tiếng người, biết suy nghĩ và phán đoán . Câu phê bình của hai người khách đã giúp cho con thằn lằn giác ngộ . Nó vốn biết nguyện vọng của nhà sư : là hễ tụng xong lần thứ một nghìn, thì nhà sư sẽ lên giàn hỏa mà tự thiêu …. Rồi nó nghĩ : nhà sư lòng còn mê tín, chưa được giác, phỏng có thiêu thân, thì làm sao nhập được Niết Bàn ? Hay là ta tìm thế ngăn người, đừng để cho người thiêu thân, đợi chừng nào người được giác rồi sẽ hay ? Rồi con thằn lằn quyết định : Phải ngăn ngừa, đừng để nhà sư tụng xong lần thứ một nghìn . Nó nghĩ được một kế : Ấy là bò lên bàn Phật, đến dĩa đèn dầu, rán sức mà uống cạn dĩa dầu . Bấc sẽ lụn, đèn tắt, nhà sư không thấy chữ mà tụng nữa .
Một sức mầu nhiệm đã giúp cho con thằn lằn đạt được ý nguyện : chỉ trong một hơi mà dĩa dầu đã cạn : bộ kinh chỉ tụng được quá nửa mà thôi . Đèn tắt, nhà sư ngạc nhiên, nhưng nghĩ : hai người khách là kẻ phàm tục, không được duyên lành chứng giám việc đắc đạo của mình . Âu là xếp kinh, nghỉ, chờ ngày mai khách lên đường, sẽ tụng lần thứ một nghìn ấy .
Nhưng, sau đó đêm nào cũng vậy, buổi đọc kinh chưa xong mà đèn lại tắt đi . Nhà sư có lúc tính tụng kinh lần này vào khoảng ban ngày , nhưng nhớ lại khi xưa đã có lời nguyện tụng kinh vào lúc khuya, tĩnh mịch, nên không dám đổi .
Và một đêm kia, dằn lòng không được, tuy tụng kinh mà mắt chốc chốc nhìn lên dĩa dầu để xem sự thể do đâu , nhà sư bắt gặp con thằn lằn kê mỏ mà uống dầu . Nổi giận xung lên, nhà sư dừng gõ mõ, và mắng rằng :
– Loài nghiệt sức ! Té ra mi ngăn ngừa không cho ta được đắc đạo !
Rồi tay cầm dùi mõ, nhà sư nhắm ngay đầu con thằn lằn mà đập mạnh . Con thằn lằn bị đánh vỡ đầu, chết ngay . Hôm ấy, nhà sư tụng xong lần kinh, bước lên dàn hỏa , tự châm lửa mà thiêu mình .
3.
Và cũng đêm ấy, hai cái linh hồn được đưa đến trước tòa sen của Phật . Uy nghiêm, ngài gọi nhà sư mà dạy :
– Nhà ngươi theo cửa thiền từ thuở bé, mà chẳng hiểu bài học vỡ lòng của pháp ta là thế nào ! Pháp ta đã dạy phải trừ hết dục vọng thì mới đắc đạo, mà ngươi dục vọng lại quá nhiều : bởi việc muốn đắc đạo, để được thành Phật kia cũng là một cái dục vọng . Có dục vọng ấy là Tham ; bởi tham nên giận mắng con thằn lằn, ấy là Sân; bởi sân nên tưởng rằng trừ được con thằn lằn thì tha hồ tụng kinh, rồi đắc đạo, ấy là Si . Có đủ Tham Sân Si tất phải phạm tội sát sanh, thì dầu ăn chay trường trọn đời, cũng chưa bù được .
Tội ngươi lới lắm, phải rán tu luyện thât nhiều mới mong chuộc được . Vậ y ta truyền cho Kim Cang, La Hán hốt cho hết đống tro do xác ngươi thiêu mà hóa ra, rồi đem tro ấy tung khắp bốn phương trời . Mỗi một hột tro đó sẽ biến sanh thành một người . Chừng nào mọi người ấy đắc đạo , đám chúng sanh ấy sẽ đượ quy nguyên, trở hiệp lại thành một , thì nhà ngươi sẽ đến đây mà thành chánh quả .
Rồi Phật cho gọi hồn con thằn lằn mà dạy :
– Nhà sư chưa được giác mà làm tội, tội ấy đáng giá là một mà thôi . Còn nhà ngươi, được giác một phần rồi , mà làm tội, thì tội đáng kể là mười .
Con thằn lằn lạy mà thưa rằng :
– Bạch Phật tổ, lòng của đệ tử vốn là muốn độ nhà sư, dầu nát thân cũng không tiếc . Chẳng hay đệ tử có tội chi ?
Phật phán :
– Muốn độ người, kể thiếu chi cách, sao ngươi ngăn đón việc tụng kinh của người ? Đã đành rằng việc tụng làm của nhà sư là một việc mê tín, nhưng dầu là mê tín, song vẫn là một tín ngưỡng . Cõi Phật vốn là cõi tự tại . Nếu phạm đến tự do tín ngưỡng, gọi là để dắt người vào, thì làm sao cho được . Bởi ngươi không dùng phương pháp tự do, người là kẻ mất tự do, thì cả hai làm sao được vào cõi tự tại ?
Một lần nữa, con thằn lằn được giác, quì lạy mà xin tội :
– Xin Phật tổ mở lòng từ bi, cho đệ tử hóa sanh một kiếp nữa , để dùng phương pháp tự do mà độ vô số chúng sanh do những hột tro, mà các vị Kim Cang, La Hán vừa tung ra đó .
Phật đáp :
– Ta cho ngươi được toại nguyện .
Hồn con thằn lằn vưà muốn lạy Phật mà đi đầu thai, thì
sực nhớ lại, nên bạch rằng :
– Xin Phật tổ dạy đệ tử phải hóa sanh làm kiếp chi ?
Phật đáp :
– Nhà ngươi đã gần bến giác, phải tự mình chọn hình thể mà hóa sanh . Tự do chọn lựa mới có thể luyện mình để bước vào cõi tự tại .
4.
Hồn con thằn lằn từ ấy trôi theo mây gió, không biết trụ vào đâu, để có thể vừa dùng phương pháp tự do mà độ người, vừa có thể độ được đông người, số người đông như số hột tro do một cái xác thiêu ra . Thật chưa hề có lúc nào có một linh hồng bị trừng phạt phải đau khổng đến thế …..
Một hôm trong hồi xiêu bạt, hồn con thằn lằn thấy bóng của một trong hai người khách đã đến am thủơ nọ , mà câu chuyện nghe lóm đã làm duyên cho mình mấy năm đau khổ .
Thằn lằn vội vã bay theo vái chào và kể nỗi niềm đau đớn :
– Ngài đã giúp cho tôi giác ngộ được một ít , có hay đâu tôi phải mang cái nghiệp vô định này . Đã trót làm ơn, xin độ cho tôi đến bờ bến .
Người đáp :
– Cái khổ của ngươi là ngươi đã phát tâm cứu độ muôn vàn chúng sinh do những hạt tro mà đầu thai nên . Tâm ấy là lửa thiêng . Nó đốt lòng ngươi, cưỡng lại mà cãi, sao cho được ? Âu là , ngươi nghe theo nó mà hành cái hạnh ấy đi !
– Nhưng mà, làm sao bây giờ ?
– Bấy lâu nay, ngươi đã nghe tụng kinh . Kinh dạy bài học căn bản là Bi . Ngươi phải có lòng Bi , mà thương muôn vàn hột tro ấy !
– Tôi vốn thương nhà sư, mới dại dột mà làm cho nhà sư phát nộ . Thì tôi cũng sẵn lòng thương những ai mà những hạt tro ấy đầu thai nên .
– Tốt lắm ! Tốt lắm . Đã có Đại Bi, phải thêm có Đại Trí . Muốn cứu độ muôn vàn hột tro ấy, ngươi hãy lấy Trí mà tìm biện pháp nào để cứu độ chúng . Chớ tình thương mà không có thêm phương pháp để thực hiện tình thương ấy, thì tình thương chỉ là một sự than khóc sướt mướt và vô bổ mà thôi .
Lời của người làm cho hồn con thằn lằn đại ngộ một lần nữa . Nó phóng quang mà nhìn khắt trần gian, để kiếm xem hiện nay, những hạt tro do các vị Kim Cang, La Hán tung rải đang đầu thai nên gì . Lạ thay, những hạt tro này , bởi tiền kiếp mắc tội Tham Sân Si nên chẳng được đầu thai làm người, lại đầu thai là lũ chuột . Chúng không được sống dưới thanh thiên bạch nhật ; ngày chúng phải chui rúc trong hang ; tối lén bò ra ăn vụng, ăn vặt . Thế mà chẳng được yên thân, chúng bị một lão mèo to tướng, mắt sáng như sao, nhìn thấy rõ trong đêm tối, vuốt bén như gươm, tay lẹ như chớp, thêm thèm thịt chuột ăn bao nhiêu cũng không đã, lão mèo ngày lừ đừ ngủ, để ban đêm rình chụp chuột mà ăn tươi nuốt sống . Đời của chuột đã khổ rồi , mà bị lão mèo càng thêm khổ não, lòng phập phồng lo sợ. Rút vào hang cả ngày lđêm, thì đói . Ló ra, thì sợ mèo chụp ăn . Hồn con thằn lằn, thấy chúng chuột như vậy, thương cảm vô cùng .
5.
Bỗng nhiên nó thấy lũ chuột tìm chỗ an toàn mà khai đại hội . Nó bèn vận thần thông nhĩ, mà nghe lũ chuột nói với nhau những gì . Nó nghe một con chuột cống khởi nói như thế này :
– Hỡi đồng loại chúng chuột ! Đời của chúng ta khổ não lắm rồi . Ngày ở hang để tránh người đập giết , tối mới dám ló ra mà ăn vụng . Thế mà chồng lên cái khổ ấy, chúng chuột ta còn gặp cái đại họa là lão mèo . Vì lẽ đó mà tôi triệu tập tất cả lại , để bàn tính coi có cách nào để thoát cái đại họa ấy chăng ?
Một chuột con, còn hăng tiết, hùng biện hỏi :
– Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết ! Chúng ta phải hiệp bầy lại , một lượt tiến tới mà cắn mèo . Một mình mèo làm sao cự lại cả bầy chuột ?
Một chuột già, mình đầy thẹo , kêu chít chít nói :
– Đừng có dại ! Đừng có dại ! Thuở tôi còn trẻ, tôi có nghe theo luận điệu ấy . Chúng tôi có tổ chứa một bộ đội chuột , đến mấy trăm con, xông tới mà toan cắn mèo . Thế mà mèo chỉ quơ tay một cái , là ngủm một chuột . Mấy trăm con chuột của bộ đội chết sạch . May mà tôi rán được. đầy mình thương tích, thoát chết chạy về, cả tháng mới lành . Kinh nghiệm của chuột già này, xin các thanh niên chuột nên gẫm cho kỹ . Chớ liều lĩnh mà thiệt mạng , lại không có chút kết quả nào !
Lời của chuột già như gáo nước lạnh làm dập tắt lửa hăng của chuột con . Các chuột im lặng khá lâu, thì có một con chuột nhỏ nhẹ nói :
– Chuột mà tranh đấu với mèo , thật là không nổi . Ta tránh
nó thì hơn .
– Đúng vậy !
– Phải lắm !
– Hay lắm!
Chuột kia nói tiếp :
– Muốn tránh mèo, ta phải nghĩ cách nào báo cho ta biết sự hiện diện của mèo . Để ta tránh trước, khỏi sợ bị mèo chụp . Cách ấy , tôi nghĩ rằng ta nên treo một cái lục lạc nơi cổ của lão mèo . Lão đi đến đâu, lục lạc rung vang báo tin cho chuột ta hay, mà lánh trước .
Hồn cho thằn lằn nghe kế ấy, thuật lại cho người nghe . Và phê bình :
– Quả là Đại Trí !
Nhưng hồn con thằn lằn nhìn mãi, thấy lũ chuột im phăng phắc, chẳng có chuột nào động đậy, chẳng chuột nào thốt một lời, mà cũng chẳng chịu giải tán, cho chuột nào trở về hang nấy . Hồn con thằn lằn hỏi người :
– Sao lũ chuột lại như vậy ?
Người đáp rằng :
– Bởi lũ chuột hèn nhát . Tuy kế là hay, song chẳng có chuột nào có cái Dũng, dám đeo lục lạc mà mang vào cổ lão mèo, để tự cứu, mà cũng để cứu đồng loại . Có Bi mà không Trí, là vô bổ . Có Bi và Trí mà thiếu Dũng, là vô hiệu . Bi, Trí, Dũng là ba cái chân vạc , thiếu một chân ấy là vạc nghiêng đổ đi .
– Làm sao bây giờ ?
– Ngươi muốn cứu chuột, ngươi phải làm chuột . Ngươi phải đầu thai làm con chuột có Đại Bi mà biết thương đồng loại, có Đại Trí mà biết đem lục lạc mang vào cổ của lão mèo, có Đại Dũng mà dám hi sinh, liều mình, chẳng sợ mèo ăn tươi nuốt sống , mang lục lạc xông đến gần lão mèo .
Lời của người làm cho hồn con thằn lằn đại ngộ lần nữa . Muốn cứu độ hạng nào, phải hoà mình vào hạng ấy. Thích Ca đã từ chối ngôi báu, vì Thích Ca muốn hòa mình vào chúng dân, để cứu độ chúng dân . Hồn con thằn lằn muốn cứu độ lũ chuột thì hồn con thằn lằn phải hòa mình vào lũ chuột, đầu thai làm con chuột, về muôn vàn cạnh khía, thảy đều không khác gì với giống chuột . Chỉ khác có một chút xíu là trong tâm hồn của con chuột này có Đại Bi, Đại Trí và Đại Dũng mà thôi . Có được đại ngộ ấy, thằn lằn ta bèn đâu thai làm chuột .
6.
Bởi là do con thằn lằn đâu thai, nên khi chuột ta sanh ra, thì hình vóc còn mang máng giống con thằn lằn . Mẹ nó lầm tưởng là rồng . Bèn đặt tên cho nó là Long Thử .
Long Thử lớn lên, có vẻ trầm ngâm, đạo mạo . Lời nó kêu chít chít nào, nghe cũng có ý nghĩa u thời mẫn thế . Một hôm nó gọi một bạn chuột lực lưỡng theo nó . Té ra, nó đã gặp được nơi góc tàu ngựa , một cái lục lạc to bằng quả trứng, nên về gọi bạn theo nó . Đến nơi, nó nằm ngữa ra, ôm lục lạc vào lòng, và bảo bạn cắn đuôi mà kéo, như là kéo xe vậy . Kéo nó tới đâu, thì tiếng lục lạc kêu lên rổn rảng . Mà bạn nó, vì cắn đuôi nó mà kéo đi chỉ nghe theo lịnh nó chít chít điều khiển, nên chẳng biết trước sẽ hướng vào đâu, thành ra không sợ sệt chi . Long Thử ra lịnh cho kéo đến lão mèo, tính đem lục lạc mà mang vào cổ lão mèo, như trước kia, lúc nó còn là hồn con thằn lằn, nó đã nghe nói vậy .
Nằm một góc, lừ đừ, lão mèo nghe vang tiếng lục lạc . Bèn giương mắt nhìn, chẳng biết con gì, đầu chẳng thấy mặt mũi chi, chỉ thấy một cái vòi quơ qua quơ lại, để tìm phương hướng, lại có đến tám chân lại chổng lên mà nghỉ , mà kêu rống chẳng ngơi . Lão mèo quá sợ, nhảy phóc lên nóc nhà, kêu “miao!” rất là kinh hãi .
Lũ chuột núp trong hang, nãy giờ thấy mèo rình, không dám ra . Con nào đói thì mau mau đi tìm mà ăn vụng . Một số đông lại bu quanh Long Thử , lên tiếng chê bai :
– Việc này có gì là khó ? Ai mà nằm ngửa ôm lục lạc chẳng được ? Vì lối ăn cắp trứng ấy, chuột nào mà chẳng biết ? Chỉ vì mèo dại, thấy hai con chuột cắn đuôi nhau , lầm tưởng là con quái gì, mà sanh ra sợ thôi !
Chẳng dè , nằm trên mái nhà, lão mèo nghe và hiểu tiếng chuột, lão nhìn xuống, thấy quả là Long Thử ôm lục lạc, nằm ngửa cho một chuột khác cắn đuôi; và cái mà lão lúc nãy tưởng đâu là cái vòi quơ qua quơ lại, thật sự, chỉ là cái đuôi chuột ! Lão vừa thẹn cho lão, vừa phục Long Thử đa mưu, vưà phát ghét lũ chuột vô ân, đã buông lời chê bai kẻ mới cứu mình khỏi nạn . Từ trên mái nhà, lão mèo phóng xuống, mỗi một tay hay chân, sè vuốt mà móc họng một chuột .
7.

Tất cả các chuột khác hoảng chạy tứ tán . Long Thử và bạn nó cũng giựt mình , hoảng hốt chạy theo , chun vào hang mà trốn . Chừng tinh thần định tỉnh lại lũ chuột bèn lập tòa án chuột để mà xử Long Thử . Long Thử bị buộc tội là Thử gian, làm chuột mà lãnh lịnh của mèo, hại loài chuột của mình . Bằng cớ là bấy lâu nay, lão mèo mỗi lượt chỉ móc họng được một chuột mà thôi; còn bây giờ, mèo và Long Thử toa rập, để cho mèo giết một lần đến 4 trự chuột . Nếu không nhờ Thử gian đồng lõa mà giúp , dễ gì mèo chụp một lượt đến 4 chuột ? Lời buộc tội quá hữu lý như vậy , đủ bằng cớ thiết thực như vậy , dễ gì Long Thử đem tâm tình của mình, một tâm tình vô hình, không biết tựa vào đâu mà chứng minh, để nói rằng mình chỉ có lòng cứu độ loài chuột, chớ chẳng có dạ phụng sự cho mèo để hại chuột ? Long Thử bị kết án tử hình . Điều này nó dễ chấp nhận, nếu nó phải đem cái chết của nó làm điều kiện, để cứu độ loài chuột, mà nó quá thương yêu . Song cái bản án của nó , “tội Thử gian”, làm cho nó đau khổ vô cùng ; vì nó mang một cái oan vô tận, không ai giải cho được .
8.
Lòng oan của nó xung lên, thành một vùng trở lực, tận đến cõi trời Đâu Suất . Ở cõi trần không thấy chi cả . Còn ở trên kia, trở lực ngăn cho Thần Tiên không lui tới được làm cho lưu thông phải nghẽn . Thần Tiên phải hội nhau lại , tính làm sao cho việc đại bất công này được giải, thì vũ trụ mới tuần hoàn theo trật tự . Bàn cãi rất lâu, Thần Tiên tìm ra được một biện pháp, là bấy lâu nay, người ta đếm mười hai chi (tí, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi) , thì mỗi chữ này vốn là trừu tượng, không có nghĩa gì; nhưng bắt đầu từ bây giờ, phải cho loài người hiểu rằng chữ đứng đầu tất cả, là chữ Tí, phải dành để cho Long Thử tượng trưng . Những đức tánh quý báu của nó, mà đặt ra làm chủ tể cho luân lý, thì vũ trụ mới vận hành điều hòa được .
Từ ấy, hỏi đứa trẻ nào, nó cũng biết “tí là con chuột” . Nhưng từ ấy nhẫn nay, loạn lạc vẫn kéo dài hoài; bởi loài người chưa giác ngộ, cứ lầm tưởng chuột ấy là thứ “chuột tham, sân, si” kia . Chừng nào, đứng đầu cho cuộc vận hành của vũ trụ là con Long Thử, con chuột học được, và hành được theo Bi, Trí, Dũng thì may ra , nguồn Thanh Bình mới khai được .

 

Nàng mọt sách

Ngày xưa…
Ở đất Hậu Xuyên có chàng học trò nọ, họ Hồ, tên Lân Trinh, tự là Khổng cưu. Lân Trinh vốn nhà nghèo, nên lúc nhỏ, vừa học biết chữ, thì sang học nghề, chớ chưa được theo đòi thơ phú. Chàng thấy những bạn cùng trang lứa vịnh hoa, thưởng nguyệt, uống rượu, rung đùi, thì cũng biết thèm thuồng. Song nghĩ rằng: Những thú đắt tiền nầy chưa phải để cho mình, âu là nhịn vậy. Chừng nào đánh đuổi được con ma nghèo đang quấn quít bên lưng, chừng ấy hãy thưởng thức văn chương, cũng chẳng muộn đó!
Cho hay, trời ít chiều người. Khi Lân Trinh dành dụm được một món tiền, toan đến tỉnh thành mua văn thơ để đọc, thì giặc giã nổi lên, đốt thành, phá xóm. Chàng phải trốn tránh, bỏ xứ, đến ở ngụ một vùng sơn cước rất quê mùa, nơi tư am của một vị lão đạo sĩ. Ngày, ngày, đạo sĩ chỉ lo việc dưỡng thần, nuôi khí, luyện đơn không ưa trò chuyện nên Lân Trinh kéo dài một đời chán phèo, cách khoảng bằng những việc trồng khoai, tỉa bắp. Một hôm, khi dọn am cho sạch sẽ, chàng lượm được trong xó một quyển sách xưa. Mừng như được vật báu, chàng giở ra xem, thì than ôi, không có một trang nào là còn nguyên cả. Và có một con hai đuôi đương vội vã len mình vào giữa những tờ sách để trốn.
Giận lắm, chàng lấy ngón tay đè lên con hai đuôi. Chỉ nhấn mạnh một cái, thì con vật ấy nát ngớ… Chàng nói:
“À, té ra mi đã đục khoét những tờ sách quí nầy. Để ta giết mi, mà phạt cái tội ấy.”
Nhưng đã nói được, thì hơi giận hạ xuống, trí chàng sáng lại, và nghĩ:
“Ta bảo nó có tội, nhưng mà tội gì? Cắn giấy ăn sách để sống, thì nó cũng như ta ăn cơm để sống; mà có ai bắt tội ta ăn cơm?…”
Nghĩ thấy mình vô lý, chàng giơ tay lên, thả cho con hai đuôi lẩn trốn giữa hai tờ sách. Rồi, tiếc của quí, chàng tìm đọc chữ được, chữ mất, trang có, trang không. Đọc mãi, mắt hoa, trí mệt, mà không hiểu chi cả. Chàng mới dựa cột, gấp sách lại để nghỉ…
Bỗng nhiên, chàng phải giựt mình, choá mắt vì những tia sáng phóng về hướng chàng. Lân Trinh nhìn kỹ, thì từ ngoài sân bước vào một thiếu nữ, mặc áo dài tha thướt, bằng một thứ lụa ngời như bạc, phản chiếu ánh sáng nên lấp lánh như kim cương. Nàng bước tới nhẹ nhẹ, vạt áo sau kéo dài. Lân Trinh nhìn thấy vạt áo có hai tà còn lê thê tận ngoài bãi cỏ, không khác chi các thứ áo lễ phục của những bà hoàng ở Tây phương. Chàng đứng dậy vái chào. Thiếu nữ mủm mỉm cười duyên, gật đầu đáp lễ và thưa:
“Thấy chàng cô độc, cùng ở với lão đạo sĩ mà không được mấy khi hầu chuyện, tìm làm bạn với sách vở lại không nên việc, thiếp đường đột đến luận chuyện thơ văn với chàng, gọi để đền chút ơn riêng. Chẳng hay chàng có vui lòng chăng?”
Lân Trinh vốn là một thơ sinh chưa từng có dịp nói chuyện thân mật với một trang gái đẹp nên luống cuống và ấp úng hỏi:
“Chẳng hay nàng là ai, có họ hàng chi với lão đạo sĩ chăng?”
Thiếu nữ đáp:
“Chàng hỏi như vậy rất chí lý. Vậy xin nghe thiếp thuật chuyện sau đây.”
Ngày xưa, trên Thiên Đình, luôn mấy năm, những táo quân về chầu Ngọc Hoàng đều dâng sớ tâu rằng: Dưới trần thế không có việc chi cả. Ngọc Hoàng lấy làm lạ sao loài người thình lình lại ngoan như thế; bèn sai Thái Bạch Kim Tinh xuống trần xem xét, coi sự thể do đâu.
Sau khi xem xét xong rồi, vị tiên ấy về tâu lại rằng:
“Sở dĩ loài người ngoan ngoãn thế nầy, ấy bởi họ đương trải qua một hồi ‘văn trị’. Họ không mê say việc chiến đấu, giết lẫn nhau; họ không thèm nghĩ đến việc hại nhau, lừa nhau…”
Ngọc Hoàng nghe tâu đến đó, ngạc nhiên hỏi:
“Thế thì họ không tuân theo luật của Tạo hoá đặt để cho là: ‘Cạnh tranh sanh tồn’, ‘Ưu thắng liệt hại’, nữa sao?”
Thái Bạch Kim Tinh đáp:
“Tâu Ngọc Đế, điều ấy tôi không dám dự đoán về tương lai. Song xét hiện tình, tôi thấy họ chỉ thích ngâm thơ mà rung đùi, đọc sách mà đánh chén… và quên luật tranh đấu của Tạo hoá.”
Ngọc Hoàng hỏi:
“Sách là cái gì, mà chúng nó đọc phải mê, quên cái luật vĩ đại của Tạo hoá?”
Thái Bạch Kim Tinh thưa:
“Tiên, Phật chúng ta là người của thời thái cổ, bởi dày công tu luyện, mà đã sớm thành chánh quả. Bởi sớm thành chánh quả, nên chưa chứng kiến được những việc phát kiến sau nầy của loài người, do một lòng muốn vô biên. Ấy là lòng cố gắng tìm tòi để sáng chế vật nầy món nọ, hầu đoạt quyền của con Tạo. Lòng cố gắng ấy do óc tranh đấu kích thích. Tranh đấu lẫn nhau chưa đã, họ còn muốn thi đua với Tạo vật nữa… Vì vậy mà suốt một quảng hạ ngươn, hai mươi bảy ngàn năm, họ giết chóc lẫn nhau, chuyên lấy võ mà trị nhau, làm mồi cho Quỷ vương cám dỗ, thoát xác, thì sa xuống Diêm đình, bị phán xét rồi, thì chịu những hình phạt của Địa ngục. Trong khi ‘Cạnh tranh sanh tồn’, ‘Ưu thắng liệt bại’, kẻ nào có khi giới lợi hại hơn thì hơn. Mà cái khi giới siêu đẳng lại là thứ ‘khí giới để chế tất cả khí giới khác’: Ấy là trí óc. Trí óc của loài người đã giành đoạt không biết bao nhiêu bí mật của vũ trụ, lại sáng chế lắm thứ, mà con Tạo chưa thể chế ra. Thế nên, để ghi chép bao nhiêu thành tích nầy, trí óc loài người bày ra văn tự, vừa là cái kho tàng để chứa bao nhiêu phát kiến, vừa là một lợi khí sắc bén để tranh đấu lẫn nhau.
Hướng theo chiều của tranh đấu, thì văn tự là một thứ khí giới lợi hại hơn tất cả khí giới khác. Mà thỉnh thoảng, khi nào không có dịp chiến đấu, một đôi kẻ nhìn trở vô tâm tình mình, họ thấy có cái gì hay hay, đẹp đẹp. Họ cũng mượn văn tự mà ghi lấy, gọi là Thơ. Thơ có thể làm cho loài người mê say, mê hơn mê gái đẹp. Rồi ca lên mãi, tụng lên mãi. Thơ lại chiều lòng người, hiện hình ra, đến cùng người, đem lại quyến luyến. Một tôn giáo mới xuất hiện, mà giáo chủ là Nàng Thơ. Kẻ tín đồ của tôn giáo nầy cũng say mê, khổ hạnh, hi sinh, tử đạo. Và thỉnh thoảng cũng có kẻ đắc đạo. Và khi đắc đạo rồi không sa xuống Địa ngục, chẳng sang Tây phương chầu Phật, chẳng đến Bồng Lai mà thành Tiên. Kẻ đắc đạo nầy về một cõi riêng gọi là Tao Đàn, do Nữ hoàng là Nàng Thơ làm giáo chủ.
Quỷ ở Diêm cung khó gặp. Đạo sĩ phải dày công tu luyện lắm, mới ra mắt được Tiên. Tu sĩ phải khổ hạnh mấy chục kiếp mới mong tao ngộ Phật. Còn những vị đắc đạo của tôn giáo nầy, những vị mà tín đồ của họ tặng gọi là Thi sĩ, lại dễ cầu khẩn, mà đến ngay. Họ cũng dễ thoát xác, mà thành trường sanh bất tử. Nhưng mà khi họ còn tu luyện, mỗi vị đều để lại những phù chú riêng mình, ghi lại trong những thứ gọi là sách. Muốn cầu họ đến, tín đồ chỉ có việc giở sách ra, mà đọc lại những lời phù chú ấy. Lập tức các vị trường sanh bất tử kia đến ngay mà đàm đạo thân mật với tín đồ. Kẻ thấp tu, thì chỉ nghe họ thuyết pháp. Người bắt đầu vào đường đạo, thì được tự do thảo luận, biện bác tuỳ nghi. Rồi khi giáo chủ là Nàng Thơ điểm đạo cho, thì người ấy cũng có thể thành Thi sĩ, ghi phù chú vào sách, để đời sau truyền tụng thành ra bất tử, lên cõi Tao đàn.”
Ngọc Hoàng nghe báo cáo, suy nghĩ giây lâu, rồi phán rằng:
“Thứ tôn giáo nầy, tu dễ đắc đạo, có thể nào bị Quỷ vương len vào cám dỗ tín đồ chăng?”
Thái Bạch Kim Tinh tâu rằng:
“Thưa Ngọc Đế, thỉnh thoảng cũng có kẻ bị Quỷ vương cám dỗ, dùng lời thơ mà ca tụng sự giết chóc, dùng hồn thơ mà phụng sự cho lẽ tà.”
“Thế thì, Thiên Bồng Nguyên Soái, mau xây dựng một viện tàng thơ cho to rộng; các Thiên thần mau đi khắp trần giới sưu tầm tất cả những tập kinh của tôn giáo ấy đã có từ bao giờ; và đặt luật nạp bản để về sau, mỗi Thi sĩ mới đều phải cung cấp cho Thiên đình bản nạp để làm dấu tích. Trước là để Thiên đình khảo dượt xem tôn giáo ấy phải chăng là một chính giáo hay là một tà giáo? Sau để Tiên, Phật có thể có đủ thứ sách mà đọc. Chẳng lẽ người phàm ô trược, lại được hưởng thụ đọc sách, còn bực dày công tu luyện lại chẳng được hưởng thú ấy sao? Và cũng chẳng lẽ, khi Tiên Phật muốn đọc sách, lại phải xuống trần gian, chịu luật đấu tranh, ngụp lặn trong biển khổ, mới được đọc sách? Như vậy, Bồng Lai và Niết Bàn sẽ tẻ lạnh, nếu ta cho Tiên Phật tự do mà xuống trần đọc sách. Còn nếu ta sợ Tiên Phật cạm vào mùi tục luỵ mà ngăn cấm, thì Thiên đình sẽ loạn mất đi! Bởi cái lý dễ hiểu rằng Tiên Phật cố tình làm vi pháp để được, nghe rõ chưa, để được bị đày xuống trần gian… mà đọc sách!”
Cách đó không bao lâu, Ngọc Hoàng gọi Tiên Dung công chúa, là gái út, đến mà dạy rằng:
“Ngày nay ngày khánh thành viện tàng thơ, các bác Phật, các chú Tiên của con đều đến đủ mặt để dự lễ. Con hãy sớm sang bên đó, dọn sẵn đào trường sanh nơi sảnh đường, chưng tất cả những chè tiên tửu cho ấm để đãi khách.”
Tiên Dung công chúa nghe lời cha, đã thấy vui lòng rồi, thêm khắp khởi mừng, vì được chứng kiến một lễ có mời đủ Phật, Tiên, một lễ chưa từng có trên Thiên đình.
Đúng giờ, tường vân bao phủ khắp, hào quang muôn sắc chọc thủng nóc trời, bắn tia ngoài càn khôn, rọi khắp ta bà thế giới. Từng chập, đàn bạc do các vị Tiên cỡi đến, kết thành những ca vũ đoàn thiên nhiên, múa hát tưng bừng; tiếng nhạc trong trầm bổng ngân, len lỏi khắp mọi nơi, làm cho lũ Ngạ quỷ bị trừng phạt ở Diêm đình nghe mà mê say, quên cả đau khổ của tra tấn. Vừng Thái Dương nghe nhạc, dừng lại trên đường nghiêng tai nghe, rồi nhảy múa theo nhịp. Còn vừng trăng, nãy giờ bỏ trống bởi chị Hằng Nga được mời dự lễ bây giờ nghe nhạc, trở nên lững lờ, như say vì nhạc, như mê vì âm. Rồi mùi hương sen, do các hoa sen chư Phật ngự đến, xông lên như thuỷ ba giợn sóng, làm cho vạn vật ngửi lấy mà tự nhiên thoi thóp thở; đồi núi được luồng sóng ấy gởi vào, chỗi dậy, nghiêng tai nghe, suối thác thì thầm nói chuyện với nhau, ca ngợi mùi hương lạ chưa hề ngửi được…
Nơi sảnh đường, đủ mặt chư Tiên, chư Phật, Ngọc Hoàng ra lệnh gọi Tiên Dung công chúa dâng tiên tửu chưng ấm, để làm lễ khai mạc cuộc khánh thành tàng thơ nầy. Nghe lịnh, Tiên Dung công chúa rụt rè tiến đến trước Vua cha, mọp xuống, mặt biến sắc, thất thần, chỉ nói được câu:
“Con xin chịu tội!”
Chư Tiên, chư Phật đều làm lạ sao buổi lễ long trọng dường này, lại là một toà án đặc biệt để cho Ngọc Hoàng xử tội đứa con gái cưng của mình. Cả thảy đều nhìn vào Đức Phật Di Lạc, như nhờ người hỏi tại sao có việc lạ vậy? Không dè chính Ngọc Hoàng cũng lấy làm lạ, mà nhẹ nhàng hỏi con:
“Sao con không bưng rượu chưng, lên để đãi khách, mà lại xin tội? Tội gì?”
“Tội con thiếu nữ công, nữ hạnh…”
Ngọc Hoàng, chư Phật, chư Tiên nghe Tiên Dung công chúa tâu đến đó, dường như nghe sét đánh bên tai. Tất cả muốn hiểu vì sao vị công chúa ngoan ngoãn như thế kia lại phạm vào trọng tội nọ. Thì công chúa tâu tiếp:
“Bởi vì con đã lỡ tò mò, muốn biết trước lý do của cuộc lễ long trọng này. Nên con đã để tất cả rượu lên lửa, rồi con lẻn vào tàng thơ coi nơi ấy có gì. Con thấy chồng chất đầy trên ngăn, những vật giống nhau, đưa gáy ra ngoài, trên gáy có chữ vàng. Không biết là vật gì.”
Tâu đến đây, dường như cảm xúc, Tiên Dung công chúa tức tưởi khóc. Đức Di Lạc thấy vậy động lòng thương hỏi:
“Tại sao cháu lại khóc?”
Tiên Dung công chúa thưa:
“Phải chi con là gái trần tục quê mùa, thì có lẽ con không đến đổi phạm trọng tội nầy. Nhưng bởi con là Tiên, không học cũng biết, nên con tò mò lấy ra một mà xem. Thì giữa hai cái bìa cứng, dính nhau bởi một cái gáy bằng da, lại có những tờ mỏng chi chít chữ là chữ. Bởi không học mà biết đọc, nên con đọc thử xem trong ấy nói gì, thì dường như có người hiện ra, kể chuyện cho con nghe vậy.”
Tiên Phật nghe thuật, liền hiểu ngay rằng chính Ngọc Hoàng vừa chứa được một kho tàng vô tận những bửu bối. Lấy một món, không cần niệm chú, đọc phù, chỉ giở ra, thì hiện ngay một đấng, đàm đạo với mình. Và khi đã được một kho tàng bửu bối như vầy, làm lễ trọng, mời đủ chư Tiên, chư Phật đến dự một cuộc khánh thành là phải lắm.
Tiên Dung công chúa tâu tiếp:
“Ban đầu con phát sợ, vì nơi vắng vẻ, thình lình có người đến nói chuyện với mình. Nên con xếp để vào chỗ cũ, chạy trở về, coi chừng lửa mà chưng rượu. Nhưng có một sức gì quyến rũ, nhịn không được, con trở lại tàng thơ, lấy bất cứ món nào, giở ra xem, thì tức khắc nghe tiếng người hiện đến mà kể chuyện. Và chuyện nào khởi đầu nghe cũng lý thú cả. Con nói rằng khởi đầu chuyện, vì con không dám đọc nốt, xem sơ vài tờ, rồi trở lại coi chừng làm rượu.”
Tiên Dung công chúa tâu đến đây, lại ngập ngừng, rồi dừng lại không dám nói tiếp. Các vị Phật Tiên khuyên:
“Con cứ thuật, sẵn đủ mặt tại đây, chúng ta sẽ cứu rỗi cho con.”
Nghe khuyên, Tiên Dung công chúa kể:
“Thế rồi, con bị cám dỗ, mê say, quên cả trách nhiệm. Đến chừng nghe nơi trù phòng phát hoả, hơi nóng bốc lên, lửa phựt sáng ngời, con chợt tỉnh, chạy đến, thì rượu chưng quá nóng, bốc thành hơi, xông lên, gặp lửa phát cháy. Cũng may mà trù phòng cất bằng lưu ly, mã não, xa cừ, lại có trấn ngọc tỵ hoả, nên không phát cháy theo. Nhưng con không sao cứu được mấy ché rượu tiền tửu nối nhau cháy phừng phừng, không còn một giọt.”
Chư Phật, chư Tiên nghe kể, ngẩn người không hiểu, sao một nàng công chúa ngoan ngoãn như Tiên Dung, lại có thể bị cám dỗ dường ấy. Riêng Ngọc Hoàng lại tự thấy thẹn. Thẹn vì mời đủ khách quí đến, mà không còn một giọt rượu tiên để đãi khách. Thẹn vì chính con gái mình lại kém nữ công, nữ hạnh. Thẹn thêm vì đứa con gái ấy thú nhận trước Phật Tiên rằng mình đã bị cám dỗ. Rồi vì gia phong, vì để làm cho luật trời được tôn nghiêm, Ngọc Hoàng phán:
“Trọng tội như thế này, ngươi đầu thai xuống trần mà tu luyện lại để chuộc tội.”
Tiên Dung công chúa chỉ có lạy cha mà vâng lệnh, rồi lạy mẹ, rơi luỵ, mà từ biệt.
Chư Phật, chư Tiên không dám nói thế nào, vì tự xét một cái lỗi to như vậy, nếu không trị tội, thì làm sao giữ được uy nghiêm của luật trời. Chỉ có Phật Di Lạc, vị Phật đang hoài bão cái mộng lớn là sửa đổi lại luật trời cho hiệp với sự tiến hoá của người, của vũ trụ, Phật Di Lạc e rằng trong việc Tiên Dung công chúa phạm tội nầy, ắt có đôi điều trắc ẩn. Ngài bèn gọi Tiên Dung công chúa đến an ủi:
“Nay con bị đày xuống trần gian, con có mong được đầu thai làm thế nào, con cứ nói bác liệu có tâu rỗi giùm, thì bác cố gắng.”
Tiên Dung công chúa ngập ngừng rồi thưa:
“Nếu bác thương tình, con lạy bác, xin bác tâu với vua cha cho con đầu thai làm con mọi sách.”
Phật Di Lạc lấy làm lạ hỏi:
“Tại sao con muốn đầu thai làm giống vật chỉ có ăn giấy mục, mực hôi loài người thù ghét, gặp đâu giết đó, lại đem thuốc độc mà phun vào giấy, vào hồ, để con ăn phải, thì chết ngay?”
Tiên Dung công chúa thẹn thùng thưa:
“Con vốn biết cái kiếp của con mọt sách là như thế. Nhưng mà trót đọc lở dở một chuyện lý thú, mà dừng nửa chừng, con tiếc không cùng. Con nguyện, khi xuống trần, tìm khắp nơi, quyển sách con đã đọc một phần, để đọc nốt cho hả dạ. Mà có giống gì mãi mãi sống bằng sách vở, ngoài ra con mọt sách?”
Nghe thuật đến đây, Lân Trinh chặn ngang hỏi:
“Vậy thì Tiên Dung công chúa được đầu thai làm con mọt sách à?”
“Chính là như vậy! Nàng đã đời đời, kiếp kiếp len lỏi tất cả đủ các thơ viện, khắp tất cả tủ sách, để tìm một quyển như quyển đã được mình đọc lúc còn ở Thiên đình. Thế mà chưa gặp nên lang thang kéo dài một nghiệp ăn giấy mực, mực hôi. Và khi gặp người, thì bị giết.”
Dừng lại một phút để nén sự cảm động, nàng nói tiếp:
“Chỉ có một lần thôi, Tiên Dung công chúa không bị giết. Vừa bị tay đè lên mình, tưởng đã nát thân, chính là chàng đã cất tay lên để dung cho mạng sống. Nên bây giờ, tôi đến đây, để đền ơn tha giết, kể lại văn thơ tôi đã được đọc cho chàng nghe. Chàng không sách mà đọc, thì hãy nghe tôi kể chuyện. Cũng chẳng khác nào chàng được đọc sách vậy.”
(Truyền Tin, số Xuân Ất Mùi)

***

Phụ đính:

Thuỷ Hoàng và thuốc trường sanh


Khi Tần Thủy Hoàng diệt xong lục quốc, tóm thâu cả đất trung nguyên, thì lòng muốn hưởng tất cả cái khoái lạc của địa vị hoàng đế của mình. Bèn cho xây dựng cung A phòng, rồi hạ lịnh truyền ba ngàn gái đẹp hơn hết mà chứa vào cung ấy. Các nàng nầy, giữa tuổi xuân tình phát động, mà bị ở vào cảnh ấy, thường suy nghĩ đến số phận hẩm hiu của mình, oán trách trời xanh, cũng không giải khổ, cầu lòng tứ bí của ai, cũng không bớt buồn tủi. Họ chỉ còn có một lối, là được ngày nào, thì tận hưởng ngày ấy, biết đâu đi giáp ba ngàn cung nữ, Thuỷ Hoàng có thể trở lại viếng mình sau gần mười năm xa cách chăng? Do sự đòi hỏi đó, mà không bao lâu Thuỷ Hoàng suy nhược, thể xác mòn mỏi, lý trí rối beng…
Một hôm Thuỷ Hoàng mệt đừ, nằm nơi ghế ở ngự viên, thì mơ màng hồn phách mà thấy một cơn ác mộng. Tỉnh giấc dậy, thì tay chân bủn rủn, mà tâm hồn lại phảng phất, lòng lo sợ rằng mình sẽ chết nay mai, không được hưởng những khoái lạc của đời, thêm cả sự nghiệp nhà Tần tan rã. Trọn ngày buồn bực, bèn thương nghị với cận thần, để tìm kế hoạch nào để được trường sanh bất tử, hầu làm hoàng đế đến muôn đời.
Thời ấy ở nước Yên có chàng thi sĩ họ Từ tên Phước, thơ đã hay và vẽ rất khéo. Từ Phước nhà nghèo, học giỏi, vốn muốn dùng sở học để làm kế tiến thân. Song đã là một thi sĩ, tâm hồn gởi theo gió thổi đi khắp bốn phương, lòng mong mỏi một cái gì quang đãng, tốt tươi, êm dịu, thì thi sĩ ấy đâu có chịu vì mấy đấu gạo, mấy đồng lương, chút quyền thế mà gò bó bản thân mình trong một chế độ quá độc tài, quá khắt khe như chế độ của Thuỷ Hoàng? Sanh kế đã giải quyết không xong, mà giấc mơ lòng cũng tuyệt vọng. Chàng muốn phô trương văn tâm văn tài của mình để cảm động lòng tuyết giá của một trang gái đẹp lẫn sắc lẫn tâm hồn, để rồi một túp lều tranh, hai quả tim vàng, thơ chàng được giọng nàng ngâm lên, ý nhạc, lời thơ, nung nấu một ái tình đầy thơ mộng. Chàng cũng đã để ý đến một hai nàng quốc sắc, một vài đoá thiên hương, nhưng rủi thay, cuộc tuyển chọn cung nữ vào A phòng, đã hốt tất cả hoa đẹp của trần gian về trồng riêng cho Thuỷ Hoàng độc hưởng. Chàng vỡ mộng, như say, như tỉnh, chán thế sự, chán tình đời. Từ sáng đến chiều chỉ uống rượu, vẽ các cô đẹp lên tranh, rồi nhìn tranh ngâm thơ, để vịnh, để hưởng khoái lạc với người trong cảnh mộng… Chẳng bao lâu, sự nghiệp hết sạch, không kế sanh nhai, cũng may là có vị quan già của nước Yên, tên là Vị Vô Kỵ, mến tài vẽ, tài làm thơ của chàng, nên đem chàng về cho ở nơi thơ phòng, cấp rượu, cho áo cơm, để mặc, tình chàng sáng tác…
Vị Vô Kỵ không có con trai, chỉ sanh có một gái. Tuy nết na thuần thục, trí tuệ thông minh, song tiểu thơ không có chút nhan sắc, thành ra thiên hạ thường gọi nàng là Vị Vô Diệm, mặc dầu cha mẹ đã đặt cho nàng một cái tên rất đẹp là Lệ Tiên. Vô Diệm sớm mồ côi mẹ, và cũng bởi buồn về nhan sắc của mình, thành ra hay đọc sách để cho tâm hồn thoát cảnh trần gian là cảnh khổ của mình và tách vào được cảnh tiên đầy thơ mộng. Gặp hoa nói chuyện với hoa, gặp điểu nàng vui đùa với điểu, nàng lần lần làm bạn với đủ mọi loài, che chở cho giống nầy, binh vực cho giống kia, nàng trở thành nàng tiên của miếng vườn của mình… Một hôm, nàng thấy một con ong mật vướng lưới, the thé gọi nàng cứu tử, vì một con nhện hùm to tướng toan chạy lại để giết con ong. Nàng lật đật nhặt cành, khều con ong thoát khỏi lưới nhện. Ong chưa chịu bay đi, còn lẩn quẩn bên tai mà tạ ơn.
“Cảm ơn tiên nương đã cứu mạng, ngày sau tôi sẽ trả ơn! Tiên nương muốn điều chi, ngày mai xin cho tôi biết.”
Vô Diệm chưa biết đòi hỏi gì, thì ngẫu nhiên, bước thơ thẩn của nàng đưa nàng đến bên cạnh cửa sổ của thư phòng Từ Phước đang ở. Từ Phước đang chăm lo vẽ tranh, không để ý đến nàng. Nàng đứng nép một bên, thấy tranh cũng gần xong, và vẽ một nàng tiên cực kỳ đẹp đẽ, áo xiêm màu sắc lộng lẫy, má phấn ửng hồng môi son thắm nở, mũi thẳng mày cong, dáng đứng rất yểu điệu, cầm cây quạt xoè mà che khuất chút cầm. Khi vẽ xong Từ Phước mới lấy bút, chấm mực mà vẽ vào quạt, rồi đứng lui lại ngắm nghía, và ngâm lên bài thơ vừa viết, như là niệm thần chú:

Chiêu dương cung tạm vắng một giờ,
Ngó ý, tơ lòng lựa phải mơ!
Trót đã yêu đương đừng ái ngại,
Cùng nhau ta sống một bài thơ.

Vô Diệm thấy nàng trong tranh nhích nụ cười duyên, cúi đầu như tỏ vẻ ưng thuận, rồi bước ra khỏi tranh, đến trước Từ Phước mà hỏi:
“Chàng gọi thiếp đến có việc chi?”
“Cảnh đời buồn tẻ vắng kẻ tri âm. Bực tài hoa, trang quốc sắc, không đâu tìm có, nên ta mời nàng đến, nhờ nàng đãi thi sĩ đôi giờ hạnh phúc. Nàng có vui lòng chăng?”
“Thiếp là tiên trong mộng, chàng dạy sao, thiếp đâu có chối từ, huống chi, không còn bao lâu, chàng sẽ gặp duyên lành, thì cái tình chùng lén của đôi ta, biết chàng có nung nấu trong lòng hay chỉ mải vui duyên mới.”
“Vội nói chi đến phút xa cách. Ta nên tận hưởng sự vui của hội ngộ. Vậy nhớ nàng khiêu vũ để giúp vui.”
Nàng trong tranh vâng lời, nhún mình, vòng tay rồi múa, chậm chậm ngâm theo nhịp:

Nhẹ nhàng bước lụa nhịp lên nhung,
Nầy khúc nghê thường ở quảng cung…

Từ Phước nối lời ngâm theo cho hoà giọng:

Vóc liễu uốn cong, tà áo cuốn,
Má đào ẩn hiện giữa muôn hồng.

Chẳng nhịn được Vô Diệm khen lớn:
“Sắc đẹp thơ hay, múa dịu dàng, tiếng thanh tao! Ở trần thế làm gì có một nàng thứ hai như vậy?”
Nghe có tiếng người, nàng tiên lật đật chạy vào tranh, rồi đứng nghiêm, im bằt bặt. Từ Phước cũng bẽn lẽn chào Vô Diệm.
Về nhà trong, Vô Diệm cứ mơ mơ tưởng tưởng cảnh âu yếm mà nàng vừa mục kích, chỉ tiếc sao mình quá xấu xí, không sánh được cùng Từ Phước như nàng tiên. Song nàng nghĩ rằng Từ Phước đã có phép hoạ bức tranh thành tiên được, thì chẳng lẽ nào chẳng biến mình ra đẹp được? Nàng tin tưởng như thế, nên vào thưa với cha, thuật tất cả điều mình vừa mới thấy và tỏ nỗi lòng tha thiết của mình. Vị Vô Kỵ, vốn thương con, nhơn ở trào biết lòng mong mỏi của Thuỷ Hoàng, nên hỏi:
“Con có chắc Từ Phước có tài vời tiên đến chăng?”
“Con dám quả quyết như vậy.”
“Như vậy, thì cha có cách làm cho chàng phải bằng lòng cưới con. Chờ cha e chàng chê con thô kịch mà từ chối, nếu cha ngỏ ý gả con cho chàng. Cách ấy như thế nầy, là ngày mai, cha sẽ tâu với vua, là con có biết một người có phép vời tiên đến. Nếu vua muốn tìm thuốc trường sanh, thì không thể hỏi người phàm, mà chỉ hỏi tiên mới được. Nếu vua bằng lòng tứ hôn, gả con cho Từ Phước thì chàng sẽ vời tiên đến cho vua hỏi. Còn việc tiên sẽ ban cho cùng không, là việc riêng của tiên không can hệ chi đến mình…”
Hôm sau, khi Vị Vô Kỵ vào chầu, thì Vô Diệm sống trong những phút hồi hộp. Nàng không biết nhà vua có chấp thuận lời tâu của cha nàng không? Nàng không biết Từ Phước có sợ oai vua mà cầu tiên đến chăng?
Bỗng nghe bên tai văng vẳng tiếng chào:
“Tiên nương chớ nên lo lắng lắm. Tôi đã biết rõ các chi tiết, tôi đi hút trong một vườn hoa ngự, nghe trong cung bàn rằng, vua sẽ tứ hôn mà gả tiên nương cho Từ công tử. Song muốn cho được tình duyên ép buộc nầy được dẫy đầy hạnh phúc, thì xin cho tôi dâng kế mọn nầy, gọi là tạ ơn cứu tử hôm qua.”
Vô Diệm hỏi:
“Kế chi?”
“Tiên nương hãy vào lấy cái ly thuỷ tinh có nắp, lấy sáp trây đầy phía trong của ly lẫn nắp, rồi nhắc ghế cao mà để ly nơi giữa sân vườn. Mọi mặt khác, tiên nương lấy giấy viết như vầy, như vầy…”
Vô Diệm y lời, đặt ly thuỷ tinh xong nơi giữa vườn, thì viết một cái thư cho Từ Phước.
Ngồi nơi thơ phòng đọc sách Từ Phước thấy hơn một trăm con ong ngậm một sợi tơ dài, bay đến, kéo theo một bức thơ. Thơ rằng:
“Thưa Từ công tử,
Công tử sẽ được thiên tử triệu vào chầu hỏi công tử có phép vời tiên đến chăng? Thì công tử hãy đáp rằng các vị tiên đa đoan, không phải lúc nào là vời cũng đặng. Nếu nhà vua muốn hỏi công tử tình nguyện đi tìm mà hỏi thay cho. Nếu nhà vua ngỏ ý muốn có thuốc trường sanh, thì công tử tâu rằng ngày trước tiên có ban cho công tử một ly, đủ cho một người uống, và công tử có gởi cho Vị tiểu thư cất. Nếu nhà vua muốn dùng, thì xin truyền lịnh cho Vị Tiểu thư dâng cho.”
Chàng lấy làm lạ, không biết thư từ ở đâu mà gởi đến. Còn đang suy nghĩ, bỗng đâu cả trời vần vũ, mây che khuất bóng thái dương, tiếng ù ù càng gần, rồi sát bên cạnh tai. Chàng thấy Vô Diệm đứng ngoài sân dường như nói chuyện với người khuất mặt, bên cạnh một cái ghế có đặt một cái ly thuỷ tinh. Hơn giờ sau, trời lần lần tỏ lại, mây đen tan rồi tiếng ù ù bớt rồi im hẳn, vầng thái dương lại lộ ra. Vô Diệm lấy nắp đậy ly thuỷ tinh, dùng sáp trét kính rồi bưng vào nhà. Từ Phước mới yên lòng, cho rằng nàng đã có ly thuốc trường sanh thì đồng thời, bức thơ nấy đã có linh nghiệm.
Còn về phần Vô Diệm, khi đứng ngoài sân, nàng đã nói chuyện với ong, làm cho nàng lâng lâng trong lòng, tin rằng nàng cầm chắc hạnh phúc của nàng trong tay. Con ong đã nói:
“Từ ngày Thuỷ Hoàng lập cung A phòng, dài rộng không kể được bao nhiêu dặm thì đem hoa lạ cỏ thơm mà trồng khắp. Hoa đã đẹp thì mật ong càng chứa nhiều chất hậu mật. Nên chi trong các tổ ong, chất hậu mật dồi dào, thừa số cầu, chứa lâu không dùng, thì mất chất quí của nó. Nhờ ơn tiên nương cứu tử tôi có đến các tổ mà hỏi vay đến các phong hậu, ít nhiều hậu mật để đủ lượng mà cung cấp cho tiên nương. Đàn ong đến đây, tức là đem hậu mật mà cho tôi đó! Sau nầy, nhà vua có hỏi thuốc trường sanh, thì tiên nương hãy đem ly mật đó mà dâng. Nhà vua không dám dùng, thì tiên nương tình nguyện mà uống để thí nghiệm. Tiên nương chỉ đóng cửa mà ngủ ba ngày ba đêm, thì sẽ có hoàn toàn công hiệu…”
Ngày thứ hai Vô Diệm theo cha vào chầu, triều bái tung hô xong rồi thì Thuỷ Hoàng ra lệnh gọi Vô Diệm đến quì trước sân chầu mà hỏi:
“Khanh có biết vị đạo sĩ biết vời tiên đến phải không? Nếu quả như vậy khanh hãy giới thiệu cho trẫm biết. Trẫm tứ hôn ngay cho khanh, y như theo lời xin của cha khanh.”
Vô Diệm tâu:
“Thần thiếp vô phúc, mà chẳng có nhan sắc, lại thầm yêu vị đạo sĩ ấy. Nếu thiên tử tứ hôn, ấy là ban phúc lớn cho thiếp, vì thiếp sẽ nhờ chàng vời tiên đến mà biến hình cải dạng cho thiếp thành tiên và hoá ra bất tử nữa! Vị đạo sĩ ấy đang ở tại nhà cha thiếp, họ Từ tên Phước đó. Chính thiếp đã chứng kiến thấy rõ chàng vời tiên đến, lại khiến tiên múa, hát, ngâm thơ.”
Thuỷ Hoàng sai sứ đem kiệu vời Từ Phước đến ngay; khi chàng tung hô xong xa, thì Thuỷ Hoàng hỏi:
“Khanh có phép vời tiên đến được phải không?”
“Tâu bệ hạ, việc vời tiên đến, thì quả thật là có. Nhưng tiên đa đoan, không phải lúc nào cũng vời đến được, hay có thể vời bất cứ hạng nào cũng được. Bần đạo, nếu cần thì phải đi tìm tiên mà hỏi. Gần hay xa, là tuỳ theo muốn hỏi vị tiên nào, tức là tuỳ câu hỏi vậy.”
“Trẫm muốn nhờ khanh tìm tiên để cầu thuốc trường sanh, phỏng có được không?”
“Thuốc trường sanh không phải dễ tìm. Nhưng nếu bệ hạ muốn dùng, hà tất phải nhọc. Trước đây, tiên có ban cho bần đạo một ly thuốc trường sanh, chỉ đủ cho một người như chúng ta uống vào, thì hoá ngay ra tiên, thành trường sanh bất tử. Ly thuốc ấy, bần đạo chưa dùng, còn gởi cho Vị tiểu thơ cất giữ giùm. Xin bệ hạ cho hỏi Vị tiểu thơ để coi ly thuốc trường sanh hãy còn chăng?”
Tần Thuỷ Hoàng gọi Vô Diệm hỏi:
“Tiểu thơ có cất ly thuốc trường sanh chăng?”
“Tâu bệ hạ có! Xin cho thần thiếp về đem lại ngay.”
Nàng lên kiệu về, trong một khắc đem lại ly thuỷ tinh đầy mật, quí mà dâng, và tâu rằng:
“Đây là ly thuốc trường sanh, xin kính dâng bệ hạ.”
Thuỷ Hoàng vừa muốn ra lịnh thâu nạp, thì thừa tướng Lý Tư quì xuống tâu rằng:
“Xin bệ hạ chớ vội. Phỏng đạo sĩ và Vị tiểu thơ toa rập mà dưng thuốc độc cho bệ hạ, thì giang sơn nầy sẽ ra sao?”
Thuỷ Hoàng nổi giận, truyền dẫn Từ Phước, Vị Vô Kỵ và Vị Lệ Tiên ra pháp trường chém ngay. Lệ Tiên quì lạy tâu rằng:
“Trước khi chịu tội chết, xin bệ hạ nghe thần thiếp tâu. Bệ hạ chưa biết ly thuốc này là ly thuốc độc hay ly thuốc trường sanh. Vậy xin bệ hạ cho thần thiếp uống ngay giữa triều. Thuốc trong ba ngày sẽ có công hiệu. Nếu là thuốc độc, thần thiếp chết rồi, bệ hạ hành quyết cha thiếp và Từ Phước sau cũng không muộn. Còn nếu quả là thuốc tiên, thì vợ chồng thiếp tình nguyện đi cầu tiên mà xin thuốc khác cho bệ hạ dùng.”
Thuỷ Hoàng nghe tâu có lý, truyền giao ly mật cho Vô Diệm uống hết, lại gọi Từ Phước mà an ủi:
“Nay trẫm tứ hôn cho khanh và tiểu thơ. Việc bất thành thì vợ chồng chịu chung chết. May mà vị tiểu thơ cởi lốt thành tiên, thì ta sẽ cho hai vợ chồng cùng đi tìm tiên mà xin hai phần thuốc nữa. Để ta cùng ngươi cùng uống, đặng đồng cởi lốt thành tiên, đồng hưởng phú quí đời đời kiếp kiếp.”
Mãn chầu Từ Phước buồn bực hết sức, ăn ngủ không an. Phần bị bắt buộc làm chồng của một nàng thô kệch, xấu xí, phần lo rằng thuốc không công hiệu. Còn tiểu thơ thì khoá chặt phòng, ngủ thiêm thiếp, chẳng nghe cựa quậy.
Vừa dứt ngày thứ ba, thì một bầy ong như cũ, đem lại cho chàng một bức thơ như lần trước. Thơ rằng:
“Thưa công tử,
Công việc đã thành. Vị tiểu thơ đã cởi lốt thành tiên. Nhưng hai vợ chồng phải tìm kế mà thoát thân. Ở lại, mang hoạ lớn với tay bạo ngược. Mà dâng thuốc trường sanh cho giống ác, thì công tử đời đời kiếp kiếp, sẽ bị nguyền rủa của dân chúng bị áp bức và lầm than!
Vậy nên thừa lúc nó mong mỏi thuốc trường sanh, mà đòi mười chiếc thuyền lớn, năm trăm gái đẹp, năm trăm trai tơ khoẻ, các thợ khéo đủ nghề, hột giống đủ thứ của báu, gấm vóc đủ thức gọi là lễ cầu thuốc tiên. Rồi ra Đông Hải, nhắm mặt trời mọc mà đi hoài, sẽ có chỗ gởi thân.”
Đến ngày thứ ba, Vị Vô Kỵ, Vị Lệ Tiên và Từ Phước đồng đi vào chầu. Thuỷ Hoàng gọi Lệ Tiên nàng thoát màn kiệu, bước ra sân chầu, thì quả nhiên là một tuyệt sắc giai nhân, ngực vung, lưng eo như lưng ong, mông tròn, chân dài, tay dịu, mặt như tranh vẽ, mày liễu, mắt ngời. Ba ngàn cung nữ trong A phòng không ai sánh kịp, Tần Thuỷ Hoàng đã muốn đổi ý.
Từ Phước quì tâu để trình bày chương trình vượt Đông Hải tìm hiểu. Không quên nhắc rằng Thuỷ Hoàng có thể cầu được thứ thuốc để biến thêm người đẹp hơn Vị tiểu thư nữa… Thuỷ Hoàng y tấu, truyền chọn đúng tất cả các món đã kể. Còn đưa thêm nhiều món quí để cầu xin nhiều thuốc, hầu luôn dịp cải ít người cung nữ thành tiên một thể. Trong vài ngày dự bị xong xuôi, vợ chồng Từ Phước xuống thuyền. Mười chiếc thuyền, một buổi tinh sương, tiến nhẹ trên biển đông êm lặng. Vừng thái dương vừa ló dạng, nhuộm màu tươi cho nền trời… Để Thuỷ Hoàng vị độc tài khét tiếng của thời xưa ở lại lãnh cái số phận thối tha là chết sinh trên đường từ Sa Châu về Hàm Dương, trên xe chở quan tài lại chở thêm cá ươn cho tiệp mùi hôi.

Ngày chót của một nữ sứ quân

Ở vào thời loạn ly, quần hùng tranh khởi mỗi nơi, và xưng làm sứ quân. Hà Tranh, sứ quân ở một xứ nọ bị tuỳ tướng là Đặng Huy giết đi mà đoạt tất cả binh quyền. Hà Mai là con gái Hà Tranh bị ép làm thiếp. Nàng không chịu, chờ cái chết.
Lưu Hổ, một thầy thuốc ở miền thượng du xuống, xúi nàng hãy tạm ưng đi, rồi sau sẽ tìm cách thuốc chết Đặng Huy và gia đình đoạt lại sự nghiệp của cha. Riêng Lưu Hổ hy vọng sau nầy sẽ làm chồng của Hà Mai và làm chủ một cõi. Kế nầy thành nhưng Hà Mai lại có chí hiên ngang, gạt Hổ qua một bên, tự mình làm sứ quân.
Hổ giận oán tìm con gái của Đặng Huy còn sống sót mà xúi dục báo thù.
Nàng Đặng Liên vì sức yếu, vì không thề gần vị nữ sứ quân mà hành thích, bèn lập kế tìm anh là Đặng Huệ đang tu luyện ở một ngôi chùa miền rừng núi dùng đủ lời lẽ xúi anh báo thù. Khi Huệ đã xiêu lòng, Liên bày kế giục anh đến gần Mai mà giảng đạo, làm cho Mai mê, rồi chiếm quả tim của Mai, sau sẽ thuốc chết Mai mà đoạt lại ngôi sứ quân cùng trả thù cha.
Kế nầy thi hành được phân nửa thì Mai lại biết được. Mai và Huệ lại yêu nhau nồng nàn. Mai bèn thành thực mà giải tại sao nàng phải làm như thế. Mỗi bên đã mất một người cha. Nàng lại có mang. Nếu không chấm dứt dây nhơn quá thì thù oán biết bao giờ cho hết. Âu là để cho kết quả của tình yêu được ra đời.
Đàng nầy Liên thấy kế mình thất bại, định giết người thù, lẫn cả người anh phản bội bèn hỏi kế nơi Hổ khiến giả vờ để có dịp ăn chung mà thuốc chết cặp vợ chồng ấy đi.
Có người hay được báo cho Mai. Mai gọi Liên đến Liên thú nhận. Mai thành thật tha tội cho và chọn ngày mở tiệc đoàn viên. Bộ hạ của Mai khuyên gián không được bèn định với nhau toan thuốc chết tiêu đi cho rồi.
Trong tiệc đoàn viên, hai vợ chồng sứ quân và em là Liên cùng ăn. Giữa tiệc, mọi người đều thấy rằng mình đã sắp chết không cứu được… Quân do thám vào báo. Đạo quân hùng hậu của Đinh Bộ Lĩnh tràn đến. Mai và Huệ cùng nói:
“Sức của một số ít người không thể dứt được sợi dây nhân quả của tiền cừu hậu hậu mà nguyên nhân đầu tiên là sự tranh giành ngôi sứ quân này, nay âu cho nó dứt bằng cách hàng đầu Đinh Tiên Hoàng đế vậy.”
(Ánh Sáng, số 234, ngày 12-12-1948)

 

Hà Nội

(trích đoạn Phố Sinh Từ)

Thế là chúng tôi về Hà Nội, Khuê đưa tôi vào một căn phố ở hẻm Sinh Từ, cả ngày không có ai lai vãng, đến quá khuya mới có người vẻ lật đật thay đồ ngủ, để sớm lại đi. Ở lâu, tôi mới biết người ấy là Phạm Ngọc Khôi, vừa làm công chức, vừa là đạo diễn cho một ban ca kịch, nên mới đi sớm về khuya và cả tháng chưa nói với tôi một câu. Mỗi ngày hai lượt, tôi đi độ dăm mươi thước theo phố Sinh Từ, mà đến nhà họa sĩ Hoàng Tích Chù để ăn cơm.

Thế là mỗi ngày bốn lượt tôi đếm bước trên con đường mà Tú Uyên gặp Giáng Kiều lần đầu.

Ngay bữa đầu, khi Khuê dắt tôi đi trên phố Sinh Từ, để cho biết nhà Hoàng Tích Chù, việc Tú Uyên gặp Giáng Kiều nơi này đã được nhắc lại. Và Khuê bí mật nói:

– Rồi đây anh sẽ gặp Giáng Kiều của anh.

 

Cọp hú


Năm nay là năm con cọp, mà không nói chuyện cọp hú, thì thấy chừng như có gì thiếu sót. Chẳng khác gì các cô sắm thức ăn Tết, mà quên món “bánh của dân tộc” là bánh tét vậy.
Năm ấy, chúng tôi ở Côn Lôn, mà bị cấm cố, nghĩa là không được món quà gì hết, đến ra sân hưởng không khí cũng không được. Nhưng đã là người Việt Nam, mà gặp dịp Tết mà không ăn Tết, thì nghe đâu như mình đã hoá ra kẻ vong bản. Thế nên trong khám riêng của tôi, vài anh em ăn Tết với nhau… bằng tưởng tượng.
Thay vì quà bánh, chúng tôi có lối riêng, là nhờ một anh kể ra một món ăn trân mỹ nào đó, từ lúc bắt con thịt, làm cách nào, xào nấu làm sao, gia vị cách nào và dọn theo kiểu nào. Nói nghe mà thêm nhểu nước miếng. Hay nhất là chỗ nầy, trong lúc nói, anh hứng quá, thành ra anh kể nhiều món tỉ mỉ, mà thật ra anh chưa từng thấy bao giờ, và có lẽ miệng anh nói, lỗ tai anh nghe cũng rất thú vị như những người khác.
Mà ăn Tết, lại không có một số báo mùa xuân đọc giải trí, thì sao dám gọi là ăn Tết? Chúng tôi ở vào cảnh tù, thiếu thốn mọi bề, thì tấm lòng không khác nào trẻ con nên bốn năm. Nó không có con ngựa cỡi chơi à? Thì có khó gì? Nó cặp một khúc sậy vào giữa hai chân, tay cầm cương, tay quất phía sau, miệng hự hẹ om sòm, thì con ngựa cũng chạy vậy. Và cũng chưa chắc gì người cỡi ngựa thiệt được sung sướng hơn nó cỡi con ngựa tưởng tượng của nó đa, các ông các bà ạ! Còn chúng tôi không có một tập báo mùa xuân với những bài của những ngọn bút có tài, thì chúng tôi xuất bản miệng tờ báo xuân tưởng tượng.
Nếu các món quà bánh có thể không ngon bằng các thứ ăn thiệt, thì độc giả nên tin rằng “tờ báo miệng” của chúng tôi hay lắm. Các bạn đồng nghiệp nếu không bằng lòng lời phê phán của tôi, rất khó mà chứng minh rằng họ có tài hơn bọn tù chúng tôi. Bởi họ viết thì cái nhảm nhí còn đó, mà tờ báo miệng của chúng tôi nghe qua rồi, bay mất chỉ để lại một kỷ niệm đẹp đẽ mà thôi. Và sau đây là bài “Cọp hú” của một anh bạn gốc ở Cà Mau. Độc giả chớ quên rằng vì là báo miệng nên thỉnh thoảng có kẻ xen vô cãi.

*

Mấy anh có biết cọp hú là cái gì không? Nếu không, thì về sau, có mở miệng mà thề, thà thề cái gì còn có cơ tránh được, chớ đừng thề cọp hú nhé!
Hồi xưa có một người nọ tánh hay mèo chuột, nên khi đi ra Huế để thi, thì vợ gọi vào buồng nói thỏ thẻ rằng :
“Tôi nghe đồn các cô gái Huế vừa đẹp vừa đa tình, đến đỗi ca dao có câu:

Học trò ở Quảng ra thi,
Thấy cô gái Huế ra đi không đành.

Nay mình ra Huế, mình thề với tôi đi, thề rằng mình sẽ luôn luôn trung thành với vợ.”
Anh chàng nầy vốn biết tánh mình, nên chọn một lời thề, mà chàng cho là ít độc địa hơn hết, để thề cho vợ tin, hầu đi cho mau mà hưởng thú vị của sông Hương với bao nhiêu mỹ nữ gieo những giọng mê hồn trên mặt nước lờ đờ. Thế là anh ta thề:
“Tôi mà không trung thành với mình thì cọp hú.”
Trong trí chàng ta tưởng rằng dầu cọp có hú, mình có nghe mà không đến, thì lại có hề hống gì mà sợ? Còn bà vợ gốc người Khánh Hoà, là nơi cọp nhiều có tiếng, nghe lời thề độc địa như vậy, nên vui lòng cho anh ra đi “lập chữ công danh”. Anh ấy cũng lập chữ công danh vậy. Nhưng là chuyện phụ thuộc, còn việc chánh là anh đã để bao nhiêu thì giờ, tiền bạc và tâm trí, để thí nghiệm xem câu ca dao mà vợ vừa nhắc đó có quả như vậy chăng?
Trong mười lăm năm, hai vợ chồng anh ta sống ở các thành thị lớn, nên lời thề kia chưa có dịp ứng nghiệm được…
Nói đến đây một thính giả xen vào cãi:
“Mầy là duy vật, mà tin chuyện dị đoan nữa à?”
Mấy bạn khác chặn lại:
“Để nó nói hết cho mà nghe. Ai biểu mầy phải tin. Nghe cốt là tìm cái thú vị thôi, chớ nó có duy tâm hay duy vật gì trong câu chuyện hoang đường.”
Người nọ yên lặng ngồi, để nghe kể tiếp.
Một hôm kia, bà vợ về Khánh Hoà thăm quê nhà, rủi bị cọp bắt ăn đi, thì bữa sau, ứng mộng liền cho chồng mà nói rằng :
“Hôm kia tôi mới bị cọp bắt ăn, thành cái cô hồn thứ chín mươi tám của con cọp đó. Nếu nó ăn được thêm hai mạng người nữa, thì nó thành con hùm xám, đã dữ dằn, lại hú được. Hồi đó mình có thề láo với tôi rằng khi ra Huế, mình sẽ trung thành với tôi, không thì bị cọp hú. Bấy lâu nay, tôi tưởng là mình giữ lời hứa, nào dè nghe bọn cô hồn ấy nói chuyện, tôi mới hay rằng mình mắc lời thề.”
Chàng ta nghe nói như vậy, sợ hãi hỏi:
“Bọn cô hồn ấy nói cái gì?”
“Khi hồn tôi vừa lìa khỏi xác, thì tôi thấy chín mươi bảy cái hồn khác đương nhảy múa reo mừng rằng: ‘Được một nữa rồi, còn thêm hai, thì cọp nầy thành hùm xám, rồi nó sẽ hú thằng cha gạt vợ cho mình coi chơi!’ Tôi nghe lấy làm lạ hỏi chúng nó, thì bọn cô hồn ấy bảo: ‘Lời thề cọp hú độc địa lắm, nên không ai dám mở miệng mà thề: mà rủi có nói lỡ, thì lại rán giữ đừng cho mắc vào. Thành ra từ xưa tới giờ chưa có ai bị cọp hú lần nào cho biết. Lần nầy lại được xem thì thích lắm!’”
Dừng lại một chút, để nhìn chồng với vẻ mặt thương hại, bà vợ nói tiếp :
“Ban đầu tôi giận mình lắm!”
Anh chồng ngạc nhiên hỏi:
“Làm gì mà giận?”
“Tôi giận mình sao có lén tôi mà đi mèo chuột, đến nỗi mắc lời thề. Tôi muốn để mặc kệ cho cọp nó hú mình, tôi coi chơi cho đã hư.”
“Chuyện đã mười lăm mười bảy năm mà còn ghen nỗi gì?”
“Mình không biết tánh của đàn bà sao? Chuyện bóng chuyện gió còn ghen được, huống chi là chuyện thiệt, dầu nó cũ mười mấy năm…”
Anh chàng nghe nói buồn dàu dàu, thì vợ nói tiếp:
“Nhưng tôi nghĩ lại. Người không bị cọp hú mà chỉ bị ăn suông, thì về sau còn khỏi cái kiếp bị cọp ăn. Chớ bây giờ mình bị cọp hú một lần rồi, thì sau đời đời kiếp kiếp, mình sẽ làm người bị cọp hú và ăn thịt.”
Nghe nói vậy chàng ta hoảng hốt, trách mình sao có quá ham vui mà mắc phải lời thề độc địa như vậy. Vợ lại nói thêm:
“Mà khổ là mỗi lần bị cọp ăn như vậy, nào phải như người thường bị ăn đâu! Cọp nó hú lên, rồi mình làm cái trò gì lạ lùng cho đến đỗi, bao nhiêu cô hồn còn nán lại xem cho thoả con mắt một lần cho biết…”
Nghe thuật chuyện đến đây, một người gọi nhỏ bạn ngồi kế bên nói:
“Mầy cũng hảo ngọt: đó, thấy chưa? Nhớ đừng thề với mấy lời thề cọp hú nghe!”
“Chuyện dị đoan như Liêu trai chí dị, hơi đâu mà tin, mà sợ.”
Mấy người kia xì xịt:
“Nín mà nghe có được không?”
Người thuật nói tiếp:
Nhưng mà hồn vợ anh nọ cũng lành, nên lần lần thương hại chồng và nói rằng:
“Bây giờ tôi nghĩ có kế nầy, hoạ may cứu mình được. Việc thứ nhất là hai cha con mình dắt nhau đến Bình Định mà tìm ông Đào Duy Quân. Ông đó là cháu tám đời của ông Đào Duy Hiến, là thầy dạy nghề văn nghiệp võ cho Nguyễn Huệ thuở trước. Ông còn giữ lắm ngón bí truyền của tổ tiên. Hai cha con rán năn nỉ khóc lóc, để nhờ ông truyền chút ít nghề mà giữ mình. Mình già yếu rồi, đi đâu phải dắt con theo, rủi cọp có hú, thì vừa mình đỡ, vừa con chống cự, hoạ may cọp không làm gì được. Còn phần tôi, tôi sẽ chịu khổ, luôn luôn mách trước cho người ta hay; để cho con cọp đã ăn tôi, lại không thể ăn thịt hai mạng nữa. Thế là nó chưa ăn đủ số trăm mạng tức là chưa thành hùm xám, thì nó không thể hú mình được.”
Tỉnh giấc dậy, chàng ta nhớ lời vợ dặn, sợ quá. Và gọi con lại mà tính đi học nghề võ. Bởi con va là con gái; nên va giấu việc lời thề nọ, mà chỉ nói rằng vợ về mách rằng có huông cọp ăn nên phải đề phòng. Khi đến Bình Định, tìm phủ Tuy Viễn mà hỏi thăm thì quả có ông già tám mươi tuổi tên là Đào Duy Quân, làm nghề thầy thuốc, chớ không phải là thầy nghề võ. Tìm mãi chẳng có ai khác, mà không lẽ lời vợ ứng mộng lại không linh, anh ta mới dắt con tới ông già, khóc lóc, mà xin cứu mạng. Ông già động lòng hỏi có bịnh gì, thì hắn ta mới kể chuyện có huông cọp ăn, vợ ứng mộng bảo đến cầu học mà giữ mình.
Ông thầy thuốc mới nói thiệt rằng tổ tiên mình đã truyền lắm ngón hay, nhưng căn dặn rằng: “Chớ dạy cho kẻ khác, họ dùng đó mà làm nghề ăn cướp. Cứ giữ ngón bí truyền của nhà, dành đó cho những vị anh hùng nào như Nguyễn Huệ mà dạy tần tình cho, hầu cứu dân giúp nước. Nếu không nghe lời mà truyền cho những kẻ không lương tâm, thì sẽ bị cọp hú.” Hắn ta nghe nói khóc lóc năn nỉ rằng:
“Tôi học đây, chỉ để giữ mình thôi. Nếu hai cha con tôi không giữ bí truyền của thầy, thì sẽ bị cọp hú nữa!”
Ông già thấy thề độc địa như vậy, nên cũng dạy cho tất nhiên không hết nghề của mình, nhưng đủ sức một mình đánh nổi ba con cọp vậy.
Mọi việc tưởng đã êm rồi, không dè đêm nọ hắn ta chiêm bao, thấy vợ về nữa, mà chuyến nấy có vẽ lo sợ, buồn thảm lắm. Hắn ta hỏi, thì bà vợ đáp:
“Lâu nay, tôi lén bọn cô hồn mà đi báo trước cho người ta hay cọp đến để trốn. Không dè, sau bọn cô hồn chia nhau mà canh tôi, giữ tôi lại không cho làm như vậy nữa. Thành ra con cọp đã ăn được thêm hai mạng người. Nó đã thành hùm xám rồi. Chín mươi chín cô hồn kia giục nó bỏ rừng Khánh Hoà, mà đi tìm mình, để hú mình cho chúng nó xem chơi. Chúng nó lại biết rằng hai cha con mình học võ giỏi lắm, nên cứ bảo nhau: ‘Chuyến nầy vừa coi được một trận đấu võ tuyệt trần lại thêm được một cuộc cọp hú nữa!’ Tôi lo quá, lén đến trước cho mình hay. Không thể nào trốn được việc cọp hú đâu, dầu là mình giỏi nghề võ. Trốn đi thì hơn.”
Giựt mình dậy, chàng ta đổ mồ hôi hột. Trốn đâu bây giờ? Từ Khánh Hoà thẳng tới bên Tàu, rừng núi liên tiếp, thì ở đâu con hùm xám cũng tới được. Nếu bây giờ xin đổi qua miền Hậu Giang, thì hoạ may nhờ sông Cửu Long rộng ba bốn ngàn thước nó ngăn cách, hùm xám đến không được chăng. Nghĩ vậy chàng ta xin phép đổi, và được đi Cà Mau; không dám đi đường bộ, chàng ta đi tàu vào Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn đi tàu thẳng tới sở.
Hắn ta làm sở dây thép, ở tại sở chật hẹp. Vậy mà đứa con năm nay mười chín tuổi rồi, hắn chỉ bằng lòng gả ở mà thôi. Cô ấy không đến đỗi đẹp lắm, mà hắn ta không giàu gì, thì có cậu nào đến đỗi bằng lòng ở rể nơi nhà cửa chật hẹp của sở đâu! Hắn thấy cũng tội nghiệp con, nhưng an ủi rằng:
“Thôi con rán giữ giùm cho cha đến già, chết cái chết tốt một chút.”
Một hôm hai cha con có việc đi Khánh An, thì trên đường vắng, nghe mùi tanh tanh ở đâu đưa lại. Cọp rồi! Bỗng nghe tiếng người ta nói ồn ào, như giữa chợ, nhưng chẳng có ai hết. Mà từ trong bụi, nhảy ra một con cọp to như con bò, lông lá xám hết. Hắn ta sợ hết hồn la lên:
“Hùm xám!”
Con cọp hự một cái, gật đầu, rồi bỏ bộ ngồi xuống, chậm rãi liếm râu, nhích mép như là cười mỉm chi, chứ không nhảy tới vồ.
Đứa con gái lật đật kéo vạt áo dài mà quấn chung quanh lưng, nhét mối cẩn thận cho gọn để giữ chừng, rồi nói:
“Cha tháo lui để cho con cản nó.”
Hắn ta nghe lời lùi lần. Cọp thấy vậy nhảy phóng tới, đưa móng để chụp. Thì cô gái lẹ chân đá ngang hông cọp. Con cọp té nhào một bên không chụp được. Cọp vừa đau, vừa tức mình, con mắt đỏ như lửa, hự hẹ om sòm. Còn đàng kia hắn ta co giò chạy như bay, có mấy phút đã xa lắc. Bỗng từ đâu không biết, tiếng người ta nổi lên ồn ào, mà chẳng thấy một tâm dạng ai. Thì con hùm xám hình như nghe, cười hắt hắt lên, ngồi lại đàng hoàng, cất tiếng hú to nghe rùng mình. Chàng kia chạy đã xa rồi nghe tiếng hú, quay đầu lại cất tiếng cười dòn dã, rồi trở lại, bộ mặt hân hoan lắm. Đứa con gái hỏi:
“Sao cha không chạy cho xa, còn lại đây làm chi nữa?”
Hắn ta không đáp lại, cười khanh khách, chạy nhào đến chỗ cọp ngồi. Đứa con hoảng hồn, nhảy tới vận quyền mà thoi vào mặt cọp, để nó hoảng chạy đi mà đừng có thì giờ bắt cha nàng, thế là cọp và nàng ấy đấu nhau. Cọp đấu không lại, nhảy ra vòng ngoài. Thì nàng ấy lại kéo cha đi. Nhưng anh ta vừa lách vừa cười, cứ nhằm con cọp mà xốc tới. Nàng ấy cản lại không được, nên cứ phải rượt theo đánh đuổi con cọp. Cọp thua chạy, thì hắn ta cũng chạy theo, bộ tịch mừng rỡ lắm. Đứa con không biết làm sao.
Có người xen vào hỏi:
“Tại sao cô ấy không bắt cọp quách đi cho rồi?”
Bộ cọp dễ bắt lắm sao chớ? Bởi vậy cứ giằng co như vậy mãi. Bỗng đâu tiếng ồn ào nổi lên nữa. Cọp liền hú nữa, thì hắn ta gật đầu, đắc chí lắm, dùng miếng lưỡng long quá hải mà thoi ngay vào mặt con gái mình hai quả đấm một lượt. Đứa con lật đật đỡ rồi chạy, không dám đánh lại cha. Bây giờ mới khổ cho cô ta. Vừa con hùm xám, vừa cha nàng xông đến mà cự với nàng. Đối với con hùm xám nàng thoi đá tưng bừng mà đối với cha, nàng chỉ có nước tránh đòn mà thôi. Lẽ tất nhiên nàng phải thua, nhảy ra ngoài mà thở. Thì cọp hú một tiếng nữa. Hắn ta ríu ríu nhảy vào lòng cọp, để cho cọp móc họng.
Cứu cha không kịp, người con gái chỉ còn lại một nước là đánh đuổi con cọp để giành cái xác đem về. Nhưng lạ thay, con cọp cứ lẽo đẽo theo chực cướp lại. Và tuy hắn ta đã chết, song mỗi lần cọp hú, thì cười sặc sặc và có ý trì lại, không để cho con kéo đi.
Rê một cái xác khó nết như vậy, mà còn phải cự với con hùm xám to tướng kia, thì cô ta xem chừng không kham. Nên cô ta cố sức đánh lui con cọp, rồi bứt dây rừng cột thúc kẻ ông già lại, treo tòn ten trên cây cao, khỏi mặt đất mấy chục thước cho cọp nhảy không tới. Rồi cô về xóm, gọi người lực lưỡng, hèo gậy đàng hoàng thật đông, để cự với cọp và đem xác cha về. Khi ra đến nơi, ai cũng lấy làm lạ mà thấy rằng dưới nầy, cọp đi qua đi lại, nhìn lên mà hú, thì ở trên lão ấy nhào qua lộn lại giữa không trung cười dòn dã, như muốn cỡi dây xuống giỡn với cọp mà không được…
Khi đuổi con hùm xám đi rồi, ai nấy giúp sức đem cái xác kia về chôn cất tử tế. Thì tối lại nghe mùi hôi tanh của cọp và tiếng hú rùng rợn, tiếng cười dòn dã, tiếng reo hò như của hàng trăm người hoan nghinh một việc gì. Nhưng đêm tối chẳng ai dám ra. Riêng cô con gái nghi là hùm xám đến quật mồ của cha mình để ăn xác, nên đánh liều gọi người ta đốt đuốc sáng giúp cho. Và cô xông ra một mình. Nhưng trễ quá, cọp đã ăn hết thịt và đương gặm bộ xương. Cô xông tới đánh cọp, cọp thua chạy đi. Cô cướp được bộ xương đem vào.
Hàng xóm sáng đến xem, thì không có dấu cọp moi. Hùm xám chỉ hú một cái, là hắn ta tung mồ lên nạp mạng. Có mấy ông già biết chuyện mới dạy:
“Cha cô hồi trước chắc có thề cọp hú, mà không giữ, nên mới bị như vậy. Và có đầu thai mấy ngàn đời thì vẫn bị cọp hú. Tội nghiệp thì thôi! Tốt hơn là đừng cho ông ấy đầu thai nữa. Chớ đi đầu thai, mà mỗi lần đều bị cọp ăn như vậy thì thảm biết chừng nào!”
Cô nọ mới hỏi:
“Làm sao đừng cho hồn cha tôi đi đầu thai được?”
Ông già đáp:
“Bây giờ cô thiêu hết bộ xương nầy đựng vào cái lọ nhỏ, đem vào chùa nào có hoà thượng giỏi, dùng phép ngũ hành của Phật mà nhốt hồn lại. Tài biến hoá như Tôn Hành Giả mà thoát ra còn không được kia!”
Cô ta nghe lời làm y theo.
Từ ấy trong rừng có tiếng cọp hú, thì trong bình có tiếng cười dòn dã rồi cái bình lúc lắc như muốn đi. Ông hoà thượng phải lật đật tụng một phi kinh Kim Cang, mới êm được.
Đó chuyện cọp hú vậy đó!
Thuật xong thì anh chàng khi nãy nói:
“Chuyện dị đoan mà, làm gì có!”
Người kể chuyện đáp:
“Nếu hiểu nghĩa đen, thì hẳn là không có. Nhưng nếu xem câu chuyện vừa kể đây là một bài văn tượng trưng thì trong đời thiếu chi kẻ bị cọp hú ríu ríu vâng lời kẻ thù nghịch mà thù nghịch lại dòng họ mình… Những kẻ nông nổi, những kẻ không biết văn chương là cái quái gì, mới dám nói tôi nói chuyện dị đoan…”
(Sài Gòn Mới, số xuân Canh Dần)

Lòng dạ đàn bà !

Mặt trời chen lặn, ngọn gió lao rao. Dọc theo đường Cái-Tắc đi Long-Mỹ, lúa gần chín, nên trông ra ruộng có đám ửng vàng, có đám còn xanh lét.

Ngang mấy xóm, người ta thừa hứng cái cảnh trời chiều mát-mẻ, nên lăng-xăng ngoài đường, người thì chấp tay sau đít, bước chẫm-rãi, mắt ngó mông vô đồng; kẻ thì ngồi dựa bên lề, mặt tươi cười, miệng nhai nhóc-nhách; khúc thì dụm năm dụm ba hỏi nhau lúa trúng ước mấy giạ một công; chỗ thì con gái con trai trửng-giởn chạy tứ tung, nói cười inh-ỏi.

Cái cảnh vui-vẻ dường ấy, con người thảnh thơi dường ấy, mà sao trước nhà của ông Hội-Ðồng Lê-Tấn-Thành, cũng ở dựa bên khúc lộ nầy, lại vắng-hoe, trong nhà lặng-lẽ, ngoài ngõ im-lìm. Hàng rào dưới xây gạch, trên song sắt, chạy dọc theo đường bị cỏ mọc che khuất nhiều khúc, coi chẳng khác rào hư. Cái cửa ngõ sắt, một cánh mở hé, còn một cánh thì khép hoài, nên chốt bị sét đóng, xô mở không nổi.

Trong sân thì kiểng vật ê-hề, nhưng mà mấy hàng cây tây trồng dài theo đường đi, không săn sóc, không tỉa nhánh sửa lá, nên bụi rặm-rịt tàn lan, bụi ngã xiên ngã xó. Mấy chậu kiểng không tưới nước, không bắt sâu, nên chậu nứt đất bày rễ, chậu rụng lá khô gốc. Cái nhà rộng lớn đò-sộ, giá cất đến bạc muôn, mà cửa đóng bì-bịt, thềm đầy lá khô, trông ra thì đã biết đã lâu rồi chủ nhà không tiếp khách.

Thình-lình có một cái xe hơi thùng kiếng còn mới tinh, ở Long-Mỹ chạy ra đậu ngay cửa ngõ ông Hội-Ðồng Thành. Anh sớp-phơ mặc đồ tây vàng, đội kết vàng, đi giày trắng, nhảy xuống mở cửa xe rồi đứng nép một bên, bộ cung kỉnh người đi xe lắm. Trên xe thủng-thẳng bước xuống một cô, mặc áo quần lụa màu trứng gà, đầu choàng khăn sạt cũng màu trứng gà, vai mang cái choàng tơ màu xám thiếc.

Cô trạc chừng 30 tuổi, gương mặt tròn-trịa, nước da trắng trong, má bầu mà lại ửng hồng, mài vòng nguyệt mà lại nhỏ rức, răng trắng mà khít rịt, môi mỏng mà đỏ au, miệng vui vẻ tươi cười, mắt long-lanh chói sáng. Bước xuống xe rồi, cô thủng-thẳng lột cái choàng mà liệng vào xe, mùi dầu thơm bay ngọt-ngào. Con tỳ-nữ còn trong xe, chụp lấy cái choàng ngồi mà xếp. Cô đứng ngó vô cửa mà nói rằng: “Phải cái nhà nầy rồi, mà thế chủ nhà đi khỏi hay sao nên cửa đóng bì-bịt vậy kìa? Trong a! Xách cái bốp đi vô đây với cô”. Con tỳ-nữ ôm một cáp bốp da lớn leo xuống xe mà đi theo.

Cô mỹ-nữ nầy bước vô sân, thấy kiểng-vật tiều-tụy, đường-sá bịt bùng, cảnh xem vắng-hoe lòng bắt ái-ngại. Cô thủng-thẳng đi dọc theo chái nhà mà vòng vô phía sau. Có hai con chó vàng nằm lim-dim tại cửa sau, thấy dạng khách lạ thì tuôn ra mà sủa. Một ông già ở trần, lưng đen trạy, ăn trầu, miệng bô-bô, bước ra la chó. Cô mỹ-nữ hỏi có ông bà Hội-Ðồng ở nhà hay không, thì ông già đáp rằng: “Thưa, có một mình bà tôi ở nhà. Ông tôi ở trên Sài-gòn”.

Cô mỹ-nữ theo ông già mà vô nhà sau, rồi bắt đó đi thẳng ra nhà lớn. Cô vừa bước chơn lên thềm thì la lớn rằng: “Bà Hội-Ðồng ở đâu? Có khách xa tới xin cơm đây nè”. Cô vừa bước vô và nói và cười ngất.
Bà Hội-Ðồng đương nằm tại bộ ván dựa cửa, bà giựt mình lồm-cồm ngồi dậy. Cô gái lớn của bà là cô Kim-Lang, 14 tuổi, ngồi thêu một bên đó, cũng buông cây kim, ngước mặt lên ngó. Bà Hội-Ðồng vùng la: “Ủa, cô tư! Vậy mà tôi tưởng là ai đâu chớ! Cô đi đâu xuống tới dưới nầy? Mạnh giỏi há?”.

Cô mỹ-nữ ấy cười mà đáp rằng: “Ờ, tôi xuống thăm chị, chớ đi đâu. Tôi mạnh giỏi luôn-luôn. Còn chị làm giống gì mà ốm dữ vậy? Chị đau hay sao? Anh Hội-Ðồng đi đâu mà đóng cửa bì-bịt vậy?” Bà Hội-Ðồng nghe hỏi tới chồng, thì đổi sắc, bộ buồn-bực lắm và thở ra mà nói: “Từ hồi làm Hội-Ðồng tới giờ, cứ đeo ở trên Sài-gòn hoài, có ở nhà đâu”.

Bà Hội-Ðồng tên là Kim-Diệp, năm nay được 35 tuổi. Hồi còn xuân-xanh, bà là một gái vừa có sắc, vừa có hạnh, mà lại cha mẹ có tiền nhiều, bởi vậy những con nhà giàu, những người có học-thức, ai cũng trầm-trồ gấm-ghé. Lúc nhỏ cô Kim-Diệp học tại Nhà Trắng Sài-gòn, tới 19 tuổi mới thôi học mà lấy chồng. Cô ở với ông Hội-Ðồng Lê-Tấn-Thành có ba đứa con, một đứa con gáî tên Kim-Lang, 14 tuổi, đứa con trai tên Tấn-Ðức, 10 tuổi và một đứa con gái út tên Kim-Cúc, mới 4 tuổi.

Còn cô mỹ-nữ tới thăm đây tên là Thanh-Thủy, vồn là chị em bạn học với bà Hội-Ðồng. Hồi 18 tuổi, cô lấy chồng là một quan lương-y bổn-quốc có danh ở Sài-gòn, đến 25 tuổi, rủi chồng mất, cô không có con, mà có của, cô mới mua một cái nhà thiệt đẹp ở đường Mayer ( Ðinh Tiên Hoàng Cầu Bông ngày nay ), trước có sân rộng, hai bên có trồng cây mát-mẻ, mà ở với một đứa cháu gái, tên là Thanh-Bạch, 15 tuổi, rồi mua hột xoàn đi lục tỉnh bán chơi, không thèm lấy chồng khác.

Tuy hai cô Kim-Diệp và Thanh-Thủy lớn lên có chồng mỗi người ở một nơi, nhưng mà tình chị em vẫn còn thân thiết , nghĩa đồng-song vẫn còn mặn-mòi như xưa. Từ ngày cô Thanh-Thủy đi mua bán hột xoàn thì cô thường hay ghé thăm cô Kim-Diệp, duy có năm rồi, miệt Rạch-giá, Cần-thơ, Sóc-trăng, Bạc-liêu, thiên hạ bị khuẩn-bách nặng-nề, ít mua hột xoàn, cô không xuống mấy tỉnh nầy, nên cô không có ghé.

Cô Kim-Diệp thấy có khách mới sai con kêu trẻ ở nhà mà biểu đi đốt đèn, trải chiếu lăng-xăng.
Cô Thanh-Thủy ngồi nói om-sòm, hỏi lia-lịa một hồi, rồi nói rằng:

– Mới năm ngoái với năm nay tôi không xuống miệt nầy, nên không gặp chị. Bây giờ tôi coi sao vóc chị ốm nhiều, mà sắc chị lại buồn lắm vậy chị?
– Vì tôi buồn việc nhà nên tôi hư lung lắm.
– Ối, việc nhà hơi đâu mà buồn. Cuộc kinh-tế khủng-hoảng nầy lâm-nguy cho thiên-hạ hết thảy, chớ phải có một mình chị bị hay sao mà chị buồn. Ðừng có buồn giống gì hết. Lên Sài-gòn chơi, lên ở nhà tôi uống thuốc. Tôi coi chị ốm lắm đa, phải uống thuốc mới được.

Cô Kim-Diệp nghe mấy lời thì cô ứa nước mắt rồi chậm-rãi đáp rằng:
– Cái phần của cô sung-sướng, cô tưởng ai cũng như cô vậy hết, nên việc gì cô tính nghe cũng dễ như chơi được. Phải tôi mà được như cô thì nói gì!
– Trời ơi! Bây giờ chị nầy chỉ phân-bì với tôi chớ! Phận tôi góa bụa không con, ở tròi-trọ một mình. Còn chị thì có chồng, làm tới chức đại-biểu của dân, danh-giá lừng-lẫy, có con gái con trai đủ hết, lại có nhà cửa lớn, ruộng đất nhiều nữa, mà chị trở lại phần-bì với tôi chớ. Tôi biết rồi, chắc anh Hội-Ðồng chơi bời mắc nợ mắc nần, làm cho chị cực lòng chớ gì, phải vậy hay không, chị Hai?
– Chuyện nhà của tôi, nói không hết được. Ủa, mà trời đã tối rồi tôi quên biểu bầy trẻ lo cơm nước cho cô ăn chớ. Kim-Lang a, con xuống biểu bầy trẻ bắt vịt làm thịt đặng dọn cơm riết cho dì con ăn, nghe con.
– Trời ơi, tôi đói bụng, mà đợi làm vịt, rồi chừng nào mới có cơm ăn.
– Không sao đâu, làm một chút thì rồi. Lâu gặp cô, nên gặp tôi mừng quá. Tôi bắt cô ở lại đây, tôi không cho đi.
– Bắt ở lại chi vậy?
– Chị em lâu gặp nên nói chuyện chơi.

– À ạ! Tôi tưởng chị bắt ở đặng làm bé ảnh nữa chớ. Tôi nói trước cho chị biệt, cái đó không được a. Ảnh thiệt kỳ quá, từ ngày nhà tôi mất, hễ ảnh gặp tôi là ảnh theo chọc ghẹo tôi hoài.

– Cái tánh vậy đó đa, thấy ai cũng muốn hết. Chớ chi mà được cô, là chị em, thì tốt lắm, ngặt …

– É! Chị khéo nói thì thôi! Ai mà chịu vậy nà!
Cô Thanh-Thủy và nói và cười ngất.

Ăn cơm tối rồi, cô Kim-Diệp cầm cô Thanh-Thủy ở lại ngủ. Từ ngày ở Nhà Trắng hai chị em phân rẽ nhau tới nay chẳng có dịp nào mà được gần-gũi nhau cho nhiều ngày giờ. Hôm nay nhà vắng-vẻ, đêm im-lìm, ngoài sân gió bấc thổi lao-rao, trong vườn bóng trăng soi vặc-vặc. Hai chị em nằm chung một ván, to nhỏ tâm sự với nhau. Nhờ cái dịp ấy, cô Thanh-Thủy mới hiểu cô Kim-Diệp buồn-rầu đến nỗi ốm là tại ông Lê-Tấn-Thành từ ngày đắc cử làm nghị-viên Hội-Ðồng Quản-Hạt, ông giao-thiệp rộng, lên xuống Sài-gòn thường, rồi ông sa-đắm một cô mỹ-nữ, tên là Ba Huyền, 22 tuổi, nhan-sắc thiệt là xinh đẹp, mà tánh-nết thiệt là lả-lơi, mua một cái nhà tại Phú-Nhuận mà ở với cô, sắm xe hơi cho cô đi chơi, mua hột xoàn cho cô trang-điểm, ngày như đêm say-sưa mê-mẩn cùng duyên mới, không kể gì đến vợ hiền-đức, con thơ-ngây ở nhà.

Cô Kim-Diệp thuật hết mọi việc rồi cô khóc tấm-tức tấm-tưởi mà nói thêm rằng: „Tôi không dè cái đời của tôi mà phải trêu cay nuốt đắng như thế nầy. Con gái lớn đương học tại trường đầm, hôm tháng trước tôi phải rút về đặng mẹ con hủ-hỉ giải buồn. Thằng con trai đã 10 tuổi rồi, mà không có ai lo kiếm trường cho nó học. Còn ruộng đất thì lúa đã khởi sự chín, mà không ai sắp-đặt thâu góp, day trở trong ngoài chỉ có một mình tôi. Tôi nói thiệt, nếu tôi không có mấy đứa nhỏ thì tôi đã chết rồi, chết cho khuất mắt, chết cho hết cực lòng, nhọc trí lo ngày đêm nữa .

Cô Thanh-Thủy nghe những lời thảm-thiết, thấy cái sắc ưu-sầu của chị em bạn, thì cô động lòng, nên cô cũng ứa nước mắt. Cô nằm gác tay qua trán mà thở ra, rồi vùng ngồi dậy nói rằng: „Ðời nầy có chồng thì phải giữ-gìn. Tại chị hơ-hỏng quá, nên mới ra cớ đỗi như vậy. Mà thôi, chị đừng có buồn rầu nữa. Người phải, không lẽ trời hại đâu. Chị phải gượng làm vui, mà nuôi con. Tôi về ít bữa thì chị sẽ được tin tôi. Tưởng là ai lạ, chớ con Ba Huyền tôi biết nhiều“.
Sáng bữa sau, cô Thanh-Thủy từ cô Kim-Diệp mà về, cô ôm mấy đứa con của cô Kim-Diệp mà hun từ đứa và nói rằng: “Con như vầy mà bỏ đành, cái anh nầy thiệt là tệ!” Trước khi lên xe cô lại nắm tay cô Kim-Diệp mà nói rằng: “Xin chị hãy nghe lời tôi, chị đừng buồn nữa. Ở nhà cứ lo góp lúa và dạy con, nếu chị buồn mà chị đau thì tôi giận chị lắm đa”.

II

Ở Phú-nhuận Sài Gòn, gần ngã tư qua Bà-Chiểu có một cái nhà kiểu “banh ít”, nhà tuy nhỏ song kiểu đẹp-đẽ vô cùng. Trước nhà có một cái sân rộng lớn. Chính giữa sân có một cái bồn bông tròn trồng cây đủ màu, nhờ tưới nước săn-sóc mỗi ngày nên cây sum-sê, lá tươi-tốt. Từ ngoài cửa ngõ có làm một cái đường chạy vô tới gần bồn bông rồi tẻ ra làm hai ngã, đi vòng theo hai chái nhà, ngã tay mặt thì vô nhà để xe hơi, còn ngã tay trái thì vô nhà bếp. Dọc theo lề mấy đường ấy, thì lên liếp rồi trồng, khúc bông huệ trắng, khúc bông ngải tây, bởi vậy ban ngày sân chói đủ màu, ban đêm mùi thơm bát-ngát. Dựa hàng rào, hai bên thì trồng mãng-cầu xiêm xen lộn với mít tố nữ, cây trồng dày, lá rậm-rộp, nên dầu trưa nắng, cũng có khi mát-mẻ như sớm mơi.
Trong nhà thì ghế, giường, ván, đều sắm theo kiểu kim-thời. Chính giữa dọn sa-long ghế thấp thấp, mặt đều lót nệm ruột gà, có gối dựa lưng, có gối gác cẳng. Trong bốn góc phòng có để bốn chậu kiểng, lá sum-sê cho mát-mẻ. Tại bàn giữa thường có để một bình bông, bông thay hằng ngày, nên coi tươi rói. Cái phòng bên tay mặt thì dọn bàn ăn, có tranh tứ thời, có tủ đựng rượu. Cái phòng bên tay trái thì lót một cái đi-hoăn thiệt đẹp, có nệm, có gối, để nghỉ trưa, lại có ghế dựa, ghế dài, để nằm đọc sách. Phía trong một bên thì dọn phòng ngủ, một bên thì phòng văn; phòng ngủ để giường đồng, tủ áo hẳn-hòi, phòng văn để bu-rô, kệ sách rất đẹp. Cái nhà nầy là nhà của ông Lê-Tấn-Thành mua mà ở với cô Ba Huyền.

Tối thứ bảy, ăn cơm rồi, ông Lê-Tấn-Thành ngồi trên cái đi-hoăn kề vai vào một cái gối dựa gòn rất êm, vừa hút thuốc, vừa đọc nhựt-trình, cô Ba Huyền, ở trong buồng đi ra, mặt giồi phấn, môi thoa son, hai gò má ửng hồng, cặp chơn mày nhỏ rứt, tóc uốn vặn khu ốc, cổ đeo chuỗi lòng-thòng, mình mặc một bộ đồ màu khói nhang, chơn mang một đôi giày thêu cao gót, tai đeo một đôi bông xoàn thiệt lớn, tay xách một cái bốp da bọc nhung, miệng chúm-chím cười có duyên, dầu thơm bay mùi bát-ngát. Cô lại ngồi trong lòng ông Hội-đồng, lấy tay vỗ mặt ông nhẹ nhẹ, đưa năm ngón tay vừa dài, vừa trắng trong. Cô mơn-trớn rồi miệng hun ông và nói nhỏ nhỏ rằng: “Sao bữa nay coi bộ mình không vui vậy mình?”

Ông Hội-đồng buông tờ nhựt-trình rồi ngó cô mà cười và đáp rằng:
– Có gì đâu mà không vui.
– Tôi chắc mình giấu tôi. Tôi biết rồi, hồi nãy tôi rủ mình đi coi hát bóng, mình không chịu đi, tôi nói tôi đi một mình, nên mình phiền tôi chớ gì?
– Trọn một tuần nay đi luôn luôn; để tôi nhớ coi, ừ, thứ hai đi ăn cơm trên Biên-hòa, thứ ba đi coi hát cải-lương, thứ tư đi vô nhà xét, thứ năm đi coi hát bóng, thứ sáu đi Xuân-Trường nữa, đi hoài, đêm nào cũng một hai giờ khuya mới về, nên tôi mệt quá, bữa nay tôi nghỉ ở nhà đọc nhựt-trình. Mình không mệt thì mình đi chơi, chớ phiền giống gì.
– Tôi đi chơi một mình không ghen hay sao?
– Không.
– Vậy thì tôi hết muốn đi.
– Sao vậy?
– Tôi vẫn biết tánh mình ghen lắm, bữa nào tôi đi một mình, chừng về mình cũng theo hỏi đon hỏi ren sớp-phơ hoài, nhứt là tôi đi Chợ-lớn, mình ghét lắm. Bữa nay sao mình lại xúi tôi đi chơi một mình. Tôi biết rồi, chắc mình muốn cho tôi đi, đặng mình ở nhá lén viết thơ cho vợ hay cho con chớ gì. Tôi không thèm đi.
– Không có đâu, ai viết thơ làm chi. Mệt nên ở nhà nghỉ chớ. Mình muốn đi coi hát bóng thì đi hay là muốn ở nhà tự ý.
– Mình nói mình không có ý muốn viết thơ cho vợ con, thôi mình thề đi. Thề tôi mới tin.
– Thề sao?
– Thề sao đó mình thề, tôi có biết đâu.
– Tôi có bụng muốn ở nhà đặng viết thơ cho vợ thì lịnh ông Quan Ðế bẻ cổ tôi đi, mình tin chưa.

Cô Ba Huyền cười đưa hai hàm răng trắng trong và nhỏ rít, rồi ôm đầu ông Hội-đồng mà hun trơ hun trất.
Cô đứng dậy xách bốp và nói rằng: „Gần tám giờ rưỡi rồi, thôi đi đa”.
Ông Hội-đồng giặc đầu và nói: „Ði đi, vãn hát rồi về liền, nghe hôn?“.

Cô vừa bước chơn đi, mà cô nghe lời dặn như vậy thì cô đưa tay chỉ ông Hồi-đồng mà nói: „Ðó, ló mòi ghen rồi đó!” Ông Hội-đồng cười. Cô trở lại nắm tay ông và nói:
– Ờ, quên nữa, mai đi coi đua ngựa, nghe hôn mình. Người ta nói mai đua độ hội có con la Gazelle chắc về nhứt lắm. Mai mình lên coi, tôi xề kiếm vài trăm dễ như chơi.
– Ối thứ cá ngựa tôi ghét quá!
– Tại sao mà ghét. Chúa-nhựt nào họ cũng đi cá rần-rần, dưới tỉnh người ta còn lên, huống chi mình ở một bên mà không đi.
– Bày gian lận bậy bạ.
– Gian lận chỗ nào? Mình thua là tại con mắt mình coi dở chớ. Mình nói nghe hơi nhà quê quá.
– Thà tôi chịu tiếng quê, chớ tôi không ưa đánh bạc.
– Thôi mai mình cho tôi hai ba trăm tôi cá chơi nghé.

Cô Ba Huyền ra đi. Ông Hội-đồng đi theo ra cửa, đứng coi cô lên xe hơi mà đi, rồi ông thủng-thẳng đi vòng theo bồn bông mà hứng mát. Ông đương đứng ngó trời nhìn hoa, bỗng thấy một cái xe hơi ngừng ngay cửa. Ông men-men đi ra coi xe nào. Một người sớp-phơ leo xuống đi vô cửa, dở kết chào ông và nói rằng:

– Bẩm ông, phải nhà ông Hội-đồng Quản-Hạt đây hôn?
Ông gặc đầu. Người sớp-phơ hỏi tiếp:
– Không biết có ông ở nhà hay không?
– Tôi đây. Em hỏi chi vậy?
– Cô tôi biểu hỏi.
– Cô của em là ai?
– Bẩm, cô Tư thầy thuốc ở đường Mayer.

Người sớp-phơ lật-đật trở ra xe. Ông Hội-đồng ngó theo, nhờ có bóng đèn giọi, nên thấy trên xe thùng kiếng kiểu Aérodynamique có hai người ngồi, tên sớp-phơ nói nhỏ ít tiếng rồi mở cửa xe cho một người mỹ-nữ bước xuống. Tuy đứng xa xa, đèn lu-lu, nhưng mà ông Hội- đồng thấy cô mỹ-nữ ấy nước da trắng, gương mặt tròn, lại mặc một bộ đồ màu trứng sáo choàng khăn cũng màu ấy, rồi da mặt giọi khăn, khăn giọi da mặt, nên coi thiệt là đẹp. Cô mỹ-nữ tay xách bốp, chơn thủng thẳng bước dịu dàng mà vô sân, chưng lại gần tới ông Hội-đồng, cô mới nói lớn rằng: “Anh Hai! Anh ở đây mà em có dè đâu? Chị Hai mạnh giỏi há? Năm nay anh được mấy đứa cháu?”

Tiếng nói lạ hoắc, làm cho ông Hội-đồng không biết là ai, mà lời hỏi lại chồng-chập, ông không biết đâu mà đáp. Chừng ông coi kỹ-lưỡng lại, thấy rõ mặt mày, ông mới la lớn rằng: “Ủa, cô Tư! Cô đì đâu đây?”.

Cồ Tư Thanh-Thủy cười ngất rồi đáp rằng:
– Cái anh nầy thiệt là vô tình quá! Ði kiếm mà thăm ảnh, ảnh không mang ơn, lại hỏi đi đâu, ai muốn vay tiền vay bạc gì hay sao mà anh sợ, nên anh hỏi kỳ-cục vậy?
– Xin lỗi cô, vì cô trốn lánh tôi, không cho tôi gặp mặt lâu quá, nay tình-cờ tôi được gặp, tôi mừng quýnh nên hỏi bất-tử vậy mà, chớ có phải là vô-tình đâu. Tôi có tình lắm chớ, đối với cô cũng vậy hoài, có bao giờ tôi quên.
– Anh quỉ nầy, hễ gặp thì cứ nói pha-lửng hoài. Tại vậy đó, nên mấy năm nay tôi không thèm cho thấy mặt, đáng lắm.
– Nói chơi vậy mà, có hại gì đâu.
– Sao lại không hại. Người ngoài họ nghe họ đàm tiếu chớ.
– Anh em mà đàm-tiếu giống gì?
– Anh em rồi chọc nhau vậy sao? Anh nói chơi mà rủi chị Hai chỉ ghen, phải là tôi
– Mang xấu hay không?
– Chị Hai ở đâu đây mà hay.
– Uả, mà tôi tới tôi thăm anh rồi anh bắt tôi đứng hoài ngoài sân hay sao? Anh nầy vô tình thiệt không ai có! Anh sợ tốn nước, nên không dám mời vô nhà. Anh không mời tôi cũng vô đặng tôi thăm chị Hai. Ðể tôi mét với chị Hai, tôi nói anh chọc tôi đặng anh bị rầy chơi.

Cô Tư Thanh-thủy nói chưa dứt lời thì cô ngoe-ngoảy đi thẳng vô nhà. Ông Hội-đồng đi theo sau mà nói rằng: “Có ở nhà tôi trên đây đâu, nhưng mà tôi cũng mời cô vô nhà chơi chớ. Tại cô cứ nói hoài nên tôi chưa kịp mời”.

Cô Tư đứng lại ngó ông Hội-đồng mà hỏi rằng: „Không có chị Hai ở nhà sao? Anh nói thiệt hay là nói chơi? Vậy chớ ai nhắn biểu tôi đem hột xoàn vô đặng mua, lại xưng là Bà Hội-đồng Thành”.

Lúc ấy cô Tư đứng ngay yếng sáng, ngọn đèn trong nhà chói ra. Ông Hội-đồng thấy cô tỏ-rõ, mặt thiệt là xinh đẹp, mắt thật là hữu tình, miệng thiệt là hữu duyên, dóc thiệt là yểu-điệu. Ngọn lửa tình ông nhen-nhúm từ ngày trước mà không được, bây gìờ nó lại muốn phừng lên, làm cho ông quên trả lời mấy câu hỏi và ông bước lại gần mà nói nhỏ rằng: “Cô Tư … Mời cô vô nhà….Cô vô rồi tôi sẽ nói chuyện cho cô nghe”.

Cô Tư liếc mà mỉm cười rồi đi vô, mùi dầu thơm bay bát-ngát, làm cho ông Hội-đồng đi gần, ông càng thêm ngơ-ngẩn. Vô tới phòng khách, cô không đợi mời, cô để cái bốp trên cái bàn nhỏ, rồi lựa cái ghế khuất trong góc, dựa bên chậu cau vàng sum-sê mà ngồi. Ông Hội- đồng thấy vậy cũng ngồi cái ghế gần đó.

Cô Tư cười mà hỏi rằng:
– Ủa! Sao tôi hỏi, mà anh không trả lời? Anh nói chị Hai không có ở trên nầy, vậy chớ ai mạo xưng “Bà Hội-đồng Thành” mà kêu tôi đây? Thế khi anh giả-mạo đặng gài bẩy cho tôi mắc chớ gì?
– Không có đâu. Thế khi cô Ba, cổ muốn mua xoàn nên cổ nhắn cô chớ gì.
– Cô Ba nào?
– Cô Ba Huyền.
– Ủa! Con Ba Huyền sao dám xưng là Bà Hội-đồng Thành?
– Nó làm bé tôi gần một năm nay.
– Chà chà! Anh có vợ bé vợ mọn đồ nữa há! Vậy mà tôi có hay đâu! Xin anh cho trẻ mời bà Hội-đồng nhỏ ra đây đặng coi hột xoàn.
– Nó đi coi hát rồi, không có ở nhà.
– Sao nhắn tôi vô rồi lại bỏ đi coi hát?
– Xin cô đừng phiền. Chắc cô Ba cổ quên. Mà cái quên của cổ là cái may của tôi, vì nhờ cổ quên, tôi mới được gặp cô, tôi gặp một mình và có lẽ còn gặp nữa.
– Chọc nữa chớ! Có vợ lớn, vợ bé đủ hết mà còn theo chọc hoài, ngộ quá. Bộ anh muốn kiếm thêm vợ bé nữa sao?
– Tôi có vợ bé là tại cô đa.
– Tại tôi là sao?
– Tôi thương cô quá, mà cô cứ nạng tôi ra hoài, tôi buồn nên mới sanh la sự đó đa.
– Làm bậy rồi đổ tội cho tôi chớ! Anh đã có vợ có con, mà còn thương tôi nỗi gì? Anh đừng có nói vậy. Ví dầu thiệt anh có tình nặng với tôi mà tôi không chịu đi nữa, thì bất quá anh buồn rầu, anh đau tưong-tư, chớ sao anh quên tôi anh lấy con Ba Huyền rnà gọi rằng anh thương tôi? Theo con mắt tôi xem, thì anh không phải là người có tình. Anh là một người ăn chơi tầm-thường lắm.

– Tại sao cô nói vậy?
– Anh lấy con Ba Huyền mà làm vợ bé được, thì anh tầm-thường quá, dầu anh có tình thì cái tình ấy thiệt thấp lắm. Con Ba Huyền ở Sài-gòn nầy ai mà không biết nó, duy có anh là người nhà quê, ở Lục Tỉnh lên, anh mê nó mà rước về làm vợ bé, chớ có ai dám làm như vậy đâu. Ối! Mà thôi chuyện của anh, anh làm sao anh làm, tôi không căn-cớ gì mà xen miệng vô cho mích-lòng, để bán hột xoàn kiếm tiền xài.

Cô Tư ngồi cười ngất. Ông Hội-đồng xích ghế lại gần cô một chút rồi hỏi rằng:
– Cô nói đi rồi cô trở lại như vậy, thiệt tức tôi quá! Cô chê tôi nhà quê thì tôi chịu. Mà còn cô nói tôi lấy con Ba Huyền là tôi dại, xin cô cho tôi biết coi tôi dại chỗ nào?
– Tôi đâu dám nói anh dại. Ý tôi nói anh gan ruột lắm chớ.
– Gan làm sao?
– Ối thôi, đừng có hỏi dần-lân. Anh hỏi riết tôi đổ nùi ra, rồi anh oán tôi chớ ích gì.
– Không oán đâu, dầu cô nói giống gì tôi cũng không giận hết. Biết cô Ba Huyền làm sao, đâu cô nói nghe thử coi mà.
– Tôi nói ra té ra tôi nói hành người ta, mà dầu tôi nói ngay đi nữa, anh cũng không tin.
– Cô nói thì tôi tin lắm.
– Tin thiệt hay sao?

Cô Tư cười ngất rồi cô làm tỉnh lại, ngồi suy nghĩ. Ông Hội-đồng ngó chăm-chỉ, đợi cô nói ra sao. Ông sánh cô Tư với cô Ba Huyền thì cô Tư tuy lớn tuổi hơn nhưng mà dung-nhan cô xinh đẹp hơn, tướng-mạo cô thuần-hậu hơn bội phần.
Cô Tư chống tay dựa gò má mà suy nghĩ một chút, cô muốn nói mà rồi cô ngừng lại. Cách một hồi lâu, cô mới hỏi nhỏ nhỏ rằng:
– Từ hồi anh gặp con Ba Huyền tới giờ chắc anh tốn hao nhiều lắm há?
– Không bao nhiêu. Ăn xài chút đỉnh vậy thôi.
– Anh còn giấu nữa chớ. Anh giấu thôi tôì về.
– Khoan, khoan, ở nói chuyện chơi một chút mà.
– Thì nói thiệt đi.
– Thiệt, tôi lấy cô Ba Huyền hơn một năm nay tôi hao chừng vài muôn, mà trong số đó có mua cái nhà nầy hết 8.000 đồng và mua cái xe hơi 3 ngàn rưỡi.
– Tốn như vậy anh tiếc hôn?
– Không tiếc gì mấy.
– Trước khi anh lấy con Ba Huyền, anh biết gốc-gác nó hôn?
– Cổ nói thiệt cổ gốc con Triều-châu, hồi nhỏ đi vá bao mướn trong Bình-tây. Sau cổ có chồng An-nam, chồng mê vợ bé đánh đuổi cổ lưu-lạc một lúc.
– Trúng lắm, nói trúng lắm. Rồi sao nữa?
– Có sao đâu?
– Có lắm chớ. Bây giờ chồng nó làm giống gì ở đâu, nó có nói cho anh biết hay không?
– Chồng cô bỏ cô lâu rồi mà.
– Anh quê lắm! Bỏ cái gì? Chồng nó là thằng Bảy Cu, làm đầu bọn du-côn trong X… còn sờ-sờ đó, bỏ cái gì? Bảy Cu cho vợ nó đi làm nghề cám-dỗ đặng lật lưng đờn-ông lấy tiền cho nó đánh me, cá ngựa. Nhiều người bị con quỉ đó mà hết nhà hết cửa, còn ai dám ngó tới nó nữa, duy có một mình anh gan; anh dám lấy nó đây chớ.
– Có lý nào kỳ-cục như vậy!
– Anh không tin thì cứ lấy nó rồi sau anh sẽ biết. Tôi hỏi anh vậy chớ xưa rày nó có hay đi Chợ-lớn, hoặc hay lên Trường đua hay không?
– Cái đó có.
– Ờ, anh coi tôi nói trúng hay là nói bậy. Nó đi đó là đi đưa tiền của anh cho chồng nó đa.

Ông Hội-đồng biến sắc, ngồi châu mày suy nghĩ. Cô Tư Thanh-Thủy liếc ngó ông, thấy ông đã thắm thuốc rồi, cô muốn giục cho mau, bèn đứng dậy lấy cái bốp và nói rằng: “Thôi, tôi về để mai có con Ba Huyền về rồi tôi sẽ lại. Chuyện tôi mới nói với anh đó, anh đừng có học lại cho con Ba Huyền biết đa. Nếu nó hay tôi vạch, đố khỏi nó xúi chồng nó đâm tôỉ chết”.
Ông Hội-đồng cũng đứng dậy nói rằng: „Ai nói làm chi. Mà cô ở nói chuyện chơi với tôi, chớ cô về tôi buồn lắm”.

Cô Tư mắt liếc hữu tình, miệng cười chúm-chím mà đáp rằng:
– Nói chuyện gì nữa? Khuya rồi, để tôi về. Ngồi lâu quá người ta đàm-tiếu.
– Không có sao đâu mà.
– Thôi nà.
Cô Tư bỏ đi ra cửa. Ông Hội-đồng đi theo ra tới chỗ tối, ông kêu mà hỏi:
– Cô Tư, tôi đi theo cô đuợc hôn?
Ông và hỏi và vói nắm tay cô. Cô Tư giựt tay và cười mà hỏi:
– Ði theo làm chi?
– Tôi thuơng cô quá, tôi muốn tỏ hết tình của tôi cho cô biết. Tại cô phụ-rãy tôi, nên tôi mới máng con quỉ nầy đó.
Cô Tư suy nghĩ một chút rồi lắc đầu nói rằng:
– Anh đi theo bây giờ không tiện. Xe có sốp-phơ, có con nhỏ ở, nói chuyện gì được. Thôi để bữa nào anh lại nhà tôi, rồi anh muốn nói gì thì nói. Tôi ở đường Mayer,( Ðinh Tiên Hoàng ) số 563 anh biết hôn?
Ông Hội-đồng mừng quá, gặc đầu lia-lịa mà nói:
– Biết, biết. Ðể mai tôi lại. Cô phải ở nhà chờ tôi đa.
– Cồ Tư lắc đầu nói:
– Mai không được, vì tôi mắc có khách ở Vĩnh-long lên thăm.
– Thôi mốt.
– Mốt thì được. Mà tối rồi anh sẽ lại nghe hôn. Anh đừng có lại ban ngày, xóm-riềng họ thấy họ dị-nghị. Tối mốt tôi cho con cháu tôi đi coi hát và cho phép bồi bếp đi chơi, đặng nói chuyện cho dễ.
Cô nói dứt lời, rồi cô bươn-bả ra cửa ngõ, leo lên xe mà đi. Ông Hội-đồng đứng ngó theo, trong lòng ngơ-ngẩn

III

Ngày hẹn đã đến. Ông Hội-đồng Thành kiếm chước nói có mấy người bạn mời ăn cơm đặng bàn tính quốc-sự, nên vừa chạng-vạng tối thì ông rửa mặt chải đầu, thay quần đổi áo, sửa-soạn mà đi. Cô Ba Huyền có việc riêng, cô cũng muốn đi Chợ-lớn, cô nghe ông Hộ-đồng nói như vậy thì cô mừng thầm, song cô làm tỉnh mà nói rằng: “ Mình đi khuya, ở nhà buồn chết, ai chịu nổi. Thôi, mình đi hội, thì tôi đi coi hát”.

Ông Hội-đồng trong trí đầy cái hình-trạng của cô Tư Thanh-Thủy, ông không cần biết cô Ba Huyền đi đâu, nên ông hứa hễ ông xuống tới nhà hàng rồi thì ông trả xe về cho cô muốn đi đâu thì đi. Chừng hội rồi ông xe kéo cũng đươc.

Thiệt quả xuống tới nhà hàng thì ông biểu sớp-phơ đem xe về liền. Ông ăn sơ-sịa vài món rồi kêu xe kéo mà trở lên đường Mayer. Ông ngồi trên xe, đèn hai bên đường chấp-chóa, gió thổi hiu-hiu, trí quơ-quẩn nhớ cô Tư, lòng phập-phòng trông gặp mặt. Ông nghĩ những lời cô Tư châm-chích đêm nọ, ông nhớ thiệt quả cô Ba Huyền hay đi Chợ-lớn, ưa vô Trường đua, ông lại nhớ một lần kia ông đi mua đồ với cô Ba Huyền tại đường Ca-ti-na, ông vô nhà hàng, cô ngồi ngoài xe, chùng ông bước ra thì thấy cô đương nói chuyện với một người ngồi trên xe kéo, người ấy đội một cái nón đa thiệt to, mặc một bộ đồ xá-xị còn mới, mặt mày dữ-tợn, hình vóc dình-dàng, người ấy thấy ông thì biểu xe kéo đi, song còn nói vói rằng: “Mai phải có đa”. Ông hỏi người ấy là ai, thì cô nói: “Anh nầy là chồng chị Hai Cán, hồi trước chỉ có mượn tôi mười đồng bạc, tôi gặp ảnh tôi đòi, ảnh hẹn mai ảnh lãnh tiền rồi ảnh trả”.

Lúc ấy ông Hội-đồng tin như lời, bây giờ có cô Tư Thanh-Thủy châm-chích, ông lại đoán quyết người ấy là chồng của cô Ba Huyền, lời dặn “mai phải có” đó là biểu đem bạc đưa cho nó. Ông vừa giận vừa hổ thầm, giận vì chúng lấy tiền bạc của mình mà nuôi thiên-hạ, hổ vì mình có học thức, có tên tuổi, mà còn bị điếm-đàng lường gạt. Ông thầm nghĩ nếu ông được gần cô Tư Thanh-Thủy thì ông sẽ đuổi cô Ba Huyền liền, ông chẳng tiếc chút nào hết; cô Thanh-Thủy tuy lớn tuổi hơn, nhưng cô có sắc, cô có hạnh, cô hiền-đức, cô thông- minh, cô khôn-ngoan, cô thành-thiệt hơn bội phần.

Xe kéo ngừng trước cửa cô Tư Thanh-Thủy thì trong trí ông Hội-đồng Thành đương quyết-định như vậy đó. Ông trả tiền xe, miệng cườí ngỏn-ngoẻn.

Nhà ba căn, đèn khí đốt sáng trưng, nhưng mà cửa giữa với cửa bên tay mặt đóng kín, chỉ căn bên tay trái cửa còn mở một cánh mà thôi. Ông Hội-đồng thấy cảnh như vậy thì ông mừng thầm, chắc rằng cô Tư rước mình mà sợ thiên-hạ thấy, nên cô mới sắp-đặt kỹ-lưỡng dường ấy. Ông đi nhẹ-nhẹ, lóng nghe trong nhà vắng hoe. Ông vừa bước vô cửa thì cô Tư Thanh-Thủy ở trong buồng cũng vừa đi ra phía trước; cô trang điểm cũng như sửa-soạn đi chợ, hay đi coi hát vậy, mặt giồi phấn, môi thoa son, áo quần nhổn-nha, tóc tai chải-chuốt, coi còn đầm-thấm, còn mặn-mòi hơn đêm nọ nữa. Cô thấy ông thì cô cúi đầu chào rất hữu đuyên, miệng chúm-chím cười như hoa nở.

Cô chỉ một cái ghế mà mời ông ngồi, rồí nói nhỏ nhỏ rằng: „Tôi cho bày trẻ đi chơi từ hồi tối tới giờ. Sao lại khuya vậy?” Cô liền lấy cái bình trà để trên bàn mà rót một tách, rồi bưng lại mời ông uống. Cô đứng trước mặt ông, cách ông chừng vài gang, chống một cánh tay trên cái bàn, mình uốn-éo, mắt long-lanh, mùi dầu thơm bay bát-ngát, làm cho ông mê-mẩn tâm thần. Ông vói nắm tay cô mà nó rằng: “Cô Tư, đứng xít lại đây tôi nói chuyện. Thiệt tôi không dè mà có ngày nay… Tôi thương cô quá! ….”.

Cô giựt tay, đứng nghiêm-chỉnh, ngó ngay ông mà hỏi lớn rằng: “Anh làm cái gì vậy? Tôi mời anh lại nhà tôi đặng tôi nói chuyện cho anh nghe, chớ có gì khác đâu. Anh tưởng tôi tổ-chức cuộc gió trăng hay sao, mà anh nắm tay tôi? Anh đã lớn tuổi, đã có vợ con, mà cứ giữ cái tánh hồi còn con trai hoài, không chịu bỏ! Anh tưởng tôi như con Ba Huyền vậy hay sao? Không, tôi không phải thuộc về cái hạng người ấy đâu. Tôi thương anh lắm, mà tôi lại thương chị Hai còn nhiều hơn nữa. Vì tôi thương chị Hai, tôi không đành giết chỉ, nên mấy năm nay anh theo ve-vãn mà tôi kháng-cự hoài. Anh thiệt ác lắm! Anh có một người vợ hiền-đức, tối ngày lo giữ của, lo nuôi con, biết thương chồng, biết trọng chồng, anh lại không thương, đành theo con đĩ mà bỏ vợ ở nhà sầu-não vóc ốm mình gầy, bỏ sấp con dại thân-sơ thất-sở. Sao anh đành-đoạn dữ vậy, anh Hai? Chị Hai phải chết … Trong một vài tháng nữa đây chớ không lâu đâu …”.

Cô Thanh-Thủy nói tới đó, cô té ngồi trên một cái ghế úp mặt vào một bàn tay mà khóc rấm-rứt.
Ông Hội-đồng Thanh ban đầu chưng-hửng, chừng ông nghe những lời thê-thảm, thấy cái bộ bi-ai của cô Tư thì lần-lần ông cảm-động, ngồi buồn-hiu, không biết lấy lời chi mà đối-đáp.

Ðương lúc ông Hội-đồng tâm-thần bất định đó, thình-lình ba đứa con của ông là Kim-Lang, Tấn-Ðức và Kim-Cúc, ở trong buồng ào chạy ra kêu ba, rồi xúm lại ôm ông mà khóc, đứa thì hỏi: “Ba đành giết chết má hay sao ba“, đứa thì than: “Ba nỡ bỏ con hay sao ba”. Cái cảm chan-chứa đã đầy rồi, bị ba đứa con nó cho cảm thêm nữa, nên tự-nhiên phải tràn-trề. Ông Hội-đồng ngồi trân-trân như hình đá, mà hai hàng nước mắt chảy ròng-ròng.

Cô Tư Thanh-Thủy day vô buồng mà kêu: “Chị Hai, chị ra đây”. Cô Kim-Diệp bước ra thấy cái cảnh cha con líu-nhíu, cha khóc con than, thì cô động lòng, nên cũng té ngồi trên một cái ghế mà khóc, chớ hông nói tiếng chi được hết.

Cô Tư Thanh-Thủy thừa cái cơ-hội ấy, cô và lau nước mắt và nói: “Anh Hai, anh thấy chị Hai đó hay không? Ngày anh cưới chỉ có phải chỉ như vậy đâu. Tại anh mà ngày nay chỉ còn da bọc xương, anh coi cái tội của anh lơ là dường nào hử? Làm chồng thì quyết giết vợ, làm cha thì không thương con, anh ăn ở chi mà ác lắm vậy?”.

Ông Hộỉ-đồng càng khóc nhiều hơn nữa, mà vợ con ông cũng đồng khóc với ông. Ông khóc một hồi rồi ông mới nói rằng: “Tôi quấy với má bày trẻ nhiều lắm, nhờ cô Tư vén cái màn hắc-ám giùm cho tôi, thiệt tôi cám ơn không biết chừng nào. Tôi ngồi giữa nhà nầy, tôi thề quyết từ rày về sau, tôì không hề xa vợ lìa con, chẳng hề làm cho vợ con buồn rầu nữa. Tôi xin má bày trẻ cũng vậy, quên hết cái lỗi cũ của tôi đi, đặng cho tôi an lòng mà ăn-năn sám-hối”.

Cô Tư Thanh-Thủy nói: “Nếu anh biết thương vợ con anh, thì chẳng những là tôi không giận anh, mà tôi còn thương anh nữa”.

Ông Hội-đồng dã-lã với vợ, dan-díu với con tới 10 giờ rồi ông từ mà về Phú-nhuận, ông hứa khuya ông sẽ trở lại đặng rước vợ con về Cái Tắc.

Ông về nhà thì cô Ba Huyền đi chưa về. Ông ngồi viết một bức thơ mà từ cô và cho đứt cô nhà cửa cùng các tài-vật trong nhà. Ông bỏ quần áo vào hoa-ly rồi vô mùng mà ngủ. Cách một lát, cô Ba Huyền về, ông hay mà ông không thức dậy.

Ðến 4 giờ khuya ông dậy, ông để phong thơ tại đầu nằm cô Ba Huyền, xách hoa-ly ra xe, rồi kêu sớp-phơ dậy mà đi. Xuống đường Mayer, ông ghé nhà cô Tư Thanh-Thủy mà rước vợ con.

Khi dắt con lên xe mà về với chồng, cô Kim-Diệp nắm tay cô Tư Thanh-Thủy và khóc và nói rằng: “Có như vầy mới biết chỗ nào thiệt, chỗ nào giả. Chị đã nói với em từ hồi hôm tới giờ, từ rày về sau chị em mình phải ở chung với nhau một nhà. Ðể ít bữa, chị mạnh rồi chị sẽ tính. Em phải nghe lời chị, đừng có ái-ngại chi hết”.

Cô Tư Thanh-Thủy châu mày và ngó lơ, không đối-đáp chi hết. Nhưng mà xe rút chạy, cô đứng ngó theo cho tới chừng xe quẹo khuất rồi, cô mới thủng-thẳng trở vô nhà, miệng cười ngỏn-ngoẻn.

Sài-gòn, Avril 1935.

 

 

Ngộ Không

Bài Mới Nhất
Search