T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Phân tích nhạc thuật của trường ca “Hội Trùng Dương” (Phạm Đình Chương)

Phân tích nhạc thuật của trường ca “Hội Trùng Dương” (Phạm Đình Chương) – Một tuyệt tác của tân nhạc Việt Nam

(Nguồn: Nhacxua.VN)

Phạm Văn Kỳ Thanh

Khoác một danh hiệu khi làm văn nghệ cũng như kết thân với một định mệnh. Định mệnh này có thể xoáy người nghệ sĩ trong một cơn lốc dữ, cũng như đẩy trôi hắn bềnh bồng trên triền sóng yên bình tùy theo cường độ từ tiếp xúc phản kháng, phủ phục biến cố ngoại cảnh và nội tâm. Trong trường hợp nhạc sĩ Phạm Đình Chương, hình như một nỗi nhớ khôn nguôi đã đeo đuổi ông triền miên từ khi ông chọn Hoài Bắc như một danh hiệu văn nghệ.

Vào khoảng năm 1951, gia đình Phạm Đình Chương di cư vào Nam, và cũng tại đây ban hợp ca Thăng Long được thành lập để nhớ lại Hà Nội. Ngoài ra, Thăng Long cũng là tên quán phở của gia đình Phạm Đình Chương lập nên ở chợ Đại cách Hà Nội khoảng 3,4 chục cây số trong thời gian tản cư. Cũng tại quán Thăng Long này, nhạc sĩ Phạm Duy đã gặp ca sĩ Thái Hằng rồi trở thành anh rể của Phạm Đình Chương.

Nhạc sĩ Phạm Đình Chương sinh năm 1929 tại Hà Nội. Bắt đầu học nhạc từ năm 13 tuổi, sáng tác đầu tay viết năm 18 tuổi (năm 1947). Cho đến năm 1971, ông đã viết được trên một trăm ca khúc gồm đủ mọi thể loại trường ca, dân ca, ca khúc đồng vọng, tình yêu đôi lứa… Ngoài Phạm Duy, trong lịch sử tân nhạc Việt rất ít nhạc sĩ có nguồn cảm xúc đa dạng và phong phú như Phạm Đình Chương.

Mặc dù có liên hệ gia đình và sinh hoạt âm nhạc chung với Phạm Duy trong một quãng thời gian khá lâu, Phạm Đình Chương vẫn không bị thu hút bởi “từ lực Phạm Duy”.

Nhạc của Phạm Đình Chương vẫn mang một cá tính rất mạnh, đó là một điều khá đặc biệt. Ít ai phủ nhận rằng Phạm Duy được coi như “cây cổ thụ” của tân nhạc Việt. Tuy viết nhạc sau Văn Cao và các nhạc sĩ tiền chiến khác, nhưng Phạm Duy viết rất khỏe và rất nhiều, đủ mọi khuynh hướng, thể loại, từ những ca khúc mang âm hưởng dân ca sang đến những ca khúc phổ thông Tây phương, từ nhạc cộng đồng đến nhạc đôi lứa, từ nhạc cách mạng đến nhạc tình ủy mị. Chính vì thế mà trong bao nhiêu năm, Phạm Duy đã “khống chế” tân nhạc Việt trên số lượng nhạc phẩm và nguồn cảm tác phong phú. Tuy với số lượng nhạc phẩm phổ biến ít hơn Phạm Duy, nhưng nguồn cảm tác Phạm Đình Chương cũng không kém.

Nhạc trường ca của Phạm Đình Chương mang những đặc tính sau: Âm hưởng dân ca Việt Nam, sử dụng tài tình ngữ thuật, vận dụng khéo léo sức truyền cảm phong phú, điều hợp tài tình sự rung động giữa thơ và nhạc, du nhập những nét đẹp tân kỳ của nhạc Tây phương vào những khúc tình ca thành thị.

“Hội Trùng Dương” gần như là trường ca duy nhất Phạm Đình Chương giới thiệu với quần chúng trong suốt hơn ba mươi năm âm nhạc của ông. Trường ca sử dụng hình thức khuôn khổ Tây Phương để chuyên chở một nội dung dân ca Việt Nam.

Thái Thanh hát Trường Ca Hội Trùng Dương, bản thu ở hải ngoạiVề bố cục, trường ca Hội Trùng Dương gồm một đoạn mở đầu và ba phiên khúc. Mỗi phiên khúc là tiếng nói của một dòng sông tiêu biểu cho mỗi miền. Miền Bắc có sông Hồng Hà đại diện, vào đến miền Trung có Sông Hương lên tiếng, xuôi miền Nam có Sông Cửu Long góp mặt. Tiếng nói của ba dòng sông đều được biểu tượng hóa bằng nỗi lòng của ba thiếu nữ. Tâm sự của mỗi dòng sông cũng là tâm sự của người dân địa phương về dân sinh, về nỗi khó khăn trong sự khuất phục với thiên nhiên, về sự can trường tranh đấu với nạn ngoại xâm.

Tiếng Sông Hồng

Trùng dương! Chốn đây ngàn phương
Có ba dòng sông cuốn xuôi biển Đông nhắc câu chờ mong.

Về khơi, sóng muôn triền tới.
Nước non buồn vui đây hội trùng dương đầy vơi.
Sóng muôn triền tới, sóng xô về khơi như muôn tình mới
vươn sức người bừng giữa đời…

Chiều nay nước xuôi dòng đại dương.
Có em tên sông Hồng dâng sóng tuôn trên nguồn.

Vẩn vơ nắng quái vương trên phù sa
có những cô thôn mờ xa đón bầy dân đánh cá.
Về đây trai gái sống vui một miền
quanh năm anh cuốc em liềm vun xới ruộng mùa lúa chiêm.

Từ thượng du nước trôi về Trung châu
ấp ôm đồng ruộng sâu bên người áo nâu dãi dầu.

Hò ơi!
Gối đầu trên Lào Cai Việt Trì.
Em nằm tóc xõa bãi cát dài.
Thả hồn mơ tới Thái Bình qua Sơn Tây.

Hò ơi!
Nhớ ngày qua dân chúng lên đường.
Đem thịt xương ngăn giữ nương đồng
đem hi sinh thắm tô sông Hồng.

Nằm mơ Xuân vinh quang.
Trở về cho non sông
và ngày nao nơi nơi trút sạch buồn thương.
Là ngày em mơ duyên người lập công.

Ban Thăng Long hát Tiếng Sông Hồng trước 75Để tạo sự chú ý của người nghe, Phạm Đình Chương mở đầu với dòng nhạc chậm rãi, vững chãi rất hợp với sự dẫn đạo của tiếng kèn trumpet, như tiếng báo hiệu sự xuất hiện của bậc quân vương thời trung cổ. Ông gọi đây là LỜI BIỂN:

Trùng dương
Chốn đây ngàn phương
Có ba dòng sông
Cuốn xuôi biển đông
Nhắc câu chờ mong…

Về nhạc thuật, trong cả ba phiên khúc Phạm Đình Chương đã dung hợp ý nhạc có âm hưởng dân ca, với nhịp điệu Tây phương. Những điệu hò dùng ở đây đều do sự sáng tạo tinh tế của Phạm Đình Chương, vì ông không dùng âm điệu dân ca nguyên thủy.

Sông Hồng

Trái lại ở phần đầu của Tiếng Sông Hồng (Chiều nay nước xuôi… người áo nâu giãi dầu), ông đã dùng điệu Hò Dô Ta sáng tạo. Sở dĩ tôi dùng chữ “sáng tạo” ở đây là vì đã có những quan điểm khác nhau về từ ngữ này. GS Trần Văn Khê và Nguyễn Hữu Ba quan niệm định nghĩa dân ca một cách cổ điển, như Willi Apel và Ralph Daniel đều cho rằng: “Dân ca là bài hát cổ, không biết tác giả là ai, được truyền miệng trong giới bình dân qua nhiều thế hệ và trở thành phổ thông khắp nước hay trong một cộng đồng nhỏ hơn”. Đứng về phía Phạm Duy, ông gọi những bài hát có âm hưởng dân ca của ông là “dân ca mới”. Ngoài ra nhạc sĩ Lê Thương cũng tạo một tên mới cho tập “Dao Ca Tạp Khúc” của ông là “dân ca cải biến”.

Như vậy rõ ràng điệu Hò Dô Ta của Phạm Đình Chương thoát ly dân ca nguyên thủy từ nhạc điệu đến nhạc thức. Vì lớp trống (Hò Cái) nét nhạc hoàn toàn Tây phương và lớp mái (Hò Con) biến đổi thành một phần đối âm (counterpart) của lớp Trống và cả hai bị chi phối bởi luật hòa âm (harmony) Tây phương.

Phần hai của đoạn Tiếng Sông Hồng dồn nhanh (acceleration), (chậm hơn Foxtrot và nhanh hơn March) và cứ như thế hai lớp Trống Mái không còn ở tư thế đối đáp nữa, cuối cùng lớp mái đã nhập vào lớp Trống để biến thành một hành khúc.

Tiếng Sông Hương

Miền Trung vọng tiếng:
Em xinh em bé tên là Hương Giang.
Đêm đêm khua ánh trăng vàng mà than.

Hò ơi! Phiên Đông Ba buồn qua cửa chợ.
Bến Vân Lâu thuyền vó đơm sầu.

Ơi hò! Ơi hò!
Quê hương em nghèo lắm ai ơi!
Mùa Đông thiếu áo Hè thời thiếu ăn.

Trời rằng: Trời hành cơn lụt mỗi năm à ơi!
Khiến đau thương thấm tràn ngập Thuận An
để lan biển khơi ơi hò ơi hò.

Hò ơi!
Ai là qua là thôn vắng.
Nghe sầu như mùa mưa nặng cùng
Em xót dân lều tranh chiếu manh.

Hò ơi! Bao giờ máu xương hết tuôn tràn.
Quê miền Trung thôi kiếp điêu tàn.
Cho em vang khúc ca nồng nàn.

Ngày vui, tan đao binh.
Mẹ bồng con sơ sinh.
Chiều đầu xóm xôn xao đón người trường chinh
Ngậm ngùi hân hoan tiếng cười đoàn viên.

Ban Thăng Long hát Tiếng Sông Hương trước 75Sang đến phiên khúc hai Tiếng Sông Hương, trừ đoạn cuối (Bao giờ máu xương… tiếng cười đoàn viên), có lẽ vì muốn duy trì nét cổ kính của miền cố đô nên Phạm Đình Chương đã khéo léo trở về với nét nhạc ảnh hưởng rất nặng dân ca nguyên thủy.

Sông Hương

Ở đây, ông đã phỏng theo điệu hò Mái Đẩy miền Trung, nhịp điệu chậm rãi, rất hợp với sự than van kể lể (Hò ơi phiên Đông Ba… để lan biển khơi). Đoạn hai của phiên khúc hai lặp lại đoạn hai của phiên khúc một. Tuy nhiên khó phủ nhận được nghệ thuật dụng âm ngữ tài tình của Phạm Đình Chương ở phiên khúc hai.

Những chữ trong đoạn này: Ánh (Đêm đêm khua ánh trăng vàng mà than), Bến (Bến Vân Lâu thuyền vó đơm sầu), Lắm (Quê hương em nghèo lắm ai ơi!), Mỗi (Trời rằng trời hành cơn lụt mỗi năm), Vắng (Ai là qua là thôn vắng), tuy là những thanh trắc nhưng đã bị kéo oằn xuống ở một vị trí thấp hơn thành bằng của chữ đi kế trước hoặc tiếp sau (khua, trăng, vân, ai, năm, thôn). Cụ thể, những đoạn này sẽ nghe thành:

  • Đêm đêm khua ẠNH trăng vàng mà than
  • BỆN Vân Lâu thuyền vó đơm sầu
  • Quê hương em nghèo LẶM ai ơi!
  • Trời rằng trời hành cơn lụt MỘI năm
  • Ai là qua là thôn VẶNG

Chính vì vậy điệu hò mới nỗi bật địa phương tính qua lối phát âm thổ ngơi miền Trung. Nét đặc trưng này khiến người hát không cần phải là người miền Trung, nếu xướng âm (déchiffrer) đúng cao độ của câu hát cũng có thể tạo thành âm hưởng của tiếng nói miền này.

Hiện tượng nói trên xảy ra là vì tiếng Việt với năm dấu: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng khi mỗi tiếng phát âm ra tự nó đã được xếp ở năm cao độ khác nhau. Chẳng thế, một nhà văn ngoại quốc đã nhận định: “Ngôn ngữ Việt Nam là ngôn ngữ duy nhất trên thế giới có nhiều giọng điệu cung bậc…. Phải nghe người dân mỗi miền, người Bắc, hay Trung, hay Nam hát những dân ca quen thuộc với tiếng nói thuần túy của họ, chúng ta mới thấy ý vị của giọng nói ấy đậm đà chừng nào…”. Nếu phân tích cấu trúc âm thanh của các dấu trong tiếng Việt, thanh nặng được sắp ở vị trí như sau:

(Huyền) (Nặng) (Không dấu)

Thanh ngã không có cao độ nhất định, khi thì tựa từ Thanh Huyền để uốn lên Thanh ngang (không dấu) (giọng miền Bắc), có khi nhập hẳn vào Thanh sắc (giọng miền Nam), Thanh Hỏi uốn khúc từ trầm lên bổng (Huyền-Sắc), cho nên vị trí nó phải cao hơn Thanh Ngang (không dấu) và thấp hơn Thanh Sắc.

Về nội dung của Tiếng Sông Hương, đại diện cho đất miền Trung. Bài hát được sáng tác trước cuộc chia cắt đất nước, trước thời điểm mà vùng đất miền Trung bên dưới vỹ tuyến 17 trở thành một chiến địa hoang tàn. Tuy vậy, miền Trung cũng đã là một mảnh đất chịu nhiều thiệt thòi với “trời rằng trời hành cơn lụt mỗi năm, khiến đau thương thấm tràn ngập Thuận An…” Có lẽ vì vậy mà khi đi tới miền Trung, nét nhạc của Phạm Đình Chương buồn hơn, ai oán hơn 2 phiên khúc khác.

Đoạn hai của phiên khúc 2 – Tiếng Sông Hương dồn nhanh hơn đoạn đầu và về ý nhạc tì lặp lại đoạn hai của phiên khúc 1 – Tiếng Sông Hồng. (Ai là qua là thôn vắng… Tiếng cười đoàn viên). Về nội dung, đoạn này mơ về một ngày “tan đao binh” để “quê miền Trung hết điêu tàn…” Ai ngờ rằng tan cuộc chiến này lại đến một cuộc chiến khác khốc liệt hơn, đau thương hơn sau đó.

Tiếng Cửu Long

Nước sông dâng cao cá lội ngù ngờ.
Nước xanh xanh bóng in cây dừa.
Về về đây miền Đồng Nai có Cửu Long
Cuồn chảy dâng trời Nam mạch sống.

Một sáng em ra khơi Vĩnh Long vui cười.
Và Cần Thơ, Long Xuyên lừng hương cau lúa chín.
Đời vươn lên thuyền ghé bến.
Sống no nê dân quê một miền.

Kìa nắng thương dân đây nắng khô đồng lầy chiều tới
Hò lờ, hò lơ…
Hò lờ hò, hò lơ…

Chẻ tre bện sáo ơ cho dầy
Ngăn ngang ơ sông Mỹ có ngày gặp em.

Trùng dương! Ba chị em là ba miền
nhưng tình thương đem nối liền.
Gặp nhau ven trời biển Đông thắm duyên hẹn nhau.

Pha hòa sóng lan bốn phương trời
vang dội tiếng tranh đấu bao người
cho quê hương ấm no muôn đời.

Giờ đây bao tâm tư
Rộn ràng như câu thơ;
Hội Trùng Dương tay tay siết chặt cùng hô
Dựng mùa vinh quang hoa đời tự do.
Lời quê hương: Hội Trùng Dương.

Ban Thăng Long hát Tiếng Cửu Long trước 75Vào đến miền Nam, miền đất phù sa màu mỡ, sức đối kháng với thiên nhiên không còn mãnh liệt như miền Trung. Vì thế, Phạm Đình Chương đã dùng những nét nhạc thật khỏe khoắn, cởi mở, sung túc để nói lên đặc tính địa lý nhân văn của miền nàỵ. Trong cả phiên khúc 3 – Sông Cửu Long, ông chỉ xen lẫn hai câu hò theo điệu ru con miền Nam:

Chẻ tre bện sáo cho dày
Ngăn ai sông Mỹ có ngày gặp em

Điệu ru này thuộc ngũ cung hơi Nam giọng oán tựa như điệu ru con ở Quảng Nam miền Trung. Do Mi Fa Sol La.

Tương tự như Phạm Đình Chương trong trường ca “Con Đường Cái Quan”, Phạm Duy cũng biến cải điệu Hò Ru Con miền Nam thành bốn câu đầu của đoản khúc số 18 để đưa người lữ khách ghé thăm miền Nam nước Việt.

Sông Cửu Long

Như thế, điệu Hò Ru Con miền Nam đã đóng vai trò rất quan trọng trong dân ca miền Nam. Phạm Đình Chương đã nhận chân được điều ấy, khiến ông thành công trong tiến trình nêu lên địa phương tính đặc trưng cho miền Nam. Chỉ với hai câu Hò Ru đó thôi cũng đã làm nổi bật ý nhạc dân tộc giữa những cung điện Tây phương khỏe khoắn tươi sáng (Nước sông dâng cao… nắng khô đồng lầy).

Đoạn cuối của phiên khúc 3 – Tiếng Cửu Long một lần nữa lại lặp lại tứ nhạc của đoạn cuối của phiên khúc 1 – Tiếng Sông Hồng và phiên khúc 2 – Tiếng Sông Hương. Đó cũng là lúc Ba Giòng Sông cùng lên tiếng:

Trùng dương! Ba chị em là ba miền
nhưng tình thương đem nối liền.
Gặp nhau ven trời biển Đông thắm duyên hẹn nhau.

Tác giả nhân cách 3 dòng sống Bắc Trung Nam là “3 chị em” ở 3 miền, hẹn cùng gặp nhau ở vùng biển Đông của Tổ Quốc. Bài hát ca tụng về một Việt Nam trọn vẹn, thống nhất, trước khi đất nước bị chia đôi sau đó không lâu.

Đoạn kết là lời ca mạnh mẽ, hào hùng:

Hội Trùng Dương tay tay xiết chặt cùng hô:
Dựng mùa Vinh Quang, Hoa đời Tự Do

Nét đặc trưng dân ca mới chỉ là một trong những cá tính âm nhạc Phạm Đình Chương. Với cảm nhận bén nhậy ông là một trong những nhạc sĩ hàng đầu của miền Nam Việt Nam đã mang những nét tân kỳ của nhạc phổ thông Tây phương vào hồn thơ Quang Dũng, Đinh Hùng, Thanh Tâm Tuyền, Trần Dạ Từ, Hoàng Anh Tuấn, Hoàng Ngọc Ẩn… Thi ca tự nó đã có nhạc tính khi ngâm hay đọc lên. Tuy nhiên sự kỳ diệu của âm nhạc Phạm Đình Chương như đôi cánh vạm vỡ nâng hồn thơ lên cao hơn và bay xa hơn.

Phạm Văn Kỳ Thanh
(Tạp chí Nhân Văn số 29 tháng 9 năm 1984)

Bài Mới Nhất
Search