T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Khuất Đẩu: Đọc THƠ KHÔNG ĐIÊN Của KIỆT TẤN

IMG_DHN-KD-KT

Khuất Đẩu và Kiệt Tấn (Sài Gòn tháng 3/2017)

Mặc dù ông bảo thèm làm thơ như thèm đàn bà, nhưng chưa bao giờ ông nhận mình là thi sĩ. Chẳng cần tìm vần chọn chữ, ông mặc sức để cho năm giác quan của mình no nê tận hưởng. Và đây là mùa hè rực rỡ ngọt ngào dưới mắt nhìn thèm thuồng của ông:

trên cánh đồng mượt tiếng chim ca thanh vắng

người con gái thả đôi vú trần dậy thì thanh tân phơi nắng

và hoa cúc vàng rộ nở chi chít

trên đồi ngực tinh khiết nàng

 

trên cánh đồng cúc trinh nguyên hực vàng

người con gái ưỡn đôi mông tròn lụa là phơi nắng

và nụ cỏ măng tơ nẩy mầm mọc phủ

khắp đồi mông trắng tinh nàng

 

trên cánh đồng cỏ tốt tươi gió lắng

người con gái e dè nghiêng gò tình măng tơ phơi nắng

mặt trời thầm kín đưa lưởi mềm ấm

nhẹ lướt khe kín đẫm mật nữ tính nàng

Ba khổ thơ tả một em “tóc vàng sợi nhỏ” nằm phơi nắng, tinh khiết làm sao, thơm tho làm sao và cũng chi xiết nóng bỏng gợi tình. Khổ đầu tả đôi vú trần dậy thì. Khổ giữa là đôi mông lụa là. Khổ ba là gò tình măng tơ. Cái làm nên “văn hiệu”Kiệt Tấn là ông cảm nhận (hay thèm được như) “mặt trời thầm kín đưa lưỡi mềm ấm nhẹ lướt khe kín đẫm mật nữ tính nàng”

Thơ như thế, đến cả sư phụ ông là Nguyễn Bính hay đại ca Bùi Giáng cũng không làm nổi, mặc dù cả hai vị đều tự xưng và được tôn xưng là thi sĩ.

Người thèm làm thơ như ông giống như đứa bé lội xuống khe không để nhặt cái “khuôn vàng” mà để nhặt những hòn cuội lạ. Trong bài Cô đơn được viết năm 22 tuổi khi ông nằm một mình trên gác trọ đìu hiu ở Québec, có những ý rất mới và rất thơ.

cô đơn

là nỗi buồn dài hơn sải tay

là giọt nắng rơi trên vai vàng kỷ niệm

là miệng chai đắng trên vành môi khô

là sáp môi mòn trong hộc tủ bỏ quên

là sợi tóc dài nằm ngủ trên áo gối lẻ loi…

Chiếc áo, quần jeans, xú chiêng, giầy cao gót … giờ trở thành những bức tranh tĩnh vật:

chiếc áo đen ngủ trên lưng ghế

quần jeans xanh ngủ dưới chân hồng

chiếc xú chiêng ngủ trên mặt gối

giầy cao gót ngủ trên sàn nhà

giọng ca tình ngủ trong máy hát

điếu thuốc tàn ngủ trong đĩa sành…

Ông cố ý chọn chữ “ngủ” trong suốt 8 câu không vần để nói đến chữ “tĩnh”, cũng là một cách chơi chữ rất riêng của ông.

Như thế, làm thơ đối với ông tức làm cho đời đẹp hơn, đáng yêu hơn…nên sẽ là thảm họa nếu những người làm thơ phải im tiếng. Khi đó, “ngày vẫn bắt đầu bằng buổi sáng, trái đất vẫn quay đúng chu kỳ và đêm vẫn trở về bằng bóng tối”, nhưng mọi sự sẽ trở nên vô hồn, trần trụi như những gì ông cảm nhận sau đây:

khi những người làm thơ im tiếng

mắt sẽ dùng để thấy tai để nghe miệng để ăn

bút mực để lập vi bằng

ngôn ngữ để mua bán

trí não để mưu toan

đàn bà để làm tình

nhan sắc để làm khí giới

trẻ thơ để đánh đòn

người già để chết

thân xác để bón cây

nghèo đói để tự vận

khi những người làm thơ im tiếng

sách vở để vệ sinh

dây đàn để buộc hàng

nước mắt để làm hề

nụ cười để diễu cợt

khổ đau để tán gẫu…

Mà vì sao những người làm thơ phải im tiếng? Vì sao không còn ai làm thơ? Ông không nói “tháng tư đen”, không nói gì đến “giải phóng”, nhưng đọc những câu sau đây ai cũng hiểu cội nguồn vì đâu!

…bây giờ không còn ai làm thơ

em đã thôi làm đĩ

chúng ta xếp hàng chờ đóng dấu

no nê hận thù

 

…bây giờ không còn ai làm thơ

bạo chúa đội lốt anh em đầy đường khắp phố

chúng bắt ta ngợi ca

tự do-độc lập-hòa bình…

chúng bắt ta cắt ruột

chối từ xứ sở

Tập thơ Điệp khúc tình yêu và trái phá của ông xuất bản năm 1966 ở miền nam. Tập thơ lạc lõng giữa những tiếng nổ của “đại bác đêm đêm dội về thành phố” và rồi những Mậu thân, những Đại lộ kinh hoàng, đã khiến ông cảm thấy cái ngày “không còn ai làm thơ” sắp đến. Trong một chuyến tu nghiệp ở Pháp, ông bị kẹt lại ở Paris.

Dù ở Pháp không ai cấm ông làm thơ, nhưng ông đã bẻ bút xé giấy trong suốt 30 năm. Ông trở thành kẻ bị “cắt ruột xa lìa xứ sở”. Chữ “cắt ruột” rất nam bộ và rất chính xác cho một người cô đơn dễ xúc cảm như ông. Nhiều đêm ông ra ban công ngồi khóc một minh, vợ ông phải dỗ dành mãi ông mới vào nhà. Rồi mất ngủ suốt tám tháng, vợ ông (lại dỗ dành) đưa ông vào bệnh viện tâm thần. Gặp Evelyne điên xỏa tóc có đỡ hơn, nhưng cái quá khứ đau thương của tuổi thơ ông và cái hiện tại cũng như cái tương lai “chó má” của cả dân tộc vẫn khiến ông khật khùng. Cho đến khi ông viết được Việt Nam thương khúc với hơn 3000 câu song thất lục bát kể lại cuộc đời của chính cha mẹ ông và chính ông, tiếp theo là non 3000 câu lục bát điên…ông mới tỉnh ra. Tức là lúc ông đã “khạt ra được” nói như Thánh Thán, cái cục đau, cục giận suốt bao nhiêu năm “khạt chẳng ra nuốt chẳng vào” ấy.

Giờ, làm thơ đối với ông không phải dấn thân, cũng chẳng phải “khỏa thân với cuộc đời” như có người đã tán lộ liễu. Làm thơ, giờ là “khóc lẻ loi một mình”. Khóc thương cha mẹ, khóc thương bà bán đậu lép bà bán cà rem, khóc thương bạn với viên đạn đồng nằm giữa lồng ngực khi ở tuổi 20.

Bài thơ Dòng sông và con thuyền hai mươi tuổi khá dài nhưng không dở (như ông dè biểu thơ mình), là một khúc bi ca không vần khóc bạn, khóc cho thế hệ của chính mình. Tôi xin trích vài đoạn:

…còn nhớ gì không Gia?

những người mất đầu vì cuốn văn phạm ngoại ngữ

những người bị mổ bụng vì mặc biên áo bên trong có in ba màu

những đứa con gái mười tuổi bị phá trinh

những bà lão sáu mươi bị hãm hiếp

…còn nhớ không Gia?

đứa trẻ sơ sinh nào chết trên vú xanh

của người đàn bà lòi óc

…nhớ không Gia?

họ không có thì giờ để cắt cổ từng người một

những người bị lùa vào lẫm lúa cửa khóa then cài

lửa phóng thiêu rụi tiếng la thất thanh

còn nhớ không?

…họ không có thì giờ đào những lỗ huyệt tập thể

những người bị bắt quỳ bên bờ sông

lưỡi phảng phạt xuống trúng tai trúng cổ trúng vai

trúng lưng mặc kệ

…còn nhớ gì không Gia?

từng bầy năm người mười người

cặp giữa hai thanh tre trôi về chật lòng sông

…nhớ gì không

hỡi Gia?

những người đàn ông không có thì giờ để làm tình

những người đàn bà không có thì giờ để cưu mang

những bào thai không có thì giờ để chào đời

những trẻ thơ không có thì giờ để nô giỡn

những cơ thể non không có thì giờ để già nua

những kẻ bạc đầu không có thì giờ để chu toàn cái chết…

Đó là thời Việt minh cướp chính quyền, thời mà con chó trung thành bị giết vì sợ làm lộ bí mật cán bộ trốn trong hầm, thời ám sát thủ tiêu, thời chụp mũ Việt gian, thời Pháp đi lùng đốt nhà hãm hiếp…

Rồi đến thời VNCH, “đi quân dịch là thương nòi giống”chưa kịp hưởng tuổi 20, bạn ông đã nằm im “dưới hàng bạch lạp hắt hiu cắm đều khoảng từ đầu đến chân…”

Gia ơi

nhớ lấy hết những bi thương đó

để mai kia

vào những đêm mùa hè thiệt vắng vẻ

mày kể lại cho giun dế nghe

chuyện con thuyền đứt neo

dật dờ trên dòng sông hai mươi tuổi

(Sài Gòn 1965, đêm say chạnh nhớ bạn ta)

Còn tuổi nào bi thiết hơn tuổi 20 ở Việt Nam. Chết tức tưởi, chết quạnh hiu!

Tôi tưởng chừng ông đang ngồi một mình bên bờ sông nào đó với một chai rượu và rượu vào thì ông khóc. Khóc được là ông bớt rầu.

Trong bài Đưa vợ con về xứ với câu hỏi của vợ:”đất nước ta thanh bình thiệt sao anh?” và câu hỏi của con “biển chỗ này tên gì mà gió rít rợn người?, tên gì mà sao nước xoáy dữ tợn”được nhắc đi nhắc lại nhiều lần như những nhát cắt vô tình cứa nát lòng ông.

Đừng hỏi, vì anh cũng chưa biết có thanh bình thật không khi mọi sự đã đổi thay, đến “Sài Gòn mà còn mang tên thằng đồ tể”! Đừng hỏi, vì thằng Khôn là bạn học đi tập kết giờ là tiến sĩ về cướp nhà bạn cũ, “anh muốn gặp lại xáng nó bạt tai”. Đừng hỏi con ơi, chỗ nước xoáy đó, chỗ gió rít đó tên gì ba chẳng biết chỉ biết người thân vượt biên bị chết, chị con đau kiết lỵ sưng cổ họng không thuốc men, chết xác quăng xa chìm xuống biển sâu.

Và sau cùng:

thôi em đừng hỏi

anh làm bài thơ này tặng ai?( nghi tặng Hoa như hồi nẳm bến đò trao thơ)

anh biết mình có tật làm thơ vừa dài vừa dở

những người anh muốn đề tặng đã chết từ lâu

thì thôi anh dành tặng bài thơ này cho xứ sở

…anh viết mấy dòng trên vừa khóc vừa cười

bỡi khổ đau

vì em ơi

sau cái thời buổi khốn kiếp này

khi về với quê hương

anh sợ chúng ta không còn được nụ cười nào để cười

và cũng chẳng còn giọt nước mắt nào

để khóc.

Về quê hương mà không còn nụ cười nào để cười, không còn giọt nước mắt nào để khóc, cay đắng biết chừng nào!

Không chỉ bài thơ này mà cả 3000 câu trong Việt Nam thương khúc, 200 khúc trong Lục bát điên, cả những truyện ngắn truyện dài ông đều tặng cho xứ sở. Nói đúng hơn là trả nợ cho quê hương, nơi đã cho ông một “tuổi thơ rộng lượng, trốn cơn ruồng bố trở về ngủ vẫn nằm mơ” nơi sông nươc tôm cá đặc ngừ, nơi khổ đau do người lớn gây ra triền miên suốt ba bốn chục năm…

Thơ của ông là như vậy. Không chỉ môi má nồng thơm mà còn ngổn ngang tâm sự,  trải dài 2/3 thế kỷ là cái rầu minh mông bất tận (chữ ông dùng để viết về Nguyễn Ngọc Tư).

Còn như bảo rằng thơ phải có cái gì đó mới lạ, thì đây, xin mời đọc bài Em về. Bài thơ 3 chữ mỗi câu nhưng ông kéo thành 5 chữ bằng cách lập lại hai chữ đầu, cứ như cà lăm, nhưng rất độc đáo. Nhất là ý thơ  nhẹ nhàng, dễ thương. Chiều mưa, dường vắng, trông em về. Em này, áo trắng gót son, chắc là Ánh, cô nữ sinh ông để dành mai sau làm vợ ông.

ngày phai ngày phai màu

chiều xanh chiều xanh xao

trời mưa trời mưa nặng

em về em về mau

trời mưa trời mưa nặng

em về em về mau

em về em về mau!*

nghe như tiếng lòng ông thắm thiết dội lại, còn hơn cả “tiếng buồn vang trong mây” của Hồ Dzếnh.

Đây là bài thơ đẹp, theo tôi dù ông không muốn cũng vẫn xứng đáng được gọi là thi sĩ thứ thiệt với tất cả lòng mến yêu.

06/4/2017

Khuất Đẩu

 

©T.Vấn 2017

 

 

 

* EM VỀ

Kiệt Tấn

 

Hạ vàng hạ vàng nắng

Chiều qua chiều qua mau

Đường quạnh đường quạnh vắng

Ngõ đón ngõ đón chào

 

Tà áo tà áo trắng

Vờn lao vờn lao xao

trời im trời im ắng

Én vù én vù cao

 

Đường hiu đường hiu gió

Lá xạc lá xạc xào

Gót son gót son nhỏ

Bước về bước về mau

 

Sông tĩnh sông tĩnh lặng

Dòng nao dòng nao nao

Chuông chùa chuông chùa vắng

Mưa rạt mưa rạt rào

 

Trúc thưa trúc thưa vắng

Gió thổi gió thổi ào

Đường không đường không nắng

Chiều nôn chiều nôn nao

 

Mây chìm mây chìm lặng

Trời mưa trời mưa rào

Giọt trĩu giọt trĩu nặng

Em về em về mau

 

Ngày phai ngày phai màu

Chiều xanh chiều xanh xao

Trời mưa trời mưa nặng

Em về em về mau

Trời mưa trời mưa nặng

Em về em về mau

Em về em về mau

Bagnolet, đầu xuân  2009

Ghi chú: Những đoạn thơ trên trích trong Lục bát điên & Thơ rời do Giấy Vụn xuất bản tại Huê kỳ, 2017. Tác giả được tặng (chui) trong lần ra mắt sách bỏ túi tại cà phê Kafka, Sài Gòn.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bài Mới Nhất
Search