Kỳ 6
Tiếp Theo và hết (kỳ 1 ) (kỳ 2) (kỳ 3) (kỳ 4) (kỳ 5)
*Chú Thích: Những phần chữ in màu tím xen kẽ trong các trích đọan của bài bút ký “Quê hương ngày trở lại” là của tác giả Ngộ Không Phí Ngọc Hùng (tức Người Góp Nhặt – NGN). Để tránh bài quá dài, bất tiện cho độc giả, NGN không trích trọn bài bút ký của Thụy Khê mà chỉ trích những đoạn có liên quan đến đề tài được NGN “lưu ý”. Link trọn mỗi bài bút ký được đặt ở đầu bài, độc giả có nhu cầu có thể sử dụng link để xem trọn bài bút ký được trích đoạn (bởi NGN) trong mỗi kỳ. NGN.
Huế vô cùng quyến rũ về nhiều mặt, bởi vì Huế là kinh đô cuối cùng của thời đại tự chủ. Huế còn giữ được phong độ, qua nếp sống, kiến trúc, văn hoá. Huế vẫn lác đác những nhà cổ trên đường phố ngoại ô. Đi sâu vào thành nội, ta gặp muôn vàn quyến rũ khác, như thể tất cả vàng son và uy quyền của một thời còn đọng lại trong không gian, trong cỏ cây, cây kiểng, cái gì cũng nhuốm chất hoàng gia.
Về cái chết của vua Minh Mạng, tác giả Đạo Giáo ở nước Nam (La Cochinchine Religieuse) cuốn sách nổi tiếng nhất (sic – xem “Vài tuần sau đó…”) của Pháp về thời kỳ truyền giáo, linh mục Louvet viết: “Vài tuần sau đó, kẻ tàn sát cũng lên hầu toà án Thượng Đế: Ngày 20 tháng Giêng năm 1841, Minh Mạng bị ngã ngựa, chết bất thình lình” (Louis-Eugène Louvet, Đạo Giáo ở nước Nam (La Cochinchine Religieuse),1885, tập II, t. 115).
Khi xe leo lên đèo Hải Vân để về Huế, trời mưa tầm tã, tôi đã nhìn thấy vua Minh Mạng sừng sững đứng trên đỉnh núi, ở nóc đồn rêu phong, lệnh cho quân sĩ giữ vững Hải Vân Quan, chặn không cho liên quân Pháp-Y Pha Nho tiến lên chiếm Huế. Minh Mạng (1820-1841) là vị vua lớn của triều Nguyễn, đã nhìn thấy hiểm hoạ ngoại xâm bắt nguồn từ các giáo sĩ người Pháp. Vì thế, vua Minh Mạng cấm đạo, nên ông đã được các giáo sĩ “đặc biệt quan tâm”.
Nhưng linh mục Louvet chưa phải là người đầu tiên nguyền rủa Minh Mạng.
Người Việt Nam đầu tiên và duy nhất đã buộc tội và mạ lỵ Minh Mạng nặng nề, vô cố nhất là Trương Vĩnh Ký trong cuốn Giáo trình Lịch sử An Nam (Cours d’ Histoire Annamite) (Saigon Imprimerie du Gouvernement, 1875, bản điện tử). Đến năm 1897, ông lại “xác định” thêm rằng Olivier de Puymanel và Le Brun, hai người lính Pháp vô học đã “xây” thành Gia Định bằng câu: “Vua dạy [bảo] ông Olivier, ông Le Brun coi xây thành Gia Định”, mà Trương Vĩnh Ký không đưa ra bằng chứng nào.
Khi viết sử về giai đoạn Pháp thuộc, Trương Vĩnh Ký có giọng điệu thực dân hơn cả thực dân, ông dùng chữ “trừng trị” để chỉ việc Pháp đánh nước ta, ông hồ hỡi khi Pháp thắng trận. Những đoạn mạt sát Minh Mạng, đôi chỗ trở thành “phản quốc”, ông không ngừng buộc tội vua, bằng những sự kiện hoàn toàn bịa đặt:
1- Minh Mạng giết Nguyễn Văn Thiềng [Thành] vì Thiềng đã khuyên Gia Long nên để dòng chính (tức là con trai Hoàng tử Cảnh) kế vị (1), nên sau này Thiềng bị Minh Mạng thù. (1),
[Nguyễn Văn Thành có con trai làm thơ “phản kháng”, đại ý: ta bỏ triều này dựng triều khác hay hơn, Gia Long biết nhưng lờ đi; ba năm sau, bị một số quần thần ghét, tố cáo, thêm thắt, Gia Long không bênh còn luận tội, nên ông đã tự tử chết năm 1817, dưới thời Gia Long].
2- Ngôi báu mà Minh Mạng thừa hưởng của cha là nhờ công ơn của một số “sĩ quan” Pháp, có người đã hy sinh đến tính mệnh [Ai?]. Vậy mà sau này Minh Mạng cùng bọn quần thần bội bạc đã đối xử tồi tệ với các “sĩ quan” đã giúp Gia Long dựng nước, cố tình kéo Gia Long ra khỏi ảnh hưởng Pháp. Vì thế, trong suốt thời kỳ đối đầu giữa chế độ Cộng hoà và chế độ Đệ nhất đế chính [ở Pháp] không có mối liên lạc nào giữa Annam và Pháp, đó là lỗi Minh Mạng.
3- Sau khi lên ngôi, trong thời gian đầu, Minh Mạng dùng các giáo sĩ vào việc dịch sách, xong, thả họ sang Ai Lao (Lào) cho chết vì bệnh sốt rét rừng, để âm thầm thanh toán tất cả những người ngoại quốc này, nhưng các giáo sĩ đã can trì tranh đấu.
………..
Trương Vĩnh Ký viết nguyên văn:
– “Minh Mạng, dùng dụ để thoả mãn mức độ nóng nẩy kinh hồn và đầy hận thù, đạt tới sự độc ác vì mê đắm hay vì lòng ghen tuông mù quáng. Tham vọng thống trị của ông ta vô độ: chính trị của ông ta lạnh lùng, bất chính, tàn nhẫn” (trích dịch bản điện tử).
4- “Minh Mạng lên ngôi, bằng cách tiếm vị của cháu, [con trai hoàng tử Cảnh], sợ một ngày nào đó nó có thể tranh ngôi của mình (…). Nghe đồn ông ta tư thông với vợ goá của Hoàng Tử Cảnh đến khi bà này có thai, bèn kết án loạn luân rồi sai giết cả mẹ lẫn hai con của hoàng tử Cảnh để phi tang.(trích dịch bản điện tử)
[Hoàng tử Cảnh mất năm 1801, 22 tuổi, vì bệnh đậu mùa, có hai con trai là Mỹ Đường và Mỹ Thùy. Năm 1824, Tống Thị Quyên, vợ goá hoàng tử Cảnh tư thông với Mỹ Đường, bị Lê Văn Duyệt biết, tâu vua. Tống Thị phải tội: [Lê Văn Duyệt] dìm nước cho chết. Mỹ Đường tội nặng bị giáng xuống hàng thứ nhân, mất năm 1848, đời Tự Đức. Mỹ Thùy bị bệnh chết năm 1826, không có con. Các con của Mỹ Đường được giữ Tôn Thất, Lệ Chung trông nom việc thờ phụng dòng Hoàng Tử Cảnh. Những việc này ghi rõ trong Thực Lục và Liệt Truyện].
…….
Trương Vĩnh Ký viết tiếp:
“Sau tội ác mà vô liêm sỉ và đạo đức giả đen tối nhất pha trộn với sự hiểm ác sâu sắc (2) nhất, ta còn ngạc nhiện làm gì trước thái độ của ông ta đối với các sĩ quan Pháp và các giáo sĩ? Không, dĩ nhiên là không. Minh Mạng, bẩm sinh tàn ác, lạnh lùng, đen tối, gian trá, từ nay có thể làm tất cả mà chắc chắn là không bao giờ thấy quá đáng.”(trích dịch bản điện tử)
…….
(1) Ghi chú của người góp nhặt:
I – Không thấy bà Thụy Khuê nhắc tới Lê Văn Duyệt. Vì ông chống đối Minh Mạnh lên làm vua thay vì hòang tử Cảnh nên cũng bị Minh Mạng thù. Nhân vụ Lê Văn Khôi, con nuôi ông nổi lọan, mồ mả của ông bị Minh Mạng cho san bằng, xiềng lại bằng xích sắt, đánh trên mộ 100 roi, dựng bia khắc 8 chữ “Quyền yểm Lê Văn Duyệt phục pháp xử” (yểm là hoạn quan)
II – Thời cụ Trương Vĩnh Ký không có từ Việt cộng như vô liêm sỉ hay sâu sắc. Từ vô liêm sỉ là chữ của Trần Huy Liệu hay dùng. Trong tập san Nghiên cứu Lịch sử của miền Bắc, năm 1963, Trần Huy Liệu viết bài… “chính quy” đầu tiên buộc tội Phan Thanh Giản đầu hàng Pháp cho 8 sử gia Hà Nội làm khuôn mầu. Cuối bài, Trần Huy Liệu viết nguyên văn: Sau khi đánh giá xong Phan-thanh-Giản, chúng ta sẽ chuyển sang một nhân vật lịch sử khác. Năm dày chày tháng, ông này mất, các sử gia Hà Nội mở mặt trận “xung kích” nhắm vào Trương Vĩnh Ký. Bà Thụy Khuê vì bênh vực nhà Nguyễn dựa dẫm vào sử gia Hà Nội nói vấy Trương Vĩnh Ký theo Pháp. Bà dùng từ y xì như Trần Huy Liệu bài bác Phan Thanh Giản, như “vô liêm sỉ”, v…v…
III – Bởi có một khúc bà búng ghét đuổi ruồi: “lịch sử không phải là miệt thị, mà là sự trung thực và sự thực”. Vì vậy dưới đây là một đọan văn của một nhà phê bình văn học như bà, ông cô vọng ngôn chi về sự trung thực và sự thực của bà:
“…Bà Thụy Khuê đầy cảm tính, hận oán chưa từng gặp ở bất cứ nhà sử học nào trước đây. Vì thế, những người viết sử từ Trương Vĩnh Ký với cuốn Cours d’histoire annamite, 1875. cũng được xếp loại sử quan thuộc địa. Đọc lại cuốn sử của Trương Vĩnh Ký người ta thấy ngay từ lời nói đầu cho thấy ông là một học giả dù uyên tham nhưng vẫn tỏ ra đầy lòng khiêm cung và từ tốn hết mực. Tuy nhiên, có một chi tiết là Trương Vĩnh Ký không ngần ngại kết án vua Minh Mạng trong vụ án giết vợ và hai con của hoàng tử Cảnh. Tuy nhiên, những lời kết án của bà Thụy Khuê không chỉ rõ Trương Vĩnh Ký là sử quan thuộc địa ở chỗ nào? Bà không đưa ra nhận xét nào đến độ tôi nghi ngờ rằng bà chưa hề có dịp đọc cuốn sách này. Bà chỉ viết: “Henri Cordier cho biết cuốn sử đầu tiên mà độc giả Pháp được biết đến về nước Nam là “Cours d’histoire annamite” (Giáo trình lịch sử An Nam) của Trương Vĩnh Ký in năm 1875…”
(nguồn : Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê – Nguyễn Văn Lục)
Người góp nhặt nghĩ vụng bà Thụy Khuê ôm khư khư trong tay bộ sách của Tây: Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823 (Lịch sử truyền giáo ở Nam Hà 1658-1863) của linh mục Launay để dựng sử thì….Thì bà hóa thân là… “sử gia thuộc địa” hồi nào không hay! Thêm nữa bà ôm hai bộ Thực Lục và bộ Hội Điển, bà là… “sử quan của nhà Nguyễn” với Gia Long, Minh Mạng là minh quân. Lẽ dĩ nhiên bà còn thâm cứu nhiều sách Tây khác nữa: như Michel Đức với cuốn Souvenirs de Huế, Michel Đức tả Gia Long: “nói chuyện nhảm những lúc vắng người”, như “Cha ta đã làm như thế này…mẹ ta làm thế này… ” (làm sao…để có con).
IV – Thêm một lần, người góp nhặt học theo cụ Khuất Đẩu: Bà là người hay dậy khôn. Với một tác gỉa khác, ngay từ khi bà bắt đầu cầm bút: Bà là người thích dậy chữ
“… Cuối năm 2002, Thụy Khuê, nhà phê bình văn học, sang Wesminster, thuyết trình về ba nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn. trong đó có bài “Nhất Linh, Giòng Sông Thanh Thủy”. Trong bài bà đã đổi tên tác phẩm Giòng Sông Thanh Thủy của Nhất Linh từ chữ Giòng thành chữ Dòng và bà viết trong lời chú thích nguyên văn như sau: “Nguyên tựa của Nhất Linh là Giòng Sông Thanh Thủy, chúng tôi sửa lại là Dòng Sông Thanh Thủy cho đúng chính tả”. Đọc lời chú thích đó chúng tôi phân vân tự hỏi Thụy Khuê theo chính tả nào và chính tả nào là đúng? Viết “Dòng” đúng chính tả vậy viết “Giòng” có coi là sai chính tả hay không? Tên một cuốn sách do tác giả đặt cho đứa con tinh thần của mình thì nó trở một danh từ riêng. Chúng ta phải tôn trọng danh từ riêng đó mà không thể nhân danh cá nhân mình, nhân danh chính tả hay…”tà tả” để sửa lại tên đó… ” (nguồn : Sửa tên tác phẩm của người quá cố? – Đặng Trần Huân).
Nếu Minh Mạng không chết vì ngã ngựa, chưa chắc quân Tây Dương đã dám dụng đến nước ta (sic). Bởi tất cả những thành trì kiên cố này đã ngăn chặn quân Pháp, gây khó khăn, nên họ không thể nhanh chóng mà chiếm được. Phải mất 20 năm.
Tháng 11/1839, Minh Mạng cho chế tạo một thuyền lớn chạy bằng máy hơi nước, tốn 11.000 quan tiền, các quan có ý tiếc, vua bảo: ta muốn thợ của ta học hỏi những kỹ thuật mới về máy móc tân tiến, tốn bao nhiêu cũng phải trả. Nhưng những điều mà học sinh được học về Minh Mạng, đã bị lọc qua lăng kính sử gia thuộc điạ (2) (kiểm duyệt), kể cả những người như Trần Trọng Kim và Phan Khoang cũng đều nhất loạt cho rằng: vì Minh Mạng giết đạo và bế quan toả cảng nên nước ta mới lạc hậu và sau này bị Pháp xâm chiếm, là hoàn toàn sai.
(2) Ghi chú của người góp nhặt: qua Phỏng vấn nhà nghiên cứu Thụy Khuê của Hà Thủy Nguyên có đọan: “…Khi vua Minh Mạng lập Quốc sử quán và lệnh cho các quan viết sử đi khắp các nơi trong nước để thu thập tài liệu, viết các bộ Thực Lục, Liệt Truyện…nhà vua đã tế nhị không đọc, tức là ông không kiểm duyệt bộ sử đồ sộ này…”.
Dựa vào đâu bà Thụy Khuê đùm đậu ‘’nhà vua đã tế nhị không đọc, tức là ông không kiểm duyệt bộ sử đồ sộ này’’. Vì tập Ngự Phê Trên Châu Bản Triều Nguyễn (1802-1945) tập trung vào cách phê duyệt của các hoàng đế nhà Nguyễn trên văn bản do quan lại đệ trình. Sách gồm những bản chụp hình mầu rất rõ của 181 châu bản từ năm 1803 đến năm 1945, tức từ thời Gia Long cho đến thời Bảo Đại. Với Minh Mệnh, năm 1820 có bản tấu của Chu Phúc Năng dài 188 chữ thì ngự phê của Minh Mệnh dài 37 chữ (Ngự Phê trang 29). Cũng năm 1820, bản tấu của Đinh Nguyễn Phiên dài 5 trang thì ngự phê của Minh Mệnh có tới 32 lần, gồm 11 châu phê, 10 châu cải, và 11 châu mạt (Ngự Phê trang 31-33).
Những thí dụ vừa kể cho thấy cung cách làm việc của các hoàng đế triểu Nguyễn. Ấy là chưa kể sự phân tích nội dung các châu phê sẽ đem lại những khám phá mới mẻ mà sự sao chép lẫn nhau khi nghiên cứu Sử không bao giờ đạt được.
(nguồn: Không có tài liệu, không có lịch sử của sử gia Trần Anh Tuấn)
Người ta cũng trách vua Tự Đức đủ điều, nhất là không chịu canh tân đất nước, giết đạo, triều đình hủ lậu, khiến người Pháp có cớ để đánh. Xin thử nhìn lại: Tự Đức lên ngôi, sau vụ Pháp lén tiêu diệt 5 chiến hạm của ta, để lại thư giọng hách dịch, côn đồ, khiến vua Thiệu Trị tức mà chết. Làm sao Tự Đức có thể tin được quân Pháp? Năm 1857, liên quân Pháp-Y Pha Nho tấn công Đà Nẵng, do giám mục Pellerin dẫn đầu. Làm sao vua Tự Đức có thể tin được giáo sĩ để mở cửa cho họ tự do vào giảng đạo? Rồi vua Tự Đức phải đánh nhau với Pháp trong gần 20 năm. Thì giờ đâu “canh tân đất nước”?. Thử hỏi Việt Nam trong hai mươi năm chiến tranh (1954-1975) hai miền Nam Bắc có “canh tân” được gì không?
Hồi trẻ, tôi được học về Nguyễn Trường Tộ, họ tôn sùng ông một cách quá đáng, học rằng: ông đã đưa ra hơn 50 bản điều trần mà vua Tự Đức (3) và triều đình ngu muội không nghe (3).
Nay già rồi, tôi đọc lại những bản điều trần của ông không thấy gì đáng phục cả:
(3) Ghi chú của người góp nhặt: chữ Hán từ lỗ nẻ nào chui lên để bàThụy Khuê đọc… “hơn 50 bản điều trần gửi Tự Đức“. Cũng thời Tự Đức, ngòai Nguyễn Trường Tộ, thêm Phan Thanh Giản sau khi đi sứ sang Pháp vào năm 1863 trở về nói không ai nghe, không ai tin, ông viết:
“…Kể từ cái ngày mà tôi được gửi đi làm chánh sứ tại thủ đô nước Pháp, Tôi đã được chứng kiến tận mắt nền văn minh Tây phương, tôi không thể nào tránh được cái tâm trạng khâm phục cộng với sự sợ hãi. Khi trở về xứ sở của tôi, tôi thúc giục các đồng liêu của tôi phải mở mắt ra, phải thức tỉnh sau những năm tháng mê muội. Than ôi, mặc những cố gắng của tôi muốn thuyết phục họ, không một người nào trong đám họ tin vào sự thực những lời nói của tôi…”
Về chuyện cải cách kỹ thuật và khoa học, vua Minh Mạng đã sai thám tử có hạng đi trinh thám kỹ nghệ tân tiến, về báo cho ông rồi. Minh Mạng cho thợ làm chiếc tầu đầu tiên chạy hơi nước và Tự Đúc có sáu chiếc. Ngoài việc gửi sứ giả đi các nuớc lân cận để học kỹ thuật của Anh, Pháp, Hoà Lan… Minh Mạng còn bắt con trai của Chaigneau, là Đức, khi anh ta từ Pháp theo cha về VN, phải kể cho ông nghe bên Pháp có những phát minh gì? (4)
Vậy người Việt thời đó không nhà quê, ngố rừng như người ta tưởng.
(4) Ghi chú của người góp nhặt: Bà…”sử gia” ăn xổi ở thì chuyện Minh Mạng hỏi Chaigneau Đức Pháp có những phát minh gì?. Thì đây Michel Đức trong Souvenirs de Huế cho hay: “…Minh Mệnh vời vào cung để hỏi chuyện nước Pháp và nhờ dịch những chữ ghi trên mấy bức họa vẽ cảnh nước Pháp. Minh Mệnh đặc biệt chú ý đến quân đội, nhung phục của Pháp, hỏi rất cặn kẽ và dựa theo Pháp chế tạo ra một loại gù đeo hai vai cho các võ quan. Những võ quan trong triều thường nói trộm sau lưng vua: “Chúng mình là sĩ quan của Pha lang cha?”. Minh Mệnh cũng tò mò sao người Pháp hay sưu tầm những con thú chết, lột da, nhồi trấu, cùng là những loài sâu bọ vô giá trị. Khi biết để đem về trưng bày tại Bảo tàng viện thì nhà vua lại càng kinh ngạc: “vì dùng lâu đài để chứa những con sâu ấy? Thật là điên rồ! Thật là trẻ con! Chẳng lẽ người Pháp hết việc làm rồi ư?”. Không thấy Minh Mạng hỏi Pháp có những phát minh gì?
Mộ Gia Long xa nhất, ở trên vùng núi đồi thơ mộng. Lăng vị vua sáng lập lại nhà Nguyễn đơn giản như một “nhà nghèo” (sic), bởi vua khi còn sống cũng rất giản dị, thủa ở Gia Định, ông xắn quần, đắp lũy cùng với thợ, ông tự lái thuyền đi thăm xưởng đóng tầu và ăn trưa với thợ. Gia Long yên nghỉ tại đây với hai người vợ quý.
Lăng Minh Mạng, không bề thế, nhưng khiêm cung, cao nhã, khắc kỷ, để lộ oai quyền và tinh thần bất khuất, với cái oai kín đáo của một vị thâm nho có tài cai trị và giữ nước. Vua coi xét tất cả mọi việc, quyết định tất cả mọi việc, xây dựng một mình, một nước giầu mạnh, hoàn toàn chuyên chế, không có quân xâm lăng, không ai dám xâm lăng.
Rời Huế chúng tôi lên đường ra Bắc, nhưng hồn Huế vẫn còn đọng lại trong tôi suốt quãng đường dài. Bữa cơm Âm phủ tối qua, có món canh dưa chua và nhiều thứ bánh Huế tôi không nhớ hết tên, bánh nào cũng ngon, vừa ăn vừa tưởng đến Gia Long…
Ông vua hàng ngày ra công binh xưởng kiểm soát, tự lái thuyền đi thăm xuởng đóng tầu ở Thị Nghè, trưa ăn cơm cá kho dưa muối với thợ. Nhớ chuyện Barisy (một người lính Pháp theo vua) kể lại: ngày đầu tiên quân tiến vào kinh đô, tối đó vua về thuyền ngủ và ra lệnh cho quân sĩ cũng phải ngủ trên thuyền không được nhiễu dân. Sáng hôm sau, tám giờ ngày 15/6/1801, vua chính thức lên Tử cấm thành (1), ông cũng không đi thẳng vào cung điện mà đứng ở phòng ngoài (nơi dân chúng tụ họp để chờ xem mặt vua những ngày thiết triều), ông đứng đó “đấu láo” với quân lính. Tôi chắc khi đã lên ngôi tôn, thế nào cũng có lúc vua lẻn ra quán Âm phủ ăn cơm canh dưa chua cá khô tộ. Tâm hồn Gia Long gắn liền với hai thứ Huế: Huế cung đình và Huế dân dã, và cũng chính là tâm hồn Huế mà tôi cảm nhận được. Nhiều lần tự hỏi không biết mình yêu nước là yêu cái gì và tôi không nhận ra cái gì chính xác cả.
(1) Ghi chú của người góp nhặt
Năm 1801, Nguyễn Ánh chưa là vua. Mãi đến năm 1805, Gia Long và đại thần Nguyễn Văn Yến mới khởi sự xây dựng Huế ở Phú Xuân và hoàn tất năm1818. Minh Mạng tu bổ thêm từ năm 1818 đến năm 1832. Nên năm 1801 chưa có…Tử cấm thành.
Trên đường ra Bắc, chúng tôi qua cầu Hiền Lương, dừng lại chụp ảnh, nhưng tôi không thấy một cảm giác gì đặc biệt, nước sông cũng không làm tôi xúc động. Khi vào tới địa phận Đồng Hới, ngủ đêm ở cửa Nhật Lệ, tôi mới thấm thiá ám ảnh sông Gianh. Đêm đó tôi vừa nhắm mắt nó lại hiện ra, nhấp nhô trên sông, không làm thinh, không cầu cứu và cũng không một mình, nó đi cùng, thực ra nó kéo theo trên sông câu thơ đây sông Gianh đây biên cương thống khổ, đây sa trường đây nấm mộ trời Nam của Đằng Phương trong bài học thuộc lòng mà thủa bé chúng tôi cùng học. Rồi mảnh thành Đồng Hới đen ngòm hiện ra chắn ngang sông, gạt chúng tôi khỏi những dấu tích cuối cùng của trận Trấn Ninh-Nhật Lệ.
***
Quảng Bình tôi được thấy lần đầu trong mộng và trong đời, phong cảnh vô cùng ngoạn mục, núi non trùng điệp với các hang Sơn Đoòng, động Phong Nha, động Thiên Đường… những kỳ quan của đất nước ta. Chúng tôi theo quốc lộ số một, đi ngang tầm 99 ngọn Hồng Lĩnh về Vinh, cốt xem dấu vết Phượng Hoàng Trung Đô của Quang Trung. Tôi hơi thất vọng trước một Phượng Hoàng Trung Đô mới xây trên nền di tích xưa, trên núi Dũng Quyết, còn gọi là núi Quyết tức Phượng Hoàng, một trong những đỉnh cuối cùng của rặng Hồng Lĩnh. Đền đài mới xây chưa bắt được hồn cốt Quang Trung, giống đền Tam Kiệt ở Quy Nhơn, lớn mà trơ.
Từ biệt Vinh, chúng tôi đi Thanh Hoá.
Thanh Hoá có Sầm Sơn với hòn Trống Mái, đối với người khác có lẽ chỉ là một bãi biển thông thường, nhưng với tôi có một ý nghiã thiêng liêng: Sầm Sơn là bối cảnh tiểu thuyết Trống mái của Khái Hưng. Chiều hôm ấy, chúng tôi đi theo Vọi và thấy lại được thế giới thuyền chài, đúng như Khái Hưng mô tả tám mươi năm về trước, chúng tôi theo Vọi vào những ngõ ngách dẫn đến hòn Trống Mái.
Thanh Hoá còn sừng sững Thành Nhà Hồ, vết tích của một kiến thiết thời Trung Cổ, của một triều đại văn minh rất xa, mà chúng ta chưa thực sự khảo sát đến nơi đến chốn. Tôi không hiểu rõ về kiến trúc, nhưng đứng dưới chân Thành Nhà Hồ, tôi “dám chắc chắn” là những thành đất xây ở nước ta dưới thời Gia Long như Gia Định, Diên Khánh, đều chịu ảnh hưởng lối đắp Thành Nhà Hồ: tường đất dầy, toả ra như chân vại. Thành Nhà Hồ còn được đệm đá, vững chãi, bất di bất dịch, như đất nước tôi.
***
Rời Thanh Hoá chúng tôi lên Ninh Bình. Ninh Binh thuộc miền trung du được thiên nhiên ưu đãi nhất: Ninh Bình có Tam Cốc, Bích Động, Hoa Lư, có vườn Cúc Phương, nhà thờ Phát Diệm…
Nhà thờ Phát Diệm (1) ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, là một kiệt tác.
(1) Ghi chú của người góp nhặt:
Bà Thụy Khuê ba điều bốn chuyện với cô Hà Thủy Nguyên: “Người viết chỉ có nhiệm vụ trình bày sự kiện . Việc đánh giá là của người đọc. Độc giả đọc một đoạn viết về một nhân vật (…), rồi tự rút ra những suy nghĩ hay đánh giá về nhân vật ấy (…), và đánh giá luôn cách viết của người viết”. Tuy nhiên dàng dênh với người đọc là ông Nguyễn Văn Lục: “Bà Thụy Khuê có lẽ cần xem lại mình trong việc trích dẫn và các dùng tài liệu vì bà để lộ ra thái độ khá chủ quan, thiên lệch, một chiều.. “.
Đúng ra bà Thụy Khuê trích dẫn ở bản tin điện tử để viết chuyến đi Về quê Bắc:
“…Nhà thờ Phát Diệm (…) là một kiệt tác. Nhưng oái oăm thay lại do một người phản quốc xây nên, đó là linh mục Trần Lục hay Cố Sáu. Năm 1883, ông giúp quân Pháp 150 tay súng chiếm thành Ninh Bình. Năm 1887, ông huy động 5.000 giáo dân giúp quân Pháp tiêu diệt chiến lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng. Ông được Pháp tặng hai (sic) Bắc đẩu bội tinh. Nhà thờ Phát Diệm với sự góp công góp sức của bao ngàn giáo dân. Nhưng Cố Sáu hà hiếp con chiên, ông bị Phan Đình Phùng lúc còn làm quan, nọc ra đánh… “.
Thế là người góp nhặt xem lại Tác giả & Tác phẩm Đào Trinh Nhất vừa sọan xong năm ngóai. Bèn ăn như cũ, ngủ như xưa với ông Đào Trinh Nhất, ông là người đầu tiên dịch truyện Bồ Tùng Linh. Năm 1924, ông viết Việt sử giai thọai, nhưng trong giai thọai lịch sử Phan Đình Phùng, không có chuyện cố Sáu giúp quân Pháp 150 tay súng… Hay huy động 5.000 giáo dân giúp quân Pháp….Hoặc Pháp tặng…những 2 (hai) Bắc đẩu bội tinh. Người góp nhặt nghĩ nông chòen giai thọai đã là chuyện huyễn hoặc rồi. Ấy là chưa kể với ông Đào Trinh Nhất qua Bồ Tùng Linh: Nói láo mà chơi nghe láo chơi ấy thôi. (Tản Đà)
Lỗi không phải ông Đào Trinh Nhất, trăm sự ở bà Thụy Khuê mò vào bản tin điện tử để trích dẫn nguồn nào theo định kiến của mình. Nếu như vậy, bà đâu có cung cách của một sử gia đúng nghĩa! Vì bản tin điện tử đâu có khả tín, bởi bất cứ tiểu sử ai đó tên kèm theo chữ Hán, người góp nhặt chắc như cua đinh nguồn từ Hà Nội lấy từ Thực Lục nhà Nguyễn. Hay nói khác đi theo sử gia Tạ Chí Đại Trường với Sử Việt đọc một quyển, ông sử gia ngự sử văn đàn rằng nhiều sử gia chỉ đọc một quyển Đại Việt sử ký tòan thư để viết sử. Nào khác gì…“sử gia“ Thụy Khuê đọc một quyển Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823 (Lịch sử truyền giáo ở Nam Hà 1658-1863) của linh mục Launay để viết Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long. Thế nhưng nhắc đến ông này, “sử gia“ Thụy Khuê lại sốt tiết lên ngay!
Nhà thờ Phát Diệm xây năm 1883 toàn bằng đá, bên trong có 48 cột gỗ lim nguyên khối (người góp nhặt đã dòm thấy tận mắt: cột được nối với nhau bằng nhiều thân gỗ) lừng lững. Bên ngoài có ba khối kiến trúc như chùa nhở với mái cong, lợp ngói trông như đình làng.
***
Chùa Cổ Lễ ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, là một tuyệt tác khác. Về mỹ thuật có những điểm tương tự nhà thờ Phát Diệm. Chùa thật hoành tráng đối với khu làng nhỏ bé Cổ Lễ. Chùa lưu trữ lịch sử phật giáo. Tương truyền có từ thời Lý Thần Tông (1116-1138) do Khổng Minh Không (tên thật là Nguyễn Minh Không) tức Lý Quốc Sư, tức thiền sư Không Lộ xây. Năm 1902, chùa được hoà thượng Phạm Quang Tuyên trùng tu theo kiến trúc lương giáo hiện nay: trước chùa có tháp Cửu Phẩm Liên Hoa cao 32 mét, phong cách gô-tích, tháp đặt trên lưng rùa nằm ở giữa hồ, đầu rùa chầu chính điện. Chùa có thư viện đá, gồm các văn bia lịch sử mà tôi không đọc được một chữ, để biết nội dung. Sau lưng chùa, có hồ lớn, giữa hồ ngự trị Đại Hồng Chung, chuông nặng chín nghìn cân do hòa thượng Thích Thế Long cho đúc năm 1936.
Hai kiến trúc lương giáo Phát Diệm và Cổ Lễ, xuất xứ khác nhau, thể hiện tinh thần đạo giáo đồng quy hoà hợp, đứng vững với thời gian, vượt trên tranh chấp của con người.
***
Tôi sinh ra đời đã có ăn mày. Lúc nhỏ ở Hà Nội, bước ra khỏi cửa là thấy ăn mày. Nhưng tôi quen đi, vào Sài Gòn cũng thế, tôi cũng quen đi. Nhưng khi từ Pháp trở về nước lần đầu, tôi không quen nữa. Kỳ về năm 1984, gay go hơn nữa, tôi như con giun bị dẫm, quằn quại một mặc cảm phạm tội, nghĩ đến những bữa ăn mừa mứa bên Pháp. Khi ra Hà Nội, tôi không nuốt được nữa, bộ tiêu hoá quyết định đình công. Năm 1993 trở về tình hình đã khá hơn. Năm 1997, tình trạng đã khá hơn, tuy vẫn còn ăn mày. Tôi cũng đã đi vào các hang cùng ngõ hẻm, lên vùng núi đồi heo hút ở các bản Mường, Thổ, sâu, xa gần biên giới, chỗ núi tai mèo hiểm trở, ít ai đi tới, gặp hai chị em đứa trẻ bán hoa rừng, tôi cho nó mấy đồng, nó xua tay không lấy, nó bán hoa chứ không ăn xin.
Tôi mừng chảy nước mắt (sic)
Từ lúc tôi sinh ra đến bây giờ nước tôi mới không có ăn mày. Nước tôi không có ăn mày.
Nước tôi không còn ăn mày.
Tôi là người Bắc thì miền Bắc nhất định là quê hương tôi rồi, nhưng tại sao, ngoài tên làng Hành Thiện nơi mẹ tôi sinh ra và làng Doanh Châu quê thầy tôi, là hai cái tên tôi thân lắm, như có thể mày tao với chúng được, tôi còn chơi thân cả với nhiều tên khác, như Gia Bình, Bất Bạt, Bạch Hạc, Tiêu Sơn, Long Giáng, Châu Mộc, Vụ Bản… chúng cũng làm tôi “rung động” không phải rung động kiểu tiểu thuyết diễm tình, mà khi nghe những tên này, tôi cảm thấy như ai gọi tên mình, một tý tên mình thôi, không phải tất cả, vì nào có phải tên mình. Tôi tìm hiểu mãi không ra manh mối. Chỉ biết rằng tôi ở Pháp đã hơn nửa thế kỷ, mà ai gọi tên Lyon, Marseille, tôi cũng tỉnh bơ như không dính dáng gì đến mình.
Nhưng chưa về đến Phú Thọ, tôi đã nghe bụng dạ báo động: sắp tới Đoan Hùng rồi đấy! Hơn hai mươi năm trước, khi cả nước còn luỹ tre xanh, xe còn đi đường quốc lộ, thường ghé Đoan Hùng. Bây giờ nước đã thành thị hoá, xe đi xa lộ cao tốc, tôi mất cả tre xanh, mất cả Đoan Hùng, mất cả đồi chè Phú Thọ vì chè đã dọn sang Thái Nguyên, nhưng tim tôi vẫn nhớ những địa chỉ cũ, dù có nơi tôi chưa đến bao giờ, bởi chúng là địa chỉ của những Thế Lữ, Khái Hưng, Hoàng Cầm, Quang Dũng… truyền lại cho tôi. Như Đoan Hùng nơi Mai Hương và Lê Phong đặt phòng thám tử, hồi nhỏ đọc sách trinh thám Thế Lữ thích lắm, bây giờ đọc lại thấy hết hay. Như Long Giáng của Khái Hưng trong tưởng tượng. Như Vụ Bản nơi giam cầm Gia Trí, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Như Châu Mộc, nơi đoàn quân không mọc tóc của Quang Dũng đã đi qua… những điạ chỉ ấy nó dính vào mình, là không tẩy đi được.
Vì cần chụp một số ảnh các điạ chỉ toà soạn Phong Hoá và Ngày Nay thủa trước nên tôi nhờ anh bạn thân thổ công Hà Nội dẫn đi. Hôm ấy Thiệp chở tôi đi nhiều nơi nhưng có một nơi, bất ngờ để lại cho tôi ấn tượng mạnh và xúc động nhất, khi anh dẫn tôi đến nhà hát Tiếng Chuông vàng thủ đô. Cô Kim Chung, cô Bích Hợp… hồi đó tôi được theo thầy tôi đi coi hát mỗi lần có tuồng mới ở Hà Nội. Tôi nhớ cô Kim Chung oai phong trên sân khấu trong vai Lữ Bố, lẫm liệt hơn cả các kép Huỳnh Thái, Ngọc Toàn. Cô đội mũ có hai tai vểnh cắm con rắn giấy vươn cao tung quẫy theo bước chân đi. Cô hát giọng tiếng chuông vàng, cô cười một bên má lúm đồng tiền. Mắt cô to và sáng, khi cười nhắm tít lại rất lẳng, tôi ước mình lớn thật nhanh làm đàn ông ôm cô thoả thích. Cô Bích Hợp trái ngược với cô Kim Chung, dáng liễu yếu đào tơ, nhìn cô là tôi nhận ngay ra Kiều, mặc dù tôi chưa gặp cô Kiều bao giờ. Tôi yêu cô Bích Hợp vì cô ngâm thơ hay tuyệt, cô có bí quyết ngâm câu lục bát đến đúng chỗ đó là cô ợ lên một tiếng như tiếng nấc, ôi chao đứt ruột, đứa con nít là tôi còn thấy buồn rớt nước mắt huống chi người lớn. Tôi mê tiếng ợ của cô Bích Hợp cũng như mê tiếng chuông cô Kim Chung.
Chúng tôi ở ngõ Hà Hồi. Ngõ này đầy hàng quà, sáng nào chúng tôi cũng đi dạo một vòng thôi thì đủ những thứ quà ngày trước Vũ Bằng treo trong Miếng ngon Hà Nội để dứ bọn di cư nhớ nhà đọc thèm nhỏ rãi. Bây giờ cái ngõ Hà Hồi zic-zắc như chân bạch tuộc này không thiếu thứ gì, mỗi ngày một món, ăn cả tháng mới phải quay lại quà cũ. Nhưng cái khoái là bây giờ bạn ăn gì thì ăn, lê la thế nào, ăn rau sống không bị đau bụng nữa. Cái vụ đau bụng nó đeo theo từ hồi tôi về Sài Gòn lần đầu năm 1974 và sau đó lần nào cũng bị ít nhất một lần tào tháo đuổi Đã bị như thế, nhưng tôi vẫn không thể nhịn được những con cua đang bò, con tôm còn nhảy, luộc ngay trên bãi biển, con cá còn quẫy vớt lên rán giòn và những thứ nộm đủ loại rau sống xanh đỏ vô cùng hấp dẫn… nên chỉ vài hôm sau là tôi phá giới, và trong suốt dọc cuộc ta bà hai tháng trên “khắp nẻo đường đất nước” tôi ăn thả cửa tất cả những thứ mà Vũ Bằng chưa hề biết, chưa hề ngờ, vì tào tháo đã bị quan công đuổi bắt, đã giơ tay mỗ hàng, mỗ chịu.
Từ ngõ Hà Hồi ra Bờ Hồ rất gần nên chiều nào rảnh chúng tôi cũng đi Bờ Hồ. Bờ Hồ vẫn đẹp. Sang đông còn sót lại vài bông phượng đỏ trên cành rủ xuống mặt hồ như món quà đặc biệt dành cho người về. Cuối tuần, đường quanh hồ có những giàn nhạc sống, ca hát đủ loại. Đêm ấy, tôi mê nhất giàn quan họ Bắc Ninh, có một anh kép đóng vai ông Hoàng Mười tuyệt vời. Ông Hoàng Mười vốn gốc Nghệ An, con vua và liên hệ đến thánh Mẫu. Người diễn viên này có giọng nam đã nữ hoá. Tôi không biết tên anh, nhưng anh có một giọng lạ lùng, độc nhất vô nhị. Sau màn ca trù bất hủ, anh bắt sang chầu văn, vừa múa vừa hát như đồng cô chính hiệu.
Từ hôm đó, tối tối tôi tìm xem chỗ nào ở Hà Nội có chương trình ca trù, đến nghe, nghe nổi da gà, bởi vì trong đó có thầy tôi, hồi còn sống, người thường đi hát cô đầu. Hồi nhỏ tôi không bao giờ để ý đến ca trù, bởi thấy cái giọng ê a bất tận, nghe buồn ngủ. Từ khi đọc Chùa đàn của Nguyễn Tuân, tôi mới bắt đầu nghe, nhưng tôi thật sự yêu ca trù từ khi “quen” với vợ chồng kép Tư Chản-Đào Khuê trong Mộ Phách của Phùng Cung; cả đời gắn bó với cây đàn đáy và cỗ phách, tưởng con mình sẽ nối tiếp nghề tổ. Cách mạng vùng lên, ca trù bị kết án “đồi trụy” rồi bị cấm. Tư Chản để đàn đáy lên bàn thờ chỗ khuất. Một lần, đêm khuya, hai vợ chồng đóng kín cửa, vụng trộm đàn hát với nhau. Nhưng đứa con trai của họ đi bộ đội cầm súng thay đàn. Một ngày nó trở về đánh đàn nay đã trở thành địch, nó lôi cây đàn trên bàn thờ xuống giẫm nát, ném vào đống lửa. Tư Chản không sống sót sau đàn. Đào Khuê liệm cỗ phách trong miếng lụa và chôn phách trong ngôi mộ bên cạnh bờ ao. Mộ Phách, từ Phùng Cung, đã làm tôi hiểu từng nhịp thở, từng hơi ngân trong Tỳ bà hành, và hiểu được thầy tôi, thì người đã mất lâu rồi. Hôm đó, anh kép đóng vai ông Hoàng Mười bên Bờ Hồ đã hồi sinh cho tôi cả một thời xưa cũ.
Sau đó tôi lên Sơn Tây lễ đền Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng, thăm làng Đường Lâm, tôi đã thấy đất tổ của chúng ta và ông tổ của Phùng Cung, con người đa tài, khẳng khái, có số phận nghiệt ngã nhất trong Nhân Văn Giai Phẩm.
Vùng Sơn Tây, Bắc Ninh di tích lịch sử nhiều không kể hết, bạn có thể dành đến ba tháng mới đi hết các chùa, đền, lăng, mộ, vì đây là vùng đất cổ nhất của nước ta. Tôi chỉ nói sơ về Bắc Ninh. Bắc Ninh có nhiều chùa đẹp lắm. Hôm ấy chúng tôi đi chùa Tiêu Sơn. Chùa Tiêu Sơn nằm trên ngọn núi nhỏ thuộc phủ Từ Sơn, có dòng Tiêu Tương chảy phía trước chân núi. Bà mẹ Lý Công Uẩn, người làng Cổ Pháp, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, tương truyền, đi chơi chùa Tiêu Sơn nằm mộng thấy thần nhân, sinh ra ông. Ba tuổi được mẹ gửi vào chùa Cổ Pháp cho sư Lý Khánh Văn nuôi, đặt tên là Lý Công Uẩn. Nhưng chùa Tiêu Sơn lại còn thêm một dấu tích khác: năm 2014, khai quật được pho tượng táng, gần 300 năm trước, và xác định đó là nhục thân của Hoà thượng Như Trí, viên tịch năm 1723, vẫn còn giữ nguyên hình thể. Thượng tọa Như Trí lại là người đã cho khắc in Thiền Uyển Tập Anh, bộ sách về Phật học lâu đời nhất của chúng ta. Nhưng điều đáng tiếc nhất ở đây, cũng như ở nhiều nơi khác trên đất Bắc, là sự “trùng tu” đã làm mất dấu tích ba trăm năm, vì đã mặc lên người hoà thượng Như Trí chiếc áo cà sa vàng và tạc cho hoà thượng một bộ mặt mạ vàng mới toanh, thay vì để nguyên hình hài nhục thể cũ, hoặc làm một bản sao nếu bản chính phải đưa bảo tàng lưu giữ.
Nhiều chùa cổ ở miền Bắc cũng bị trùng tu như vậy, nghiã là sơn lại, thay cột kèo, làm nóc mới, xây thêm nhiều gian mới, tiêu biểu là chùa Trấn Quốc và Tháp Rùa Hà Nội. Khi tôi về năm 1984, Tháp Rùa còn nguyên vẹn rêu phong. Năm 1993, Tháp Rùa đã được trùng tu, trát lên lớp vôi vữa trắng hếu. Tôi nhìn muốn xỉu. Năm 1984, chùa Trấn Quốc còn là ngôi chùa thời Lý, mộc mạc hương thiền, với những cột gỗ gụ lâu đời, có chiều sâu của vĩnh cửu. Năm 1997 chùa Trấn Quốc đã đổi khác, được sơn lại màu mè, đến ngày nay các gian mới xây khin khít nhau, giống như khu Quốc Tử Giám. Bị nạn trùng tu như vậy mà Hà Nội vẫn đẹp, thì phải hiểu.
Chùa Tiêu Sơn còn có một lịch sử thứ ba mà người dân miền Bắc phần đông không biết, đó địa chỉ thần tiên trong tiểu thuyết Tiêu Sơn Tráng Sĩ vì Khái Hưng không còn được đọc sau cách mạng tháng tám. Khái Hưng mà tả cái gì, khi mình đến nơi là “nhận ra” ngay, dù tám mươi năm sau. Khái Hưng đã tạo ra không khí thần bí Tiêu Sơn, mô tả nhũng ngõ ngách trong chùa, những chỗ họp kín, những hầm bí mật có lối thoát ra những chùa khác trong vùng đồi núi Từ Sơn. Bóng Quang Ngọc, Nhị Nương ẩn hiện, xuất quỷ nhập thần, qua lời thơ truyệt vời của Phạm Thái và tình yêu diễm lệ của Trương Quỳnh Như. Đó cũng là không khí Kinh Bắc khi Hoàng Cầm về cáo tổ tiên ác mộng Nhân Văn Giai Phẩm. Chừng như người con gái Bắc Ninh nào cũng thấm nhuần lịch sử, thi ca của vùng Luy Lâu đất tổ, nên ai cũng biết hát quan họ. Bạn ra khỏi chùa, vào quán nước chè bên, là có thể được cô chủ quán thưởng cho một điệu quan họ, một khúc hát xẩm, thượng thừa.
***
Nghỉ ở Hà Nội với bà con họ hàng, bạn văn, rồi chúng tôi tiếp tục hành trình trên cực Bắc. Chuyến đi bắt đầu từ Hà Nội lên Lào Cai rồi về Sapa, thăm Bãi đá cổ, bản Lao Chải, bản Tả Van trong thung lũng Mường Hoa. Ngủ đêm tại Sapa, hôm sau đi thăm bản Cát Cát cực kỳ thơ mộng. Rồi tôi phải trở lại Lào Cai, vì đã có một cái hẹn ở Hồ Kiều, chiếc cầu bắc ngang sông Nậm Thi, gần ngã ba Sông Hồng, nối liền Lào Cai-Hà Khẩu: bên này đất Việt, bên kia đất Tầu. Bởi Hồ Kiều, 71 năm trước Nguyễn Tường Bách đã đi qua và đã viết: “Thế rồi một buổi sáng tháng 7/1946, tôi cùng với toán anh em bẩy người xuống đầu cầu sang Hà Khẩu. Đứng ở đầu cầu, nhìn lại giang sơn, núi rừng, phố xá, sông Hồng và sông Nậm Khê, dãy núi Fansipan ở xa xa. Đất nước ta rộng mênh mông như thế nhưng tại sao không một chỗ dung thân?” (Việt Nam những ngày lịch sử). Câu này đã ám ảnh tôi lâu dài: Người em út Nhất Linh hôm ấy dẫn bảy Quốc dân đảng còn sống (sót) sang Tàu. Hồ Kiều, cây cầu lịch sử bắc ngang sông Nậm Thi (hay Nậm Khê) đã bao lần chở kháng chiến quân Việt Quốc trở về đất Việt, nay thất bại, họ phải triệt thoái sang Trung Hoa. Thương đau. Buồn bã. Không còn chỗ dung thân.
Từ Lào Cai, chúng tôi đi Hà Giang để đến phần địa đầu cao nhất đất Bắc: Đồng Văn hiểm trở, kỳ thú: Quản Bạ – Mèo Vạc – Mã Pí Lèng. Biên khu hùng vĩ và thơ mộng đã trở thành sào huyệt của “phỉ”. Giọng Hoàng Cầm sang sảng bên tai: Em không biết chứ Phỉ nó tàn ác lắm, đi hành quân mà bị nó bắt thì chỉ có chết, mà không chết tử tế đâu nhá, chết kinh hoàng, chết ghê gớm, chết khủng khiếp lắm, nó trói chân tay, nó chặt ra từng khúc… Giọng anh rùng rợn qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội. Mỗi lần tôi phỏng vấn, tiếng anh sang sảng, anh luôn luôn nói ra ngoài đề, thao thao bất tuyệt, như đang ở giữa ba quân. Tôi biết Phỉ, từ anh, Hoàng Cầm. Phỉ làm Vệ quốc quân sợ hết hồn: Phỉ chuyển động trong khung cảnh ma quái của những ngọn núi đá đen tai mèo nhọn hoắt, rồi chuyền sang triền những ngọn núi xanh dốc ngược, đổ thẳng xuống vực sâu, ai trèo là mất xác. Tôi chưa từng thấy phong cảnh nào mà trời, nước, đất, đá, giao nhau trong một chuyển động quỷ quái dữ dằn, rồi những bản xa của người Mèo (Hmong) lác đác treo trên đỉnh núi, những chiếc nhà sàn cheo leo như sắp rời đỉnh núi đi nơi khác… Ánh sáng bây giờ chiếu vào những thửa ruộng ngoằn ngoèo, bao trùm hết núi này sang núi nọ, như những con giun khổng lồ, thích thú nằm cạnh nhau phơi nắng, thường trực và miên viễn.
Chúng tôi kết thúc chuyến đi thượng du bằng cuộc du thuyền trên hồ Ba Bể âm u, huyền bí. Chúng tôi một mình trên thuyền, trong buổi sớm đầy sương. Màn sương mở dần, bên bờ lộ ra những rừng cây nguyên sinh, với những hình thù kỳ quặc giống như ma khoác áo người: trùng trùng điệp điệp hàng trăm loại ma khác nhau, đứng sừng sững bên bờ hồ làm tôi rờn rợn. Giác quan bị động, tưởng tới cảnh Pháp bỏ bom Bắc Kạn năm xưa: đoàn Vệ quốc quân bỏ chạy, rơi hết hành lý, người lính Hoàng Cầm phải ném cả bản thảo kịch thơ Kiều Loan xuống hồ, học giả Nguyễn Văn Tố trúng bom, tử nạn (1).
(1) Ghi chú của người góp nhặt Qua Ký ức gặp cụ Nguyễn Văn Tố năm 1947 của cố học giả Nguyễn Thiệu Lâu: Ông gặp cụ Nguyễn Văn Tố và trò chuyện. Hôm sau cụ Nguyễn Văn Tố bị Tây nhảy dù xuống bìa rừng bản Nà Pèn, Việt Bắc cụ bắt và bị xử bắn.
Quê nội tôi ở huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thầy tôi được các anh bộ đội mật báo cho biết phải rời quê ngay trước khi có lệnh cải cách. Khi tôi bỏ nhà đi xa, ra Hà Nội, vào Nam, rồi gia đình tôi di cư. Tôi có ông bác, lúc còn sống ông luôn luôn giơ tay lên trời thề: Khi nào còn cộng sản là tao không về (2). Tôi thầm nghĩ cộng sản là một lý thuyết, nó có đầu mình chân tay gì đâu mà bác thề với nó làm chi mất công, làm sao nó nghe được lời thề lũng nhai của bác, nhưng tôi không dám nói. Năm tháng trôi qua, ông vẫn triệt để giữ vững lời thề… Khi trút hơi thở cuối cùng, ông thều thào hai tiếng Ngõ Trạm, Ngõ Trạm… nơi ông ở Hà Nội ngày xưa.
(2) Ghi chú của người góp nhặt:
Trần Nhuệ Tâm phỏng vấn Nguyễn Trọng Tạo năm 2005
TNT: Ông gặp thi sĩ/văn sĩ Việt kiều nào lần đầu ở: phi trường quán…?
NTT: Hồi đầu năm 90, tôi sống ở Huế và đã gặp ở đó khá nhiều văn nghệ sĩ hải ngoại về thăm đất nước. Hầu hết những người tôi được gặp thì trước đó tôi đã được đọc, được biết tên họ trên sách báo hải ngoại hoặc trong nước. Có người tôi đã được đọc họ từ trước 1975. Những người tôi gặp thường là những tên tuổi quen thuộc.
Thuỵ Khuê cùng chồng con xuống ga tàu hoả Huế được tôi và Hoàng Phủ Ngọc Tường đón về khách sạn và đưa đi thăm di tích danh thắng và gặp nhiều văn nghệ sĩ Huế.
(trích lược Ba mươi năm: Khỏang cách và dấu nối – Nguyễn Trọng Tạo)
Quê hương tôi, cuối cùng, là tất cả những vui buồn còn đọng lại, là tiếng hát Bắc Ninh quan họ, là giọng ngâm sa mạc cô Bích Hợp, là dãy núi tai mèo đầy thổ phỉ, là tiếng hồ Ba Bể thì thầm trong rừng ma, là giọng nói ngọng e lờ, e nờ… tôi đã về lại “làng Đại Từ” của tôi trước khi trí nhớ xa dần, xa dần…, không còn tìm được lối về đâu nữa.
Paris 23/4/2019
Les Issambres, Yên Cơ, 16/7/2019
Người Góp Nhặt:
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
Nguồn: Trần Trọng Kim, Trần Anh Tuấn
Nguyễn Thị Chân Quỳnh