T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không: Ngồi ở quán nghe Tây nói chuyện…

     

  Café Terrace – Tranh: Van Gogh

       Sau năm mươi năm trở lại Paris, lão không biết đi đâu…?

Ngụp lặn trong cõi người ta với năm mươi năm thấy ngắn, nhưng dàng dênh tới nửa thế kỷ lại quá dài. Chả nhẽ học thói tha nhân với quân tử hiếu cổ, lúc này đây họ đang có khuynh hướng mầy mò đi tìm mộ vua Hàm Nghi ở làng Thoniac, hoặc giả như phi cổ bất thành kim tìm tòi mộ vua Duy Tân tại nghĩa địa Passy trên đồi Trocadero.

Đủng đoảng thế nào chả biết nữa, lão muốn tìm một quán “Café terrace” để ngồi.

Vì lão muốn trở về những quán bên đường qua những người Hà Nội, người Sài Gòn của một thời một thưở trăn trở nhìn ra đường, nhìn dòng sinh mệnh nổi trôi.

Để rồi lão không biết đi đâu…?

Cuối cùng lão đang có mặt trên đường Saint Germain Des Prés, là nơi gặp gỡ của văn thi sĩ như Picasso, Jean Cocteau, Van Gogh. Ở đó có vài quán cà phê vỉa hè nổi tiếng bậc nhất Paris, nơi sinh thời Jean Paul Sartre và Simone de Beauvoir hay ngồi để viết lách. Bước vào quán Le Bonaparte, nỗi buồn chạm mặt là người bồi bàn mà Tây gọi là “Garçon” cho biết đôi tình nhân của thế kỷ đang ngồi ở quán Les Deux Magots.

Thả bộ qua Les Deux Magots. Đứng trước cửa quán, bỗng nhà thờ bên kia đường điểm ba hồi chuông báo tử, lão chợt nhớ ra J.P Sartre và de Beauvoir đã về với tha ma mộ địa tự thưở nào. Cùng một cõi đi vê với người Tây phương hôm nay, khởi nguồn từ người Đức, họ đang có đường hướng mở những quán cà phê, không phải quán bên đường mà ở…nghĩa địa để đi tìm về một cõi nhân sinh với hữu hạn và vô hạn.

Người phương Đông như lão nghĩ vậy, chả biết có đúng chăng.

Thế là sau nửa thế kỷ, sau nửa đời người thì lão, người trong cõi dương gian đã hiện hữu, hiện sinh tại quán cà phê nghĩa trang Montparnasse để tìm về nhân bản, nhân sinh với Thực thể và hư vô (1) cùng với Jean Paul Sartre.

***

Bước vào quán, quán đông nghìn nghịt những người là người, đông nhất là người Tàu, nói theo người phương Đông là đông như tổ đỉa. Với hơn một tỷ người, với một nghìn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày, thế nên người trong cõi dương gian mới có mặt ở Paris này. Nhìn quanh quất chỉ còn có một cái bàn ba chỗ ngồi và người trong cõi dương gian ngồi xuống nhìn ra ngoài trong cái tâm thái, tâm linh bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi, đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt, trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, dọi suốt trăm năm một cõi đi về.

Một lát sau “người garcon” đi tới hỏi uống gì?

Làm ra vẻ người Mỹ với hơn 200 năm lập quốc, người trong cõi dương gian búng tay một cái “tách”, kêu một tách cà phê Starbucks sủi bọt tên Latte. Có cà phê lại bắt thèm một hơi thuốc nhưng nhớ ra để quên bao thuốc ở Hotel Lutèce. Hơ! Với cái tên Lutèce, người trong cõi dương gian bỗng bật ra là tên một hòn đảo giữa sông Seine, là nơi người Tây lập quốc, từ mảnh đất Lutèce bé con con mới có Paris, có nước Pháp ngày nay. Người trong cõi dương gian co cỏm mắc mớ gì mình kêu rêu với cội nguồn của người Gaulois. Hay là lại phi cổ bất thành kim với quân tử hiếu cổ chăng?

        Trong một chiều mây xám âm u, u ẩn, ngập u mê ám chướng, người trong cõi dương gian hóng mắt ra ngoài ngắm những mộ bia. Đâu đây lẩn khuất nấm mồ của Jean Paul Sartre và Simone de Beauvoir trước mảng tường gạch nâu vàng.

   Jean Paul Sartre

       1905 – 1980

Simone De Beauvoir

        !903 – 1986

       Nấm mồ đang “hiện hữu” ở mảng tường ấy! Ấy vậy mà trước khi mất, J.P. Sartre viết hai tác phẩm “Bức tường” và “Chết không đất chôn” (2), người trong cõi dương gian chịu chết nghĩ không ra. Qua hiện hữu và hư vô, người trong cõi dương gian chìm đắm trong cái tâm linh, tâm thái tận cùng của Lão Trang, triết lý, triết nhân cho lắm với nhân sinh cùng một dòng sinh mệnh, Đông và Tây cũng gặp nhau ở…sinh ký tử quy.

Đang đắm chìm cùng…sống gửi thác về trong u u minh minh, chợt từ cuối nghĩa địa lóe lên hai đóm lửa như hai con đom đóm bay lầng quầng về phía quán xá…Người trong cõi dương gian ve ve mắt nhìn kỹ hơn và chả lấy đó làm lạ lẫm cho mấy. Vì chỉ là chất hữu cơ từ xương xẩu mục nát con người ta bốc hơi thành lân tinh lập lòe như hai cái bóng trong sương khói. Hơ! Giữa ban ngày ban mặt, chứ đâu là đêm khuya để hư cấu, hoang tưởng này kia, kia nọ. Hai cái bóng sương khói kia thoạt đầu chỉ nhỏ như con đom đóm đực. Rồi lớn dần bằng viên sỏi, to dần bằng hòn đá cuội. Chưa kịp bằng núi Tu Di, mới chỉ bằng hòn đá tảng đập lúa, lớn như bóng mây giăng giăng đầu núi thì…Thì…hai bóng mây thảnh thơi chui tọt xuyên xuốt qua dàn cửa kính vào quán.

Người trong cõi dương gian sợ vãi đái ra quần, muốn nhẩy nhổm lên vì hay là…ma.

Tinh cây đa, ma cây gạo…hay là Jean Paul Sartre từ ma hóa thành tinh cũng nên. Dám lắm ạ? Nhưng người trong cõi dương gian lại u ơ ra là ắt hẳn nghĩa địa phải có…hàng rào là thế. Thế đấy! Thế nhưng J.P. Sartre là kẻ vô thần, ma đưa lối quỷ dẫn đường kẻ vô thần từ đâu hiện về u mê ám chướng người trong cõi dương gian, vì với J.P. Sartre ma quỷ là…hiện tượng học nên cũng khó chơi lắm. Ngoái cổ tìm “người garcon” hỏi cho ra nhẽ, người tỉnh như ruồi và nói: “Oui”. Nhưng mắt lóng ngóng về phía hai cái ghế trống như ngóng đợi một người đi xa, xa lắm trở về nơi chốn cũ.

Quay lại, người trong cõi dương gian không thấy ma mà vẫn chỉ là hai cái bóng.

Hai bóng mờ nhân ảnh vừa ngồi lửng lơ trên ghế. Chưa kịp hoàn hồn, hai cái bóng bỗng toát ra ánh sáng mầu xanh trắng mờ nhân ảo như trong mấy chuyện sau khi chết, con người ta sẽ đi về đâu. Linh hồn họ cũng lóe sáng một mầu xanh trắng rồi bay vào cái ống sâu hun hút vào cõi vô cùng. Đang sợ mất vía, người trong cõi dương gian bèn bấu tay mình một cái rõ đau như thầy pháp bắt quyết để hồn vía trở về với thực tại. Vì thực tại không là chuyện sau khi chết, con người ta sẽ đi về đâu?

Là chuyện sau khi sống lại, con người ta là người hay…ma?!.

Bỗng hai cái bóng, như ảo ảnh, không ai bảo ai, rùng mình nhùng nhằng lay động, hiện dần… nhùng nhằng hiện dần…Một lần nữa, người trong cõi dương gian ngoái cổ lại với mắt chấm hỏi để…hỏi “người garcon” chuyện gì lạ quá thể?! Người chỉ tay về phía hai cái ghế và nói một tiếng: “Voilà”. Người trong cõi dương gian vội quay lại, hai cái bóng mờ nhân ảo không là ảo nữa mà là hiện thực…hiện rõ dần…

Hai cái bóng mờ nhân ảnh hiện dần, hiện ra là…người ta!

Rõ như đêm giữa ban ngày là hai người Tây phương: Một ông Tây già tay cầm khúc bánh mì baguette. Một thằng Tây con vai khoác ba lô. Nhưng lạ một nhẽ, cả hai lất phất có khuôn mặt phương Đông, nhưng mắt không phải mắt một mí nên người trong cõi dương gian chẫu chuộc không biết họ là giống giuộc gì? Ha! Với chính danh định phận của người Khổng Khâu ở bên Tàu thấy cũng nên nhập gia vấn húy lắm chứ.

Nhưng thấy đây là quán cà phê ở nghĩa địa chứ chả phải là…nhà mồ nên thôi.

Vừa lúc “người garcon” đi tới, người trong cõi dương gian ra mẽ đã ở Paris lâu năm, bèn búng tay một cái “tách”, kêu một tách café au lait. “Người garcon” nói: “Bonjour” với khách dường như là người muôn năm cũ của quán thì phải. “Ông Tây baguette” kêu một ly trà Lipton, “Thằng Tây ba lô” gọi café au lait truyền thống. Lát sau “người garcon” mang trà và cà phê ra. Thằng Tây ba lô nói: “Merci”, người trong cõi dương gian nhẩm chừng là người Tây. Còn ông Tây baguette nói: “Thanks”, nên đoán chừng là người Ăng-lê vì uống trà Lipton với sữa dê. Để ngầm tự giới thiệu mình không là Tàu, là Nhật, mà thuyền nhân của nước Mỹ có 200 năm lập quốc, người trong cõi dương gian bỏ cà phê sữa, gọi cái Starbucks tên La Tte. Lát sau người mang cà phê Mỹ ra. Nom nhòm ly mình không là cà phê mà là…trà. Vì La Tte, tên một loại cà phê của Ý, nên phát âm thành…“tea” chăng! Và người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ làm như không hay biết người trong cõi dương gian đang hiện diện trong chốn nhân gian này, ông Tây baguette mượn miếng trầu là đầu câu chuyện bằng vào khụng khiệng với thằng Tây ba lô:

– “Toa” có đọc sử ký, địa chí Việt không?

Người trong cõi dương gian ngớ ra thấy rõ vì ông Tây baguette nói tiếng Việt. Vì giọng ộ ệ, nên nhẩm chừng ông ta không là người của sông nước bến bãi cũng là dân Kẻ Chợ của Thăng Long nghìn năm văn vật. Ấy là chưa kể ông này còn biết sử ký, địa lý của người mình nữa, người trong cõi dương gian vặn óc nghĩ không ra? Trong khi ấy thằng Tây ba lô như không nghe tiếng Việt giọng mũi của ông Tây baguette, vẫn cặm cụi tìm cái gì đó trong cái “ba-lô”. Người trong cõi dương gian chắc mẩm thằng Tây ba lô này “bụi đời” ở khu phố Tây ở đường Phạm Ngũ Lão chứ còn gì nữa.

    

Phố Tây Ba Lô đường Phạm Ngũ Lão

      Thấy vậy, chả nhẽ không biết làm gì là làm thinh, ông Tây baguette bâng quơ:

– Theo “moa”, với cả mấy nghìn năm trước người Việt lấy gì để căn cứ nói rằng họ là một trong nhóm Bách Việt và dẫn chứng bằng hình dáng, tính tình, phong tục và văn hóa để ấn định nguồn gốc và dòng giống ẩy. Như xâm mình và ăn trầu chẳng hạn.

Úi chà gay đây! Khi không ngồi ở quán nghe Tây nói chuyện…Ta?

Vì tiếp đến, ông Tây baguette ngỏa nguê:

– Nhưng xâm mình và ăn trầu thì bên Trung Hoa cũng có vậy. Ấy là chưa kể ở Úc Châu và Nam Đảo cũng có sắc dân ăn trầu, xâm mình.

Nghĩ cũng hay, khi không hai ông Tây đội mồ sống dậy nói chuyện nguồn gốc tộc Việt. Mà cứ theo thiển ý người trong cõi dương gian ông Tây baguette lạng quạng nói đúng chứ chẳng chơi. Chả là người trong cõi dương gian ăn mày chữ nghĩa qua một sử gia Việt thì không lẽ cứ ăn trầu, xâm mình là người Việt? Theo sử gia này chỉ vì người Việt ta vọng ngoại, dựa vào sử Tàu để viết sử mình. Bởi nhẽ ấy, bấy lâu nay vẵn có người cứ muốn bắt quàng làm “con cháu” họ. Nói cho ngay, người Việt mình chả có họ hàng hang hốc gì với người Tàu cả. Đang lạc đường vào lịch sử, vừa lúc thằng Tây ba lô tìm ra cái nó muốn…tìm và ngẩng đầu lên. Ông Tây baguette lại ồ ề với nó:

– “Toa” muốn biết một trong những cái nhất của người Việt không?

Thằng Tây ba lô óc ách:

– Là sao? Thưa quan bác.

Người trong cõi dương gian nghệt ra trông thấy vì…thấy thằng Tây ba lô mũi tẹt nói giọng Bắc kỳ đặc, lại lai giọng dân bến cảng Marsheille. Chả nhẽ nó là con lai?

Đang lõng bõng như “soup bouillabaisse” đến đây, ông Tây baguette trả lời nó:

– Người Việt đầu tiên trên thế giới lên mặt trăng và hiện còn ở đó là chú Cuội.

Cớ sự này, người trong cõi dương gian chả lấy đó làm lạ lẫm cho lắm. Là vì cụ Nguyễn Khuyến đã có câu thơ: “Đầu đường ngang có một chỗ lội, có miếu ông Cuội cao vòi vọi?. Và tiếp là: “Cho nên làng ấy sinh ra người, sinh ra rặt những thằng nói dối!”. Thế nên thằng Cuội nói dối là chuyện trong văn sách, làm gì mà ông Tây baguette hoắng lên vậy! Trong khi thằng Tây ba lô nhởn nha móc trong túi ra…một văn bản.

Nhân lúc nó đang lâm nhẩm tụng, người trong cõi dương gian nhón một điếu thuốc Gaulois của nó và mồi lửa. Ngốn xong văn bài…Hệt như ông Tây baguette, như người trăm năm cũ, hồn vía để đâu đâu, làm như người trong cõi dương gian không có mặt trong chốn ta bà này. Nó nhướng mắt dục dặc với ông Tây baguette:

– Quan bác đâu có hay ngoài nói dối như cuội! Người Việt còn tham lam nữa!

Bậy thật! Hay là vì mình vừa “cầm nhầm” điếu thuốc mà nó vơ đũa cả nắm là người Việt tham lam? Thế nhưng không, như không có chuyện gì, nó nhìn “bài nói” và…nói:

– Theo một tác giả Việt ở Đông Âu kể lại chuyện như thế này đây…

“…Tôi có điều kiện đi công tác nước ngoài, thấy nước nào họ cũng có những tác giả và tác phẩm nổi tiếng nói lên những thói hư tính xấu của dân tộc mình. Như Người Mỹ ưu tư, người Mỹ trầm lặng, người Nhật xấu xí, Người Trung Quốc xấu xí. Trong khi người Việt chỉ thích tự khen mình: Người Việt cao quí, Người Việt đáng yêu …”.

Úi chà gay đây! Tự dưng ngồi ở quán nghe Tây nói chuyện Tàu với…Ta.

Ừ thì hãy liệu oản đọc kinh vì vừa nghe đến “Người Trung Quốc xấu xí”, người trong cõi dương gian nghĩ ngay đến tác giả Bá Dương viết Người Trung Quốc xấu xí (Chõu lòu de Zhong Guó rén) và người dịch là Nguyễn Hồi Thủ. Nhưng khốn khổ cho người dịch là khi vật lộn với chữ nghĩa, vì hồn ma nát thần tính, ông ngờ ngợ tác giả Bá Dương nói về người Việt chứ chẳng phải người Tàu. Chính dịch giả viết trong “Lời người dịch” trong quyển sách của mình là quá nhiều bóng dáng người mình trong đó. Cũng vì vậy ông Nguyễn Hồi Thủ tới Paris quận XIII không dám vào…tiệm phở. Cũng như tác giả Bá Dương ông cho biết lý do 10 năm ngồi tù : ‘’Vì tôi đã nói lên vài sự thật ‘’.

Thêm một “cái tôi’’ nữa với dịch giả họ Nguyễn: “Bản thân tôi trước kia mỗi lần đọc phải những quyển sách kiểu “Người Việt cao quí”, “Người Việt đáng yêu” chỉ toàn thấy ca tụng đất nước rừng vàng biển bạc, con người cần cù, thông minh, cao cả, đẹp đẽ’’.

Chuyện chưa đâu vào đâu, như có thần giao cách cảm, ông Tây baguette trở lại chuyện “hỏi” và ‘’đáp” với thằng Tây ba lô. Ông ngúych ngoác:

– “Toa” muốn biết…thêm một trong những cái nhất của người Việt không?.

Không đợi thằng thằng Tây ba lô…”đáp”. Tỉnh như Ăng-lê, ông Tây baguette xin lỗi đi vào W.C. nhưng cũng không quên quay lại nhấm nhẳng:

– Việt Nam là nước giàu nhất hành tinh vì có “rừng vàng, biển bạc”.

***

Đợi ông Tây baguette ngồi xuống. Mồi điếu thuốc, thằng Tây ba lô bương trải tiếp:

“…Sau vài năm, trong một cuộc nói chuyện bạn bè thân, tôi đã hỏi một người Anh một câu và yêu cầu trả lời trung thực: “Nếu phải lột tả người Việt, mày sẽ nói thế nào?”
Biết ý tôi, không ngần ngại, anh bạn người Anh nói luôn: “Câu hỏi này người nước ngoài chúng tao ở Việt Nam luôn thảo luận với nhau khi không có người Việt, và đều có câu trả lời giống nhau, nhưng không bao giờ dám nói ra với người Việt. Mày là người đầu tiên hỏi tao câu này không với ý định muốn nghe một lời khen, nên tao sẽ nói thật,

đó là: “Greedy Vietnamese” – là: “Người Việt tham lam!”.
Dù đã chuẩn bị cho “tình huống xấu nhất” với đầu óc cởi mở nhất, tôi đã choáng váng và cứng họng một lúc không nói được gì. Mãi sau, tôi mới thốt lên đau đớn vì biết bạn mình không nói dối: “Greedy? Why?” – “Tham lam? Tại sao?”.
Bạn tôi cười: “Người Việt chúng mày cái gì cũng muốn cho được, không nhường cái gì cho ai bao giờ: Hợp đồng giá phải rẻ nhất, hàng phải tốt nhất, giao hàng phải nhanh nhất. Nhưng thanh toán thì chậm nhất, và …hoa hồng (hối lộ) phải khủng nhất!”.

Thằng Tây ba lô nói gì thì nói, người trong cõi dương gian cứ lụng bụng với Nguyễn Hồi Thủ trong “Lời người dịch” là quá nhiều bóng dáng người mình trong đó. Những nhẽ ấy, Bá Dương tiên sinh viết người Trung Quốc có 4 khuyết điểm: “Thứ nhất dân Trung Quốc không còn lòng tự trọng, cái tự trọng còn lại chẳng qua cũng chỉ là cái tinh thần tự dối mình như A Q trong truyện của Lỗ Tấn. Thứ hai là 4000 năm chiến tranh liên miên chỉ vì bần cùng, giết chóc, đố kỵ một cách lâu dài thành ra lòng dạ người Trung Quốc hẹp hòi. Thứ ba là chế độ khoa cử, quan trường, tạo ra một tầng lớp quan liêu chỉ tận tâm, tận lực với kẻ cất nhắc họ lên làm quan. Thứ tư vì tinh thần Nho giáo bảo thủ khiến người Trung Quốc mất hết sức sáng tạo, mất tập quán tự tìm hiểu’’

Lúc này ông Tây baguette mới khủng khẳng chuyện kể của thằng Tây ba lô:

– Ấy là “toa” theo tác giả Việt viết về tính tham lam của người Việt. Còn “moa” đọc được bài viết của người Nhật tên Tomita Kenji ở Đại học Ngoại ngữ Osaka, khi giới thiệu về người Việt đã có một nhận định khá độc đáo. Ông cho rằng vũ khí lợi hại nhất của người Việt là cái miệng. Với cái miệng, người Việt có một lối ăn nói riêng. Ông cho rằng phong cách ăn nói của người Việt đôi khi còn mang tính dân tộc hơn cả ngôn ngữ.

Lạ thật! Rất thật là người trong cõi dương gian không hiểu “người Việt đôi khi còn mang tính dân tộc hơn cả ngôn ngữ qua cái miệng” là…nghĩa lý gì? Mà chỉ biết người Việt đôi khi nói rắn trong lỗ cũng phải chui ra: Thế nhưng rắn đâu có…tai!

Đang trần ai khoai củ đến tao đoạn này, thằng Tây ba lô bương bả tiếp:
“…Nghe thằng bạn người Anh nói: “Bọn mày luôn ép người khác khen mình!”. Vì vậy lần khác, tôi đã cùng nó uống bia trong câu lạc bộ có người Singapore, Malaysia, Nhật, Anh, Mỹ, Pháp do các Amcham, Eurocham tổ chức. Tôi dũng cảm tiếp tục hỏi nó: “Tại sao mày nói người Việt rất tham lam, cái gì cũng muốn, và gian, cái gì cũng khôn lỏi hơn người”. Hy vọng lần này nó uống bia thì sẽ được nghe nó khen. Câu trả lời là: “Tricky!”, “Tricky Vietnamese!” – “Gian! Người Việt hay gian!”. Tôi hét lên: “Không thể nào! Mày không trêu tao đấy chứ?!”. Bạn tôi trả lời: “Mày muốn tao trung thực mà?”
“Vậy tại sao lại là gian?” tôi cố gắng chịu đựng. “Vì bọn mày không bao giờ nói thật. Chúng mày luôn nghĩ rằng mình khôn hơn người…”. Tôi điếng người, và cố uống tiếp vại bia tự nhiên đắng ngắt. Từ đó tôi ghét uống bia. Nó nhắc tôi buổi nói chuyện với phát hiện kinh hoàng trên. “Từ đó trong tôi” “tắt ngấm” nắng hạ… là người Việt cao quý!…

Và tôi tự hỏi đặc điểm bản chất của người Việt là gì? Nó là cái văn hóa gì?…”

Cái văn hóa gì ư? Ừ thì như chuyện người trong cõi dương gian đã góp nhặt được:

“…Khi hắn vừa tốt nghiệp cử nhân văn khoa thì miền Nam thay đổi chế độ, hắn mở một quán cà phê nhỏ sống qua ngày. Thì giờ rảnh rỗi hắn nghiên cứu về một môn học mà hắn gọi là môn “ngôn sử”. Hắn nói ngôn sử tiếng Pháp philologie, tôi chẳng hiểu gì cả. Hắn giải thích đó là môn học nghiên cứu lịch sử, cấu trúc và cách tạo thành của ngôn ngữ. Tôi vẫn mù tịt. Hắn bảo tôi :
– Bôn ba không qua thời vận. Mày xông xáo như thế mà cuối cùng lại chẳng ra gì so với tao. Chính mầy hơi bị nhỏ đấy. Chúng nó ăn hối lộ và buôn lậu, nhiều tiền bẩn quá phải mua nhà đất để tẩy, sau khi lịch sự mất vài trăm cây.
– Lịch sự ?
– À, đó là một tiếng mới – hắn cười to.
– Bây giờ người ta không nói là đút lót hay đưa hối lộ nữa, xưa rồi Diễm ơi ! Bây giờ người ta nói là “lịch sự”. Lịch sự trở thành một ngôn ngữ. Ngôn ngữ trở thành văn hóa…

– Văn hóa ?
– À, đó là văn hóa lịch sự…”

Từ nãy đến giờ, nghe ông Tây baguette cứ “toa toa moa moa” như đấm vào ta, nên người trong cõi dương gian cũng muốn…ngồi lên đầu toa ị đồng một bãi bằng vạn sự quận công. Bằng vào chuyện đầu đường cuối ngõ của một nhà văn gốc Việt ở Úc:

“…Hầu như sách vở tiếng Việt đều nhấn mạnh: người Việt Nam có tinh thần đoàn kết. Trong giá trị truyền thống của Việt Nam, nước bao giờ cũng đứng trên làng; làng bao giờ cũng đứng trên gia đình, gia đình bao giờ cũng đứng trên cá nhân. Nhưng nhìn vào đời sống hàng ngày, chúng ta sẽ thấy khác hẳn. Ở Việt Nam, bất cứ nơi nào cần phải sắp hàng cũng có vô số người chen lấn, không cần biết người khác chờ đợi bao lâu cả. Đi ngoài đường, có vô số người vất rác xuống đường, mặc kệ vệ sinh chung, nghĩa là mặc kệ người khác. Chính bản chất ích kỷ đã đẻ ra sự chia rẽ…”.

Và sau đây là truyện của một nhà văn ở Sài Gòn, cũng như bằng vào những chuyện quán xá đâu đó, nhưng không thuộc dạng nhìn ra đường, nhìn dòng sinh mệnh nổi trôi:

“…Suốt buổi sáng chúng tôi bát phố Hà Nội. Trước đây, tôi nghĩ Sài Gòn nhiều xe máy và chấp hành luật giao thông của người dân chắc kém nhất Việt Nam. Nay tôi thấy tôi nhầm, người Hà Nội chạy xe láo kinh khủng, không có luật lệ gì hết. Bác xe ôm đưa chúng tôi tới quán phở này vì nó vắng, anh bạn tôi, theo thói quen, nói rất dõng dạc: “Cho xin chén giá chụng đi”. Ông chủ quán quay lại nhìn chúng tôi như nhìn người ngoài hành tinh, rồi bảo: “Địt mẹ! Giá chụng hả? Vào Sà Ghềnh mà đớp”.
Chiều hôm đó, nghe nói bia hơi Hà Nội ngon lắm, chúng tôi gọi uống thử, thấy nhạt và chua thật. Trong quán, có một anh vừa uống bia xong, anh trả tiền, rồi càu nhàu: “Bia với bọt nhạt đéo chịu được, nhạt như nước nồn, chua noen noét, nàm mẹ nó be rượu cho xong.” Chị chủ quán bình thản: “Như lước lồn thì mới nghìn rưỡi, còn muốn không như lước lồn thì những ba nghìn rưỡi cơ. Đéo mẹ, nghe sốt cả ruột.”.

Trước kia, chúng tôi nghe nói người Hà Nội họ nền nếp lắm, nói năng phải thưa gửi đàng hoàng. Nhưng cả chuyến đi chúng tôi không nghe thấy hai chữ: Cám ơn….”

Với nhăm chuyện trên, người trong cõi dương gian muốn ‘’liên hệ’’ tới dịch giả Nguyễn Hồi Thủ vì ông đã nhận thấy là quá nhiều bóng dáng người mình trong Người Trung Quốc xấu xí. Qua Bá Dương tiên sinh đã ‘’nói lên vài sự thật‘’ bằng vào đã chê dân Tàu trong chuyện tiếp xúc, giao tế, không trọng khách hàng, thiếu lịch sự, không biết nói cám ơn, xin lỗi, không biết xếp hàng trật tự. Lại vô (kỷ) luật, vì không biết hay không chịu học hỏi, không tự trọng, bất chấp hoặc xem như mình nằm trên luật pháp.

Chuyện này xọ qua chuyện kia, người trong cõi dương gian lại nhớ ra có một tác giả qua phần “Tựa” có câu đầy khinh thế ngạo mạn: Cô vọng ngôn chi, và cũng được chính tác giả chuyển ngữ là: Hình như lời người viết nói chuyện với…ma. Nên người trong cõi dương gian đành ngồi đồng hóa Bụt, vì…người không nói chuyện với…ma.

Ở tinh gặp ma ở quỷ gặp quái, thằng quái Tây ba lô như đồng cảm với người trong cõi dương gian và…cô vọng ngôn chi với ông Tây baguette như thế này đây:

– Để em kể thêm cho quan bác nghe chuyện này nhá…

“…Ngày đầu năm đi ra phố Bolsa uống cà phê, gặp người nào nhìn tôi cũng cười cười… Hỏi đầu năm có chuyện gì vui vậy, họ lại cười và nói: “Cua Mỹ và cua Việt”! Thì ra nhiều người đã đọc bài “Vì bản chất dân tộc Việt?” của tôi, trong đó tôi có kể lại chuyện “Người Việt xấu xa’” của Dan Huynh nói về bản chất người Việt…Câu chuyện do Dan Huynh kể đại khái như sau: Có hai người đi bắt cua, họ bỏ cua Việt và cua Mỹ vào hai thùng khác nhau. Một người bảo người kia chỉ cần đậy nắp thùng cua Mỹ, không cần đậy nắp thùng cua Việt. Được hỏi tại sao, người này giải thích: Cua Mỹ khác cua Việt vì nó biết cách nằm chồng lên nhau, cho các con khác bò lên người để ra khỏi miệng thùng, còn cua Việt Nam thì con nào vừa định ngoi lên đã có con bên cạnh níu chân kéo xuống nên không bao giờ lên đến miệng thùng, khỏi cần đậy nắp!…”

Thằng Tây ba lô ngỏa nguê xong, nó lại lực đực tiếp:

– Quan bác nghĩ sao một câu hỏi được đặt ra là cùng những cơ hội giống nhau, tại sao người Trung Hoa ở Đài Loan, Hồng Kông, Singapore vươn lên được, còn người Việt Nam thì không? Phải chăng vì “bản chất dân tộc?”, thưa quan bác.

Ông Tây baguette bèn bậm bạch:

– “Toa” hỏi cho có chuyện để nói chuyện ấy thôi, chuyện là nước Việt bị Pháp đô hộ cả100 năm, tiếp thu nền học vấn mới của phương Tây, nhưng họ vẫn giữ lại bản chất của nền văn hóa Trung Hoa. Nhiều hủ tục trong quan, hôn, tang, tế 49 ngày của Trang Tử, 100 ngày của Khổng Tử mà người Trung Hoa đã bỏ đi. Vậy mà người Việt vẫn cố giữ lại. Thời đại Bắc thuộc dai dẳng cả 1000 năm, dân tình thế tục nhiễm cái văn hóa, văn minh của Trung Hoa. Cái ảnh hưởng ấy lâu ngày đã trở thành cái quốc hồn, quốc túy của họ. Trong khi người Việt nghe người Trung Hoa dậy khôn qua sách vở với quan trường thì người Trung Hoa lại thích buôn bán, khi ra hải ngoại họ vươn lên khá nhanh nhờ: cần cù, việc gì cũng làm. Và: tiết kiệm, không sống khoe khoang hay xa hoa.

Nghe ông Tây baguette luận về quan, hôn, tang, tế nhưng lại quên tiệt câu hành ngôn hành tỏi: “Không lề mề không là ngươi Mễ – Không đi trễ không là người Việt”. Người trong cõi dương gian lại được thể lây lất với Bá Dương tiên sinh:

‘’…Hôn lễ không ra hôn lễ mà biến thành một loại phường chèo. Mọi người đến không phải để chúc mừng đám cưới, mà để tìm gặp bạn bè, trao đổi xã giao với những người sống trong cùng một thành phố mà hai, ba bốn năm rồi chưa gặp mặt nhau tụ tập hàn huyên, thăm hỏi tin tức, bàn luận thời cuộc, ngay cả nói xấu người này, người nọ.

Cũng vậy, tang lễ trở thành một bản sao của ‘’đám cưới văn minh”, ngay ở hội quán quàn xác chết hiển nhiên thành chỗ “xa nhà gặp người quen” thì nét mặt phải tươi cười rạng rỡ, ăn nói ồn ào như đám cưới’’.

Từ Tàu sang Ta, thằng Tây ba lô buông tuồng:

– Quan bác dậy sao em nghe vậy. Nhưng theo Viện nghiên cứu xã hội học Hoa Kỳ đã nói lên một số đặc tính căn bản của người Việt là mượn tiếng người, chữ người mà học thì xuất sắc. Nhưng làm thì không có gì đặc sắc, chỉ học lóm những việc nhỏ mọn. Một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 2 người làm thì kém, 3 người làm thì…hỏng việc. Vì quan bác là người Hòa Lan, nên em xin tạm dịch như sau: 1 person can complete a task excellently; 2 people do it poorly, and 3 people make a mess of it.

Làm như có trùng hợp thật! Người trong cõi dương gian lẫm đẫm rằng chuyện này dịch giả Nguyễn Hồi Thủ cũng đã thấy nằm trong Người Trung Quốc xấu xí: ‘’Nếu ba người người Trung Quốc hợp lại với nhau, ba con rồng này lại biến thành một con heo, một con giòi, hoặc thậm chí không bằng một con giòi nữa. Bởi vì dân tộc Trung Quốc là dân tộc…’’chia rẽ’’ nên hay đấm đá nhau. Đang ngẫn ngẫn vậy, vậy mà thằng Tây ba lô này nói phải củ cải cũng phải nghe. Vì vừa trộm nghe lóm ra ông Tây baguette là người Hòa Lan chứ không phải là người Ăng-lê mặc dù ông ta uống trà Lipton với sữa.

Đang “thì, mà, là” thế đấy, bỗng thằng Tây ba lô nói xuôi nói ngược…

– Dạ thưa quan bác, Viện nghiên cứu xã hội học Hoa Kỳ cho biết thêm la người Việt cần cù lao động nhưng đễ thỏa mãn và hay dấu nghề. Có tiết kiệm, nhưng nhiều khi hoang phí vì những việc vô nghĩa vì sĩ diện hay muốn phô trương. Họ cởi mở và hiếu khách nhưng sự hiếu khách của họ không kéo dài. Và cũng giống như người Trung Hoa, họ có tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau. Nhưng chỉ trong những tình huống khó khăn và nghèo đói, còn trong điều kiện tốt hơn, đặc tính này hiếm khi có.

Trống đánh xuôi kèn thổi ngược thật…Chuyện người Tàu hay… ‘’đấm đá’’ nhau được Bá Dương tiên sinh bộc bạch như dưới đây:

‘’….Ngay cả đối với những người Hoa sống tại Mỹ cũng vậy, chia rẽ và đầy ký thị, nào cánh tả, cánh hữu, trung lập, độc lập, thiên tả trung, trung thiên hữu, hữu thiên trung, vân vân và vân vân, chẳng biết đường nào mà mò. Người này đối với kẻ nọ đều mang mối cừu thù như nó giết bố mình. Thật không hiểu là thứ dân tộc gì?…‘’.

Ở đâu cũng vậy, hóa ra chuyện người Tàu có tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau qua bang, hội chỉ có trong…Chợ Lớn. Qua chuyện người Việt sống tại Mỹ với kỳ thị, người trong cõi dương gian cho là chuyện nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục nên chả đến nỗi nào: Vì rằng người Việt ta…kỳ thị theo người Mỹ, nếu có hơn cũng tốt thôi, có chết thằng Tây đen nào đâu. Ấy là chuyện kỳ thị mầu da ở ngoài nước, ở trong nước có từ thời tám hoảnh nào rồi. Thảng như câu nói dân gian: “Quảng Ngãi hay co, Quảng Nam hay cãi, Thừa Thiên ăn hết” đến: “Bắc kỳ ăn cá rô cây, ăn phải lựu đạn chết cha Bắc kỳ”. Ngắn gọn tất cả chỉ trong một chữ nhất tự thiên kim là…“ăn”.

Còn vấn nạn chia rẽ là cái tội tổ tông cũng có từ thời lập quốc đến giờ…Chưa kịp càm nhàm thêm vì thấy ông Tây baguette vừa đứng vừa…uống trà chứ không đứng dậy để đi vào W.C. Ha! Ngu lâu đần dai cách mấy người trong cõi dương gian đốn ngộ ra rằng mấy người Tây đầy “dân tộc tính” với “tập quán” là đứng thì trả tiền ít hơn ngồi…ghế. Ngồi xuống rồi, ông Tây baguette lại “hỏi” và “đáp” với  thằng Tây ba lô:

– Người Việt có nhiều cái nhất lắm “toa”.

Lần này, thằng Tây ba lô không ngoảnh mặt làm lơ nữa:

– Là sao? Thưa quan bác.

Được thể, ông Tây baguette ngay ngớn:

– Vụ ly dị lớn nhất và đầu tiên trong lịch sử người Việt là Lạc Long Quân và Âu Cơ. Sau đó 50 người con theo cha lên rừng, 50 người con theo mẹ xuống biển.

Thì như đã bảo ông Tây baguette làm như đi guốc trong bụng người trong cõi dương gian vì học đòi được chia rẽ là…cái tội tổ tông có từ thời lập quốc: “50 người con theo cha lên rừng”, hiểu là người miền núi, tức người Mường mà tiếng Việt hôm nay gọi là…người dân tộc. Còn “50 người con theo mẹ xuống biển” vì không phải…người dân tộc nên được gọi là người kinh. Vì cơ ngơi thỗ quán khác nhau, tiếng nói khác nhau nên không hiểu nhau, từ đó có những chia rẽ. Nào có khác gì Hội chứng Babylone của người phương Tây, theo thánh kinh: Từ thưở khai thiên lập địa, cả nhân loại nói một thứ tiếng và vì nói xấu Thượng đế nên nên Ngài bắt mỗi dân tộc nói một thứ tiếng. Sau này vì ngôn ngữ bất đồng mới có chiến tranh, có tới 8 cuộc chiến “Thập tự quân” từ thế kỷ XI tới thế kỷ XIII giữa phương Tây và phương Đông và ngừng lại ở Địa Trung Hải.

Đột dưng cái máy đĩa thổ tả hiệu Béka của quán cà phê nghĩa trang Montparnasse bật lên câu hát: Một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày….

***

Xuôi dòng lịch sử, người trong cõi dương gian ngược xuôi với Bá Dương tiên sinh:

‘’…Người Trung Quốc có tâm địa hẹp hòi, đưa đến với một đằng tuyệt đối tự ty, một đằng tuyệt đối tự kiêu. Lúc tự ty thành ra tôi tớ, nghĩ mình không bằng đống phân chó. Lúc tự kiêu là ông chủ, xem mọi người đều là cứt chó hết . Lại ưa làm quan, khi phán xét, suy luận, không dùng lý trí mà nặng về cảm tính, từ thời phong kiến hủ Nho…’’.

Lễnh đễnh với tự ty, tự kiêu đưa đẩy người trong cõi dương gian với Keith Weller Taylor, ông là giáo sư giảng dạy môn lịch sử Việt Nam tại đại học Cornell, Hoa Kỳ và đã ở Việt Nam 5 năm để nghiên sử Việt. Ông luận chứng trong sách sử Việt của ông:

“…Quan Lang bao gồm Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Lợi… Quan Lang là tước hiệu của người lãnh đạo ở vùng núi được gọi là đất của người Mường. Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Lê Lợi là người Mường. Nhiều sử gia Việt biết điều ấy qua sử phẩm, như Lý Bí, Ngô Quyền, nhà Trần, nhà Hồ, sử liệu các quan nha như Lý Thường Kiệt, Phan Thanh Giản, Lê Văn Duyệt, Trịnh Hoài Đức là người gốc Tàu…”.

Cứ theo ngu ý của người trong cõi dương gian phải chăng ý tại ngôn ngoại của Keith Weller Taylor qua sử phẩm, sử liệu: Từ tiềm thức gốc Mường nên người Việt tự ty? Trong tâm thức của vua quan ta tự kiêu? Nhẽ này người trong cõi dương gian học được qua một nhà ngôn ngữ học: Tiếng nói của người Việt cổ xưa xưng “tôi”, tiếp là “tôi tớ”, mà “tớ” đây là tiếng Mường. Tôi, tớ đều là “tôi”, là …tôi tớ của “thiên triều”. Khác gì Người Trung Quốc xấu xí: Lúc tự ty thì thành ra tôi tớ. Vua quan ta từ Lý Bí tới nhà Hồ, từ Lý Thường Kiệt đến Trịnh Hoài Đức là hậu duệ của “thiên tử” nên cũng là con trời? Cớ sự này người trong cõi dương gian chỉ ăn mày chữ nghĩa thế thôi.

Thế nhưng đào sâu chôn chặt qua thời hậu hiện đại, người Việt trong nước gì cũng tự cho mình là nhất thế giới, ra đến nước ngoài giao tiếp với người ngoại quốc lại kính nhi viễn chi. Trong tập thể thu hẹp ở thành phố, mỗi người là một ‘’sứ quân ‘’. Thu nhỏ trong nhóm bạn bè, ‘’cái tôi’’ với thượng thiên hạ địa, duy ngã độc tôn để có bệnh tưởng với cứt đầu gối thì thơm, cứt hàng xóm thì thối. Từ đó có bệnh chứng…thành kiến, biến chứng của bệnh chứng này là…nghi kỵ. Hơ! Văn chương nào phải là đơn thuốc, chớ có khuyên nhằng chết bỏ bu! Bỗng dưng khi không người trong cõi dương gian bốc nhằng làm thầy lang bốc thuốc như thế đấy, chả hiểu có…mát tay chăng?

Úi chà gay đây! Bỗng dưng ngồi ở quán nghe Tây nói chuyện Ta với…Tàu.

Mà chuyện Ta với Tàu như nằm trong cái vòng lẩn quẩn. Nhân hôm nay là ngày ông Táo về trời, nhất thổ công nhì ông táo, người trong cõi dương gian được thể lay lắt rằng nào có khác gì gà ăn mối, mối ăn thổ công, thổ công ăn gà. Thêm giầy thừa dép thiếu với cụ Phan Chu Trinh: “Chính cứ chỗ hỏng, chỗ dở của người Tàu mà minh bắt chước”. Tiếp nối qua cụ Phan Bội Châu: “Người ta mửa ra thì mình nuốt vào”. Bởi nhẽ theo dịch giả Nguyễn Hồi Thủ: “Người Trung Quốc xấu xí” đẻ ra “Người Việt xấu xí” như voi đẻ trứng. Vì thế dịch giả họ Nguyễn không dám dẫn xác vào tiệm phở cũng tốt thôi! Nhưng sắp sang năm Giáo Ngọ, với chuyện ngựa sống với lừa đẻ ra…la.

Thì…thì mắc chứng gì người dịch giả Nguyễn Hồi thủ…la làng lên vậy.

***

Quay quả trở lại Viện nghiên cứu xã hội học Hoa Kỳ qua chuyện người Việt học để làm quan. Thằng Tây ba lô như xẩm vớ được gậy:

– Người Việt thích kiến thức, hiểu biết nhanh, nhưng ít học sự việc từ đầu đến cuối, nên kiến thức không có hệ thống hay căn bản. Ngoài ra, người Việt không học vì lợi ích của kiến thức, lúc nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện hay vì những công việc tốt. Chuyện này quan bác đã đả động đến từ thế kỷ 17 là người Việt học để làm quan. Nhưng em cũng võ vẽ tiếng Tây tiếng u với quan bác nhá: When small, they study because of their families; growing up, they study for the sake of prestige or good jobs.

Từ thế kỷ 17…?! Nào ai biết quan mót đái mà hạ võng, vì vậy nhờ thằng Tây ba lô hé lộ câu: “Chuyện này quan bác đã đả động đến từ thế kỷ 17”. Thế nên người trong cõi dương gian mới vỡ bọng cứt ra là ông Tây baguette đang ngồi đây là Samuel Baron, bố người Hòa Lan, mẹ người Bắc kỳ. S. Baron sinh tại “Ca-cho” (Kẻ-chợ, tức Thăng Long). Năm 1856, S. Baron viết sử ký, địa dư, văn hóa, tập tục, chính sự, y học và quan trường nước ta thời vua Lê chúa Trịnh. Sách có tên A Description of the Kinhdom of Tonkin, là một trong những quyển sách đầu tiên viết về nước ta của người Tây phương.

Thời ấy, S. Baron nhận xét người Việt ta như sau:

“….Người Việt tầm vóc nhỏ bé, yếu ớt, tính tình nhu hòa, hiền hậu, không nóng nẩy nhưng ưa ganh tị, ưa khoác lác, lại độc ác, sống sượng hay mê tín dị đoan. Là dân tộc tầm thường, nghèo khổ nhưng hiếu học chẳng phải ham hiểu biết mà vì muốn đạt mục đích ra làm quan. Không ưa đi đây đi đó mà cũng không tin lời những người xuất dương thấy rộng nhìn xa. Tự cao tự đại cứ cho người Việt mình là nhất…”

Chuyện thổ ngơi bản quán ông Tây baguette giấu voi đụn rạ đã xong. Còn thành hoàng bản thổ của thằng Tây ba lô sao đây? Đang lẫn đẫn vậy, nó chòm hỏm tiếp:

– Chẳng dấu gì quan bác chứ…Chứ quan bác đang một thước hai thước nên đâu có hay thời buổi này trên thế gian: Giáo dục người Mỹ thực tiễn, suy nghĩ thực tế, triết học không giảng dậy ở trung học, chỉ là môn nhiệm ý ở đại học. Không có triết gia, chỉ có kinh tế gia, kỹ thuật gia. Nhưng người Việt lại ưa triết lý, ưa bàn luận lý thuyết, triết lý với Kant, Hegel, Nietzsche, Heidegger, Albert Camus, Jean Paul Sartre với hiện sinh qua cái nhìn vọng tưởng ngồi trên tháp ngà nhìn xuống.

Ngoài ra họ thích bàn luận chính trị theo cảm tính xúc động nhất thời, lãng mạn hơn là thực tế với những biến chuyển đã xảy ra rồi. Họ ưa diễn dịch tổng quát hoá, lý luận bàn bạc kiểu Tam Quốc Chí. Họ thiếu những khả năng suy tư dài hạn và linh hoạt. Và lúc nào cũng kỳ vọng hồn thiêng sông núi lan tỏa khắp bốn biển năm châu.

Nghe một lô tên triết gia, triết nhân như đấm vào tai trên…Người trong cõi dương gian ngúc ngắc cho rằng những tên tuổi ấy, người đọc phương Tây chưa chắc hiểu nổi, nói gì tới người Việt. Ngay cả người trong cõi dương gian…chưa đọc “Chết không đất chôn” và “Bức tường” của J.P.Sartre đã…không hiểu rồi. Cho đến khi nom nhòm thấy ảnh chụp nấm mộ với bức tường cũng…không hiểu luôn. Nói chuyện triết lý củ khoai, người trong cõi dương gian cũng mắc chứng…hội chứng Babylone như bất cứ ai vậy!

Vậy mà mãi bây giờ ông Tây baguette mới đủng đỉnh nói như Tây:

– “Toa” nói người Việt nói chuyện chính trị theo kiểu Tam Quốc Chí. Nhưng người làm chính trị thì khác, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer cho rằng phải sang đến tận Nhật Bản người ta mới thấy được một giống dân tương xứng với người Việt. Cả hai giống người Việt và Nhật, theo ông, đều thông minh, chăm chỉ và can đảm. Người Việt là những nhà chính trị quả cảm trước cái chết. Theo E. Luro, một trong những người Pháp đến VN nghiên cứu về văn hóa và con người cũng nhận định tương tự. Qua ông ta, người Việt coi nhẹ cái chết. Họ có thể lên đoạn đầu đài với vẻ mặt bình thản, miệng ngậm thuốc lá. E. Luro dẫn chứng thêm đồng nghiệp: ông P. Cultru cũng nghĩ như vậy.

Móc một điếu thuốc để đó, ngần ngừ đến mấy giây, và tiếp:

– Qua cái chết, vì “toa” cũng nằm trong một thước hai thước lâu ngày mụ người nên quên là: Người Việt cần cù lao động nhưng hay dấu nghề. “Toa” không nhớ đã có người nói chuyện ấy từ thế kỷ 18: Ấy là Michel Đức Chaigneau, sinh năm 1803, con của Jean Baptiste Chaigneau, và vợ người Việt là Hồ Thị Huề. Ông này là một trong hai người Pháp làm quan dưới thời vua Gia Long sau khi giúp nhà vua thắng nhà Tây Sơn.

Michel Đức viết quyển Souvenir de Huế miêu tả: “Nhà của người Việt lụp xụp, tối tăm, lâu đài kiến trúc chẳng có gì đồ xộ. Việt Nam sở dĩ không có thợ danh tiếng vì hễ người nào tay nghề khéo là bị sung công làm cho triều đình cho đến già. Nên họ thường hay dấu tàikhông truyền nghề cho người ngoài. Trong sách Michel Đức xác nhận:

Người Việt hay ganh tị, khoác lác, thích làm quan. Và hóm hỉnh: “Nhưng lại ở bẩn”.

Ông Tây baguette lại đĩnh đạc như Tây nói:

– Như ở trên “toa” đã biết đấy, theo Tomita Kenji với cái miệng, người Việt lại có một lối ăn nói riêng, cách ăn nói của người Việt đôi khi còn mang tính dân tộc hơn cả ngôn ngữ. Trong khi người Pháp của “toa” nói chuyện bằng cả cơ thể. Cái gì mà cứ hễ miệng mở là trán nhăn mày nhướng, mặt quay qua quay lại, đầu gục gặc, là hai bàn tay giơ ra, múa máy như làm… ảo thuật! Người Việt điềm đạm, kín đáo hơn vì vậy bộ mặt người Việt không diễn cảm lắm vì họ thản nhiên đến không thể hiểu nổi.

Vì họ diễn cảm bằng mắt. Pierre Huard phụ họa là: Với vẻ mặt vẻ người, triết lý hiện hình qua một trời cảm xúc thì người Việt…nói bằng mắt.

Gì mà hết ông Tomita Kenji với: “bộ mặt người Việt không diễn cảm lắm” đến ông Pierre Huard phụ diễn: “vẻ mặt vẻ người, triết lý hiện hình qua…một trời cảm xúc” khiến người trong cõi dương gian chịu chết không…cảm nổi. Và chỉ hiểu theo một nhà biên khảo tay ngang nào đó: “Từ thưở sơ khai, với ngôn ngữ qua tiếng nói cho tới nay, những bộ phận trên thân thể người Việt, những gì dễ thấy, thường gặp bên ngoài. Thí dụ: tóc, tai, tay. Ngay cả bản mặt. Thí du: mặt, mũi, miệng . Tất cả đều được đặt tên bằng tiếng Nôm, thuần Việt. Hiểu theo nghĩa là không có chữ Hán, tức gốc gác của người Việt không phải là Hán tộcCũng như hai người Tây đây, họ có chung một chủng tộc Tây. Bởi nhẽ tận cùng của chữ nghĩa: một người tên baguette, một người tên ba lô.

Vì cả hai đều có chung một mẫu tự…“b”.

Nghịch ngợm với chữ nghĩa vậy thôi, vì vừa lúc thằng Tây ba lô móc túi trả tiền, “người garcon” lò dò như cò bắt tép đến, lẽ dĩ nhiên tiếp đến có mục bắt tí ti “pourboire”. Ngỡ sau đấy người về lại quầy, nhưng người lại ngồi bẹt xuống ghế của người trong cõi dương gian. Người trong cõi dương gian như tan vào sương khói trong cõi hư không.

Khi không ông Tây baguette dạy đời, chỉ vẽ cho “người garcon”:

– Vào quán xá có ba người ăn uống với nhau. Ăn xong người này cứ thản nhiên ngồi dài người đợi người kia trả tiền thì “vu” nên biết ngay đó là…người Việt.

Tri nhân tri diện bất chi tâm, người trong cõi dương gian chả biết tâm địa ông Tây baguette thế nào khi nói câu ấy! Đợi trả tiền rồi, ông ta chỉ tay vào thằng Tây ba lô…

– Như có người vừa ngồi đây, vừa nói với “moa” bằng…mắt.

Thằng Tây ba lô giương mắt lỗ đáo tìm…người không có mặt trong chốn nhân gian.

Đợi đến lúc này đây, Samuel Baron mới…đem voi bỏ rọ:

–  “Toa” chính là Michel Đức Chaigneau.

Nào có chuyện thằng chết cãi thằng khiêng vì chả ai hay biết có một người đang nằm chết bẹp chết dí ở ghế, và đang thở ra khói vì miệng ngậm điếu thuốc lá Gaulois.

***

Chết là hết chuyện, cả ba lững thững bước qua cửa kính đi về phía nghĩa trang. Samuel Baron, Michel Đức khoác vai nhau. Đi theo sau là “người garcon”. Người trong cõi dương gian há hốc mồm ra vì ắt hẳn họ đồng tính luyến ái như bà Simone de Beauvoir chăng? Hốt nhiên hồn ma bóng quế bà de Beauvoir hiện về, người trong cõi dương gian bỗng ớ ra vì mình vào nghĩa địa đi tìm J.P.Sartre nhưng từ nãy đến giờ chẳng thấy ông ta đâu? Thế nhưng nhòm từ sau lưng “người garcon” đang trong thực thể đi vào hư vô, người trong cõi dương gian chắc như cua gạch là: Jean Paul Sartre.

Còn lại một mình với ly cà phê Starbucs, ngẫm ngợi Tây nói chuyện: Ta là ai?

Nói cho ngay, nhằm vào thiên niên kỷ 21 rày, người trong cõi dương gian ngồi ở quán nghe Tây, Tàu nói chuyện Ta với những dẫn chứng chẳng hay ho cho mấy! Bởi nhẽ Samuel Baron đã viết từ 400 năm trước. Chỉ có một chút lạ lẫm với Michel Đức Chaigneau: Người Việt ở bẩn. Nói cho cùng viết cho lắm tắm cởi truồng vậy thôi với:

– Ta là ai?

Biết người biết ta từ thế kỷ 18, cụ Nguyễn Công Trứ đã vũm vĩm thẩn thơ, thơ thẩn:

Người có biết ta hay thì chớ
Chẳng biết ta, ta vẫn là ta

***

“Ta vẫn là ta” là một kết luận có hậu, ai cũng tìm thấy “cái tôi” của mình trong truyện viết. Nhưng J.P.Sartre với luận chứng “Siêu việt của bản ngã” (3), vì vậy người trong cõi dương gian muốn đi tìm…bản ngã siêu việt ấy. Vì vậy một ngày nào đó, người trong cõi dương gian sẽ đục chữ đẽo câu lại bài viết này với kết luận như dưới đây:

Trời đất đã quáng gà, S. Baron, Michel Đức và “người garcon” vật vờ bước qua khung cửa kính đi về hướng nghĩa địa. Hốt nhiên “người garcon” toát ra ánh sáng mầu xanh trắng, nhùng nhằng, lay động nhỏ dần bằng con đom đóm đực. Trước khi lập lòe bay vào cõi vô cùng, rất hiện hữu trong hư vô, con đom đóm đực ngoái cổ lại nói một tiếng rõ to: “Voilà”. Người trong cõi dương gian biết ngay đó là: Jean Paul Sartre.

Ngỡ đấy là chuyện phim Star Trek của Hollywood với người hành tinh bay phi thuyền trong vũ trụ. Nhưng người trong cõi dương gian vội xua đuổi ngay cái ý nghĩ hoang tưởng ấy đi. Vì còn đang mải mê ngẫm ngợi hiện thực với thực thể. Rằng nói cho cùng, rơi vào lỗ hổng thời gian của thiên niên kỷ 21 này mà ngồi ở quán nghe Tây, Tàu nói chuyện Ta chẳng hay hớm cho lắm! Bởi nhẽ Samuel Baron đã viết thành văn sách từ 400 năm trước. Người Việt ta tính tình nhu hòa, hiền hậu.

Đất trời sắp lui cui vào đêm! Bèn cầm tách cà phê Starbucs La Tte uống cho hết.

Ha! Của người phúc ta, thấy bao thuốc Gaulois trên bàn!? Ấy mà như các cụ ta xưa đã dậy cấm chả sai bao giờ: “Tinh cây đa, ma cây gạo”. Trộm hiểu là cây đa, cây gạo có cả trăm năm, có tinh hay có ma, chả ai…nhìn thấy. Nghĩa bóng câu thành ngữ này là chuyện không có thật, không…tin được. Nhìn trước nhìn sau không có ai…nhìn thấy mình thật. Người trong cõi dương gian bèn nhét bao thuốc vào túi. Ừ thì như đã bảo:

Người Việt ta ngoài hiền hậu…hiền như Bụt, lành như đất, còn tinh như…ma.

Hơ! Tin hay không? Tùy…

 

    Thạch trúc gia trang

    Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

 

Nguồn: Phạm Văn Sơn, Trần Thành Nam

Nguyễn Hưng Quốc, Vương Văn Quang

Nguyễn Thị Chân Quỳn, Võ Phiến, Lữ Giang

Trần Trọng Kim, Thu Tứ, Phạm Văn Tuấn

Tạ Chí Đại Trường, và Hạ Long Bụt Sĩ.

 

  Chú thích:

 

  • “Thực thể và hư vô” (L’ Etre et le Néant/Being and Nothingness).
  • Chết không đất chôn (Morts sans sépulture/Deaths without burial)

(3) Siêu việt của bản ngã (La transcendance de l’ égo/

The Transcendence of the Ego)

 

 

 

 

 

 

 

 

©T.Vấn 2019

Bài Mới Nhất
Search