T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không: Mảnh đất trồng cỏ trứng ếch hoa đỏ

Vờ Cờ Lờ

Mặt Thật Mặt Giả – Tranh: Thanh Châu

       Dẫn nhập:

Nằm trên giường nướng thêm cho béo mắt. Gã nhai mớ chữ rối tinh tối hồi hôm. Ngủ bét con mắt rồi. Gã vào phòng vệ sinh. Đánh răng rửa mặt cạo râu. Trút bỏ mọi nguồn cơn xuống bồn cầu. Gã tháo lớp mặt giả ra. Bỏ vào ngăn kéo khoá lại. Đeo bộ mặt thật vào.

       Gã đến sở hì hục kéo cày. Hết việc về nhà. Nhàu nát. Tắm rửa thay quần áo đi dép. Gã ngồi ở bàn ăn. Nhai mớ con chữ ban sáng chưa kịp nuốt vào dạ dày.

      Ngồi khóm róm ở bàn viết. Gỡ lớp mặt thật. Mở ngăn kéo. Lấy mặt giả đeo vào. Gã thành một con người khác. Như con bò. Gã từ tốn nhai lại. Gã nhai mớ chữ những miếng to tướng. Vừa nhằn vừa nhai. Gã loáy ngoáy ngậm vần nhả chữ. Gã nhả đám bã chữ chưa kịp tiêu hoá xuống mặt giấy. Những con chữ bò lổm ngổm trên giấy như ruồi bu.

      Đến khúc cuối bài lưu cảo. Vẫn còn đeo mặt giả. Gã bỏ đám bã chữ vào áo quan. Thằng em họ đeo mặt thật lấy bút bi đào huyệt. Thằng em và gã chôn quan tài chữ xuống đất.

      Với hiện thực giả hư cấu thật…Mảnh đất ấy nay mọc toàn cỏ trứng ếch hoa đỏ…

***

Về Hà Nội, sau mấy chục năm là người di tản buồn, gã gặp lại thằng em họ.

Với chuyến về thăm thổ ngơi bản quán này, gã tạt qua người anh em xã hội chủ nghĩa, dòm chừng với chân cứng đá mềm, con đường cách mạng nó đi “xuyên suốt” về đâu. Bước qua cửa, mắt gã đảo tít như rang lạc quanh nhà…Cái đầu gã đang tha ma mộ địa với cái thằng tay dùi đục, chân bàn chổi thì nó làm sao mà sinh tồn, sinh nhai trong cái thời buổi “bao cấp”.

Thì va vào mặt gã: Hai chân nó mang nguyên con…đôi dép râu.

Qua một ngày “giao lưu văn hóa” với thằng em, gã mới hay nó là phó biên tập tờ báo văn học, thuộc “diện”…phê bình văn học. Thế mới bỏ bu! Nhưng gã cứ tức anh ách vì người ngợm như nó thì bắt cóc bỏ đĩa ai đây hở giời. Số là nó ở quê, dám chưa một ngày…cắp sách đi học lắm ạ. Lại không có cái may mắn trúng tuyển nghĩa vụ quân sự để được đi B, vậy mà có đôi dép râu làm cảnh. Gã vặn óc nghĩ không ra! Với chức phó biên tập bự sự như cái mả liệt sĩ to vật. Gã hóng hớt: “Chú làm gì mà cây đa cây đề quá thế vậy?” Ấy vậy mà thằng em êm ả hoa rơi cửa Phật: “Báu gì, phó nào có khác gì phó rèn, phó cối, chuyện bình thường thôi”.

Gã nhớ đọc đâu đó có ông nhà văn khoe mẽ học khoá 2 ở cơ sở có “mặt bằng văn hoá”, bạn đọc bốc ông viết rất “văn chương chính quy”, rất “văn chương xung kích”. Gã chịu chết nghĩ không ra tiếng Việt trong sáng hôm nay gì mà…súng đạn quá vậy nên rọ mồm hỏi.

Đúng là cái thằng to mắt hay nói ngang:

– Bác hỏi đếch gì khó thế!.

Rồi nó khẽ khọt:

– Nói chung là tốt! Là tốn bao nhiêu tiền nuôi đám báo cô đấy. Tiền chứ có phải vỏ hến đâu, họ chỉ được cái nước hão. Đấy.

Xong, nó tươi tớp:

– Chẳng là cơ sở được mô phỏng khung chương trình giảng dạy Học viện văn học Macxim Gorky của Cộng hòa liên bang Nga. May mà họ không gọi là viện văn học…mà đặt tên là trường viết văn để đào tạo những người làm nghề viết vănMà nói dại chứ, cụ Nguyễn Du, có học viết văn hồi nào đâu, thưa bác.

Tiếp đến thằng em làm bàm…

Chà dấu gì bác, em ở nhà quê đeo bố em theo cái cày ngắm đít trâu một dạo. Học trường làng, hết phổ thông đến tuổi nhầng nhầng đăng ký vào bộ đội, đang quản lý một trung đội đơn vị trên miền núi. Đùng một cái năm 1978 em được điều động về Hà Nội tới trường ở đê La Thành để học nghề viết văn. Trường không có… thầy. Không hiệu trưởng, không trưởng khoa, không chủ nhiệm. Không có thầy nhưng bộ phận hành chính thì có tất. Từ văn thư, tài chính thủ qũy, lái xe, bảo vệ đều có cả. Trường có hai bảo vệ quản lý văn hóa canh gác hai đầu, đúng ra chỉ quản lý quân số thôi. Trường có khóa trình 3 năm, lớp có hơn 40 “sinh viên” hầu hết ở độ tuổi trung niên gồm khối quân đội “du thủ du thực”. Nghênh ngang nhất là Hữu Thỉnh, sĩ quan tăng thiết giáp. Và Hoàng Phủ Ngọc Tường học lớp viết văn hệ chuyên tu.

Năm em học trường chưa có tên, chỉ được gọi là “Khoa viết văn khóa I”. Lay lắt qua năm 1979. hình như các anh cán bộ khoa đang rục rịch đề nghị nâng cấp thành Trường viết văn Nguyễn Du. Vì ở nội trú trong khu tập thể Vân Hồ hay khu nhà cấp 4 mái tranh vách đất, bị giời xiềng vào chữ nghĩa như anh tù văn nên tụi em gọi là “Nhà số 4” cho hoắng huýt.

Và thằng em cảm khái ơn bằng cái đĩa, nghĩa bằng con ruồi rằng: Ngôi trường năm xưa vẫn nằm đấy, vẫn mái ngói đỏ tươi với dáng dấp một ngôi đền rêu phong, bến xe điện Ngã Tư Sở vẫn còn nguyên tuyến đường ray, sông Tô Lịch còn nhiều thuyền thúng thu hoạch rau muống.

Gì mà dây cà ra dây muống quá thể vậy với cán bộ quản lý quân số như quân trường? Đang bối rố như sư đẻ nhưng gã cũng muốn “thu hoạch” thêm…

– Chú “tiếp thu” được bao nả?.

Nó búng lưỡi tách một cái và nhăn nhúm:

– Bác xá cho, ai chẳng biết khâu viết văn là nặn chữ véo câu. Chung quy là gia công những câu văn, họ đánh giá từng câu một: Câu này tốt, câu kia hay, câu này kém, câu kia bẹt, câu này trẹo logic, câu kia viết lười biếng. Cứ léo xéo này kia vậy thôi.

Rầy rà thật, chợt nhớ tới Dương Thu Hương là học trò của nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh và Hoàng Ngọc Hiến ở…trường văn học này. Ba thầy trò sau đều phản tỉnh, phản kháng nên “có vấn đề nhậy cảm và tế nhị” mới đây. Gã bèn…tế nhị hỏi nó:

– Ai là…quản giáo của chú?

Nó bật rật…

Nếp tẻ đủ cả, họ đăng đàn qua quýt như Tô Hoài, Xuân Diệu…Giáo trình loanh quanh với Lỗ Tấn, Mạc Ngôn, hay Tsekhov, D. Granin. Nói chung là tốt với những giảng dậy lợn cợn, bốc mùi thoang thoảng của những thứ kiến thức chưa tiêu hoá đã cũ mèm.

Tiếp đến nó tung tóe…

Họ đến Trường viết văn Nguyễn Du như tới Trại dậy văn Tam Đảo. Chủ yếu là bồi dưỡng văn hóa, là xắng xịt rít thuốc lào, nhai kẹo lạc. Chẳng thấy ai rỗi hơi cho văn học thực sự. Vì những người hành nghề văn học đều muốn dĩ hòa vi quý, đều muốn có những cuộc chơi đèm đẹp, chơi có thưởng.

Không để gã vun chuyện, mồm miệng nó như tép nhảy…

Ông Tô Hoài thủ khư khư cuốn Sổ tay viết văn, ông rao giảng: Học viết văn như thằng tập bơi. Muốn biết bơi thì trước hết đừng sợ nước. Cứ nhảy đại xuống, đâp chân đập tay, uống vài ngụm nước, dăm bảy lần thế nào cũng nổi lên được. Nổi lên được thì sẽ bơi được. Nhưng từ chuyện bơi được, biết bơi trở thành một nhà bơi lội lại là chuyện hoàn toàn khác!.

Đúng là cứt hàng xóm thì thối, cứt đầu gối thì thơm nên nó thum thủm…

Với nhà văn Kim Lân: Văn có thể ngửi được đấy, các ông ạ. Trong văn chương thì truyện ngắn có mùi đặc biệt nhất. Hệt như mắm tôm ấy. Không ai làm giả được mắm tôm, cũng không ai làm giả được truyện ngắn.

Đang lụng bụng đến đây, làm như chăn trâu nhân thể dắt nghé nó tong tả…

Cụ Nguyễn Tuân dậy cày chữ: Người nông dân đi cày phải có cái cày, có con trâu. Nhà văn thì phải có chữ. Thế chữ của các anh đâu? Cả tập bản thảo dày đặc như ruồi bu thế này mà tôi chẳng nhìn thấy một chữ nào cả.

Rập ràng xong, nó cười sần sật. Cái thằng cười đến hay, như chó khạc xương ấy…

Còn Xuân Diệu xúng xính đăng đàn ngâm thơ ông, kể chuyện kháng chiến nghe điếc cả lỗ đít, ăn thì thủng nồi trôi rế, ai hỏi ông cười tít: Thì đã bảo bồi dưỡng văn hóa mà.

Rồi nó rấm rẳn: ’’Tụi em ngồi đồng ở dưới, mặt thuỗn ra như rặn ỉa vì nghe bí rị sao ấy’’. Tiếp nó châm lửa đốt trời: “Mỗi lần đi trại viết, mấy ông giảng viên lãnh vài trăm ngàn, cơm nuôi, với họ là cơ may cải thiện. Ấy là chưa kể mấy ông mũ cao áo dài được đón rước chu đáo, thù lao giảng bài 3 giờ tính thành 5, cỡ 20 buổi lên lớp tính thành 30-40.

Khi không thằng em nát bàn nền văn cách hôm nay và nó cách rách…

Tốt nghiệp trường dậy văn với tư duy lãng mạn qua truyện tình từ nhà quê lên thành phố. Các nhà văn từ cái lò bễ cùng một khuôn đúc xuyên suốt thao tác kỹ thuật chữ nghĩa con số thiếu cảm xúc. Thảng như với nguyên mẫu: Anh thật khá trai ‘’27 tuổi’’, cao’1,78m’’ nhiều cơ bắp, nặng ‘’80 kílô’’, ở căn hộ ’’số 15’’. Anh gặp chị cao ‘’1,72m’’, ở căn hộ ‘’4m’’ vuông.

 

Ha! Từ số qua chữ, gã đang búi bấn đến cụ Trần Dần với ‘’Chữ là nghĩa’’, tới Lê Đạt với ‘’Phu chữ’’ thì…Thì thằng dép râu thẽo thọt với chữ nghĩa:

      – Nói chung là tốt,. là những năm 60, 70, Hà Nội thời Nga hóa sính ngoại ngữ, nhiều mỹ từ học mới đem từ Cộng hòa liên bang Nga về trường. Tụi em tứ quê lên phát âm tiếng Việt không chuẩn, lại bị hóc vì các phụ âm “r”, “d”, “gi” như: rờ, dờ, giờ…đọc giống nhau với chữ…“jờ” của Nga như “rút ra” được viết là “jút ja”, “dọc”  trở thành “jọc”.

Ngay cả đầu sách “Sờ xoạc” của Trần Dần, cũng biến cải thành ”Jờ Joạcx”  kia mà…

tôi gặp

       một con nữ vận động viên

       ướt jượt

       tòan thân

       chạy joạch vòng mưa jòng jòng

       1-9-6-3 mín mét chữ

       jờ joạhx nở jòn jọtx

Tiếp đến nó dắng tiếng:

– Em nào có ngoa ngữ, thưa bác.

Rồi thằng em dép râu hặm hụi…

Trong bài Nhất định thắng của Trần Dần mà Hoàng Cầm đăng trong Giai phẩm mùa xuân. Trần Dần sắp chữ theo hình thức “thơ nấc thang”. Một hình thức thơ của Mayakoskey, thi sĩ người Nga mà nhiều nhà thơ thời bấy giờ ngưỡng mộ và chịu ảnh hưởng. Những bài thơ tiêu biểu như Lê Đạt với Cửa hàng hay Hữu Loan với Màu tím hoa sim…

Một chiều rừng mưa

      Ba người anh

                            từ chiến trường Đông Bắc

      Biết tin

                 em gái mất

      trước

               tin

                   em

                        lấy

                             chồng

Với “thơ nấc thang” và ”jờ joạcx”, gã kháy khó nó :

– Cũng tốt thôi.

Thằng em ớ ra:

– Bác nói gì nhẩy?

Đột biến thằng dép râu leo thang…

– Chuyện này cũng lôi thôi lắm! Bây giờ em mới vỡ bọng cứt ra trường dậy chữ chính là một công nghệ lao động đào tạo nhà văn, rồi đẻ ra Hội nhà văn ở 65 Nguyễn Du. Nhà nước ta bỏ ra cả mấy trăm tỷ đồng nuôi hơn 1000 đám thợ viết lao động văn hóa. Vốn liếng của họ, cái phần gọi là văn hóa cơ bản, nhất là lịch sử và nền tảng triết học quá thấp. Thiếu ngoại ngữ, họ chỉ có hai cửa sổ ngó qua Trung Quốc và Nga Sô. Họ chịu ảnh hưởng của ông kễnh Trung Quốc là lẽ đương nhiên rồi, xưa nay vẫn thế. Họ quên là: ”Đừng vác trên vai mình con khỉ của người khác”, nên suốt thời cầm bút họ chỉ ì à ì ạch. Bình thường thôi, thưa bác.

Gã chả thấy bình thường chút nào với…lao động cật lực văn hóa. Bởi văn hoá nào phải xây nhà xây cửa mà…lao động sặc gạch. Thêm nữa với nắng trưa mưa tối, dường như của ai đấy gã đã đọc qua với Trường viết văn Nguyễn Du, tới Hội nhà văn cũng ở đường Nguyễn Du, cụ Nguyễn Du bị “tra tấn” hơi nhiều thì phải.

Đang ngẫm ngợi vậy, nó đã càm ràm…

Chả bịa tạc tí nào, nhìn chung về nghề văn, họ viết như đang lè nhè giữa một đám chén chú chén anh. Họ nhai chữ những miếng to tướng, vừa ăn vừa nhằn ra nham nhở, chẳng hề nghệ thuật vị nhân sinh tí nào. Làm như ăn cứt không biết thối, họ vãi cứt vào mặt nhau. Hay ai biết quan mót đái mà hạ võng, họ vái nhau như tế sống. Họ viết theo cái lối vót nhọn con người như vậy khó mà hay được. Cái chính là bản thân của các nhà văn, có ai ép họ đâu. Họ có thể làm việc khác, viết để đó, sau này thời thế sang trang, họ vẫn có thể “mở bát ra” mà. Theo em, họ cứ viết cho thật hay coi, dầu sống ra sao, người đọc cũng đón nhận hết.

Khiếp bỏ bu! Gì mà vãi cứt vào mặt nhau. Gã định “mở bát”, nó đã đụng bát đụng đũa…

Nguyễn Huy Thiệp gọi họ là bọn vô học. Cụ Nguyễn Tuân được thể viết trên báo Người Hà Nội của Tô Hoài: “Ông nhà văn nọ dựng chuyện các nhà văn nước ta 50% vô học. Bị phản bác, ông nhà văn xin lỗi ngay vì sai thì phải sửa và mau mắn sửa sai là…50% có học”.

Hơ! Lại chữ nghĩa con số nữa! Gã giẹo giọ với tháng ngày đắp đổi, khi rày những nhà văn của trường dậy làm văn Nguyễn Du quang gánh “chuyên chở chữ nghĩa” từ làng quê lên Hà Nội hơi nhiều với nguyên mẫu…”không gian tĩnh lặng” hay cùng một khuôn chữ…“làng phình ra. đồng co lại”, hoặc giả như một lò chữ…”đò ngang dạt vào bến sông”, v…v…Mà nhiều quá thì hương đồng gió nội bay đi ít nhiều (Nguyễn Bính). Đang định chuyên chở chữ nghĩa nói ra sợ mất lòng em bằng “xe cải tiến” đến với thằng em thì nó quệch quạc…

       Huếch gì cái ngữ ấy, vì cái sĩ bọ họ nhờ vả hai hội viên chính thức giới thiệu vào Hội nhà văn. Vào hội gặp nhau chỉ kháo ai chạy giải thưởng này, ai thuổng giải thưởng kia. Họ chỉ là nhà văn có cái thẻ hội viên dằn túi, thỉnh thoảng đến hội điểm danh, về già có tiền hưu bổng, viết hồi ký, đợi khi chết được đọc điếu văn kính thưa, kính gửi….

Xong, thằng em xằng xịt:

– Để em kể chuyện nhà văn Nguyễn Quang Lập viết rõ ràng trên báo Thủ đô ấy nha:

 …Mình viết đến tám giờ sáng thì vào buồng ngủ lại, chợt có tiếng điện thoại của anh Trọng Hiếu báo anh Nguyễn Khải mất rồi. Mình gọi lung tung báo cho mọi người. Đến một giờ trưa anh Hiếu lại gọi điện nói ‘’Anh Khải chưa chết’’. Mình hỏi sao, anh nói nhà tang lễ đòi cái thẻ Hội nhà văn mới đủ thủ tục, nhưng anh Khải để đâu chẳng biết nữa, tìm không ra!… “.

Tiếp đến mồm miệng nó như như quạ cái…

Nghe biết vậy thôi, ngoài ra có tích mới dịch nên tuồng là chuyện người miền Nam tập kết được chia thành hai cụm: Cụm “Trại sáng tác B dài” cho những nhà văn sửa soạn đi Nam, trong đó có Anh Đức, cụm “Trại sáng tác B ngắn” cho những nhà văn công tác ngay tại Hà Nội. Đến trần ai khoai củ này, gã chợt nhớ ra khúc đầu thằng em giục giặc chuyện Hoàng Phủ Ngọc Tường học lớp viết văn hệ chuyên tu khoá I trường Nguyễn Du. Bởi chả hiểu “chuyên tu” là khỉ gì? Bèn hỏi. Thằng em óc ách là Hoàng Phủ Ngọc Tường chả tu tỉnh gì sất mà lạ bị “cải tạo” vì “hồng hơn chuyên”. Theo Nguyễn Trọng Tạo kể lại: “Trình độ của ông Tường chỉ đủ để phân biệt Má-Lê Nin là hai ông. Chấm hết. Ngoài ra không biết ông nào là ông nào. Ngày ấy ông Tường bị đi đày nên đói như ngan ấp, đói vàng mắt ra. Là người nói nhiều, vậy mà ông Tường chỉ ngồi một chỗ mân mê cái nốt ruồi to đùng ở dưới cằm, mắt chớ chớp rừng rưng”.

Gã nghe nói sau khi tốt nghiệp trường Nguyễn Du, họ được bồi dưỡng ở những trại sáng tác tùy theo lập trường, Trại sáng tác Quảng Bá cho những nhà văn cần phải “cải tạo” như Nguyễn Huy Tưởng, Kim Lân…Hết Trại sáng tác văn học Đồ Sơn đến Trại viết Đồ Sơn của Hội Văn nghệ quân đội”, trại gì như trại gà công nghiệp nên gã hỏi xem nó…cục tác ra sao…

– Thật tình em chẳng hay biết những trại sáng tác này, ngay như “Trại sáng tác B ngắn” nằm ở đâu, riêng ban Văn nghệ miền Nam trụ ở 51 Trần Hưng Đạo chỉ viết báo tường thôi. Họ cách ly Nam, Bắc thế đấy. Trừ những nhà văn chi đạo biết ngọn ngành như Nguyễn Tuân, Tô Hoài. Một lần Anh Đức tường thuật trận mưa bom B52 trong Nam. Nguyễn Tuân lên đài Giải phóng ở 58 Quán Sứ động viên Anh Đức. Trên đường về ghé tiệm thịt chó ở phố Hàng Lược, Nguyễn Tuân vừa gặm cái móng chó hầm vừa cười cười với Tô Hoài: Thằng này học trường dậy văn còn lắm lỗ hổng, nói trên đài hụt hơi ngắn lưỡi, tiếp xúc tay bo thì rất khá. Nhưng viết ra thì không ra sao cả. Nó thích được bốc, tôi bốc nó như bia hơi vậy, cho nó chết… “.

Ăn khan nằm khàn nãy giờ, nghe nhắc đến…bia hơi, gã buồn răng ngứa miệng bia bọt đến…chả cá Lã Vọng. Thế là thằng dép râu được thể lây dây…

Hội nhà văn từ quán chả cá mà có. Chuyện là năm 1957, chưa có Tạp chí Văn nghệ quân đội mà chỉ có phòngVăn nghệ quân đội. “Phòng” tổ chức Đại hội văn nghệ ở Nhà Hát Lớn, chủ trì là ông Hồ và Hoàng Ngọc Phách, mục đích là đả kích ông Ngô Đình Diệm về chuyện bầu cử thống nhất hai miền. Sau đó cả đám kéo nhau ăn khao ở quán chả cá, trong đó có Nguyễn Tuân, Kim Lân…Em nghe hơi nồi chõ qua Kim Lân thì Nguyễn Tuân vừa quạt chả vừa khoe: “Tôi đã viết xong một cái về phở. Tôi sẽ viết một cái nữa về chả cá”. Trong khi bài viết về phở mang đến Nguyễn Tuân tai họa. Bà chả cá bảo Nguyễn Tuân: “Cứ im im mà ăn nhá. Thiên hạ người ta ăn chán ra, ăn bao nhiêu cũng chẳng sao. Ông ăn được mấy tí mà đã bị mắng. Rõ khổ!”. Từ bà chả cá, từ Nguyễn Tuân “bị mắng” đến rõ khổ mới đẻ ra “Hội liên hiệp”. Từ Hội liên hiệp, hội Nhà văn được thành lập tại Hà Nội năm 1957, thoạt đầu có 60 hội viên. Trong danh sách hội viên ấy có hai người trước đây vốn cầm bút và nổi tiếng tại Sài Gòn, nhờ những hoạt động nằm vùng được kết nạp rất sớm sau năm 1975 là: Vũ Hạnh và Sơn Nam.

Với phở, gã giã chầy giã cối cho ra ngô ra khoai:

– Theo anh thời bao cấp cụ Nguyễn Tuân bị vạ vịt vì…phở vịt, phở gà, phở ngan, phở ngỗng, phở thịt lợn, vì…“Phở không người lái” chứ còn khỉ gì nữa?

Thằng em phăm phở:

– Nói chung là tốt,…là năm 1970, Xuân Diệu được cử phụ trách tờ Tác phẩm mới của Hội nhà văn. Xuân Diệu bị phê bình vì cho đăng bài tuỳ bút Phở của Nguyễn Tuân là…”không thật lập trường cho lắm”. Người ta cách chức Xuân Diệu, đưa về quy chế “viết văn chuyên nghiệp”, người ta đã “tạm ngừng xuất bản” tạp chí Tác phẩm mới. Hai năm sau khi Xuân Diệu mất mới tục bản dưới tên gọi Tạp chí Nhà văn, thưa bác.

Thưa gửi xong, thằng em chan canh đổ mẻ:

– Bác không biết chứ,…chứ khoa viết văn khóa I tụi em là lực lượng nòng cốt của Văn nghệ quân đội như tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh được thai nghén trong lúc học tại trường. Vậy mà lay lắt đến năm 1979, Trường viết văn Nguyễn Du mới được thành lập. Thế mà đến năm 2004, Trường viết văn Nguyễn Du bị sát nhập vào Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, bị  chuyển thành Khoa sáng tác và lý luận – phê bình Văn học. Đấy.

Bèn ngoác mồm hỏi  ”lý luận”,…lý sự gì nghe hãi quá thể vấy? Thằng em quơ quéo…

Nền văn học miền Bắc, tạm gọi là văn học của chiến công, nền văn học lôi cuốn người ta đi vào cuộc chiến tranh. Nếu mấy trăm năm trước trong truyền thống có mảng văn học chức năng, động viên thôi thúc con người như Bình Ngô Đại Cáo hay thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, thì nay văn học miền Bắc nối tiếp truyền thống ‘’động viên’’ đó.

Thằng dép râu như có gì suy nghĩ lung lắm rồi “vỗ vai văn hoá”…

Trước kia năm 56, ngự sử văn đàn Phan Khôi đã viết rồi: Đành rằng văn hóa phục vụ chính trị, nên chính trị lãnh đạo văn hóa. Nhưng phải hỏi: Nếu chính trị muốn đạt đến mục đích, thì cứ dùng khẩu hiệu, biểu ngữ, thông tri, chỉ thị không được hay sao, mà phải cần dùng đến văn hóa? Trả lời cho thành thật, e chính trị vỗ vai văn hóa mà nói rằng: “Sở dĩ tao tha thiết đến mày là vì tao muốn lợi dụng cái văn hóa của mày”.

Gã cứ rửa tai nghe nó dệt chuyện và không nghĩ xa hơn không ngoài chuyện gã cứ bí beng với tuỳ bút Phở của Nguyễn Tuân, với “người ta” là ai đây mà cách chức Xuân Diệu? Gã tỉ tê những cóc cáy này cho ra nhẽ.

– Cứ như chĩnh mắm thối ấy bác ạ! Này nhá…

Chế Lan Viên ghét Nguyễn Đình Thi. Nguyên Ngọc cũng vậy vì cho Nguyễn Đình Thi là thằng giả dối. Trong hội nghị, hễ Nguyễn Đình Thi phát biểu Nguyên Ngọc bỏ ra ngoài, vì vậy Chế Lan Viên muốn đưa Nguyên Ngọc lên. Trước đó Nguyên Ngọc làm bí thư đảng đoàn Hội nhà văn, Tố Hữu rất ghét Nguyên Ngọc. Tố Hữu từng nói với Tô Hoài: “Nguyên Ngọc cứ để nó làm bí thư đảng đoàn thì nó sẽ làm vua”. Nguyên Ngọc ghét tờ Văn nghệ của Hữu Thỉnh, tờ Văn nghệ đưa đến, Nguyên Ngọc vất ngay vào sọt rác. Sau thời kỳ đổi mới, tờ Văn nghệ phê phán Nguyên Ngọc là “chệch hướng”. Nguyên Ngọc từ chức Tổng biên tập và nghỉ hưu. Hữu Thỉnh lên thay, Tô Hoài làm quân sư. Hữu Thỉnh vừa là Tổng thư ký Hội nhà văn, vừa ghi tên dự giải và vuốt mặt ẵm luôn tiền giải thưởng. Bác thấy có thối không hở bác.

Ngỡ phở mắng cháo chửi xong, thằng em lại cạy cạy tiếp chuyện cô Trang Hạ, hội viên Hội nhà văn khui chĩnh mắm thôi ở hội với ba điều bốn chuyện như thế này đây…

Năm 2009 em khốn nạn với các bác vì vụ em lỡ khui ra việc quan chức của Hội nhà văn “đạo văn” mang đi Đài Loan khoe mẽ. Các bác gửi đơn kiện lên tận Bộ Công An yêu cầu làm rõ con phản động Trang Hạ đang bôi nhọ các bác. Bác Thỉnh gọi em lên để thương lượng dẹp vụ này vì đây là lỗi của quan chức Hội nhà văn chứ không phải lỗi của Hội nhà văn. Em nói thẳng em không phải con chó mà huýt sáo gọi tới thì dọn dẹp bãi cứt của các bác? Em nói bác Thỉnh sang Đài Loan mà thương lượng. Bác bảo, bác đang ngồi tầng ba nên bác sợ Trung Quốc.

Lũn cũn đến đây là nó…tịt. Chả lẽ bụt không thèm ăn mày ma, nhờ vậy gã biết tỏng thằng em giữ tịt mít trong đầu là nào ai biết ma ăn cỗ giữa quan chức Hội nhà văn với “bác Thỉnh”. Với “bác Thỉnh” đây chả phải bòn gio đãi sạn gì vì rành rành như canh nấu hẹ trên Wikipedia:

Ấy là 10 tuổi “bác Thỉnh” chăn bò, năm 1954 mới học bổ túc văn hoá, nhờ chăn bò nên tốt nghiệp sơ cấp thú y. Sau 75, “bác Thỉnh” học khoa viết văn khóa I tức Trường dậy văn Nguyễn Du. Gã nghe đâu mấy ông ”sinh viên” học văn như “bác Thỉnh” này cũng gớm chết: ”Nghe đồn rằng sinh viên viết văn gớm lắm. Người ta bảo, bọn ấy khi chưa vào trường không biết Nguyễn Du là ai nhưng khi tốt nghiệp rồi thì coi Nguyễn Du cũng chẳng ra gì”. Gớm hơn nữa “bác Thỉnh” vì ngồi tầng ba nên…ba lần “đắc cử” Tổng thư ký Hội nhà văn.

Mà cứ theo Nguyễn Quang Lập thì ông tổng thư ký Hội nhà văn này quá đọa quá lắm…

“…Hữu Thỉnh có máu gái nên thích à ơi với những nhà văn gái. Gặp là giả đò nhìn sững nói sao em xinh thế, trẻ ra hơn…hôm qua. Vì màng gái gú nên Hữu Thỉnh rất sợ ai nhìn thấy mình đầu hói. Đang nói chuyệm, ai đó bật quạt, mặt Hữu Thỉnh xanh như đít nhái, cuống quýt kêu tắt tắt…tắt quạt. Cái hồi ở Trường dậy văn Nguyễn Du. Mình vào phòng bắt gặp Hữu Thỉnh đang thay quần, thấy mình, Hữu Thỉnh cuống quýt kêu ra ra…ra mau cứ như gặp đàn bà con gái không bằng. Có ba người không bao giờ đứng đái chung với đàn ông, đó là Xuân Diệu, Trần Đăng Khoa và Hữu Thỉnh. Họ đều là những nhà thơ trứ danh cả. Mình kết luận:

– Họ đái kiểu gì thì mình cứ kiểu đó mà đái ắt là thành danh…”.

”Thông tin” với thằng em rôi,  gã kháy khó nó…

– Cũng tốt thôi…

Lần này nó không “ớ” ra nữa mà “bức xúc” với “văn hoá đểu” của ông kễnh Trung Quốc qua Trang Hạ…Và thằng em quắn quả theo cô nhà văn thì Ta sợ Tàu một phép…

Năm 2006, chính xác hơn khi Thiết Ngưng lên làm chủ tịch Hội nhà văn Trung Quốc. Hội nhà văn Việt Nam gửi hoa và điện mừng bà Thiết Ngưng làm Chủ tịch Hội nhà văn, “hội nó” đểu lắm đã lờ “hội của bác Thỉnh” đi, “nó” không thèm trả lời. “Hội của bác Thỉnh” gửi công văn mời giao lưu văn hóa, “nó” cũng không thèm trả lời. Hội nhà văn Việt Nam mở hẳn một hội thảo cho “nó” tại Hà Nội, “nó” đểu, nó chỉ gửi một công chức bàn giấy chả biết gì về văn chương sang chiếu lệ. “Hội của bác Thỉnh” gửi công văn mời tới 35 nhà văn của “nó” sang Hội nghị quảng bá Văn học Việt Nam ra thế giới. “Hội của bác Thỉnh” đặc cách lo toàn bộ chi phí tàu xe đi lại, ăn uống đủ thứ cho nó, nó càng đểu nữa, nó càng lờ đi coi như câm điếc.

Nghe thủng chuyện, người gã cứ thủng ra vì “ăn uống” có ”liên hệ” đến nhà văn Nguyễn Huy Thiệp với chữ nghĩa đâu có ngon ăn như óc chó, thảng như…

Trong Hội nhà văn có tới hơn 80% là nhà thơ, là những người chỉ dựa vào “cảm hứng” để tuỳ tiện viết ra những lời lẽ du dương phù phiếm vô nghĩa, nhìn chung là lăng nhăng. Giai thoại có một nhà thơ nói về tình cảnh thơ cho thực tế đó: “Vợ tôi nửa tỉnh nửa mơ – Hôm qua nó bảo: Dí thơ vào l…- Vợ tôi nửa dại nửa khôn – Hôm nay lại bảo: Dí l… vào thơ “. Quả thực cái danh nhà thơ nhìn chung chỉ là nhăng nhít, hữu danh vô thực, chẳng ai muốn dây vào nó: Nhà thơ đồng nghĩa với sự chập cheng, hâm hấp, quá khích, vớ vẩn, thậm chí còn lưu manh nữa.

Gã bèn hỏi đến cu ty tỉ muội:

– Vậy chứ nhà thơ có nhiều như…tủ lạnh chạy đầy đường không chú?

Giục toáy mãi nó mới cười cái hậc một cái và thằng em gã cũng đáo để lắm:

– Bác nói hay nhể! Bác biết tỏng ra đấy mà còn hỏi.

Và nó tiếp…

Thì như Nguyễn Huy Thiệp đã bàu bạu: Thực tế chẳng ai muốn dây vào nhà thơ…lên đồng. Làm thơ phải có trình độ chứ không thể tuỳ hứng. Phê bình cũng vậy, không phải cứ áo lương khăn lượt, kiểu chiếu hoa một cõi mãi được. Ăn cơm mắm ngắm về sau…sau đấy nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn đã luận giải rạch ròi: “Tác giả Tướng về hưu khi bàn về người làm nghề văn, chữ của ông thường là: sơ xuất, nhầm lẫn, sự bắt chước lố bịch, vị kỷ, hư đốn, đểu cáng, bất lương – toàn những đức tính khiến người ta ghê ghê”. Một lần khác ông nói toẹt ra: “Khoảng hơn chục năm trở lại đây Việt Nam không có những nhà văn có phong độ khí phách lớn. Đến ngay cả nỗi buồn cũng không phải là nỗi buồn lớn. Qua lĩnh vực văn học, nhìn vào danh sách hơn 1000 hội viên Hội nhà văn đều thấy đa số đều chỉ là những người già nua không có khả năng sáng tạo. Hoặc họ ở trong tình trạng điên điên khùng khùng, chập cheng, hâm hấp, quá khích, vớ vẩn…”. Với ông Vương Trí Nhàn thì nghe cũng dễ sốc nhưng chỉ cần tự hỏi “Làm sao mà người ta có thể nói được sự thật về nhân sinh trong khi sự thật về chính cái giới văn của mình thì lảng tránh?” thì sẽ thấy Nguyễn Huy Thiệp có lý.

Nhúm được nó…làm phê bình như ông họ Vương. Trộm nghĩ thấy ai đánh rắm to ở đâu là tìm đến, bởi họ hàng hang hốc nhà gã có tống táng ở mả hàm rông hồi nào đâu? Nay gặp mưa chiều gió sớm nó làm tới “phán quan”, tới “ngự sử văn đàn”. Bèn hỏi. Nó cáu um lên:

– Sao bác đần thế! Thế này nhá: Người làm nghề viết văn và trong số đó một số người trở thành nhà văn. Chuyện cứt trâu để lâu hóa bùn ấy mà, bình thường thôi. Trong số các nhà văn, có một số người trở thành nhà phê bình có…ông em bác đây. Không có chó bắt mèo ăn cứt vậy đó, chuyện không bình thường là thế đấy. Nhào! Nói chuyện với người điếc có khác!

Gã không biết làm gì là làm thinh. Được thể thằng em tung tẩy:

– Được mươi khoá trường đổi tên với mảng chữ dài ngoằng ngoẵng là “Khoa sáng tác và Lý luận phê bình văn học”. Ngoài các môn đại cương sinh viên trong khoa còn được học tập, tiếp cận các môn chuyên ngành. Phân tâm học, Văn hóa học đại cương, Tâm lý học, Lý luận phê bình văn học…thì….Thì mới…”lý luận, lý sự” như bác dậy! Bác nghe rõ chửa.

Nghe kinh thật! Gã “kinh qua” cho…qua ngày đoạn tháng:

– Phê bình văn học miền Bắc, anh thấy cũng bình thường thôi?

Cái thằng hẻo thật! Hỏi có vậy thôi mà nó nhặng xị lên:

– Bác dở hơi vừa chứ…chứ bình thường thế quái nào được! Các nhà phê bình thâm tâm đều muốn mỗi nhà văn là một “mặt bằng văn hoá”, là một con vật không cựa quậy để họ dễ thọc dao. Nhưng bất cứ ai đều có thể viết bài ca tụng Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm hoặc một cuốn tiểu thuyết được giải của Hội nhà văn với hội chứng chửi có thưởng. Không nói ra ai cũng biết, phê bình như vậy cũng có vài trăm ngàn…tiền nhuận bút. Hậu quả khâu phê bình là trung thành và tận tụy đối với chế độ. Những nhà phê bình hầu như luôn luôn đứng ở hàng đầu trong mọi danh sách được sắc phong. Đấy!

Ừ thì cũng thỏa mái thôi. Vì biết đến phê bình trong nước chỉ rặt dọa nạt, mắng mỏ, đe nẹt nhau từ miếng ăn, manh áo, từ thìa đường, quả trứng. Gã “thọc dao” vào…mặt bằng nó:

– Chú đã “chửi” ai chưa?

Nó cười khùng khục như chó hóc xương:

– Úi dào, bác cứ nói thế, bác chỉ hỏi nhăng lấy được…em chỉ phát biểu quan điểm trên cơ sở cảm nhận. Cho ăn gan giời trứng trâu em cũng chẳng dám bắc kiềng lên lưng ai mà đun, vì trong giới phê bình họ hay dùng từ “đánh”. Gần đây Trần Mạnh Hảo…đánh Nguyễn Huy Thiệp:

“…Các anh các chị có biết thằng Thiệp là thằng phản động không? Nó đã phát biểu bêu riếu cuộc chiến tranh chống Mỹ của dân tộc ta…”.

Ha! Phê bình kiểu này nhảm thật chứ chẳng chơi, hết thằng này thằng kia. Thế là gã quấy quả với nó về nền phê bình văn học miền Bắc. Nó đánh rắm đổ cho trâu:

Trong cuộc tán gẫu quanh bàn nhậu ở Hà Nội, vào dịp một nhà phê bình văn học miền Nam (Nguyễn Hưng Quốc) về thăm nhà. Nhà phê bình văn học miền Bắc hỏi: “Nghe nói hình như anh có phê bình sách của Võ Phiến?”. Nhà phê bình miền Nam gật đầu xác nhận. Nhà phê bình miền Bắc tiếp: “Tôi không hiểu tại sao anh lại mất thì giờ như vậy. Tôi thấy Võ Phiến viết xoàng lắm”. Nhà phê bình miền Nam hỏi lại: “Anh có đọc Võ Phiến nhiều không?”. Và được trả lời: “Tôi chỉ đọc vài bài viết của ông ta trên báo thôi.”. Nhà phê bình miền Nam nói: “Mới đây Võ Phiến cho in bộ sách văn học miền Nam…”. Nhà phê bình miền Bắc lên giọng, gay gắt: “Tôi thấy Võ Phiến chỉ viết linh tinh”. Nhà phê bình miền Nam ngạc nhiên: “Ủa, anh đọc rồi hả?”. Nhà phê bình miền Bắc đáp đầy tự tin: “Chưa. Tôi không có bộ sách đó’’.

Trong chuyện tán gẫu quanh bàn nhậu ở Hà Nội của thằng em ở trên, chuyện này gã cũng góp nhặt qua sách báo. Họ thường gặp nhau trong quán nhậu văn chương, là quán ba ba, thịt rắn, thịt rừng. Kém kém một chút thì bia hơi vỉa hè. Khướt thêm chút vài chén rượu đế hột mít trước mâm thịt cầy. Họ hết đứng rồi ngồi, hết đ. cha thì đ. mẹ, hết cười rang rức đến suy tư. Khi say, họ thực sự dấn thân, họ sống giữa phố phường viết văn và…làm thơ. Trong phiêu bồng ngất ngây, gã hỏi nó dạo này còn…”chè chén” với Hội nhà văn nữa chăng? Ý đồ gã là muốn khép cánh cửa văn học lại, đẩy văng những nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình vào bóng tối cho gã nhờ. Khốn khổ, trong cơn đồng thiếp, nó chầu văn hầu bóng:

– Nhào! Nhếch nhác lắm bác ơi, cần phải đổi mới. Không thể viết như cũ được nữa. Tất cả đã cũ mèm, Dương Tường khá hơn cả, song cũng tắc rồi. Trần Đăng Khoa làm thơ bằng cách vất thơ vào rổ rá, cối xay…là vớ vẩn lắm! Nguyễn Huy Thiệp cũng bí ngô bí khoai, một hồi họ đề cao hơi quá. Phạm Thị Hoài có khá hơn. Em không thích thơ Tố Hữu, chả có gì hay. Bác cứ phản biện đi, hay ở chỗ nào? Bác sắp ngoác mồm ra: “Thơ hay không phân tích, không giảng được!”. Nhưng với Trần Đăng Khoa không phải thế. Nếu hay là phân tích, lý giải được tất.

Rồi thằng em hoắng lên với nhà thơ thần đồng…

– Tố Hữu trong bài thơ Ta đi tới có câu: “Trên đường cái ung dung ta bước – Đường ta rộng thênh thang tám thước”. Trần Đăng Khoa lý giải với câu: “Đường ta rộng thênh thanh tám thước cần phải sửa lại. Bởi vì đã coi là thênh thang, làm gì có giới hạn. Nếu đã nói 8 thước, không thể gọi là thênh thang được”. Thế đấy thưa bác.

Chẳng đợi gã thế này thế kia, nó cú rằng có vọ rằng không:

– Lộng chữ với chữ nghĩa chả biết đâu mà lần, như năm 60 ông Hồ đề ra “Chữ Việt trong sáng”. Ông Phạm Văn Đồng viết một bài về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Bài ấy, theo em có thể không hay hoặc chưa đúng chỗ này chỗ khác vậy thôi. Nhưng bị “phán quan” Hoàng Ngọc Hiến phay vào mặt: “Phạm Văn Đồng viết bài ấy là thiếu văn hoá”. Rồi đến ông Hồ chê Tô Hoài viết sai chính tả! Văn hoá xung kích cứ vậy “xung đột” nhau chẳng ra làm sao cả.

Gã căng tai nghe thằng em rỉ rả…

– Về văn thì Nguyễn Khải có văn. Em có…cảm giác cứ tải ra chữ lại hỏng, không ra sao cả. Phải có mắt xanh, Nguyễn Tuân gọi là đầu mày cuối mắt, Tô Hoài thông minh, nhưng thẩm định xoàng. Ngay cả Nguyễn Tuân. Rồi bác hóng mắt ra mà xem, mươi năm nữa người ta không đọc Nguyễn Tuân nữa đâu, cũ sì rồi! Đấy.

Khỉ thật! Với tâm viên ý mã gã chữ Việt trong sáng hôm nay hay dùng từ “cảm giác” nóng, lạnh, đắng, cay để diễn đạt ”cảm nhận, cảm xúc” nghe…nhức nhối sao ấy. Bèn gãi ngứa thằng em với…văn dĩ tải đạo ra sao. Nó lại hiểu…văn là người, là…đá cá lăn dưa. Trong phiêu hốt nó phọt ra chữ nghĩa đầy cảm xúc và vặc gã như vặt thịt:

– Bác cứ nói thế, lăn tăn làm gì cho mệt, em có nói sai bác cứ vả vào mặt em. Mấy năm gần đây em trả lại thẻ hội viên, cắt đứt những giao du với nhà văn, nhà thơ, ngữ ấy em chừa ra. Nhỡ chẳng may Nguyễn Huy Thiệp lại xếp em vào trong các nhà văn “đá cá lăn dưa” thì bỏ bố! Xin lỗi bác chứ,…chứ bác có ngu thì cũng ngu một vừa hai phải thôi còn để cho người khác ngu với chứ. Nói dối phải tội, bác ngu như lợn ấy!

Gã đang ngúc ngắc với con lợn nó…ngu ở cái khổ nào? Thì thằng dép râu gục gặc…

Đa phần quần chúng lúc này thỏa mãn văn chương qua âm nhạc, phim ảnh, xòang xòang rau cải chợ, mớ xà lách hay mì ăn liền. Họ được ru ngủ bằng vào mở cửa cho miếng ăn, họ ngoảnh mặt với chuyện văn học và xa lạ với chữ nghĩa. Dường như chính sách nhà nước cũng muốn đề ra vậy, nên trong lĩnh vực văn học có không khí suy đồi, có những nhỏ to nhẽ ra phải phát huy đào tạo những nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình mới. Thì vài năm trở lại đây, có hơi hám bỏ đi trường viết văn Nguyễn Du, nhưng Nguyễn Huy Thiệp muốn giữ lại. Đấy.

Mồ cha không khóc lại khóc tổ mối, với nắng trưa mưa tối thấy trường dậy văn như miếu đền đổ nát có những chuyện…hâm hấp, vớ vẩn. Nên gã “chết kèn trống, sống dầu đèn” với nó…

– Những ông thầy dậy văn mà trường chú “chiêu hiền đãi sĩ” chả hẳn đã là những bậc “mũ cao áo dài” in dày đặc trong danh thiếp những học hàm học vị, chức vụ to tát chả dính giáng gì đến văn chương chữ nghĩa. Vì vậy như anh “tiếp thu” thì giảng viên Phạm Vĩnh Cư dứt áo ra đi. Nhà văn Nguyên Ngọc lẳng lặng thái độ: “Tôi không chơi với các anh nữa”.

Đang buồn chẳng muốn nói gọi chẳng muốn thưa, thằng em gật gù làm như đồng cảm…

– Nói chung là tốt! Ít có ai hay trường đào tạo “11 khóa chính quy”, tốt nghiệp cả tiểu đoàn có hơn 50% người trở thành hội viên Hội nhà văn. Họ bắt chước viết in hịt như nhau, mỗi nhà văn chỉ viết được 5, 6 bài, tuổi thọ văn nghiệp của họ 5, 6 năm là hết đất. Đấy.

Ha! Thế thì bỏ bu Hội nhà văn rồi! Lại nữa, từ giờ mẹo trèo qua giờ tý gã bị tra tấn chữ nghĩa hết “văn chương xung kích” nay tới “11 khóa chính quy”, chữ nghĩa gì mà…”lựu đạn” quá mạng! Đang lẫm đẫm đến đây gã thiếp đi lúc nào không hay, trong giấc mộng từ chương hồn vía gã bay vê mảnh đất trồng…”chữ” gần bến xe điện Ngã Tư Sở ở đê La Thành, sông Tô Lịch.

Gã thấy thằng em gã đang đập phá ngôi đền rêu phong mái ngói đỏ tươi bỏ vào quan tài và hì hục đào 1 m x 2 mét chôn xuống đất.

Tam bách dư niên hậu sau, mảnh đất ấy mọc toàn cỏ trứng ếch hoa đỏ…

***

Gã tháo lớp mặt giả ra. Bỏ vào ngăn kéo khoá lại. Và ngẫm ngợi bình thường sao được vì tòan gặp những nhiễu chuyện gì đâu! Mở ngăn kéo. Lôi lớp mặt thật đeo vào. Với nhiễu sự hơn nữa, về nhà cả tháng nay, cứ ngồi xuống bàn viết khi không chân ngứa ngáy như đi…dép râu. Thế là cái đâu cái tay gã ngứa ngáy. Vì vậy mới thành chuyện! Chuyện là sau đó gã loáy nhoáy ngậm vần nhả chữ. Thế đấy. Thế là gã nhả đám bã chữ cũ mèm xuống mặt giấy…

(…)

Chuyện gã có thằng em ở căn hộ cấp 4. Nó học làm văn tại trường dậy văn. Thằng này thật khá trai, 50 tuổi. Vì ăn tạp có nhiều cơ bắp. Nên gã có “cảm giác” thằng em nặng 38 kílô

Thạch trúc gia trang

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

 

Nguồn:

Đinh Hồng Nghi, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Hữu Quý,  Mã A Lềnh, Nhật Tuấn

Phạm Thị Hoài Nguyễn Quang Thụy, Vương Trí Nhàn, Nguyễn Đăng Mạnh

Cung Tích Biền, Lý Đợi, Vương Văn Quang, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Thế Hùng

Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Ngọc Bảo, Lại Nguyên Ân, Nhật Tuấn, Nguyễn Quang Lập

 

 

 

 

 

 

©T.Vấn 2018

 

 

 

Bài Mới Nhất
Search