T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Nguyễn Lệ Uyên: Nguyễn Bắc Sơn và tiếng thơ bi hài

nguyen-bac-son

 

“Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi

Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí

Lũ chúng ta sống một đời vô vị

Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau”

(NBS)

Khoảng cuối thập niên 60, đầu thập niên 70, giữa những người làm thơ tự do “làm dáng”, những người làm thơ tranh đấu theo kiểu “hiện thực nửa mùa, khẩu hiệu”, bỗng xuất hiện lẻ loi một khuôn mặt mới toanh có phong cách thơ ngang tàng, khẩu khí, khinh khoái đúng với chất hiện thực phơi bày nhan nhản trong cuộc sống khốn đốn thời bấy giờ, rất không giống ai. Đó là trường hợp Nguyễn Bắc Sơn.

Người thọc chân vào làng thơ như một kẻ “du côn chữ nghĩa”, một hành giả rong chơi dọc ngang trong trận đồ bát quái giữa thánh thiện và tội lỗi, giữa hạnh phúc và khổ đau, giữa đạo và phi đạo, giữa tốt và xấu; để cuối cùng nghêu ngao một câu hát rong: kẻ làm thơ đôi khi biến thành du đãng / hoặc nhà tu theo khí hậu từng mùa. Sự thọc chân bất ngờ của Sơn cũng tỉ như bứt sợi lông gà ngoáy vào lỗ tai kẻ khác, gây cảm giác nhột nhạt vừa khó chịu, vừa thích thú.

27 bài thơ phơi trải trong Chiến Tranh Việt Nam & Tôi đã được đón nhận (thời đó) bằng những thái độ khác nhau: Các nhà làm chính trị và đạo đức giả cầy gọi thơ Nguyễn Bắc Sơn là “con sâu bệnh hoạn”, là “phản chiến, khiếp nhược”, các em tiểu thư khuê các vừa nhắm mắt vừa đọc, vừa thè lưỡi rụt đầu vừa rung bần bật những khoái cảm sũng nước. Và chỉ có những kẻ bị xô đẩy vào chốn “du côn, du đãng” mới đồng cảm được tiếng thơ bi hài lồng lộng bão cát, chói chang lửa đỏ và dầm dề mưa lũ. Sự đồng cảm đồng điệu đồng tình của những con người cùng một thế hệ đang phơi lưng nướng trui trên lò than hồng rực đỏ, khét lẹt để tập làm Thảo Khấu:

Vì sao ta đến đây hò hét

Học trò bẻ bút tập mang gươm

Tập uống máu người thay uống nước

Múa may theo lịch sử điên cuồng.

      Những tra khảo tâm óc dường như chưa hề có câu trả lời, không thể trả lời nổi, để cuối cùng phó mặc mọi sự đẩy đưa. Mặc kệ tất. Thằng nào giương cao ngọn cờ cứ giương, đứa nào hò hét cứ hò hét, cứ xông tới và trốn chạy, xông tới và ngã xuống, chiến thắng và bại trận. Tất cả đan chéo vào nhau như đường gươm ma thuật của phái Bạch Mi. Riêng ta bỏ tuốt cái phía trước và phía sau, bỏ cái quyền uy và khuất phục để làm một kẻ lãng đãng khói sương trong khói lửa mịt mùng, kinh lợm:

Bốn chuyến di hành một ngày mệt ngất

Dừng quân đây nói chuyện tiếu lâm chơi

Hãy tựa gốc cây hãy ngắm mây trời

Hãy tưởng tượng mình đang đi picnic

Kẻ thù ơi các ngài du kích

Hãy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo

Không lạ, không xa mà cũng chẳng nhọc nhằn lý giải theo phép biện chứng khi mà guồng máy xay thịt cứ nghiền nát từng cánh tay, bàn chân, thân thể con người. Những công dân, những đồng bào, họ không bao giờ muốn thân xác mình biến thành món thịt băm; họ đâu muốn bắn giết nhau. Chỉ có các ngài chính trị lợi dụng sự cả tin, phều ra chút nước bọt để tranh giành quyền lợi cá nhân theo mộng tranh bá đồ vương, nên “lúc này đây ta không thèm đánh giặc”. Ta “không thèm đánh giặc” bởi trong đầu óc ta luôn nghĩ :

Xem cuộc chiến như tai trời ách nước

Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước

Vì căn phần ngươi xuôi khiến đó thôi

Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi

Đến nỗi nhà văn Võ Phiến phải thốt lên: “Bên kia là: “những dứa điên say”; bên này là “ta” coi đánh giặc như trò chơi. Hoàn cảnh phải chăng đã xui có cái bất cần này để quân bình lại cái quá đáng kia. Óc hài hước bên này để hiểu chính óc mộng tưởng bên kia? (Võ Phiến, Chúng Ta Qua Cách Viết, NXB Giao Điểm, SG 1972).

Từ một thái độ rạch ròi như vậy, nên trong cuộc hành quân, dưới con mắt nhà thơ “du côn” là chuyện vặt, không phải của bản thân mình nên kêu các “ngài du kích” đứng xê ra, đừng có bắn nheo để ta “dừng quân nơi đây nói chuyện tiếu lâm chơi”.

Cũng vì chiến tranh là thứ “tai trời ách nước”, thân phận ta như cánh bèo dạt lên bãi bùn khô thì sống chết cũng là chuyện vặt:

Mai ta đụng trận ta còn sống

Về đến sông Mao phá phách chơi

Chia sơt nỗi sầu cùng gái điếm

Đốt tiền mua vội một ngày vui.

Chất bi thảm trong Mật Khu Lê Hồng Phong một lần nữa lật tung ra bề trái thúi hoắc của câu nói thời thượng từ cửa miệng các nhà đạo đức giả nhân “to be or not to be” trong hoàn cảnh này như cái tát của một cô gái điếm vào mặt những tên chính trị ma đầu, ma cô!

Người sống sót nâng ly mời kẻ khuất

Lại gần đây trên bãi cỏ bờ sông

Soi mặt mình trong dòng nước xanh trong

Để nhìn thấy hình bản lai diện mục

Cởi áo trận và hoa mai ném tuốt

Xin giã từ đời vũ khí, huy chương

Xin trở về như một kẻ hoàn lương

Xin vứt hết xin bắt đầu lại hết  

       (Tiệc tẩy trần của người sống sót)

Nói theo cách nói của Cao Huy Khanh lúc chúng tôi nằm chung ĐĐ 31 trường Võ Bị Thủ Đức thì, cuộc chiến tranh này dưới con mắt của Nguyễn Bắc Sơn là “cuộc nhàn du vào con đường huyệt tận, là sự nghêu ngao trên chiếc giá treo cổ hận thù”, mà Sơn thì như một con sóc trước bờ vực sống và chết, luôn cười ha hả, sướng điên một nỗi buồn tênh vô cùng thênh thang, ngan ngát những hương thơm của hoa cỏ, nắng ấm, suối trong … và chung quanh là mã tấu, lưỡi lê, bom đạn!

Có lẽ vì thế mà phong thái kinh bạc cứ mỗi lúc mỗi đậm đà hương bưởi hương cau:

Khi tao đi lấy khẩu phần

Mày đi mua rượu đế Nùng cho tao

Chúng mình nhậu để trừ hao

Bảy ngày sắp đến nghêu ngao trong rừng

Mùa này gió núi mưa bưng

Trong lòng thiếu rượu anh hùng nhát gan

Mùa này gió bãi mưa ngàn

Trong lòng thiếu rượu hoang mang nhớ nhà

Những thằng lính trẻ hào hoa

Lưu đày trong cõi rừng già núi xanh

Lao mình vào cuộc phân tranh

Tiếc thương xương máu sinh thành được ư

       (Một tiếng đồng hồ trước khi lên đường hành quân)

Suốt dọc Chiến Tranh Việt Nam & Tôi, tôi cố tìm chất anh hùng ca kiểu Homère với những Odyssé, Iliat … nhưng chỉ toàn những bi hài đan xen vào nhau bằng những tiếng cười vui cứa nát trái tim:

Mày gửi một chân ngoài trận mạc

Mang về cho mẹ một bàn chân

Mẹ già khóc đến mù hai mắt

Đời tàn trong lứa tuổi thanh xuân

(Căn bệnh thời chiến)

Cỗ máy băm thịt khổng lồ kia đã biến đổi nhân cách con người một cách tàn tệ nhất, để mọi người ai cũng có thể nhận ra, nhưng Nguyễn Bắc Sơn hơn mọi người là dám thốt thành lời, mà lại là lời thơ khôi hài như một lưỡi dao nhọn hoắc:

Ngày trước mày hiền như cục đất

Gìờ mở miệng ra là chửi tục

Hà hà ra thế con nhà binh

Ngôn ngữ thơm tho như mùi cứt

Ngày trước mày định đi tu tiên

Giờ lính tu bi-đông ừng ực

(…)

Giờ tối nằm mơ chỉ thấy tiền

Nhân nghĩa gì gì quên tuốt luốt

(Bài hát khổ nhục)

Con người bước vào rồi may mắn bước ra khỏi guống máy chiến tranh cuối cùng chỉ là “như rượu còn ly cặn”, là “kiếp ngựa què”.

Trong Chiến Tranh Việt Nam & Tôi, còn có một Nguyễn Bắc Sơn thứ hai ngoài chất du đãng phóng khoáng, ngoài chất du côn khinh bạc, ngoài chất du kề bi hài. Đó là một Nguyễn Bắc Sơn từng trải, bay bổng lên cao và chui sâu dưới tối, căng mắt, căng tai mở toạc trái tim và tâm hồn để đắm chìm trong dòng triết học Phương Đông trầm mặc, như chính anh đã tự vẽ chân dung mình:

Trên trái đất có rừng già núi non cùng biển sông

Trong Nguyễn Bắc Sơn có kẻ làm thơ

Kẻ làm thơ đôi khi biến thành du đãng

Hoặc nhà tu theo khí hậu từng mùa

       (Chân dung Nguyễn Bắc Sơn)

Anh đứng giữa hai thái cực cuộc đời, chiêm vọng nó, hít thở, hoà tan như thể một trưa hè tắm sông và khi bước lên bờ, anh chính là Nguyễn Bắc Sơn chứ không là con người nào khác, mới toanh, mát mẻ:

Trong đáy giếng nhà tôi

Sống một con cá trào (tràu?) già

Những đêm trăng

Dường như y không sao ngủ được

Y bì bõm

Chơi đùa cùng ánh trăng, khí hàn và nước

Tôi ngồi bên thành giếng

Im lìm chiêm ngưỡng y.

      Nói về Nguyễn Bắc Sơn và thơ Nguyễn Bắc Sơn thì còn muôn trùng điều để nói, để chọc xẻ và ngắm nhìn, để phanh thây và quàng vai. Công việc đó xin mượn lời các cụ nhà văn đã từng nói, viết về anh:

“Phong thái ngang tàng mà khinh khoái, chết thì thôi, còn sống thì còn vui. Chẳng những trước khi đụng trận một ngày, mà trước khi hành quân một giờ, Nguyễn Bắc Sơn cũng thản nhiên “khơi khơi chấp hết” (…) Chiến tranh đối với họ đã trở thành  chuyện cơm bữa, không còn lý do gì để đại ngôn, lớn lối nữa”. (Võ Phiến, Bách Khoa số xuân Canh Tuất)

“… Đọc thơ Nguyễn Bắc Sơn tôi có liên tưởng đến tiếng thơ Quang Dũng trong bài “Tây Tiến”, chỉ khác thơ QuangDũng là kết tinh của một hoàn cảnh bi hùng, còn thơ Nguyễn Bắc Sơn là kết tinh một hoàn cảnh bi hài”. (Doãn Quốc Sỹ, Văn số 185 ngày 1.9.1971)

“… Có cái ngang tàng đượm màu sắc Lão Trang, đánh giặc không cần lý tưởng mà vẫn đánh, coi cuộc chiến như trò chơi, thương xót kẻ thù như ruột thịt”. (Chu Tử, tuần báo Đời số 9 tháng 11.1969)

“Mấy bài viết về chiến tranh có cái hào sảng, bi đát của tướng Trần Quang Dũng. Bài “chân dung Nguyễn Bắc Sơn” thật hay. Đọc được một bài thơ hay thấy sung sướng cả ngày”. (Viên Linh, thư riêng ngày 27.11.1969)

Các bạn độc giả không tin ư? Cứ bỏ tiền ra mua tập Chiến Tranh Việt Nam & Tôi (do hai bạn văn Phạm Văn Nhàn và Trần Hoài Thư sắp xếp, tái bản). Nói như Viên Linh thì với 27 bài thơ của Sơn các bạn sẽ sướng cả tháng, cả năm. Nếu chưa tin, tôi chép lại nguyên văn mấy dòng trên đầu sách để giới thiệu tập thơ này (do Ngô Nguyên Nghiễm phóng bút) khi xuất bản lần đầu 1971:Tập thơ hát lên tiếng hát lồng lộng bi tráng của một người tham dự chiến tranh Việt Nam, một thiền sư bụi đời, một gã du đãng trầm mặc.

    Những bài thơ xa như tiền chiến, xưa như Đường thi, nhưng kỳ lạ thay, mới tinh và gần gũi như sáng hôm nay…”

 Một đoạn phỏng vấn tưởng tượng

Giữa Ng~. và nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn

 Ng~: Ông làm thơ từ hồi nào vậy?

NBS: Tôi không làm thơ. Tôi chỉ gồng gánh thơ đi chơi.

Ng~: Gánh thơ vào chiến trường, hậu cứ, nhà thổ…?

NBS: Chỗ nào tới được thì ta cứ đi.

Ng~: Ông gánh cả rượu đế Nùng và mấy chục chai bia theo khi hành quân.

NBS: Bốn chục chai đồ bỏ.

Ng~: Gan bẩm vậy sao khi “Qua cầu sông Luỹ nhìn quanh quất / Nước đỏ cầu đen chợt nhớ nhà”?

NBS: Ồ cũng lạ thiệt. Đôi khi tôi cũng tự hỏi: “Sắt đá ồ sao lại nhớ nhà”. Cái đó mới kỳ.

Ng~: Không kỳ sao được khi “Tướng giỏi cầm quân trăm trận thắng / Còn ngại hành quân động Thái An”? Động Thái An nay còn không?

NBS: Còn mất, mất còn; Có không, không có.

Ng~: Thật tội nghiệp cho các cô gái ở bốn quận miền Bắc, nơi “có nhiều nhà điếm và nhiều trại lính”

NBS: Bởi vậy nên tôi phải “Gửi tâm hồn vào những đám mây bay / Đi tranh luận cùng thánh hiền thiên cổ”

Ng~: Đó là chuyện hồi xưa, cũ mèm, trên ba mươi năm rồi. Còn giờ thì sao?

NBS: Giờ?

Ng~: Ừ, giờ?

NBS: Buổi sáng mang tiền đi hớt tóc

Vô tình ngang một quán cà phê

Giang hồ hảo hán dăm thằng bạn

Mãi mê tán dóc chẳng cho về.

Ng~: Bấy nhiêu đó?

NBS: Ông móc trong đáy thùng thử coi.

Ng~: Tôi lượm quanh hồ Than Thở và hồ Xuân Hương, để tôi đọc cho ông nghe

Về đâu đâu cũng là đâu đó

Đâu cũng đìu hiu đất Hán Hồ

Hớt tóc cạo râu là chuyện nhỏ

Ba ngàn thế giới cũng chưa to

 

Tháng Giêng ngồi quán, quán thu phong

Gió  nhạn môn quan thổi chạnh lòng

Chuyện cũ nghe đau lòng tứ xứ

Thương Kiều Phong, nhớ tiếc Kiều Phong

 

Tháng Giêng có kẻ đi tìm cúc

Nhưng cõi đời đâu có Cúc Hoa

Thấy đám phù bình trên mặt nước

Biết mình đi lộn nẻo bao la

 

Lạng quạng ra bờ sông ngó nước

Trên bờ dưới nước gặp ông câu

Ta câu con đú ngươi con đẽn

Chung một tâm hồn tất gặp nhau

 

Ghé thăm ông bạn trồng cây thuốc

Mời nhau một chén rượu trường sinh

Bát cơm tân khổ trong tù ngục

Câu chuyện năm năm khiến giật mình

 

Khi gã yếu ly đâm khánh kiệt

Là đâm trúng phải trái tim mình

Sông Mường Mán không dung hào kiệt

Muôn đời bóng núi đứng chông chênh

 

Nằm ngủ dưới cây nghìn cánh hạc

Dường như mặt đất tiết mùi hương

Ngủ thẳng một lèo chiều mới dậy

Dường như mình cũng mộng hoàn lương

 

Dường như đứa trẻ nghìn năm trước

Bây giờ đây vẫn trẻ trong ta

Khi về râu tóc còn nguyên vẹn

Một ngày loáng thoáng một ngày qua.

 

NBS: Mẹ kiếp, thơ thằng nào mà thơm như cứt!?

Ng~: Hình như đó là thơ của Nguyễn Bắc Sơn.

NBS: Hắn là thằng nào vậy?

Ng~: Nghe nói hắn là một tên bụi đời thượng hạng ngoại hạng.

NBS: Gã láo thật.

Ng~: Vâng, láo. Ông  còn gì để nói với độc giả Thư Quán Bản Thảo không?

NBS: Ông nhắn dùm các cô gái nhà lành, những thằng làm chính trị, những thằng đạo đức giả chớ có đọc loại thơ trong thúng mủng cão nia trên đường bụi bặm.

Ng~: Cảm ơn ông.

NBS: Không cần!

      

                                  (Xứ Bàn Chải, tháng 6 / 05)

__________

 

Tiểu sử

 Tên thật Nguyễn Văn Hải.

Sinh năm 1944 tại Phan Thiết, qua đời ngày 4 tháng 8 năm 2015 cũng tại Phan Thiết.

Thơ và tiểu luận đăng rải rác trên các tạp chí văn học Sài Gòn trước 1975.

Tác phẩm đã xuất bản:

-Chiến Tranh Việt Nam và tôi (Đồng Dao, 1972; TÂQ tái bản tại HK).

-Đời như một nhà thơ Đông phương, 1995.

 

 

 

 

 

 

©T.Vấn 2018

Bài Mới Nhất
Search