T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không : Tác Gỉa Tác Phẩm – Cổ Ngư

 

Tiểu sử :Tên thật Nguyễn Linh Quang, sinh năm 1963 tại Sài Gòn. Hiện sống và làm việc tại Paris.

Tác phẩm :

Đêm nghi ngại, một số truyện ngắn và thơ đăng trên Văn Học, Thế Kỷ 21, Văn, Hợp Lưu..v..v..

 

Mục Lục:

Viết về Cổ Ngư : Mai NinhĐọc Cổ Ngư qua “Đêm nghi ngại”; VNNP – Phỏng Vấn Cổ Ngư.

Đọc văn Cổ Ngư : Chốn về ; Cửa sổ mở nhịp ba ; Mờ mờ nhân ảnh ; Ở nơi nào tôi cũng tìm được cõi riêng; Hà Nội mùa nước cạn.

Phụ đính : Thống muội ; Đĩa nhạc ”Nhật thực”… ; Hãy nằm im nghe …-

 

 

 

Đọc Cổ Ngư qua Đêm Nghi Ngại

Mai Ninh

Tôi đã đọc truyện ngắn của Cổ Ngư trên đôi tạp chí hải ngoại, không thể nói là nhiều, cái thú bắt gặp một tâm cảm trùng hợp thì đã có – như cùng người bạn nhìn lên vòm trời hiu hắt mùa thu và bỗng thấy nhớ về một không gian nào đó còn đầy vun trong trí nhớ. Nhưng đến khi được cuốn Đêm Nghi Ngại, đọc suốt 19 ‘‘truyện’’ của Cổ Ngư, lại nhận rõ thêm : không gian ấy rộng và thân quen hơn nữa đồng thời cũng cô đơn đến độ nào, cho những người sống ngoài quê hương, nhạy cảm.

Để chữ truyện trong ngoặc kép vì trong Đêm Nghi Ngại một số sáng tác khá gần với tùy bút hay ký, hai thể loại dễ khiến cảm xúc của nhân vật thấm sâu vào người đọc. Trong một tập gồm nhiều truyện ngắn đến thế, thường đọc giả ít tìm ra đường chỉ nối giữa những câu chuyện có nội dung khác biệt, thế nhưng cuốn Đêm Nghi Ngại vẫn để lộ một mẫu số chung : mảng màu nổi bật trên nền truyện Cổ Ngư là từ những vệt cọ vẽ lên tâm tình di dân. Và điều đặc biệt hơn nữa là những tâm tình ấy không mấy liên quan đến hoàn cảnh, mưu cầu, điều kiện sinh sống như đã tràn trải dưới nhiều ngòi bút Việt Nam khi họ viết về những người lìa xứ đến nay. Nói chung, di dân trong Đêm Nghi Ngại ít gặp ( hay cả là không ) hoàn cảnh khó khăn, họ hội nhập vào đời sống sở tại : công việc, ngôn ngữ, sinh hoạt, giao tế…tất cả đều có thể xem là bình thường, có những thành công hơn cả mức bình thường. Rồi tình yêu, rồi hôn nhân với người ‘‘cùng quốc tịch không cùng giòng giống’’ ở quê hương thứ hai ấy phần đông cũng đến rất tự nhiên, đằm thắm, không vướng mắc, có cả hạnh phúc rạng ngời : ‘‘Hoa đèn lấp lánh. Rượu champagne với gà tây quay sau lễ Nửa đêm. Con Josiane và thằng Denis tranh nhau mở quà. Mắt ông, mắt Sylvie gặp nhau, say sóng sánh. (…) Ông Hạnh ao ước có Sylvie ngồi bên cạnh mình lúc này để thầm thì tình tự…’’[1].

– Vậy điều gì rút ra hay để lại từ các câu chuyện ngoài quê hương trong tác phẩm Cổ Ngư ?

– Tôi tìm thấy trên những dòng văn ấy nỗi hoài nhớ, sự chênh vênh cùng niềm cô đơn dài dặc.

Truyện Cổ Ngư dù có dẫn ta lạc vào khu phố hỗn độn phía sau ngôi thành cổ một xứ Bắc Phi lạ hoắc, quẩn quanh thế nào cuối cùng cũng đẩy ta trở về với ước mơ một chuyến bay đáp xuống Sài-Gòn quen thuộc, một Sài-Gòn bốc mùi bùn sình đọng trong con lạch giữa thành phố (Tản Mạn Một Chuyến Đi). Truyện có mở ra trong một quán đêm rượu tràn nghiêng ngửa với ‘‘những cao bồi già vừa ngã ngựa và những đoá phù dung về chiều chờ rã cánh’’ thì sau đó lại trải dài trên con đường thời thơ thiếu của một quê nhà xa biệt, có lá me rơi trên áo dài và lót thảm chân guốc mộc (Truyện Của Hắn). Nhưng tưởng nhớ ấy không chỉ là một cái hoài mông lung bồi hồi lãng mạn, trong văn Cổ Ngư nó nghẹn thở, nín hơi, đâm nhói vào màng óc : ‘‘Tôi một mình vùng vẫy, chống chọi. Không có ai để chia để xẻ nỗi nhớ dùm tôi, không có ai để tôi xả đi, để tôi vứt bớt cho nhẹ gánh quá khứ. Michel ngồi kế bên, tỉnh queo. Làm sao nó hiểu nổi vẻ mặt đờ đẫn đần độn của tôi lúc này. Nó vẫn giữ nguyên cái háo hức của kẻ phiêu lưu tìm vùng đất lạ. Như tôi đã từng có, những giờ phút đầu, khi chưa bị nỗi nhớ hành hạ đến phát điên, phát sốt lên’’[2]. Cái cô đơn ấy được tác giả mô tả chi li, hình tượng cùng cảm giác xoáy sát không ngờ : ‘‘Và thống khoái hả dạ trong cái đau như thời bé tí cầm cây kim gút nhấp nhấp rồi đâm lút vào chiếc mụn bọc mưng mủ. Chất lỏng phọt ra. Nhói. Sợ. Nhưng cái tưng tưng của da bị căng, cái nhưng nhức của thịt bị nén cũng mất. Sướng. Thoả mãn. Nhẹ nhõm. Tôi chợt nhận ra nỗi nhớ cũng như chiếc mụn độc, cần được giữ cho chín, rồi phải đem khơi, đem cạy, nặn cho vỡ toé ra, để lũ chân rễ ngòng ngoèo của nó không còn kịp đâm sâu vào những giấc mơ…’’2.

Mà nào tác giả chỉ nói đến nỗi hoài nhớ se sắt trong lòng di dân Việt, còn có cái đau đáu ‘‘lâu lắm rồi’’ của một ông già Ả Rập nương thân trên đất Pháp :

‘‘- Cậu đi chơi Maroc thật à ?

– Vâng, cuối tháng này.

Ông Aziz ngập ngừng nhìn tôi đang lựa mấy trái cà chua trong cửa tiệm chạp phô nhỏ xíu của ông.

– Tôi…tôi muốn nhờ cậu một chuyện. À, mà cậu định đi thăm những đâu ?

– Tôi cũng chưa biết nữa. Tính tôi thích lang thang…nhưng có lẽ tôi sẽ chọn miền nam Maroc.

– Vậy thì tuyệt quá ! Nếu có ghé thành phố Ouarzazate, cậu chụp hộ tôi một tấm ảnh nhé ?

– Ouarzazate nằm ở đâu vậy ông Aziz ?

– Cậu không biết Ouarzazate à, nó là cửa ngõ chính để vào sa mạc. Ngày xưa tôi ở đó. Lâu lắm rồi…’’2.

Vì đâu con người ngóng vọng về quá khứ, về một chốn kia đã không còn là cuộc đời thiết thực hiện tại ? nếu chẳng do một phần từ nỗi cô đơn; và cũng vì cảm thấy một mình trên con đường dài xa lạ, xa lạ và gay gắt nắng nên người ta mới ngoái tìm một bóng cả thân cây quen thuộc thời nào. Hoài vọng với cô đơn thường là cặp bài trùng. Cái vọng tưởng khiến cho cuộc hành trình trên con lộ mới càng nặng nề khó bước, dù đã là chọn lựa dấn thân vẫn có gì vô định, hụt hẫng, đơn độc. Hẳn nhiên, đã bao năm xuôi cuộc đổi đời, trong văn chương Việt nỗi cô đơn ấy không chỉ xuất hiện dưới ngòi bút Cổ Ngư. Nhưng ở những trang viết này, nó không đi qua một cảnh đời, một câu chuyện rồi dứt. Cô đơn sôi sục dưới sóng biển, vật vờ giữa thành phố, toả loang trên đồi núi. Nó thư thả gậm nhấm linh hồn một thiếu phụ đương xuân ở truyện ngắn Xanh Mơ: ‘‘Tôi ngã vật xuống giường. Cứ để nguyên áo váy mũ giầy. Cứ để nguyên tóc cuộn rối trong khăn quàng cổ, tóc đổ ra che khuất cả mặt mày, che tối tăm mờ mịt năm tháng (…) Mùa xuân vẫn về, bình thường hay bất thường, với người hay với tôi ? Nhắm mắt lại, muốn quên hết, muốn xoá nhoà, muốn quét dọn, để làm lại từ đầu’’, rồi đốt lụi tâm hồn một ông lão 70 đã thu ẩn đời sống về một triền núi quạnh hiu, hạnh phúc rực rỡ vụt bay đi mất hút nhường chỗ cho ánh đêm lấp loà ngày tháng trong Đồng Vọng : ‘‘Ông Hạnh cứ ngồi như thế, nhìn phần sáng từ từ lấn dần phần tối của từng vật thể cho đến khi bóng đêm chiến bại, trốn sâu trong những kẹt tủ gầm bàn, ông mới kéo chăn rời giường, và nhận ra tiếng chó tru rờn rợn trong đầu cũng vừa dứt.’’ Trong truyện Bướm Đêm, Cổ Ngư đã tài tình biến cô đơn vừa thành kẻ đồng hành vừa là con mắt người ngoại cuộc ngó xuống bước chân rời mòn mỏi: ‘‘Paris nhìn Tuyên đi qua bằng những con mắt khép hờ. Một dáng còm cõi, xiêu xiêu. Lầm lũi trở về như con dơi mù bay theo đường siêu âm. Lầm lũi leo lên sáu tầng lầu. Lầm lũi vào nhà, không gây tiếng động để khỏi làm thức giấc con, chỉ đủ cho vợ hé mắt nhìn…’’. Lời văn ở đây gợi vọng tiếng chân Bruce Springsteen trên con đường đêm Philadelphia3:

‘‘Tôi bước trên đại lộ cho đến khi chân nặng như đá

tôi nghe giọng những người bạn tắt dần rồi mất đi

ban đêm tôi có thể nghe máu mình trong mạch

đen và thì thào như mưa…’’

Và để hoàn tất tâm trạng di dân, tác giả không quên cái phần thứ ba là nỗi lao đao giữa hai miền đất. Trong tập truyện ấy, người đọc sẽ gặp một người đàn ông Pháp thế hệ ‘‘chân đen’’4, sinh sống ở Algérie với cả thời thơ ấu hồn nhiên trong vườn ô liu xanh ngát tình bạn của mấy đứa trẻ hàng xóm Ả-Rập, với tuổi đôi mươi mê đắm hạnh phúc vợ con nơi thủ đô phồn hoa, vậy mà sao ông ta không thoát khỏi những trăn trở trong sự lựa chọn giữa hai quê hương, hai dân tộc ? Để lúc lên tàu vượt biển Địa Trung Hải về giải phóng đất tổ Pháp quốc khỏi bàn tay quân Đức, vẫn xao lòng khi nhận ra‘‘ Đất nước bên kia biển đóng xầm cửa lại sau lưng. Đất nước bên này biển dằn lòng mở ra nẻo sống, dửng dưng lạnh nhạt ’’5. Và có đó, một người đàn ông Việt nhìn xe cộ rào rạt vô tình bên bờ sông Seine nhưng hồn xoay trở, ray rứt về một tình bạn thuở đôi mươi mà bây giờ, mấy mươi năm sau, nó bị căng thẳng chỉ chực đứt lìa giữa hai đầu sợi dây ý thức, hai vị trí đối lập : bên đây tên tù binh sĩ quan biệt phái chế độ cũ, phiá kia kẻ chiến thắng giảng viên tuyên huấn. Nhân vật đã đặt câu hỏi : nếu bất ngờ nhìn thấy bạn trong đám du khách dạo chơi nơi bờ sông thơ mộng này, nơi mà tác giả gọi một cách bùi ngùi là ‘‘chỗ-tôi-ngồi-mà-không-phải-của-tôi’’, thì hai ông già mặt đã nhăn nheo sau bao năm tháng sẽ làm gì cho phải phép ? Để rồi tự trả lời bằng ước mơ giản dị, đáng thương : ‘‘Chỉ một điều mà tôi hằng mong mỏi, là đừng thấy cảnh con cái tôi hằn thù chém giết con cái Tạo, dù đối với nhau, chúng là người dưng, không ràng buộc tình nghĩa’’6.

Nội dung xúc tích khí hậu chuyển đổi, 19 truyện trong một tập là nhiều, dù đa số tương đối ngắn, có truyện chỉ hơn ba trang, nhưng không gian mời mở mà tôi cảm nhận thường xuyên hơn cả vẫn là khung trời cảnh vật Paris. Tác giả cư ngụ ở đó nên Paris phà không khí thở, rải ánh sáng ngày và đèn đêm trên nhiều màn kịch đời dựng lên trong tác phẩm. Con người sáng chiều hồng hộc đuổi bắt xe điện giờ đi làm giờ tan sở, métro ồn ả ngoằn ngoèo, đầy dẫy người ăn xin và thất nghiệp, métro dưới hầm che dấu những vết thương loang lở giùm cho cả thủ đô mệnh danh ánh sáng trên mặt đất. Nhưng đừng quên, với tác giả ‘‘métro trác táng khi đêm về và văn hoá giữa ban ngày ban mặt ’’7. Hầm métro có những dàn nhạc di động: ghi-ta, phong cầm Tây Âu Đông Âu đua chen với những điệu kèn Nam Mỹ và giọng a capella của cô gái du mục xứ Ru-ma-ni. Người ta nhìn tháp Eiffel cao vút rực đèn huyền hoặc trong đêm và người ta cũng thấy cả những con đường chật chội lát đá trẹo gót giầy, xỉn ám bụi thời gian. Paris trong truyện Cổ Ngư đầy hỗn tạp và mâu thuẫn, để thương yêu, chê trách và hoà đồng…cho dù thế nào đi nữa.

Những cảm nhận về đời sống, về con người dồn nén rồi vỡ ra trên từng trang viết mà hầu hết xuyên qua những câu chuyện tình. Vâng, tình yêu tràn ngập trong Đêm Nghi Ngại. Mong manh hồn nhiên, thể xác dục tình, đằm thắm đam mê, lững lờ nghi kỵ…đầy đủ tất cả bản chất mạnh mẽ nhất trong tặng vật lạ lùng và quý giá này của tạo hoá dành cho con người. Cổ Ngư đã tận dụng con chữ, văn phong uyển chuyển, linh động. Không phải do viết về cô đơn hay hoài niệm mà văn ấy lúc nào cũng buồn hay man mác. Có vòng métro-boulot- dodo rất sôi nổi tếu vui ý nhị. Có cuộc hội ngộ trong quán cà phê khu phố Latin của đôi tình nhân cũ, dí dỏm lẫy hờn như vẫn thuở hai mươi. Có những câu chuyện thực như đời sống đang xảy ra trước mắt, nhưng có cả cái viết huyền ảo trong truyện cuối cùng mà tác giả đã dùng làm tựa sách. Truyện ngắn Đêm Nghi Ngại, một truyện viết chặt chẽ, mang khí hậu lạ, một cô gái Tây Ban Nha đứng đường chờ khách, một chàng thanh niên gốc Bắc Phi, cộng thêm đôi linh hồn vật vưỡng của thời thế chiến. Trong đêm đông Paris trăng chết, những con người này đã ‘‘gặp nhau’’ hay không gặp nhau (biết đâu là như thế) ? Và có nên chăng đặt thêm câu hỏi : ta đang ở đâu, thời điểm nào, đấy có phải là thời của chúng ta ? Hay chỉ cần biết ta đang rơi giữa đêm, cùng bóng tối phủ đầy nghi ngại.

Cuối tháng 11, 2005.

[1] truyện Đồng Vọng

[2] truyện Tản Mạn Một Chuyến Đi

3 Streets of Philadelphia, lời và nhạc của Bruce Springsteen, giải Oscar 1993 về nhạc trong phim Philadelphia.

4 Tác giả Cổ Ngư chú thích : người Pháp gốc Âu, sinh sống tại các nước Bắc Phi (nhất là nước Algérie) từ nửa sau thế kỷ 19 cho đến khi các nước này tuyên bố độc lập, trong thập niên 60 của thế kỷ 20.

5 truyện Chuyện Kể Của Một Người Pháp Bình Thường.

6 truyện Bên Sông Nước Cuốn.

7 truyện Luẩn Quẩn Métro-Boulot-Dodo.

 

Phỏng vấn với Văn Nghệ Ngàn Phương

Văn Nghệ Ngan Phương: Mến chào anh Cổ Ngư (CN). Nhân dịp xuân về, xin mến chúc anh và gia đình một năm mới an khang như ý. Được biết anh hiện sống và làm việc trong ngành điện toán tại Paris và vùng phụ cận. Ngoài ra anh còn viết văn, làm thơ và soạn nhạc. Xin anh cho biết cái nào đến trước với anh, âm nhạc, cây viết hay chiếc máy điện toán ?
Cổ Ngư: Trước tiên, tôi xin cảm ơn VNNP đã cho tôi cơ hội được trò chuyện với độc giả. Nhân dịp đầu năm, xin kính chúc ban biên tập VNNP và quý độc giả một năm Nhâm Ngọ nhiều dịch chuyển, thay đổi trong chiều hướng thuận lợi, cùng bình an và may mắn. Bây giờ, tôi xin trả lời vào câu hỏị Sau khi ‘ bị ‘ học cầm bút và cầm đuã, tôi đã mê dùng bút chì và cọ để vẽ từ bé (mãi đến năm học tú tài vẫn còn ôm mộng trở thành kiến trúc sư). Về sau, thời trung học, tập mandoline, rồi guitare, thử sáng tác nhạc, làm thợ đến khi sang Pháp, năm hai mươi sáu tuổi, tôi mới bắt đầu viết truyện ngắn đầu tiên, vài năm sau nưã mới bắt đầu kiếm sống bằng nghề điện toán.
VNNP: Xin anh giới thiệu thêm về mình với độc giả VNNP, những sở thích của anh khi rảnh rỗi, Choisy-le-Roi và những bài thơ, những truyện ngắn chẳng hạn.
CN: Hiện giờ, rảnh rỗi một chút là tôi… ngủ, bù cho những đêm thức nghe con ‘ hát opéra ‘ vì đang tuổi mọc răng ! Lúc trước, có được chút thì giờ, tôi đi bơi, hoặc xách máy ảnh lang thang trong Paris, vừa săn hình vưà tìm ý, vưà giúp đầu óc thư giãn. Nếu trời xấu, tôi soạn tem, đọc sách hoặc nghe nhạc. Khi nào cả hai cùng rảnh, vợ chồng rủ nhau đi xem phim hay vào viện bảo tàng ngắm tranh, ngắm tươ.ng. Chúng tôi, cùng một số bạn bè, còn hoạt động trong Thư viện Diên Hồng, phụ trách việc cho độc giả mượn sách báo vào cuối tuần, thỉnh thoảng cũng có tổ chức những chương trình gặp gỡ tác giả – độc giả, giới thiệu ca khúc mới, sinh hoạt thiếu nhị Hiện TVDH đang chuẩn bị chương trình giới thiệu 2 CD ‘ Minh Hoạ Kiều’ với phần dẫn giải cuả bác Phạm Duy vào đầu tháng 04 sắp tới tại Paris… Mạch Nha & tôi hiện đang ở Choisy-le-Roi, ngoại ô phiá đông nam cuả Paris, cách quận 13 (chinatown) cuả Paris chừng 20 phút xe hơi và cách trung tâm Paris chừng nưả giờ lái xẹ Chúng tôi ở bên bờ sông Seine, tận lầu bảy, nên nhìn cảnh thì thích, nhưng gặp muà bão, nghe gió rít cũng khiếp lắm !
VNNP: Độc giả VNNP không lạ gì với những bài thơ trữ tình của Cổ Ngự Thơ của anh bình thản hơn là khắc khoải trong tình yêu, đó có phải vì thơ xuất phát từ một trái tim bình yên, yêu cuộc sống không thưa anh ?
CN: Đã có nhiều người nói với tôi điều nàỵ Đúng là tôi ít làm thơ ‘ thất tình ‘, nhưng hình như lại dồn những ‘nỗi đau riêng / chung’ vào các truyện ngắn. Nhìn chung quanh, tôi nghiệm ra một điều, khi đã gắn bó với việc sáng tác, hình như chẳng ai có một ‘ trái tim bình yên ‘ cả, có khi dưới cái bề mặt tưởng như phẳng lặng kia, lại dội đập những con sóng dữ…
VNNP: Hình như anh thích làm thơ tự do hơn là thơ có vần điệu, tại sao ?
CN: Thật ra, những bài thơ lục bát, năm chữ, bảy chữ, tám chữ chắc cũng chiếm tỷ lệ chừng 1/3 tổng số những bài thơ tôi đã làm từ trước đến naỵ Khi những vần thơ đến trong đầu, tôi không tự bó buộc mình phải theo một thể thơ nào cả. Lục bát, cứ để lục bát, tự do, cứ gieo vần tự dọ Sau khi ‘ bản nháp ‘ cuả bài thơ thành hình, tôi mới để ý đến phần kỹ thuật, tìm những vần, chữ, hình ảnh ‘đắc’ nhất với ý đang có để thay thế, thêm, bớt… Ngoài ra, ngược với điều vưà nêu, tôi cũng đã thử nghiệm ‘vẽ thơ’, hoặc làm thơ ‘bát lục’ với sự đảo lộn các vần bằng trắc trong câu. Những thử nghiệm này hoàn toàn mang tính kỹ thuật.
VNNP: Truyện ngắn của anh xuất hiện thường xuyên trên các tạp chí như Văn, Chủ Đề. Có thể nói anh là một trong những nhà văn trẻ sáng tác rất mạnh đứng cạnh các tay viết gạo cội khác. Truyện ‘Tứ Bình’ (VNNP 119)của anh được xây dựng độc đáo, nội dung mới mẻ. Anh tìm những ý tưởng mới lạ này từ đâu ra, nghĩa là anh có chịu ảnh hưởng một luồng tư tưởng văn học mới từ đâu không ? Cổ Ngư, Mạch Nha, bé Nguyên Xuân, Trương Gia Vy và Nguyễn Xuân Hoàng
CN: Văn Học là tạp chí văn chương đầu tiên đăng các truyện ngắn cuả Cổ Ngự Được sự khuyến khích cuả nhà văn Nguyễn Mộng Giác, tôi viết đều tay hơn, và đã có dịp cộng tác với các báo ơ ? Mỹ, Úc như : Thế Kỷ 21,Việt, Văn Tuyển, Hợp Lưu, Văn, Chủ Đề, Phố Văn, cũng như các báo tại Pháp như Âu Du, Nhân Bản và các báo liên mạng VNNP, Suối Nguồn. Từ đầu, tôi tự nhủ, về nội dung cũng như hình thức, mỗi truyện ngắn, mỗi bài thơ phải khác những gì đã viết trước đó, và phải khác những gì người khác đã giới thiệu đến độc giả. Trên lý thuyết thì như vậy, nhưng thực hành được không dễ dàng chút nào ! Những năm sau này, tôi thực sự thích thú (tuy không hoàn toàn cùng quan điểm) với những bài viết, những đề nghị cuả các anh Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngo.c-Tuấn, Nguyễn Trung Hối về việc đổi mới văn chương VN, cũng như những truyện dài, ngắn độc đáo cuả Phạm Thị Hoài, Trần Thị NgH, Miêng, Mai Ninh, Đỗ K., Nam Dao, Đinh Linh…
VNNP: Trong ‘Bài Nghị Luận Đầu Năm Lẻ Một’ đăng trên Chủ Đề số 5 mùa xuân 2001, anh có viết: ‘Xin hãy chấp nhận cái mới trước đã, xin hãy thử nghiệm trước đã, rồi sự sàng lọc của thời gian và đám đông (chưa chắc đã là sự lựa chọn hợp lý) sẽ quyết định sau.’ Anh tự cho anh là ‘chuộng cái mới, trong đời thường cũng như trong công việc sáng tác’. Theo anh, thế nào là cái mới trong thi ca cũng như trong văn chương ? Có cần một sự đổi mới nào không ?
CN: Như đã trình bày ở câu trên, ‘mới’ có nghiã là không lặp lại, không đi vào vết xe cũ, không dùng những hình ảnh, thành ngữ, điển tích đã sáo, mòn, ‘mới’ đồng nghiã với sáng tạọ Xin nói rõ ở đây là tôi khá dị ứng với những cái ‘mới’ lên gân, những cái ‘mới’ để cho mà có với người tạ Xin lấy một thí du.. Phở có thể xem làmột trong những món ăn truyền thống cuả người Việt. Thế mà, mỗi lần đọc lại bài viết về phở cuả nhà văn Nguyễn Tuân, người ta lại có cảm giác ‘khám phá’ ra được nhiều điều mới mẻ về cái món ăn ‘cổ lỗ sĩ’ nàỵ Vì sao ? Vì nhà văn, với bút pháp tài tình và nhận xét bén nhạy, đã lột tả được những cảm xúc cuả chính mình, không vay mượn (hoặc có, nhưng rất ít), sao chép, bắt chước ai cả.
VNNP: Nhà văn Cổ Ngư còn sáng tác nhạc. Xin anh cho biết thể loại nhạc anh sáng tác là gì, cổ điển, dân ca hay thời thượng ? Anh có xử dụng nhạc cụ nào không ?
CN: Lúc bé, tôi có chơi mandoline, lớn hơn một chút, tập thêm guitare, nhưng chỉ học các hợp âm để vưà tự đệm vưà hát nghêu ngao những lúc… buồn. Tôi cũng được học một ít thanh nhạc ở trường, về sau, đươc bố tôi chỉ bảo thêm những kiến thức cơ bản về nhạc lý. Khoảng năm 15, 16 tuổi, tôi có viết vài đoạn nhạc không lời cho mandolinẹ Đến năm 18 tuổi thì viết ca khúc đầu tiên ‘Em Trưng Vương’, để hát chơi với bạn bè trong lớp. Từ đó vẫn chỉ sáng tác nhạc nhẹ, vì với vốn học ‘nưả chừng xuân’, tôi biết mình chưa đủ khả năng để viết được các thể loại nhạc khác.
VNNP: Anh nghĩ thế nào về vấn đề phổ nhạc từ thi ca? Vi đã được nghe anh phổ nhạc bài ‘Chicago, Phố Gió’ từ thơ Phạm Ngọc, rất haỵ và cảm hứng đến với anh từ đâu ?
CN: Vì không biết ngâm thơ nên tôi tìm cách phổ nhạc để ‘hát thơ’. Theo ý riêng cuả tôi, đó là một cách để tìm sự đồng cảm với tác giả. Ngược với thói quen thường làm thơ tự do, tôi lại hay chọn những bài thơ ‘trong khuôn khổ’ để phổ nhạc. Tôi đã phổ nhạc được chừng mười bài thơ, trong đó có hai bài ‘Muà Xuân’ & ‘Lúc chết’ cuả nhà thơ Nguyên Sa, ‘Mẹ – Quê Hương’ cuả Dỗ Trung Quân, ‘Crépuscule d’Automne’ cuả nhà thơ Pháp Henri de Régnier (cuối tk 19 đdầu tk 20), ‘Chicago, phố gió’ cuả anh Phạm Ngọc, ‘Nhiệt đới giưã đời anh’ cuả anh Nguyễn Nam An, ‘Viện cớ’ & ‘Nhón gót’ cuả chú Du Tử Lệ Thường thì tôi giữ nguyên câu, chữ cuả bài thơ khi phổ nhạc,
đôi lúc thay đổi cách phân đoạn cho phù hợp với nhạc điệụ Cũng có khi thay đổi nhiều, như bài ‘Crépuscule d’Automne – Đêm Thu’, tôi đặt nhạc cho lời thơ Pháp trước, rồi mới dịch sang lời Việt, thành ra bài hát có một giai điệu và hai lời Pháp – Việt. Bài ‘Nhiệt đới giưã đời anh’, tôi gộp vào đó hai bài thơ cuả anh Nguyễn Nam An. Còn trong bài ‘Chicago, phố gió’, tôi có thêm vào vài câu không có trong bài thơ cuả anh Phạm Ngọc. Gửi nhạc soạn lại tặng tác giả, cứ nơm nớp bị la vì dám sưả thơ’, nhưng cũng may, đều được các anh thương tình ‘thông qua’, mừng húm !
VNNP: Anh có dự định gì trong sáng tác thơ văn cũng như âm nhạc sắp tới không ?
CN: Hiện thời, tôi đang cố gắng ‘không bỏ lỡ cơ hội’, nghiã là dù bận cách mấy, nhưng hễ có ý, có hứng, là ráng gồng mình viết cho rạ. Còn dự định ra mắt sách hay CD nhạc trong tương lai gần thì… không, vì Mạch Nha & tôi đang dành ưu tiên số một cho chương trình ‘sản xuất baby’, và như thế, sẽ tốn rất nhiều thì giờ, tiền bạc & sức lực để ‘đầu tư’ vào đó. Hiện nay, các tác giả
thường phải tự đứng ra ấn hành thơ, truyện, nhạc, sau đó lại phải tự đi tổ chức các buổi ra mắt, rồi đi bỏ mối, thu tiền… Mới nghĩ đến đó thôi, tôi đã mất hết can đảm rồi…
VNNP: Anh nghĩ thế nào về lực lượng trẻ hiện nay tham gia vào việc sáng tác thơ văn tại hải ngoại ? Trẻ đây có nghĩa là từ khoảng trên 30 tuổi, so sánh với các tay viết kỳ cựu đã trên 60 thường hay xuất hiện trên các tạp chí. Lớp trẻ mới sáng tác theo anh có ai đáng chú ý ?
CN: Ở Pháp, tôi được biết Trần Vũ và Y Chi có những sáng tác đã được nhiều người chú ý từ khi chưa đầy 30 tuổị . Độc giả người Pháp biết đến Linda Lê từ khi cô còn rất trẻ. Ở Mỹ, có Hoàng Mai Đạt, sau này có thêm Nguyễn Quý Đức, Đinh Linh… Ở Na Uy có Dương Kim. Ở Đức có Lê Minh Hà. Tôi chắn chắn rằng còn nhiều bạn trẻ Việt Nam khác trên khắp thế giới đang sáng tác thơ, văn, nhạc, tranh, tượng… Có thể họ viết bằng tiếng Việt hay bằng ngôn ngữ cuả xứ sở họ đang sinh sống, đối với tôi, tất cả đều rất đáng khuyến khích. Gần đây, Thơ Thơ (báo liên mạng Suối Nguồn) có tặng tôi hai tập thơ ‘ Đồng cảm ‘ và ‘ Sỏi đá muôn màu ‘. Bên cạnh các tác giả đã nổi tiếng, tôi thấy có sự xuất hiện cuả nhiều cây viết trẻ, và trong số họ, đã có người tìm cách khai phá con đường riêng, để đưa ra thể thơ mới như đôi bạn Đức Trí-Quế Anh, hay những suy nghĩ, cách nhìn, hình ảnh mới như Mộ Dung, Thơ Thơ, Phượng Vỹ. Chỉ có một điều, không hiểu tại sao thơ cuả họ không thấy xuất hiện trên các tạp chí văn học có tiếng tại hải ngoại… Về truyện ngắn, vì không biết tiểu sử, nên tôi đành ‘đoán’ là các cây viết Thơ Thơ (khác với Thơ Thơ báo Suối Nguồn), Nguyễn Tường Phong, Nguyễn Hoài Phương cũng còn khá trẻ.
VNNP: Xin cám ơn nhà văn Cổ Như và xin anh gửi vài lời với độc giả VNNP.
CN: Tôi hy vọng, cuộc phỏng vấn ngắn vưà rồi đã tạo được một ‘nhịp cầu nho nhỏ’ giưã người viết và người đọc. Xin cảm ơn các bạn đã theo dõị Cho đến hôm nay, việc đọc và viết trên các báo liên mạng Việt vẫn còn là điều khá mới mẻ. Và các bạn, những người chủ trương VNNP cũng như người góp bài, người đọc bài, đều đã vượt qua được những trở ngại ban đầu để duy trì tờ báo, để ủng hộ cái mớị Đó chính là một điểm son đáng ghi nhớ. Xin mến chào các bạn.

VNNP

 

Đọc văn Cổ Ngư

 

Chốn về

Tôi xúc động khi bác Từ, ông anh thứ hai của bố tôi, vỗ vai thân mật nói: – Bác sang thăm Paris lần này là để giối già đấy cháu ạ! Cả đời cứ mơ tưởng được nhìn thấy sông Seine, bây giờ có chết tức thì, bác cũng thoả da..
– Ấy ấy, bác đừng có nói gở, lỡ mà thành sự thật, khổ cho cháu lắm bác ơi!
Bác cười . Giống hệt nụ cười bố tôi, đó là nụ cười của ông nội, thấy hết cả răng lợi hàm trên.
– Bác nói là nói thế thôi, theo văn chương câu cú, chứ bác còn khoẻ như vâm thế này, chết làm sao được, mày đừng có lo!
Bác cháu tôi đang đứng trên đồi Montmartre, ngay dưới chân nhà thờ Thánh Tâm. Bác Từ vung tay chỉ, say sưa nói như chính mình là hướng dẫn viên du li.ch.
– Chỗ có hai cái tháp vuông xa xa kia là Notre Dame, cháu nhi?? Cái đỉnh tròn tròn ở gần, bác nghĩ là vòm điện Panthéon. Tháp Eiffel đâu không thấy, chắc là bị khối nhà này che mất rồi, còn cái mái óng ánh mặt trời bên góc phải, có đúng là điện Invalides không cháu ?
– Đúng đó bác. Dân Pháp chơi sang, bây giờ có cái mốt thích dát vàng. Vòm điện Invalides, mấy pho tượng hai đầu cầu Alexandre đệ tam, rồi mới đây, đỉnh của cây cột Obélisque dựng trên quảng trường Concorde, trước vườn Tuileries nữa đó bác! Biết đâu vài năm tới, bác lại có dịp sang Paris, sẽ thấy cả cái tháp Eiffel cũng được dát vàng nốt!
– Cần gì cháu, tháp Eiffel rực đèn trong đêm, đâu có khác gì đã được dát vàng.
Bác Từ quả có óc nhận xét và tài tưởng tươ.ng. Tôi đã ngắm cái tháp Eiffel ấy sáng đèn từ chân đến đỉnh bao nhiêu lần, mê vẻ đẹp huyền hoặc trong đêm của nó, nhưng thực tình, chưa bao giờ có ý liên tưởng giữa vàng và ánh sáng cả. Bác Từ hỏi tôi:
– Cái khối cao cao đen đen kia là gì hả cháu ?
Tôi nhìn theo hướng tay chỉ. Một vệt sậm nghễu nghện trên nền trời xanh lơ . Một khối cứng, đặc, đối chọi hẳn với cái thanh mảnh đầy khoảng không của tháp Eiffel.
– Tháp Montparnasse, ngôi building cao nhất Paris đấy bác ạ!
– Chả đẹp!
Phục bác Từ lăn lóc! Bác nói đúng phóc ý tôi . Nếu có quyền, chắc tôi sẽ bứng cái toà nhà vô duyên ấy đem bỏ vào cùng rọ với anh em của nó ở khu La Défense . Tháp Montparnasse như ngón tay giữa chổng ngược hỗn hào trên cái nền khá bằng phẳng mái đá đen ống khói đỏ của Paris. Cái ngón tay ngỗ nghịch thách thức, chẳng khác nào chiếc gai trước mắt, ngứa ngáy khó chịu … Thôi, quên nó đi! Tôi quay nhìn bác Từ. Hai tay nắm chặt lan can, tóc râu phất phơ trong gió, bác đang tận hưởng những giây phút của ranh giới giữa mộng và thực, của mơ ước ấp ủ bao năm với cái hiện tại nhìn thấy, sờ được. Bác đến cùng Paris lần đầu, nhưng đâu đó đã tha thiết nỗi nhớ nhung của một ngày trở về chốn cũ. Paris, đối với bác, như người tình chưa từng gặp, nay bỗng đột ngột nồng nàn một nụ hôn. Paris đã biết chờ đợi bác. Và bác Từ của tôi chung tình, không thốt lời phụ rẫy với một Paris dầy dẫy những con đường nhỏ hẹp, cong queo, gập ghềnh đá lót, một Paris nâu xỉn vì rêu bụi thời gian và ô nhiễm đô thi.. Bác Từ và Paris ôm choàng lấy nhau bằng vòng tay khít khao đầy cảm thông của một đời chờ đợi . Cần gì vẻ hào nhoáng bên ngoài . Cần gì những đại lộ thênh thang, những thương xá giăng đèn kết hoa, những cửa hàng rực rỡ sang tro.ng. Chỉ cần tấm lòng. Đã bao lần tôi buồn nản khi dẫn mấy người anh em họ từ Mỹ hay Việt Nam sang, đi một vòng thăm Paris. Thành phố chỉ nhận được ở họ những cái biũ môi, những cái nhìn khinh thị hoặc câu ỡTưởng gì… ữ không ngớt thốt ra từ cửa miê.ng. Không có sự đồng cảm. Chẳng hiểu vì cái nếp quen của cuộc sống khiến họ dị ứng với cảnh quang mới, hay vì lũ mặc cảm tự tôn, tự ti lẩn khuất đâu đó ngăn không cho trái tim họ rung theo nhịp đập của Paris. Hoặc biết đâu, những vẽ vời viển vông trong trí tưởng về một kinh đô ánh sáng lơ lửng giữa trời đã biến Paris thành thần tượng sụp đổ ngay từ khi vừa chạm mặt. Hiểu được nhau đâu phải lúc nào cũng dễ dàng…
– Mình đi, cháu!
– Vâng ạ!
Chúng tôi chậm rãi leo lên những bậc thang vàng lá muà thu . Sau khi viếng nhà thờ Thánh Tâm, tôi sẽ đưa bác Từ thăm Place du Tertre, khu vực của những họa sĩ vẽ tranh ngoài trời, rồi vào một cái quán nhỏ, vưà nhâm nhi cà-phê hoặc sô-cô-la nóng, vưà nhìn thiên hạ chen chúc nhau trong những cửa hàng bán đồ lưu niệm hay xuôi ngược theo mấy con dốc hẹp dựng đứng. Ở đây gió lồng lô.ng. Gió đánh rối mớ tóc và chòm râu bạc của bác Từ, cũng không quên quất vào mặt tôi những lằn buốt nhức. Năm nay dường như muà đông đến sớm. Cách đây hai ngày, có lúc tuyết và lá đã vèo vèo bay cạnh nhau . Tôi quấn chặt khăn quàng, kéo cao cổ áo khoác, tay thọc sâu trong túi, cúi đầu bước.
– Bác lạnh nhiều không ạ?
– Lạnh, nhưng bác thích. Ở mãi Sài Gòn với Cali, làm sao bác tìm được cái không khí này . Nhìn mày, lại nhớ đến thời trai trẻ của bác ở Hà Nội, cũng áo măng-tô, cũng khăn phu-la, bác lại còn diện cả nón phớt nữa đấy nhé!
– Bố cháu bảo, thời đó, bao nhiêu con gái đẹp Hà Nội, bác quen hết!
– Bố mày chỉ được cái cứ nói thượng nói tướng lên thôi . Bác quen nhiều, nhưng quen hết thế nào được!
– Cháu chỉ mơ được một phần mười cái đào hoa của bác thôi, là cũng đã sướng mê tơi lên rồi!
– Mày bết thế cơ à?
Tôi nhìn bác Từ cười cười, hơi quê quê . Cái thằng tôi nhát hơn thỏ đế, từ thuở bé đã được mẹ dạy: gặp con gái bằng lưá hay lớn hơn vài tuổi phải gọi bằng chị, xưng em, lớn hơn chút nữa, phải gọi bằng cô, xưng cháu, cho … lễ phép, để chứng tỏ mình là con nhà có giáo dục. Cái cách xưng hô nghiêm trang kính cẩn ấy đã làm tôi hụt mất tất cả những dịp may . Có nàng nhìn tôi thương hại, có nàng tỏ vẻ khó chịu ra mặt, cũng có nàng thở dài tiếc rẻ. Tôi biến thành một con chó nhỏ, tự giam mình trong chiếc lồng pha lê tinh khiết, cứ giương mắt nhìn những người thiếu nữ lướt qua bên cạnh, ngó tôi rồi ngoảnh mặt bước đi . Với bạn gái cùng lưá đã thế, ngay cả đến khi tiếp chuyện với những cô nàng trẻ tuổi hơn, cứ hễ mở miệng là chữ ỡtôiữ nhảy ra trước và chữ ỡcôữ lục tục tiếp chân theo, khô không khốc, thẳng đuồn đuột như anh lính hô nghiêm nghỉ trước khi chào cờ. Cứ trơ thổ địa mãi vì sự dị ứng của bầy con gái, tôi đâm ra bực tức rồi sinh thù hận cái khuôn phép nền nếp đã bo bo giữ lấy từ bấy lâu nay . Cuối cùng, tôi cũng ghè được cái vỏ ốc nặng oằn lưng ấy vào đá, đập cho vỡ tan đi .
– Nhưng, ít ra bây giờ, cháu cũng phải có bồ rồi chứ? Mấy anh mấy chị nhà bác lập gia đình hết cả rồi còn gì…
– Vâng ạ!
– Đầm hay Việt, mày nói cho bác nghe được không?
– Da…. đảo ạ!
– Ha??
– Bạn gái của cháu gốc đảo Réunion…
– Da đen?
– Dạ, ngăm ngăm, có lai chút trắng, chút Tàu …
– Bố mẹ mày có ý kiến gì không?
– Bố cháu chẳng nói gì, nhưng mẹ cháu không bằng lòng ra mặt. Cháu chỉ dám đưa cô ấy về nhà giới thiệu có một lần rồi …
– Bác hỏi thế thôi, chứ bác đã đoán trước được thái độ của bố mẹ mày rồi! Thế… cháu tính sao ?
– Cứ dây dưa cù nhầy bác ạ! Cháu hiểu lòng bố mẹ, nhưng với cô ấy, cháu cảm thấy thật thoải mái, dễ chịu, không mắc miú khó khăn như khi tiếp xúc với con gái Việt Nam. Hơn nữa, tụi cháu thương nhau lắm, một tuần mà không gặp được nhau là nhớ phát điên phát sốt lên…
Bác Từ nhìn tôi, ánh mắt thông cảm.
– Để bác sẽ nói giúp cho cháu . Bác hiểu tình cảnh của mày . Ngày xưa, mẹ mày phạm hai cái tội ỡtày đìnhữ, vừa là người Nam, lại vừa theo đạo gốc, ông bà nội cứ lắc đầu nguầy nguậy, bác Cả với bác phải nói vào mãi mới xong. Có lúc tưởng đã không thành…
– Cảm ơn bác, bố mẹ mà bằng lòng nhận cô ấy làm dâu, thế nào cháu cũng mua vé mời hai bác sang đây dự đám cưới, lại còn để dành cả cái thủ lợn cho ông mai nữa …
Bác Từ vỗ mạnh vào lưng tôi, cười ha hả:
– Mày đã hứa thế thì làm sao mà bác không mê! Được trở lại Paris thêm một lần nữa … Mà phải nhớ tổ chức đám cưới vào muà xuân nghe cháu, bác nghe nói muà xuân ở Paris đẹp lắm, hoa nở khắp nơi …
Bác Từ bỗng im bặt. Tôi biết bác lại đang rơi vào cõi riêng. Còn hồn tôi bỗng dưng nhảy muá. Tôi mong được gặp em ngay, để kể cho em nghe về lời hứa của bác Từ, để nhìn đôi mắt nâu của em long lanh, những sợi lông mi cong mượt, và đôi môi em mềm mại quyến rũ. Tôi nhớ em biết chừng nào, và tôi hiểu, tôi yêu em nhiều lắm!
Bác cháu tôi bước đến khu vẽ tranh. Vắng ngắt. Dăm ba bức tranh lắt lay trong gió. Vài người họa sĩ đứng co ro, vưà tán chuyện vưà thở khói vào mặt nhau . Đâu có tên du khách điên khùng nào chịu ngồi trân người trong cái lạnh cắt da này dăm phút để làm mẫu cho những nét bút phác họa lại chân dung. Chân xoải nhanh, áo mũ tùm hụp, họ bước qua, lướt qua, tia mắt quét một đường lên tranh treo, lên mặt người vẽ, lên mấy khung bố dở dang bày biện nét cọ thô, vài mảnh croquis lằng ngoằng đường chì mảnh. Tôi không hiểu với thời tiết này, một ngày làm việc ngoài trời của người họa sĩ khu Montmartre đem lại cho anh bao nhiêu tiền, hay đó chỉ là thói quen, là tính lãng mạn, là lòng yêu nghề, là cái không khí thân thuộc mà anh không thể thiếu được, phải hít thở để sống còn và tạo tác. Du khách đến rồi đi, bỏ tiền vào túi người họa sĩ và mang về một bức tranh, vài tấm chân dung vẽ theo lối truyền thần hoặc hí họa, chứng tích một chuyến viếng thăm Paris, để có thể sẽ treo chúng dọc theo cầu thang lên gác, trong nhà bếp, trong phòng ngủ hay xếp xó, rồi quên bẵng chúng đi trong một đáy va-li hoặc góc kho tối tăm nào đó. Còn ỡchàng ve ve hát suốt muà hèữ kia, may ra cũng biết tích góp chút ít phòng bị cho ngày đông, chắc không đến nỗi phải tìm đến chị kiến cần cù nhưng ích kỷ, ngửa nón xin chút tình thương. Những chàng ve ve – họa sĩ đồi Montmartre, đứng trên cao gió thốc mà hứng dùm cái lạnh cho Paris…
Bác Từ đứng tần ngần mãi trước bức tranh nhỏ xiú vẽ cảnh đường phố với một tiệm bán bánh mì. Rồi bác chép miệng, dứt khoát phẩy tay:
– Đi, cháu . Bác thấy cái miniature này xinh xinh, nhưng đã lỡ cằn nhằn bác gái chuyện đi đến đâu cũng tha những thứ lắt nhắt về tích đầy nhà, thành ra … thôi!
– Bác thích thì cháu mua biếu bác, biếu cả hai bác luôn thể.
– Không, không… Thôi mình đi, cháu!
Ai đó nói cái tên đôi khi cũng vận vào số mệnh con người, tôi nghĩ chắc không đúng với trường hợp của bác Từ. Bác Từ của tôi chẳng từ tốn cũng không từ từ! Bác kéo tôi băng qua Paris, từ bắc xuống nam, từ hữu ngạn qua tả ngạn. Bác muốn thăm cho bằng hết các ngóc ngách, viếng cho bằng sạch những di tích của thành phố ngàn năm này . Đi cùng bác, Paris-như-tôi-biết bỗng hoá lạ, hoá mới, biến đổi đến không ngờ. Tôi đang khám phá lại một nơi chốn mà qua bao năm chung chạ ơ thờ, tôi đã sống vội, sống lướt trên bề mặt với con mắt khép hờ, với đôi tai vô cảm và những thói quen đông cứng. Bác Từ tặng tôi cả Paris của bác, Paris-trong-sách, Paris-trong-phim, Paris-trong-nhạc, Paris-trong-mơ . Tôi, thoáng ân hận, tặng lại bác một Paris thô sần, trần trụi hơn. Paris với những dãy ghế gỗ tầm thường trong nhà thờ Đức Bà, không bọc nhung đỏ, chẳng gấm xanh. Paris rác rưởi, cứt chó, mặt người trong métro lạnh như tiền, hè phố vắng nụ cười, những quán cà-phê kề cà cả ngày chuyện văn nghệ đóng cửa dần. Nhưng tôi biết, như một người từng trải, bác bỏ qua hết những lỗi lầm nhỏ nhặt của người tình chung. Paris, trong mắt bắc, đôi khi còn óng ả cả một chút nắng Sài Gòn. – Phố này giống đường Nguyễn Huệ quá cháu nhi?? Khúc hồi nãy lại hao hao Tự Do . Bác có cảm tưởng như mình sắp về nhà. Sắp về nhà…
Bác Từ lẩm bẩm một mình những gì, tôi không nghe rõ. Bác nói thầm với bác, hay với Paris, với Sài Gòn, với ai ? Tôi tôn trọng những giây phút ấy . Người già có nhiều hành động mà bọn trẻ không hiểu nổi, hay chưa thể hiểu nổi . Hệ quy chiếu mỗi thời mỗi đổi, mỗi thế hệ một khác đi . Chúng tôi nối gót nhau đi trên con đường có hai đầu sinh-tử, nhưng đôi khi không bước chồng lên dấu mà tẽ ngang, rẽ nhánh, bẻ vòng, nhảy quãng. Bọn trẻ thành người già. Người già đi đến cuối đường, bước qua cửa tử. Một thế hệ mới vưà nảy sinh. Tôi đứng giữa con đường một chiều (hay trong những vòng luân hồi xoắn ốc, tùy theo hệ quy chiếu), nhớ lời bố mẹ dạy: phải kính trọng người lớn tuổi . Vâng! Nhưng còn thói quen ngoan ngoãn nghe theo lời răn đe của họ, những người lớn tuổi, từ lâu tôi đã quên, từ lúc tôi nghĩ đã tự mở riêng cho mình một lối đi, chưa ai có dịp bước qua, sao vội lấy kinh nghiệm từng trải của đời họ ra mà áp đặt? Một câu khuyên bảo . Xin nhận lãnh và xin phân tích. Một cưỡng bức vâng lời . Xin từ chối thẳng thừng. Con đường tôi khai phá, tôi đi, và tôi chịu trách nhiệm về những gai sắc, đá nhọn cũng như hoa thơm bướm lạ trên ấy . Con đường mà tôi hy vọng, một ngày nào đó, sẽ hoan giao và trùng chặp lên con đường đời của người tôi yêu …
– Này, cháu! Không hiểu sao mấy tháng gần đây, bác lại lẩn thẩn nghĩ nhiều về cái chết, lại còn nghĩ đến cái xác phàm này sau ngày chết nữa mới buồn cười chứ! Mày biết tính bác, chân chạy, nên không muốn nằm im dưới mộ tí nào cả! Bác cũng chẳng đủ kiên nhẫn để ngồi trên kệ sớm tối ngẫm kinh trong chuà. Nghe bác gái dọa mà bác hết cả hồn! Bác chỉ muốn được thiêu, rồi đem tro rải hết xuống biển, vưà sạch, vưà mát. Biết đâu sóng Thái Bình Dương lại cuốn tro của bác từ bờ bên này rải đều vào cát biển xứ mình ở bờ bên kia . Bác về nhà, thảnh thơi . Bác về Sầm Sơn, bác về Long Hải . Mày còn nhớ Long Hải không, cháu ? Làm sao tôi quên được cái sướng mê người của thằng bé con lon ton cầm vợt chạy theo ông bác đi bắt tôm bắt cá? Những con hàu sống bác dạy tôi nạy, vắt chanh vào, ăn tươi . Những vỏ ốc tù và nặng chịch bác mua lại của lũ trẻ làng chài, tặng tôi hớn hở. Bác Từ của tôi ngày ấy cao lớn, vạm vỡ, da màu đồng, mắt sáng. Tôi nhiều lần được công kênh ngồi trên đôi vai rộng vững chắc của bác, nhìn ra biển. Biển ban ngày xanh như ngọc, giáp với trời ở nơi có cánh buồm nâu thấp thoáng. Biển ban đêm đen mịn, đầy sao và lân tinh, chông chênh ngọn đèn người câu mực. Bác Từ dạy tôi bơi, ôm nước vào người, yêu biển đầy lòng. Bác dạy tôi, thằng bé thành thị cứng khô trong xi-măng cốt sắt, gạch ngói và bụi bậm, mở hồn mở trí vào thiên nhiên bao la, cảm điều hùng vĩ, mến cõi thoáng đạt. Long Hải với bác Từ. Tuổi thơ và một chút cay cay ở đầu mũi .
– Nhớ chứ ạ! Thỉnh thoảng cháu vẫn nằm mơ thấy được về Long Hải, chạy nhông nhông nghịch sóng như ngày xưa .
– Ừ, lúc ấy mày bé tí, chim chỉ bằng quả ớt! Bây giờ cao hơn bác gần cả cái đầu rồi! Mà này, cháu, bác nhờ cháu điều này nhé. Khi nào bác chết, mày cố nài bác gái với các anh các chị đem thiêu bác rồi thả tro ra biển, cháu nhé!
Tôi nhìn những gợn sóng sông Seine sóng sánh phản chiếu trong cặp mắt đùng đục của bác Từ, mỉm cười đồng loã:
– Vâng, thưa bác, cháu hứa!

Cửa sổ, mở nhịp ba

Trí nhớ con người kỳ lạ và đôi khi cũng thật kỳ cục. Có những chuyện bâng quơ không đâu, mà lại cứ ghim cứng vào óc, mãi không chịu nhả. Với cái tên Thanh Tâm Tuyền chẳng hạn. Tôi còn nhớ như in, một hôm, lúc chưa đến mười hai tuổi (nghĩa là chưa đến 30.04.1975, tôi chắc chắn như vậy), đang đứng chơi vơ vẩn, tự nhiên nghe bố nói: “Một cửa sổ, hai cửa sổ, ba cửa sổ…, Thanh Tâm Tuyền làm thơ như thế, ai mà chẳng làm được!” Ngó trước ngó sau, chỉ mình tôi đứng đó. Không hiểu lúc ấy, bố phát biểu cảm tưởng về thơ ông với thằng bé con, hay đang ta thán bâng quơ một mình? Tôi cứ ngạc nhiên mãi, không hiểu tại sao trí nhớ kém cỏi của mình lại cứ nhất định khư khư giữ cái kỷ niệm chẳng có gì đáng nhớ ấy cho mãi đến tận bây giờ?
Thuở bé, đối với tôi, mỗi người lớn là một điều kỳ vĩ, bố lại còn vượt cao hơn những người khác. Ông to lớn, ông đẹp, ông oai, ông được những người chung quanh nể vì, trọng quý. Ông giỏi trong chuyên môn, lại tài hoa, chơi guitare hawaiienne, có nhiều kỷ niệm đẹp với nhạc sĩ Đoàn Chuẩn. Ông yêu những tình khúc của Phạm Duy, Văn Cao, Trịnh Công Sơn, Phạm Đình Chương, Từ Công Phụng, Cung Tiến, nghe đi nghe lại mấy cuộn cassette thu tiếng hát Thái Thanh, Khánh Ly, Lệ Thu, Duy Trác, Sĩ Phú. Nhưng sách trong nhà thì hiếm. Ngoài sách báo thiếu nhi của anh em tôi, còn lại, đa số là sách khảo cứu về nhân chủng học, một ít truyện Pháp, một ít truyện dịch. Thơ, tuyệt đối không. Vậy mà sao mấy câu thơ Thanh Tâm Tuyền từ đâu lọt vào mắt bố để ông xổ ngang ra một lời bình, và nó thản nhiên nằm chết cứng trong trí nhớ của tôi hơn ba mươi năm qua. Ngẫu nhiên? Tiền định? Chẳng biết, chỉ có điều, thuở ấy, bố nói gì, cũng đúng! Nghĩa là: thơ Thanh Tâm Tuyền không… hay.
Có một thời mới lớn, tuổi choai choai, ngựa non háu đá, trên con đường vượt thắng của mình, tôi quyết định đạp gãy hết mọi chuẩn mực, nhảy phóc qua những bảo ban, chỉ dạy, ý kiến áp đặt của người chung quanh, kể cả của bố! Thế là, tôi đi tìm đọc… thơ Thanh Tâm Tuyền! Nhưng tìm ở đâu ra bây giờ? Bếp lửa cũng đã cháy thành than tro cùng với bao nhiêu “văn hóa phẩm đồi truỵ” khác hết cả rồi! Cuối cùng, nhặt đâu đó được hai bài. So với những dòng thơ của Tố Hữu đang phải nhàu nhàu học thuộc lòng để có tài liệu mà trích dẫn khi làm văn nghị luận, “Bài ngợi ca tình yêu” và “Phục sinh” thật lạ lùng và bí hiểm. Cũng có tổ quốc, có Việt Nam đó, nhưng sao lại cho cống rãnh với gót giày miệng uống tro than vào đứng bên cạnh? Con ngựa buồn lửa trốn con ngươi là sao? Cười lên sặc sỡ có sai ngữ pháp tiếng Việt không? thanh tâm tuyền có gì đặc biệt hơn Trần Thiện Thanh mà lại phải gào lên những ba lần trong một bài thơ ngắn? Và còn chẳng viết hoa tên mình! Đọc tới đọc lui vài lần, tôi đi đến kết luận: không, thơ của ông này không dễ cảm, nhưng chắc chắn không dễ làm như lời bố tôi đã phán!
May sao, trong một cuộn băng cassette đã bắt đầu nhão, tôi nghe được Thái Thanh hát “Đêm màu hồng”. Mấy câu thơ trúc trắc được âm nhạc thổi vào một luồng sinh khí mới, và tôi thuộc gần hết giai điệu cũng như lời bài hát chỉ sau một lần nghe. Chất thô ráp của thơ Thanh Tâm Tuyền đã được nhạc Phạm Đình Chương phủ lên một lớp verni bóng ngời. “Đêm màu hồng” quả là một tình khúc hiếm hoi của hạnh phúc gia đình, không uỷ mị, không ồn ã, nó êm, lướt, bay vút, mở rộng thênh thang, với em là lá biếc là mây cao là tiếng hát, với tôi đẹp như hình tôi, với cả bàn chân những đứa con…
Nhiều năm sau, tôi được nghe chính giọng Phạm Đình Chương hát lên những câu thơ gân guốc trong bản nhạc cùng tên: “Bài ngợi ca tình yêu”. Nhiều năm sau nữa, có vài lần, tôi vừa lái xe giữa Paris vừa lẩm nhẩm điệu valse nhịp ba:

Đi đi anh đưa em vào quán rượu
Có một chút Paris
Để anh được làm thi sĩ
Để anh được làm thi sĩ
Đi đi anh đưa em vào quán rượu

Rồi đột ngột từ trưởng qua thứ, chuyển nhịp chậm, lơi boston, rơi. Lắng:

Hay nửa đêm Hà Nội…

“Dạ khúc” biến thành “Dạ Tâm khúc”, “Lệ đá xanh” phân thân giữa ca khúc cùng tên của Cung Tiến và một nhạc phẩm khác của Phạm Đình Chương: “Nửa hồn thương đau” [1] . Cứ như thế, thơ Thanh Tâm Tuyền từ từ thấm vào tôi bằng con đường vòng: âm nhạc.
Hôm qua, bố tôi vẫn còn nói chắc như đinh đóng cột: “Một cửa sổ, hai cửa sổ, ba cửa sổ…” là thơ Thanh Tâm Tuyền, và ông giữ nguyên ý kiến của mình về mấy câu thơ đó, không hề suy suyển. Đúng vào khoảng tuổi của bố cách đây ba mươi năm, bây giờ, tôi chỉ còn biết vái tứ phương, hỏi hơn một chục đàn anh, đàn chị văn nghệ, những nhà thơ, nhà văn cùng thời hay gần thời Thanh Tâm Tuyền ở Việt Nam, Pháp, Mỹ, đâu đâu cũng chỉ nhận được những cái lắc đầu không biết hoặc câu trả lời lấp lửng: “Hình như là thơ của ổng, còn trích từ bài nào thì… chịu!” Internet với Google cũng không giúp gì tôi hơn. Chẳng lẽ, với tôi, mấy câu thơ ấy rồi sẽ trở thành huyền thoại, cứ lơ lửng mãi, không cách nào biết được căn nguyên?
Nhưng, chỉ rõ một điều, từ nhiều năm nay, đã có những người kêu lên thanh tâm tuyền lúc này hay lúc khác, và vì thế, ông không còn cô độc, tự khẳng định ngay từ tập thơ đầu tiên của mình.
Choisy-le-Roi cuối tháng 03.2006

[1]Nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã giữ nguyên giai điệu đoạn “Đôi khi anh muốn tin ôi những người khóc lẻ loi một mình” của ca khúc “Lệ đá xanh” (thơ Thanh Tâm Tuyền, nhạc Cung Tiến) để kết thúc nhạc phẩm “Nửa hồn thương đau” của mình. Gần đây hơn, bài thơ “Lệ đá xanh” cũng đã được nhạc sĩ Phạm Quang Tuấn (Sydney- Úc) phổ nhạc.

Nguồn: Tạp chí Văn số đôi 113-114, tháng 05 & 06.2006

Vẫn còn mùa xuân

Dù mùa xuân đã đến đây
Vẫn còn tiếng khóc thầm,
Triệu nụ hoa đang thoát thai,
Viên đạn vẫn trên nòng…

(Xanh lòng phai tàn – Trịnh Công Sơn)

Mờ mờ nhân ảnh

Hằng may mắn được hưởng gia tài. Sau khi ông chồng già da trắng qua đời, Hằng bán hết mấy thửa ruộng nho gia truyền, hầm rượu, cơ xưởng, cả tòa lâu đài giưã vùng Bourgogne và ngôi biệt thự xinh xắn nằm cheo leo trên sườn đá gần Antibes. Ðược bao nhiêu, bỏ hết vào nhà băng. Một phần tư tiền lời để làm việc từ thiện. Một phần tư để trang trải thuế má, chi phí cho căn lầu bốn phòng hơn trăm mét vuông ngay Paris, quận mười lăm, với terrasse rộng nhìn thẳng ra tháp Eiffel. Còn lại là quần áo, nhà hàng và những chuyến du lịch nối tiếp nhau bất tận. Niềm đam mê của Hằng. Du lịch. Nhìn và tận hưởng vẻ đẹp muôn màu muôn cảnh của trần gian. Hằng nghiện đi như đàn ông nghiện thuốc lá, nghiện cà-phê, như đàn bà nghiện shopping, nghiện ăn vặt. Hằng có thể kiên nhẫn ngồi bó người mười mấy tiếng đồng hồ trong khoang phi cơ chỉ để dự một đêm carnaval vũ hội hóa trang. Rồi lại đi. Lại bay đến một nơi chốn nào đó không định trước trong cuộc hành trình. Những trạm dừng chân nhấp nháy đỏ trên quả địa cầu tròn xoay. Buồn thì dăm ba bưã. Vui thì vài tuần, một tháng. Những khách sạn sang trọng. Những món ăn thức uống cầu kỳ, đẹp mắt, lạ miệng. Những người tình ngẫu nhiên, không nhớ tên, không nhớ mặt. Nhưng vẫn là xúc cảm của lần đầu tiên, khi da thịt chạm vào nhau, rạo rực. Trộn lẫn với nỗi ngùi ngùi của lần cuối cùng, lúc chia tay. Những người tình như vậy, bước vào và bước ra khỏi cuộc đời Hằng, y hệt như mấy tấm vé máy bay, đi thẳng từ sắc tay Lancel vào thùng rác khách sạn. Chẳng có gì để lưu luyến, nhớ nhung. Rốt cuộc, Hằng chỉ giữ lại đúng ba địa chỉ trong sổ điện thoại. Coulibaly Lamine, Abidjan, Côte d’Ivoire. Ðen mun, đen đồng, bóng loáng, săn chắc. Thân hình đẹp như tượng tạc, với một cái giống ngoại khổ và một sự dẻo dai ngoại hạng. Taylor Alice, Castro street, San Francisco. Cô bé của xứ huyền thoại với mái tóc Barbie và giọng soprano mỹ nhân ngư. Ðôi mắt và cặp vú con gái. Ðôi môi và cặp mông đàn bà. Da mát như ngọc, ngọt như sưã, trắng mịn tựa thạch cao. Người thứ ba, là tôi. Ba mươi sáu tuổi, Pháp gốc Việt, hành nghề nha sĩ tại chợ Tàu, quận mười ba, Paris, và sống ngay trong phòng mạch. Ngoài cái đặc điểm đồng tộc, đồng chủng, tôi chẳng thấy mình có thêm ưu điểm nào khác khả dĩ có thể cạnh tranh được với những người tình của Hằng. Sắc đẹp của tôi chắc chắn thua Alice xa lắc xa lơ rồi. Còn cái thân hình bộ-xương-cách-trí một mét bảy mươi lăm, năm mươi lăm ký-lô của tôi thì làm sao dám đem so sánh với cơ thể lực sĩ ba, bốn, năm môn phối hợp của Lamine cho được ? Có lần, cầm lòng không đậu, buột miệng hỏi, tôi được Hằng trả lời gọn ơ :

– Tại anh có giọng nói truyền cảm, giống giọng nói của bố em ngày xưa !

Chỉ vậy thôi ư ? Hằng tiếp ngay thêm :

– Anh không thấy sao, đi tới đâu, em cũng gọi phone cho anh đều đều, một hai tuần mà không nghe được giọng anh, thèm phát sốt lên được !

Tôi chưa kịp giận đã vội hài lòng thỏa mãn. Vậy là được rồi, đủ để tôi, lúc đó, yên trí hãnh diện được Hằng cho xếp giọng nói mình ngang hàng với những vẻ đẹp cổ điển của Hercule-Lamine và Venus-Alice. Nhưng rồi dần dần, tôi đâm nghi ngờ. Giọng nói khào khào vịt đực của tôi không truyền nhiễm thì thôi, chứ truyền cảm truyền cúm nỗi gì ! Hay Hằng ngạo tôi có giọng nói phều phào của mấy ông già rụng hết cả răng ? Giống giọng nói của bố Hằng ? Thảo nào ! Sao tôi cả tin đến thế ! Có thể vì Hằng lập lờ đánh lận con đen, khi, trước đó không lâu, đã than với tôi nỗi nhớ da diết những bắp thịt đá tảng của Lamine và làn da bụng tơ lụa của Alice. Tôi cứ theo phương pháp suy diễn thuộc nằm lòng từ ngày còn đi học mà rơi tòm ngay vào cái bẫy của Hằng. Cái bẫy tơ nhện êm ái Hằng giăng ra để con bướm ngu ngơ tôi hân hoan xòe cánh vểnh râu sa đầu vào. Quen Hằng đã hơn ba năm, nhưng những giờ khắc gần nhau, tom góp lại, chỉ vừa nhỉnh hơn tháng rưỡi. Con toán cộng khá chính xác những ngày Hằng ghé Paris nghỉ ngơi, kiểm soát thư từ, thuế má, tiền bạc, dấu lặng lấy hơi chớp nhoáng giưã hai câu hát viễn du dài thậm thượt. Thường thì bao giờ Hằng cũng viết thư hoặc điện thoại báo trước ngày về chừng một tháng. Thường thì bao giờ tôi cũng thu xếp công việc để đến đón Hằng ở phi trường, để hưởng cái thú quanh quẩn bên Hằng trong căn lầu thoáng-rộng-đẹp-sạch ở quận mười lăm vài ngày ngắn ngủi. Duy nhất có một lần chúng tôi hụt nhau. Hằng cho biết tin sau khi tôi lỡ hứa đi trượt tuyết với lũ bạn. Ðâu đó đã sẵn sàng, không thể hồi lại được. Chẳng hiểu lần ấy, vắng tôi, Hằng có tìm được một người tình qua đường bất chợt gặp giưã Paris hay không ?

***

Abidjan, ngày .. tháng .. năm ….

Anh ới ời,

Làm như Lamine hắn khùng ! Hôm qua ở phi trường, taxi vừa rồ máy là hắn đã đè ngay em ra hôn túi bụi và còn đòi làm ẩu nưã chứ ! Em mà không thụi cho một quả vào bụng, dám tài xế taxi lo ngó màn cụp lạc diễn ở băng sau mà gây tai nạn lắm à ! Về tới nhà thì thôi, em mê tơi buông tay thúc thủ, để Lamine muốn hành gì thì hành. Hai đứa cùng thèm nhau, trời có gầm cũng không dứt ra nổi. Lamine cứ cuồn cuộn, cuồn cuộn dồn dập va đập vào em. Em hứng hết, em hứng trọn. Gỗ rừng Lamine chắc thớ, đá núi Lamine vạm vỡ, còn thịt da em mông muội tiền sử. Em nhận hết, mê hoảng, cuồng nhiệt, hân hoan. Ðến sáng thì hắn phê, ngủ bù tới giờ này cũng chưa chịu dậy… Ngày mai, em muốn ra biển, phơi nắng một chút. Da đã bắt đầu nhợt nhạt rồi, phải vàng ròn như ổ bánh mì vừa ra lò, nhìn mới đã con mắt, phải không anh ?

Hôm nay anh bẻ được mấy cái răng rồi ? Có được nữ thân chủ nào sợ quá mà bấu cứng lấy tay nha sĩ không ? Lần tới về Paris, chắc phải nhờ anh đánh bóng lại nụ cười, ok ?

Hằng

***

Bénarès, ngày .. tháng .. năm ….

Nghe nói tới sông Ấn, sông Hằng đã lâu, hôm nay có dịp tận mắt nhìn dòng sông em mang trùng tên, thất vọng ê chề ! Bẩn ơi là bẩn ! Tấm bưu ảnh anh cầm trong tay, ngó vậy mà không phải vậy ! Ðàn ông Ấn da sậm mắt sâu. Mấy anh trai trẻ mày râu nhẵn nhụi, mặc polo trắng, nhìn hấp dẫn lắm. Ðàn bà còn khoác sari nhiều, đủ màu, trông cứ như một hội hoa xuân. Mắt họ tuyệt đẹp !

Hằng

***

… Bonjour, vous êtes au numéro 01.45.85.99.99. Je suis absent pour le moment. Veuillez laisser votre message après le bip sonore. Je vous réponderai. Merci. (*)

Bip…

Ðang thèm đấu láo với anh bằng tiếng việt mà lại vớ phải mấy câu tiếng pháp cứng ngắc phát âm rất là an-nam-mít trong máy nhắn tin. Chán bỏ xừ ! Anh khỏe không ? Biết em đang ở đâu không ? Tiện đường, em lấy xe lửa chạy sang Népal để ngắm mây lang thang trên nóc nhà thế giới. Himalaya hùng vĩ ngoài sức tưởng tượng của em. Người dân thì hiền như đất vậy đó ! Em sẽ lấy vé để ngày mốt đi thăm lũ kangourou. Liên lạc với anh sau nghe.

Bip… bip… bip…

***

Chẳng lẽ Hằng nói thật ? Chẳng lẽ lâu lâu Hằng cũng thèm nghe cái giọng khào khào vịt đực của tôi ? Hay vì tôi biết nói tiếng việt ? Không có lý. Người Việt, bây giờ ở xó xỉnh nào trên trái đất này mà chẳng có. Ở Rabat, người Việt nhân chả giò bằng thịt cừu. Ở Rio de Janeiro, người Việt bán gỏi cuốn dạo trên bãi biển. Rồi radio, TV. Bao nhiêu băng tần nheo nhéo, ra rả tiếng cha sinh mẹ đẻ của Hằng, của tôi. Cứ gì Hằng phải gọi từ mãi tận đâu đâu để nghe cái giọng tôi tán láo vài phút. Chẳng lẽ Hằng mê cái giọng nửa basse nửa baryton chẳng giống lông, không giống cánh của tôi ? Kỳ cục ! Tôi biết lão chồng tây trắng già lẫn Lamine tây đen trẻ điêu đứng vì giọng đầm của Hằng. Còn Alice đã chẳng từng, theo lời Hằng kể, đắm đuối cả giờ nhìn môi miệng Hằng phun hàng tràng anh ngữ phèo phèo như gió đó hay sao ? Riêng tôi, nói thật, tôi thấy Hằng nói tiếng việt vầy vậy thôi, đôi khi còn chua chua chát chát, chứ đâu được ngọt ngào quyến rũ như mấy cô MC điều khiển các chương trình ca nhạc. Mà, tại sao tôi cứ phải quẩn quanh thắc mắc những chuyện không đâu về Hằng ? Chuyện của tôi đó, chình ình một đống, có ai thèm giải quyết hộ đâu! Ðem hỏi Hằng, được câu trả lời, cũng lại gọn ơ : « Ai bảo anh chọn nghề nha sĩ ! ». Mà quả thật vậy, cứ hễ làm quen được với một cô bé xinh xẻo nào ở party, hỏi han đôi câu, đến mục nghề nghiệp, khi tôi trưng cái bằng nha sĩ ra là mười em như một vội vàng bỏ chạy. Chắc các em nghĩ nghề của tôi chẳng hề có chút lãng mạn nào cả, suốt ngày chỉ ngửi toàn mồm thối với thấy răng sâu, lợi loét, riết rồi cái nghiệp nó vận vào người, nên tôi cũng vậy, khô không khốc, trọc lông lốc như mấy cái răng hàm ! Bèn xoay qua gạ gẫm các nữ thân chủ, cũng không xong. Thỉnh thoảng, tôi cũng vớ được một mợ xồn xồn, nhưng rồi cũng chỉ là qua đường, như những người tình qua đêm của Hằng. Những dan díu của tôi thường chấm dứt khi nữ thân chủ tìm được một nha sĩ khác, có lẽ đỡ tốc-kê và chưã răng mát tay hơn tôi. Ðúng là tôi dại thật, khi chọn cái nghề này. Nhìn quanh, thấy lũ bạn bác sĩ làm ăn khấm khá hơn nhiều. Bệnh nhân đến phòng mạch là cứ tự động vạch áo cho bác sĩ xem lưng. Rồi xoa nắn, rờ bóp, gọi là chẩn bệnh đó, nhưng ở trong đầu có ý đồ gì, đố ai mà biết ! Rơm gần lửa, cứ bén phừng phừng. Nhất là hai thằng tốt số hành nghề giải phẫu thẩm mỹ và mở lớp huấn luyện cho các bà các cô ăn kiêng uống cữ, luyện tập tay chân để có một thân hình như ý. Tụi nó gạt nạn nhân ra không hết, lâu lâu lại còn hỏi kháy tôi, có muốn chia cho bớt một ít không, đây luôn sẵn sàng. Nghe mà lộn ruột !

***

San Francisco, ngày .. tháng .. năm ….

Anh nha sĩ của Hằng ơi, Ðến hôm nay em mới dụ được nhỏ Alice kể chuyện đời nó cho em nghe. Cũng lâm ly bi đát ra phết ! Con bé lớn tồng ngồng vậy mà vẫn chưa thật sự biết mùi đàn ông, anh ạ ! Alice bị hiếp hụt năm mười hai tuổi. Thằng anh họ lớn hơn chút xíu rủ chơi trò bác sĩ khám bệnh, lột trần rồi đè con bé ra trong kho chứa nông cụ nhà ông bà ngoại. Thằng quỷ sứ, chắc do kích thích dữ quá, bèn… « khóc ngoài quan ải » ! Alice bị một mẻ sợ, và tởm đàn ông, nhưng không mất gì cả. Vài năm sau, thấy chữ trinh cứ mãi vướng víu bên mình, và lại muốn tự chưã bệnh lãnh cảm, Alice quyết định vào sân bóng rổ trường đại học, chọn một tên cao to đẹp trai, liếc mắt đưa tình trao phận con gái, với điều kiện duy nhất : phải dùng bao cao su. Alice chỉ thấy đau, không đê mê, không kỷ niệm và cái bệnh lãnh cảm với đàn ông không vì thế mà bớt đi một ly ông cụ nào cả ! Rồi cô bé ngả hẳn ra sống với đàn bà, những người đàn bà dạn dày kinh nghiệm như… em vậy đó ! Từng tuổi này rồi, biết rõ cơ thể mình quá đỗi, nên tay em lướt đến đâu là da thịt Alice nở hoa kết trái tưng bừng đến đó. Không mê em làm sao cho được ! Có kể cho Alice nghe về anh và Lamine. Cô bé có vẻ « kết mô-đen » anh hơn, vì nghe đồn đàn ông con trai da vàng biết dịu dàng mơn trớn, chứ không chỉ hùng hục cày ủi như mấy chàng đen. Em cười cười. Ðúng là mỗi người mỗi goût, phải không anh ? San Francisco đang mù sương, làm em nhớ Ðà Lạt. Còn Paris những hôm như vầy thì ô nhiễm phát sợ, sương mù cứ vàng khè ra, nhất là ở quận mười ba, chỗ chợ Tàu, anh nhỉ ? Hí hí !

Hằng

***

– Allo ?

– Hằng đây ! Anh đang làm gì đó ?

– Hằng hả ? Anh đang tắm, xà-bông còn dính tùm lum trên đầu, trôi xuống mắt cay xè đây nè!

– Ý, anh đang ở truồng hả ?

– Ừ !

– Trời đất, lỡ có ai nhìn thì sao?

– Ui da, cay mắt quá ! Có ai đâu mà nhìn anh ?

– Thì mấy cô họa sĩ ở building đối diện đó, cứ thỉnh thoảng lại thiên nhiên lồ lộ một tòa, làm ông nha sĩ nóng máu phải mua ống dòm nhìn lén, lỡ mấy cổ cũng bắt chước anh rồi sao ?

– Thì mấy cổ… đỡ phải tốn tiền mướn bộ xương cách trí về làm mẫu để vẽ, có chết con ruồi nào đâu mà em phải nhặng xị lên thế ! Em đang ở đâu đó ?

– Ở chỗ mà « làng bên này trồng thốt nốt, làng bên kia trồng dừa ». Ðố anh đấy !

– Dễ ẹt ! Căm-bốt chứ gì !

– Ra anh cũng giỏi sử địa dữ ! Em tới đây xem thử mấy hội từ thiện mà em giúp tiền làm việc ra sao. Họ hết lòng lắm anh, nên em yên tâm. Nhìn mấy đứa bé chút xíu mà cụt chân mất tay vì mìn cá nhân, phải chống nạng bước từng bước đến trường, ba bốn lần em cầm nước mắt không kịp.

– Nè, đừng có mà làm lụt lội Biển Hồ với đồng bằng sông Cửu Long đó nghe chị hai !

– Xì, anh tưởng em khóc như cá voi không bằng ! Em cúp nghe, gọi ké ở trụ sở hội từ thiện nên không dám lạm dụng. Ðể cho anh tắm tiếp đó, mà nhớ đóng cửa sổ, coi chừng bị… trúng gió !

– Em…

Bip… bip… bip…

***

Có lần, Hằng nói với tôi :

– Tại sao ai cũng nghĩ lão tây già chết vì tay em ? Lão chết tự lão chứ ! Già háp còn bày đặt chơi nổi, giưã trưa nắng chang chang mà vừa huỳnh huỵch chơi tennis, vừa ngửa cổ tu nước lạnh, ba mươi tuổi cũng còn đứt gân, nói gì bảy mươi tuổi !

Tôi vội biện hộ cho người vắng mặt. Ðúng hơn, là người khuất mặt.

– Thì ổng đứng tim trên sân tennis, nhưng ai mà biết đêm hôm trước em với ổng làm gì, tỉ dụ rượt nhau chạy ba bốn vòng quanh sân vận động rồi sao…

– Anh cũng bênh ổng nưã hả ? Anh có biết thiên hạ thối mồm còn đồn ác là em đầu độc lão chồng để chiếm trọn gia tài hay không ?

– Thói đời mà em ! Nhìn em mơn mởn thế này mà lại đi kề vai ấp má với một bô lão râu tóc bạc phơ, có thánh mới không nghĩ cong nghĩ quẹo. Mà anh hỏi thật nhé, em mê lão hay mê tiền của lão ?

Hằng nhìn tôi, con mắt trợn trợn, thách thức :

– Cả hai. Gia tài sự sản của Olivier, ai mà không mê ! Nhưng anh thử nghĩ coi, một người đàn ông ngoài bảy mươi mà thân thể còn tươm tất, năng hoạt động, thích vui chơi, valse cũng xoay mà dance-techno cũng giựt, trong đời sống vợ chồng vừa chiều chuộng vừa nồng nàn, không mê cũng uổng ! Coi vậy vẫn còn hơn chán vạn tên trẻ măng mà chẳng nên cơm cháo gì!

– Ê, ê, em có nói cạnh nói khóe gì anh không đó ?

– Ai có tật, người đó giật mình ! Em nghĩ sao, nói vậy !

– Ý em muốn nói ông chồng của em còn ngon lành lắm chứ gì ? Vậy là em mâu thuẫn với chính mình rồi, vừa mới nói người ta già háp xong !

– Trẻ ở cách suy nghĩ, ở cách sống, ở cách chăm sóc thân thể. Nhưng sức người có hạn, có phải sức voi đâu ! Em ức ở chỗ là nói hoài mà Olivier không chịu nghe…

– Thì chồng lão vợ đào tơ, tâm lý anh nào lại chẳng muốn « trẻ hóa », cưa sừng làm nghé, gắng gượng thanh tân…

Hằng lườm tôi.

– Còn anh nưã đó, liệu hồn ! Dan díu với đàn bà mang tiếng sát phu, coi chừng có ngày…

***

London, ngày .. tháng .. năm ….

Em sẽ quanh quẩn Âu châu trong tháng này, khoảng 29, 30 thì về Paris. Khu Soho vui quá chừng, anh ơi ! Ðầu bếp Hồng Kông ở đây nấu ăn ngon thượng hạng. Món pudding bản xứ, xin miễn bàn !

Hằng

***

Subject : Tchao Pantin

Date : Fri, .. … …. 11:21:09 -0700

From : Raffaello Hotel <raffaello@italyhotel.com>

To : vxy@club_ internet.fr

Chac anh ngac nhien khi nhan duoc e-mail cua em phai khong ? Em que oi la que, den bay gio moi biet la khach san nao cung co internet het ! Em dang o Florence / Firenze. Ca thanh pho la mot vien bao tang. Hom qua di ngang tuong David o quang truong Signoria, em nghi toi anh. Con cu cua David cung de thuong nhu con cu cua anh vay do ! Nhung ma anh phai nho an uong cho dieu do hon mot chut, so den anh chi thay toan xuong cung xau ! O cai xu nay, mua nong tha ho ma an kem, ma minh cung tha ho duoc chon, co ca kem dua hau, kem hoa hong… Nhung em de y tim ma khong thay… kem sau rieng !

***

St-Pétersbourg, ngày .. tháng .. năm ….

Thành phố của Pierre cổ kính và thơ mộng ngang ngưả Paris. Em đang ngắm nó ở góc độ y hệt tấm carte postale này. Ðang muốn ghé Moscou trước khi bay thẳng về Paris. Sẽ phone báo trước ngày giờ. Chắc chắn là bưu ảnh này sẽ đến tay anh sau khi em về tới nhà : bưu điện Nga nổi tiếng là rùa bò bốn (?) tám (?) chân mà !

Hằng

***

Tôi may mắn thoát chết ! Chưa bao giờ tôi có dịp đi du lịch cùng Hằng. Chỉ nghĩ đến những chi phí của vé máy bay hạng nhất và khách sạn bốn, năm sao là tôi đã co đầu rụt cổ. Còn dùng tiền của Hằng thì niet ! Lần này, sau khi vớ được món bở : một thân chủ gật đầu chịu cho tôi làm trọn hai hàm răng giả, tôi quyết định sẽ tháp tùng Hằng du hí tận Mexico. Cứ coi như là tuần trăng… đường đi ! Vé đã mua, hành lý đã sắp sẵn, cái chết đột ngột của ông chú ruột níu chân tôi ở lại. Hằng không thay đổi chương trình và máy bay bị nạn giưã Ðại Tây Dương. Crash. Tôi điếng hồn trước màn ảnh nhỏ lúc hai mươi giờ mười lăm phút. Quăng tô mì gói đang nuốt dở dang, tôi nhào đến điện thoại, gọi tứ tung, chỗ nào cũng nhận được những câu trả lời kiểu « hình như… có khoảng… ». Một ngày, thêm một ngày nưã, người ta báo cho tôi biết : không ai sống sót và trong những thi thể còn nhận diện được, không có Hằng. Một tuần sau, bảng danh sách người tử nạn máy bay được công bố, có hai bị ghi nhận mất tích, mất xác: một nam tiếp viên thuộc phi hành đoàn, và một nữ hành khách : Hằng. Một tháng sau, người ta gọi tôi đến nhận chiếc sắc tay Lancel của Hằng vừa vớt được. Lẫn trong mớ lỉnh kỉnh son phấn gương lược, là quyển sổ điện thoại. Ngoài những địa chỉ khách sạn, nhà hàng, hội từ thiện, giám đốc ngân hàng đã nhoè nhoẹt ra, chỉ riêng tên họ tôi, thường dân bậc năm, được cẩn thận ghi vào bằng bút bic đỏ. Thân nhân duy nhất của Hằng. Không có Lamine. Không có Alice. Tôi chợt hiểu, đó chỉ là những con rối, những Frankenstein mà Hằng góp nhặt mắt mũi chân tay từ những người tình ngẫu nhiên, đem khâu vá lại. Chúng múa may, sống động trong trí tưởng Hằng và được đem ra để hù dọa tôi, để chăng dây thép gai, dựng chướng ngại vật, ngăn không cho tôi tới quá gần Hằng. Cũng như tôi đã tung hỏa mù, khói cay lựu đạn, vòi rồng cứu hỏa quanh mình để chặn đứng những tình cảm đôi khi quá đà, đến từ phía Hằng. Chúng tôi cùng ngầm đồng ý dựng lên một bức tường cao vòi vọi bằng kính trong, đứng cạnh bên, đứng sát bên mà muôn phần xa cách. Ðể làm gì, cái khoảng cách ngắn tẹo ấy, cái khoảng cách mà một tiếng « yêu » giản dị không bao giờ được nhắc đến cũng đủ để bắc chiếc cầu nối liền đôi bờ ? Mà tôi có yêu Hằng không, hay chỉ đến với Hằng, chỉ nghĩ về Hằng vì thói quen, vì tính lười biếng, vì ngại phải đối đầu với điều lạ điều mới ? Hay chính chúng tôi đã lợi dụng nhau, như những kẻ cô đơn trên bề mặt của trái đất bị nạn nhân mãn này lang thang tìm đến nhau như tìm về bến đỗ, dựa vào nhau mà sống ? Từ vị thế của Hằng, từ vị thế của tôi, có phải những mặc cảm tự tôn tự ti có chỗ phình to bụng ếch, che choán hết mọi ngóc ngách tình cảm? Cuộc sống đang trơn trôi như mỡ, để yên đó đi, đừng châm kim vào da căng, đừng khuấy động mặt ao tù, đừng móc moi kỷ niệm. Giả tảng yên vui, bưng tai bịt mắt, đừng yêu, đừng chiếm hưũ, đừng ghen, đừng buồn. Sống xuôi dòng như đang sống. Ðừng nhắc lại những đêm một mình tôi thức suốt, đối đầu với chai whisky vì nhớ. Ðừng hỏi tại sao chỉ có mỗi tên tôi tô đỏ trong sổ điện thoại của Hằng. Sự thật đó, nhiều lúc không nói ra, không biết đến, có khi lại hoá hay ! Bị dằn vặt đến bỏ ăn mất ngủ, một buổi, tôi nổi điên, lôi tất cả thư từ, hình ảnh, bưu thiếp của Hằng gửi, bỏ hết vào thùng sắt, đốt sạch. Vừa đốt vừa khóc, khóc như giông bão tháng chín đổ về, ngập lụt những mảnh đất nẻ khô đã lâu, quên cả tính thẩm thấu. Ðốt xong, khóc ngưng, mới giật mình tiếc rẻ, như vậy là tôi không còn giữ lại chút dấu tích nào của Hằng. Cái vệt nhớt của con ốc sên còn quệt lại trên lá. Những vết khói của lũ phi cơ phản lực còn ngang dọc bầu trời. Hằng thì không. Hằng đâu còn có ai để mà được nhắc nhớ đến. Và tôi trót ngu dại vội vàng xóa sạch vết, như tên sát nhân cẩn trọng, như người quét vườn cần mẫn. Tôi đã lỡ nhấn ngón tay vào nút DEL của bàn phím computer, hồ sơ bị vứt vào thùng rác, thùng rác lại vừa được đổ dọn sạch sẽ. Mất hết. Không còn cách gì níu kéo lại được nưã !

Nhiều tháng, nhiều năm sau đó, có vài lần tôi hoang mang tự hỏi : chẳng hiểu, Hằng có thực sự đã lướt qua trong đời sống này. Hay không ?

 

Ở nơi nào, tôi cũng tìm ra được cõi riêng

Sài Gòn, ngày 03.04.2005
Gửi chị Hoài,
Trước ngày về Sài Gòn làm việc, chị có đề nghị tôi viết cho talawas một bài về cảm nghĩ cuả một insider, trở thành outsider suốt mười lăm năm, nay lại có dịp hoà nhập vào cuộc sống ở Việt Nam trong vòng vài tháng, nhập vai một insider «biến dị» để mà nghe-nhìn-ngửi-nếm-sờ và… nhận định!
Tôi đã đợi đúng năm tháng để đặt bút viết những dòng này. Một bài thơ có thể ra đời với cảm nhận bất chợt đón bắt được, có khi chỉ trong một sát na cuộc sống. Một bài viết với ít nhiều nhận xét, dù ngắn gọn, cũng đòi hỏi một khoảng thời gian nhất định, vưà đủ để những sôi nổi tạm lắng xuống, những «đối kháng» cũ-mới, đông-tây, lạ-quen… bị bào mòn, nhưng cũng không quá lâu để trở nên hoàn toàn quen thuộc với môi trường mới, đánh mất đi khả năng phê phán, đánh giá.
Khởi đi từ ý nghĩ «trở về»: về nước, về quê, về nhà, nhưng thật ra, tôi có cảm tưởng mình đang thực hiện một hành trình ngược lại: khám phá Việt Nam. Lần đầu tiên tôi đi xuyên qua các tỉnh miền tây Nam bộ, nhìn tận mắt dòng Cưủ Long. Lần đầu tiên tôi bước chân trên đường phố Hà Nội, thấy ở mỗi góc phố một mẩu lịch sử hơn ngàn năm. Lần đầu tiên tôi biết thế nào là Phú Quốc, Phan Thiết, Hạ Long. Quyển sách điạ lý thuộc nằm lòng từ tấm bé vẫn còn nhiều khoảng trống cần được minh hoạ. Con người Việt Nam tôi gặp trên những nơi đã đi qua không hoàn toàn giống những người Sài Gòn mà tôi vẫn có thói quen tiếp xúc, từ khi khôn lớn cho đến tận gần đây, trong cộng đồng người Việt sống quanh Paris. Và cũng không hoàn toàn khác: họ cùng suy nghĩ và nói bằng tiếng Việt, duy trì nhiều tập tục, tính, thói chung, đặc trưng, ăn nước mắm, phở, chả giò, chè ngọt. Thế thì so sánh, phân tích và tổng hợp cái gì bây giờ?
Có lẽ tôi phải «khoanh vùng», chọn Sài Gòn và Paris. Sài Gòn là nơi tôi chào đời và sống ở đó gần suốt hai mươi lăm năm. Thêm Paris với hơn mười lăm năm hội nhập, tôi đứng vững trên hai chân mình ở độ tuổi bốn mươi. Tại Paris, tôi nói tiếng Việt với vợ con trong giờ cơm tối, với bạn bè người thân ngày nghỉ cuối tuần và ngày lễ. Tôi viết thư và gõ lóc cóc tiếng Việt trên bàn phím computer trước khi đi ngủ. Tôi nhớ về Sài Gòn, không còn vì chính thành phố hay những cư dân cuả nó nưã, mà vì tuổi thơ và tuổi mới lớn cuả tôi đã trôi qua ở đó, với những kỷ niệm đẹp và không đẹp lắm. Lý do khiến tôi ngày một thờ ơ với Sài Gòn? Cũng dễ hiểu: bố mẹ và các em tôi đều sống quanh Paris, đại gia đình nội ngoại tản mát khắp nơi trên thế giới, bạn bè thân cũng lần lượt ra đi, căn nhà xưa không còn, trường lớp hoàn toàn biến đổi. Chẳng còn gì đủ sức niú kéo, khiến tôi luyến tiếc Sài Gòn. Có còn chăng, có lẽ chính vì nó đại diện cho Việt Nam, đất nước mà tôi luôn hãnh diện được là con dân. Trong khi đó, ở Paris, tôi dần nối kết được những mối quan hệ mới, chân tình, bền đậm với người Việt, người Pháp và cả người cuả nhiều quốc gia, dân tộc khác đến sinh sống ở đây. Tôi suy nghĩ và hành động gần giống một người bản xứ khi làm việc, ít nhất là tám tiếng trong một ngày, quen với cà-phê máy, xe điện ngầm, với khuôn mặt cuả người bình luận tin tức trên truyền hình buổi tối, với fromage, bánh mì và rượu chát. Sau mười lăm năm, nhịp sống sinh học cuả tôi tuần tự xoay vòng theo khí hậu bốn muà thay đổi, đều đặn giây-phút-giờ-ngày-tuần-tháng-năm trong một không gian yên bình, êm ả. Một trật tự chuẩn mực, cứ thế mà tiến hành nhịp nhàng, thoải mái.
Ðùng một cái, tôi được gửi về Sài Gòn công tác trong vòng vài tháng. Nói là bất ngờ cũng đúng, vì việc này không nằm trong những điều, mục dự trù sẽ thực hiện năm nay. Nói là đã chuẩn bị trước cũng không sai, khi tôi vẫn luôn bày tỏ nguyện vọng mong muốn được làm việc ngay trên xứ sở cuả mình.
Rời Paris, tôi rơi ngay vào một Sài Gòn hỗn độn, ồn ào, mù mịt bụi và khói xe. Sài Gòn đầu thế kỷ XXI vắng bóng xe đạp, những con đường im ắng nhất trước kia bây giờ ngập người và hàng quán. Không còn phải là Sài Gòn trong tâm tưởng cuả tôi nưã. Tiếng nói, tiếng xe máy, tiếng còi inh ỏi ngày đêm không ngưng nghỉ. Hai tháng đầu tiên sống ở Sài Gòn, tôi có cảm tưởng mình trẻ lại, như vừa bừng thức sau một giấc ngủ muà đông dài hàng chục năm. Ðiện thoại di động réo liên tục. Tôi hối hả sống cho cùng nhịp với thành phố, chen, lấn, đôi khi đè lên nhau để tìm chút dưỡng khí. Tôi nói tiếng Việt 24/24 (ngay cả trong những giấc mơ), thêm vào vốn liếng cuả mình các từ ngữ chưa được ghi vào tự điển tiếng Việt. Tôi họp hành, bàn bạc công việc với đồng nghiệp bằng tiếng Việt, pha lẫn tiếng Anh chuyên môn và tiếng Pháp nghiệp vụ. Tôi có thể, với một cú phone, chạy vèo đến quán nước tay bắt mặt mừng, tán dóc mười lăm phút, nưả tiếng đồng hồ rồi lại vèo về làm việc cuả mình. Hay chỉ cần mua vé trước nửa giờ mở màn, khi đi nghe nhạc cuối tuần ở các tụ điểm, lại chọn được chỗ gần sân khấu đến nỗi thấy rõ cả lông măng trên cánh tay ca sĩ. Tôi đã ngồi xuống với một vài thằng bạn thân còn sót lại, thấy mười mấy năm trôi qua không thực sự để lại quá nhiều khoảng cách, và chúng nhanh chóng được lấp đầy, như bọn tôi chỉ mới tạm biệt nhau có mấy ngày, nay lại tìm ra dịp bù khú. Tôi cũng đã ngồi xuống tán gẫu với những người bạn văn mới quen, biết tiếng, biết tài nhau đã nhiều, bây giờ mới có dịp gặp gỡ. Sài Gòn cho tôi cái cảm giác mọi khoảng cách đều không đáng kể. Tất cả đều ngắn, gần, thân mật, dễ tiếp cận.
Hai tháng sau, tôi bắt đầu thấy mình già đi, muốn rút tìm nơi yên tĩnh, khi những hân hoan cuồng nhiệt ban đầu dần trở nên thưà thãi, đôi khi bão hoà và thặng dư. Tôi thèm một khoảng không gian thật rộng, thật xanh, thật yên, với tiếng chim hót loáng thoáng bên tai, thèm hít căng lồng ngực mùi nắng, mùi đất, mùi cây cỏ. Tôi thèm được xem những cuốn phim hay, dù đó thuộc dòng phim thương mại hay dòng phim tác giả, thèm cả không khí đặc biệt cuả lề đường quanh các rạp ciné buổi tối ở khu Opéra, Montparnasse, Gobelins hay Saint Michel. Một ly cà-phê sưã đá uống trên đường Nguyễn Huệ buổi trưa tháng tư hay một tách café crème nhâm nhi khi nhìn đại lộ Champs-Elysées chăng đèn kết hoa muà Giáng Sinh, dù không quá nhiều khác biệt, nhưng vẫn gợi những cảm hứng riêng. Còn cảnh bia bọt tràn lan cuả Sài Gòn mỗi chiều thì không biết phải so sánh với hình ảnh nào cuả Paris, vì hàng ngày, sau giờ tan sở, thì siêu thị và những cưả hàng sách, băng điã nhạc, phim, văn hoá phẩm là những nơi được dân Paris chiếu cố tận tình nhất. Người Sài Gòn sống ngoài đường, giao dịch thương lượng ngoài đường, gặp gỡ hò hẹn ngoài đường, ăn nhậu ngoài đường nhiều gấp đôi, gấp ba người Paris, chắc chắn là như vậy. Nhưng người Paris có số lần đi xem phim, xem kịch, tiểu phẩm và nghe nhạc trong năm gấp chín hoặc mười lần người Sài Gòn, tôi nghĩ, nhiều phần đúng. Cũng có lẽ vì vậy mà tôi càng lúc càng đâm nhớ và thèm Paris, khi bước vào những ngày cuối tháng thứ tư sống và làm việc ở Sài Gòn.
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi không muốn nhắc lại những thành tựu cũng như hạn chế cuả Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung, đã được các phương tiện thông tin trong và ngoài nước: báo giấy, báo mạng, truyền thanh, truyền hình… liên tục đề cập đến, cũng như chẳng thích thú gì khi sao chép lại những tấm bưu ảnh cuả Paris hay những đoạn phim tài liệu quay ở rừng Boulogne, ở những đoạn đường vành đai hay trong các góc khuất hầm métro và trưng ra cho mọi người cùng xem. Ở đây, tôi chỉ muốn xin chấm dứt bằng một lời cảm ơn đến Paris và Sài Gòn, một nơi đã cho tôi sự bình an cuả tâm hồn, một nơi đã tặng tôi tình người thật ấm áp.
Và ở nơi nào, tôi cũng tìm ra được cõi riêng cuả mình, để trở về, yên ổn khép cưả.

Sóng ngọn

Ôm em trong tay

Mà đã nhớ em ngày sắp tới…

Dạ Tâm Khúc

Thanh Tâm Tuyền & Phạm Đình Chương

Tôi nhớ Kim vẫn hay rên như thế. Khi vồng ngực cứng của tôi đổ sập, đè gãy đôi ngọn tù và của Kim, khi phần đàn ông hùng hổ của tôi xiên ngập vào vũng sâu tối kín của Kim, cũng là lúc những ngón tay Kim bấu cứng lấy mông tôi, như phụ trợ thêm vào nhịp đẩy đưa, riết róng, thúc hối. Thường thường, những ngón tay ấy dần trườn qua lưng, lên gáy, ôm lấy đầu, nhấn xuống, đẩy lưỡi tôi ngập nghẹn vào vùng vai, ngấn cổ, cuối cùng ẩn trú bình yên giữa đôi môi nóng ẩm của Kim. Tôi đâm sâu xuống Kim ở hai đầu cơ thể, như thế, thật lâu, trước khi bục vỡ, tháo nước, chảy mềm.

Buổi sáng, thức dậy, Kim đã bỏ ra biển từ lâu, nhưng con đường do những ngón tay vạch dài, miết sâu lại đỏ lựng, ran rát trên lớp da thành thị bệnh hoạn trắng đã bắt đầu ửng chút nắng duyên hải của tôi. Một năm vài lần, tôi bỏ tất cả để về đây tìm Kim, tìm lại căn phòng nhỏ có mọi cửa lớn cửa bé đều hướng ra biển, rèm cửa no gió căng tròn, xanh màu trời ngày nắng tạnh. Kim gọi nó là “quán gió”, còn tôi, luôn có cảm giác mình đang nằm trong cái chai rỗng, lênh đênh giữa biển rộng. Bồng bềnh và nôn nao. Tôi cứ thế nằm im, dang rộng thân thể thảnh thơi thụ hưởng khoảng không gian trống mằn mặn tanh, rì rào gió, dương và sóng. Không cần phải nhắm mắt tập trung, tôi vẫn nghe rõ nhịp mạch đập đều đặn, cảm nhận được những đường máu tươi hồng dưỡng khí đang luân lưu khắp nơi, nuôi nấng thịt da. Bỏ phố thị với bao nhiêu phiền toái eo sèo của nó, tôi về đây tìm Kim, và cũng để mong tìm lại chính mình. Tôi đã bỏ quên tôi, chìm ngập, mất tích trong những toan tính hàng ngày, ganh đua hơn thiệt, lưu manh thủ đoạn ngay cả với anh em, bè bạn. Sóng phủ mặt, tôi càng cố ngoi cao, chòi đạp, thẳng tay mạnh chân dìm sâu xuống những đầu người loi nhoi chung quanh. Chẳng còn đường thối lui, cứ thế mà lao tới, càng lao càng lún sâu vào nỗi vô cảm, dửng dưng, óc lạnh băng, tim hoá đá. Đồng tiền và danh vọng. Hình như tôi đã tiêu hoang toàn bộ thời gian sống của mình, giữa nơi đô hội, cho việc mưu lợi tìm danh. Tôi tìm được cách rút riả danh lợi ngay cả trên thân xác đàn bà, trinh tiết thiếu nữ. Bọn đàn ông, tôi bắt chúng xun xoe quỳ mọp, đứa nào không thuận, đốn gục tận gốc, bứng gọn cả rễ cái rễ con. Vây cánh, có tiền là xong. Danh vọng cũng thế, tung nhiều tiền vào, tên tuổi được đánh bóng loáng bóng lộn trên mặt nhật báo hàng tuần, hàng tháng. Thiêu thân, bù mắt thấy sáng là lao đầu đến, hiến xác. Một triệu đồng vứt ra đãi tên đàn em bữa ăn trưa sau một phi vụ thành công, có là bao. Hai triệu đồng ném xuống để vầy vò con bé chơi dương cầm tốt nghiệp nhạc viện suốt một đêm, có là bao. Nhưng, sao trong tròng mắt dại mờ của họ, tôi không tìm ra niềm vui, như hôm qua, lúc lang thang trên bờ biển, thấy được trong ánh nhìn đứa nhỏ làng chài đang tung tẩy con tôm sú trong tay, khi chiếc thuyền thúng mong manh vừa xả xuống cát mẻ lưới gầy, sau vài giờ quẩn quanh ven bãi. Niềm vui ấy, tôi bất lực không mua được từ những đồng tiền bẩn của mình, những đồng tiền phố thị, ô nhiễm vì cái bắt tay, cái vỗ vai hay từng tràng cười bất tận. Về đây, tôi chỉ muốn được trút sạch mọi rác rưởi, kỳ cọ cho bằng hết cáu ghét bám chặt vào óc từ suốt mấy tháng qua, muốn biển mở lòng hào sảng nhận trọn bao ô uế, thanh tẩy cho tôi cả xác lẫn hồn. Và tôi muốn được yêu, không so đo toan tính, không đổi chác bịp lừa, chỉ đơn giản là những rung động đơn sơ nhất, hoang dã nhất giữa một người đàn ông và một người đàn bà, giữa tôi và Kim.

Đêm đêm, những hình nhân di động quẩn quanh vô thức khơi dậy u ám trong em, khiến em luôn nôn nao mất ngủ. U ám triền miên như thoáng lá rụng lẩn trong tiếng mùa đông thở dài. Âm thanh câm. Em không nhớ những gương mặt ẩn hiện trong cơn mê. Em không gọi được tên những hình hài dọc ngang lướt qua lại như vệt chân của kẻ say tình. Một vài ngày trong năm, anh về đây, ôm em trong vòng tay ấm nóng, thời gian cũng thoảng vội qua đâu đó trong làn gió mùa. Làn gió lặn sâu vào vòng tròn ám ảnh giữa hoang tàn cảm xúc của em. Mỗi sáng, thức giấc, bên những vết chân nhỏ em dẫm vùi lên cát, sóng biển rì rào bảo cho biết em bị mộng du. Mộng du từ những ám ảnh vô bờ. Mà cơn mê đưa em vào cõi mộng du bắt đầu từ khi nào, em chẳng còn nhớ rõ. Em chỉ biết anh đến, cũng tựa một nỗi ám ảnh gieo vào cuộc sống em. Nỗi ám ảnh lớn nhất trong đời.

Sáng nay, anh lại để biển một mình giữa mênh mang sấm động chớp giật và bước về thành phố. Thành phố. Có gì mà anh vội vàng đến thế, mà anh mải mê đến thế? Nơi náo nhiệt đã chôn vùi ba mươi năm cuộc sống đời em. Nơi náo nhiệt mẹ đã sinh em ra. Chắc hẳn em phải được mẹ sinh ra. Nơi ấy là chiếc nôi khổng lồ ấp ủ em mồ côi heo hắt và cũng gieo vào em những nỗi bất hạnh từng ngày. Hình như Thượng đế ghét bỏ em. Em không biết trả lời thế nào với anh, em tiểu thư cành vàng lá ngọc chính dòng tôn thất hay chỉ là giọt máu rơi của một cô gái điếm mỏi mòn. Em chỉ biết một buổi đêm, lúc còn là hài nhi đỏ hỏn, Thượng đế đã mang bỏ em trước cửa một ngôi chùa ven đô. Tuổi thơ em lê thê còi cọc trong tiếng chuông chùa điểm giờ ê a tụng kinh niệm Phật. Những tưởng yên phận trong bức tường nâu xám cà sa, nhưng Thượng đế lại lỡ tay tặng thêm cho em một vầng trán bướng bỉnh và một tâm hồn nhạy cảm quá mức. Để rồi em phải trốn chạy khỏi ngôi chùa vào một buổi sáng mùa xuân ẩm ướt, ngửa lòng đón nhận cả nắng mưa đan chéo giăng mắc cạm bẫy bên ngoài. Và cuối cùng, em lại trở về cõi âm u, nhưng là cõi mênh mang trời đất, bên biển vô bờ.

Khi xem xong tập cuối cùng của bộ phim truyền hình chỉ toàn nước mắt và chia ly ấy, anh rơi vào trạng thái chơi vơi. Cuộc sống anh cũng đã nhiều lần chơi vơi, nhưng cái cảm xúc khi nhìn cô gái thản nhiên cho vào miệng từng vốc thuốc trước biển cả mênh mông rồi dịu dàng đi vào xa xôi đã làm anh dường như choáng ngất. Và anh tự nhủ, phải tìm cho bằng được người đã viết ra câu chuyện này.» Em không thể nào quên nổi ánh mắt ngỡ ngàng của anh buổi chiều giông gió, khi anh tìm được em, tìm được người đã viết kịch bản của bộ phim truyền hình sầu muộn mà anh thích. Đôi mắt lần đầu tiên em gặp trong đời, cho dù đã bao nhiêu đàn ông vây quanh em nói những lời có cánh và nhìn em như chiêm ngưỡng một báu vật nghìn năm. Lặn trong ánh mắt ấy, em thấy mình không còn là cô bé mồ côi gặp nhiều bất hạnh nữa, em trở thành thiên thần, thành người đàn bà hạnh phúc nhất trên đời. Lúc anh hoà mình vào em, em tưởng như sóng biển tràn ngập thân thể và tâm hồn. Tiếng sóng rên rỉ sung sướng gặp bờ ấm yêu thương.

Anh và em đồng điệu đến ngạc nhiên. Chúng mình cùng thích ngắm đại dương khi ân ái. Lúc anh cắm ngập, lấp đầy vùng nóng ẩm của em và nhịp nhàng đưa đẩy từ phía sau, chúng mình cùng mặt ngảnh ra hướng đại dương, cùng nhìn vào cõi bao la không cùng. Gió đại dương lùa qua khung cửa sổ không bao giờ cài của ngôi nhà nhỏ, rên cùng em lời tình ca hạnh phúc. Em không còn nhìn thấy đau khổ, không còn nhìn thấy tuyệt vọng, không còn nhìn thấy lọc lừa, không còn nhìn thấy cội rễ u ám xa xưa. Một lần, khi anh vừa đẩy em cong dướn lên đến đỉnh điểm, cũng đúng vào lúc vầng dương nhô tròn trên mặt biển. Trước phút lịm người, em còn kịp nhận ra giữa chiếc điã lửa sáng lòa ấy gương mặt của Thượng đế, mang dáng nét một người đàn bà hao hao giống em, nhưng tươi đẹp và phúc hậu bội phần. Và em đã giữ lại hình ảnh ấy sâu giữa con ngươi của mình, như giữ chặt lấy hạnh phúc tìm được trong thoáng chốc. Nhưng rồi anh cũng rút mình khỏi em. Những cánh buồm lại mất hút giữa bao la. Em quay trở về với thân thể thiếu hụt, em quay trở về những lọc lừa trước mắt, em quay trở về với những chồng kịch bản còn đang dang dở. Và em quay trở về với thực tại, anh rồi cũng ra đi. Còn lại mình em với nỗi hoang mang. Sự hoang mang mà anh không bao giờ biết. Em sợ mình có thai. Anh sẽ ngạc nhiên vô cùng, em biết anh sẽ ngạc nhiên trước nỗi sợ hãi lạ lùng của em. Lạ lùng quá, khi mà em yêu anh đến vậy, khi mà em đơn độc đến vậy, lại sợ giọt máu ấm nóng của anh gieo vào mình, sẽ nảy mầm, bắt rễ.

Nhiều bình minh, khi biển sánh lên xanh màu trời, cũng là lúc cát ẩm sương đêm lười biếng niú bước chân anh. Ôm em vội vàng, thọc tay nắn đôi ngọn tù và không ngừng vểnh lên ham muốn, ghì chặt làn tóc em như ghì chặt yêu thương, anh quay mặt bước đi. «Ngoan nhé em yêu, chúng mình còn gặp lại nhau, đừng khóc.» Lời anh tan giữa sớm mai. Anh chưa bao giờ hứa chính xác ngày quay lại, anh chưa bao giờ hứa sẽ yêu em suốt đời, sẽ cưới em làm vợ. Em không biết tường tận cuộc sống của anh. Chỉ biết hoàng hôn ấy, anh về biển tìm em, tìm người đàn bà biên kịch bộ phim truyền hình chỉ toàn nước mắt, không thôi ám ảnh anh, và chúng mình hòa quyện vào nhau, chân tay cuộn bện thừng chão. Em không cần giải thích tại sao lại viết những kịch bản buồn đến vậy cho anh nghe. Cuộc đời em đã là câu trả lời rõ nhất. Em còn cho anh biết em là người đàn bà nồng nàn và nhạy cảm đến mức nào. Với anh, em được là chính em, được như con cá tung mình quẫy nước. Vì thế, chỉ cần biết anh là người đàn ông thành đạt nhưng buồn chán, bỏ thành phố xuống góc biển tìm em, chỉ cần biết anh hoàn toàn yêu em mỗi lần gặp mặt, em đủ thấy mình hạnh phúc. Cho dù mỗi bình minh, khi anh ra đi, em lại rơi nước mắt. Sự bất hạnh của một đứa trẻ mồ côi nương náu cửa Phật, sự bất hạnh của một cô gái sớm bươn chải vào đời để khẳng định mình và đã phải trả giá bằng thân xác mà anh biết nơi em, chỉ là mặt biển bình lặng sớm mai, những lúc anh ra đi. Sâu trong biển lớn, nơi các rặng san hô đâm tua tủa xương vôi, em chôn kín nhiều bí mật anh không thể nào khám phá. Kho tàng của riêng em, khuất lấp đáy đại dương.

Tôi đã nói hết sự thật. Kim ngồi bất động, mặt hướng ra biển, tóc bay cuốn một chiều theo hướng gió lùa vào từ cửa sổ. Dường như tai tôi điếc đặc, không còn dương reo, chẳng cả tiếng sóng vỗ. Chúng chỉ chực chờ, đợi lúc những mảnh âm thanh vỡ ra từ đôi môi mím của Kim phóng vút vào xé toạc màng nhĩ, xoáy sâu hơn, đến tận trung khu thần kinh, gây tê liệt não bộ. Vậy mà, im lặng. Ngay cả con mắt long lanh trên bán diện trái cũng không đổ ướt, chỉ trừng nhìn, thẳng vào khoảng không. Con mắt thất thần giữa cơn yêu, nhìn mà không thấy, đồng tử nở tròn trong bóng tối, tròng sững, chết đứng trên đỉnh hoan lạc. Con mắt của Kim theo tôi về thành phố, ám ảnh nhiều đêm, sáng đốm, thôi thúc, réo gọi, hút tôi trở ngược ra biển. Con mắt cong những dấu hỏi của loài cá, miệng hé mở ngạc nhiên khi bị lôi ra khỏi nguồn nước mặn. Chỉ nghĩ đến đấy thôi, cơ thể tôi đủ cứng căng thèm muốn. Tôi chỉ sợ khi đã kể cho Kim nghe về căn bệnh nan y đang bào mòn cơ thể, từ con mắt tôi khát khao, sẽ tuôn tràn từng đợt sóng, cuốn lấp, xoá sạch bao dấu vết của mối tình mà tôi đã cố tâm ghi khắc trong căn phòng này, trên thân xác kia. Vậy mà, không. Còn con mắt bên kia, con mắt ở góc khuất tôi không thấy được từ vị trí nằm của mình, nó có quyết định sẽ kết liễu cuộc tình hay không? Tôi không muốn nhìn Kim nữa. Khép lại tất cả các giác quan của mình, cuộn thân cuốn chiếu. Đen sập. Dòng máu đỏ tươi dưỡng khí khi nãy đâu rồi? Lũ hồng cầu ọp ẹp, bọn bạch cầu tan hoang. Động mạch nghẽn, tĩnh mạch sơ cứng, mao mạch vỡ tung hàng loạt. Tế bào óc chết từng mảng, này mảng âm mưu, này mảng bội phản, này mảng khủng bố. Dạ dày không tiêu hóa được năm mươi viên thuốc ngủ X uống trọn, loét bỏng. Trái tim không chịu đựng nổi mười mấy nhát dao nát ngực Y, thủng van. Biển ve vuốt bề ngoài cơ thể toàn vẹn, nhưng quyết không bao dung rửa ráy phần trong nát ngướu. Có cần không, để phải cứu rỗi một linh hồn thối rữa? Thay câu trả lời, biển hiền hòa bỗng vươn sóng, đập thẳng giữa sống lưng, kéo ngược, rút tuột cát. Tôi hụt chân, quẫy mình chòi dãy, nhưng chung quanh, chẳng còn cái đầu nào loi nhoi để có thể đạp lên đó mà ngoi lên nữa. Chìm. Thẳng đứng. Cuốn chiếu bung người vật vã vượt thoát, nhưng muộn mất rồi. Mắt chỉ còn kịp thấy một tròng tròn sáng rực, sững đứng. Tai chỉ kịp nghe tiếng nấc khan từng đợt của Kim, không còn cần kềm giữ.

Sớm nay, biển động, bão đổ ngoài khơi xa. Đôi mắt em hoe đỏ trong vòng tay anh.

Đêm qua, anh gặp ác mộng. Thân hình rắn chắc mà em thường ngày vẫn bảo như tượng tạc của anh co giật từng cơn hoảng sợ. Em lo lắng ôm anh, vuốt ve anh, cưng nựng anh như một đứa trẻ. Tội nghiệp anh, chắc ở thành phố có nhiều chuyện phiền lòng, mới bỏ về đây tìm em, tìm biển, vậy mà vẫn không được bình yên. Em đã không thể nào chịu nổi thành phố, không chịu nổi lòng đố kỵ, tà dâm, sự phản trắc của con người, em bỏ về với biển, em sống cuộc sống của em bằng những nhân vật em dựng nên, và bây giờ, em sống bằng anh. Nhưng em không che chở được cho anh ngay cả trong giấc ngủ, ngay cả khi thân thể anh nóng hực cuộn vội lấy tấm thân đàn bà mát rượi của em và chúng mình tan chảy ngay vào nhau, liền lạc. Em không dám hỏi, em chỉ biết lặng yên đau đớn nhìn anh và để anh ra đi, khi ngoài khơi sóng dồn và giấc mơ hãi hùng vẫn còn đậm dấu trên đuôi mắt mỏi mệt của anh. Anh không biết, mỗi lần anh ghì chặt em rồi buông vòng tay bước khỏi ngôi nhà nhỏ, khuất ánh nhìn, nước mắt lại rơi vòng trên má em. Em khóc vì bàn chân anh rời bỏ ngôi nhà in dấu chân em hàng ngày. Em khóc vì thân thể anh thôi quấn quện điểm nhịp hân hoan trong em. Em khóc vì ánh mắt dại cuồng của anh sẽ lạnh lẽo nơi phố phường. Em khóc vì không nhìn thấy đường chân trời nơi biển cả bao la. Và em khóc vì bí mật riêng em. Em sợ có thai. Khi bước chân anh rứt khỏi triền cát, em bắt đầu hất tung tấm chăn màu nâu vàng, nhìn ngắm thân thể mình như để đoán định tất cả tình yêu, sức lực anh trút vào em có hình thành hay không, một thai nhi. Lưỡi anh bỏng và môi em điên, tay anh ngập và ngực em khát, thân anh rắn và đùi em trơn, dịu dàng nhưng dữ dội như những trận cuồng phong mùa hạ. Thế nào, thế nào em cũng có thai. Mà em lại không thể có thai, không được phép có thai. Em sẽ chấm hết đàn bà, chấm hết tất cả, nếu giọt máu của anh thành hình trong bụng em. Thành hình ở nơi không dành cho nó, không giống bình thường. Tử cung cằn, gai chông chớn chở. Có lần anh gặng hỏi em về những người đàn ông đã từng ân ái cùng. Em không trả lời, em cố tình lẩn tránh. Em không muốn nói với anh về một người đàn ông mà em đã gửi gắm hết tin yêu, đã ruồng bỏ em sau khi để lại một giọt máu ở nơi bất thường trong cơ thể em. Kết quả, em bị cắt mất một buồng trứng với lời cảnh báo: có nhiều khả năng lần mang thai kế tiếp cũng sẽ bất thường, đồng nghĩa với việc buồng trứng còn lại sẽ vĩnh viễn rời khỏi người em. Bao nhiêu đêm, khi anh chưa tìm vào đời em, em mơ những giấc mơ hãi hùng. Em thấy mình không còn chảy máu đàn bà mỗi tháng, em mơ thân thể mình rỗng hoác, em thấy những sợi lông cứng chồi ngược lên miệng. Chỉ một cách duy nhất để giữ em còn đàn bà là không gần gũi bất cứ người đàn ông nào nữa. Đêm đến, biển đồng loã dập dồn cùng những triền sóng hực hội trong em. Nguôi ngoai, khi sóng đã vút ngọn quật thẳng vào đá, oà vỡ. Nhưng biển đã không chung thuỷ cùng em, biển quyến rũ anh đến với mình, đem đến sự hồi sinh nơi em, nhưng đồng thời, cũng mang cả đến cho em niềm hoảng sợ.

Tôi dầm dề mồ hôi, khép hờ mắt. Vẫn chưa rứt ra được màu nước đen sệt và mùi gió tanh nồng của cơn ác mộng. Bão bắt đầu gào rú ngoài kia, sẽ đánh đắm những mảnh thuyền quá chậm chạp trong cuộc tháo chạy. Cả những mảnh đời lênh đênh bám biú trên ấy. Khi nãy, tôi vừa chìm, thẳng đứng, bây giờ lại có cảm giác nổi phềnh phều, chông chênh trên bề mặt một lớp chất lỏng đậm muối. Gió chạy cuồng khắp phòng, quăng quật tấm rèm cửa sổ, thổi phồng mảnh chăn mỏng và vuông khăn trải giường nhúm nhiú. Tờ báo góc bàn phần phật từng trang.

Vậy mà Kim vẫn thiêm thiếp. Có thật, Kim say ngủ? Tai tôi vẫn vẳng tiếng nấc nghẹn của Kim kia mà? Hay vẫn chỉ là một mảng, miếng của ác mộng, lắp ghép khít khao đến từng chi tiết? Hay Kim vờ, để tôi có thì giờ mà nhìn ngắm, như đang mải mê với một nhân vật nữ trên truyền hình, sống động bước ra từ những dòng chữ trong kịch bản của Kim. Thân thể kia, thân thể của ngư nữ, của cá chình, cá giò, lẳn tròn, bóng ngời hồi quang. Gió muối đã mơn man, sóng biển đã vỗ về bao lâu rồi làn da nâu dòn của Kim, mịn như cát bãi, mát như vỏ ốc trơn mòn trên tay. Tôi đã phủ lên đấy bao nhiêu nụ hôn, đã lướt trên đấy bao nhiêu đường lưỡi, vẫn không tài nào khám phá hết được những ngóc ngách da thịt cứ mỗi lúc lại chuyển dời, co thắt, dãn nở diệu kỳ, đàn hồi căng bật. Kim cho tôi cả cơn động kinh của biển đêm tháng mười lẫn sự phẳng lặng của đại dương sáng tháng ba. Kim nhẫy tuột trong vòng tay ôm nhưng lại ghì thắt lấy tôi bằng đôi chân linh dương vùng hoang mạc. Tôi yêu Kim, và hãi Kim. Tôi gần Kim chỉ một phần tư hơi thở, nhưng lại xa Kim đến hơn nghìn hải lý. Kim vẫn luôn là ẩn số, khiến tôi hoang mang mỗi lần rời xa, nhưng lại có sức quyến rũ của thỏi nam châm, hút ngược tôi về với em, với biển. Buổi chia tay nào cũng đậm màu tử biệt. Lần gặp lại nào cũng là cuộc tái sinh. Tôi vùi mình vào Kim, phiá trước, phiá sau, phiá trên, phiá dưới, như lao vào vòng xoáy sống chết của kiếp người, cuốn vào đấy, hút vào đấy, và không tìm được nẻo về. Khi tỉnh hồn, lại kiếm đường trốn chạy. Tôi không thể chịu đựng nổi khi thấy bóng mình hung dữ dị dạng phản chiếu từ thân thể Kim tráng bạc men tinh khiết. Những bệt bầm, lũ ung nhọt máu mủ mặc sức phơi bày. Tấm gương chiếu yêu đã soi thấu đáy. Tôi không có lời biện minh, chỉ còn biết quằn quại giữa bãi lầy, để mỗi lần làm tình với Kim lại khiến tôi tụt sâu hơn vào vũng bùn lún. Và tôi, ích kỷ, hèn yếu, nhiều lần muốn kéo Kim chìm theo cùng với căn bệnh rục ruỗng xương tuỷ của tôi, với sự cô đơn của tôi, với nỗi chết của tôi.

Sáng nay, biển động, anh đi và em ngồi khóc. Em lại vén thân thể mình tìm dấu vết anh. Em mơ đang mang thai, con của chúng mình, và gặp ngay ác mộng: ngưòi ta cắt nốt phần đàn bà còn lại của em. Bước chân anh đi rồi, xa dần trong sương sớm, xa dần trong tia nắng của một ngày mới nhóm. Anh chẳng thể nào thấy em ngồi khóc, ngực trần, lưng thẳng, tóc xõa trong ngôi nhà cô độc, chăn gối vây quanh, một khi cánh cửa đã khép lại. Em rùng mình nghe tiếng còi tàu xa xăm, như âm thanh từ cõi địa phủ vọng về. Cả giọng chó tru lẩn trong gió, phiá xóm chài. Đêm qua anh gặp ác mộng. Anh lảm nhảm nhiều câu rời rạc vô lý. Anh nói về căn bệnh nào đó. Chẳng lẽ anh biết rõ cả bí mật của em, biết nỗi hoảng sợ em phải gánh chịu mỗi khi anh về biển dăm ba ngày rồi vội quày quả ra đi? Trong đôi mắt anh sáng nay, u uẩn ngàn vạn nỗi buồn. Vòng tay ôm chặt hơn, bàn tay ghì xiết hơn tựa lời vĩnh biệt. Em hoang mang nghe tiếng trái tim mình thất nhịp, em hoang mang nghe tiếng biển động ngoài khơi. Những con tàu náo loạn tìm đường về vịnh tránh bão giông. Ngôi nhà nhỏ ven biển của em chao nghiêng niềm lo sợ. Bước chân anh rời đi sáng nay, nghe nằng nặng xa xôi như tiếng của hơn bốn chục năm đời người chắt đọng. Em nghe trong ấy sự bất thường. Tất cả không an bình, không trầm lặng như ngôi nhà ven biển ngày em mới bước chân về tìm chỗ náu thân, xa rời đô hội, nơi đã gây cho em quá nhiều đau đớn. Vòng tay anh khác thường, ánh mắt anh khác thường, ngay cả nhịp ái ân cũng loạn cuồng, hung bạo khác thường. Em giấu nỗi lo sợ vào chuỗi ưu tư dằng dặc đáy mắt, em giấu niềm hoang mang giữa cõi im ắng lặng câm của tâm hồn. Sự im ắng có thể bục vỡ, phá tan tành một tâm hồn nhạy cảm và đơn độc. Căn bệnh em đang vướng phải, căn bệnh của số phận, căn bệnh nào làm anh gặp ác mộng? Căn bệnh của em, căn bệnh của anh hay căn bệnh của hai tâm hồn dị biệt?

Em đã từng nghe nhiều tiếng thở dài của chính em, và chôn giấu trong lòng, chia sẻ cùng biển mỗi khuya hôm quạnh vắng. Nhưng tiếng thở dài của anh đêm qua, sáng nay sao khiến em muốn tan chảy. Em run rẩy. Điềm gở? Báo hiệu chuyện gì vào ngày mai, ngày mốt? Hay chỉ là căn bệnh trong tâm tưởng của hai kẻ cô đơn tận cùng? Hay chỉ vì tối qua, nắm tay anh dạo trên triền cát, nơi thuỷ triều dâng dài bóng đêm, em đã nói anh nghe về một ý tưởng mới cho bộ phim truyền hình nhiều tập. Qua bộ phim, em muốn kể về cuộc đời thật của em, có đau đớn và có hạnh phúc. Có người đàn ông bội bạc và có anh, người đang cùng em chung một thân thể, chung một nỗi nhớ, chung cả đại dương trước ngôi nhà phấp phới rèm cửa màu thiên thanh mỗi khi anh về. Anh miết hai ngón tay lên vành môi em, chặn những ý tưởng còn sót lại trong đầu. Mặt anh hình như tái. «Nếu anh chia chung cả với em cái chết thì sao?» Em giật mình quỵ một bàn chân. Giọng anh lạ quá, lạ như biển đang dâng lên thanh âm huyên náo báo đêm động nước, báo những con sóng bạc đầu, sóng thần, sẽ tràn về phủ chụp, bôi xóa. Trong phút chốc, em nhìn thấy những ngọn sóng chồm lên thành vòng xoáy nhấn chìm ngôi nhà, nhấn chìm tấm rèm cửa thiên thanh. Rồi em bỗng thèm anh khủng khiếp. Như sóng ngọn dâng tràn, cắt cưa thân thể. Môi em cháy, vú em bỏng, mình em căng đẩy anh ngập trong cát. Từng ngọn sóng cứ thế dâng cao mãi, đợt trước nối đợt sau, nhấn chìm em trong anh ngạt thở. Anh như cánh chim gặp bão, chới với theo ngọn sóng xoay tròn. Chưa bao giờ em thoả mãn đến như vậy. Tan cơn hồng thuỷ, cũng chưa bao giờ em lo sợ sẽ mang thai đến như vậy. Hôm qua, tối qua, đêm qua, tất cả không bình thường, như báo hiệu ngày tận số.

Anh đi rồi, sáng nay biển động, cuộc sống khác thường, những nhân vật trong kịch bản phim của em cũng trở mình khác thường. Trái đất hình như sắp biến thành đại dương. Một đại dương mới. Và em sớm muộn gì, cũng sẽ chìm sâu trong ấy.

Mở mắt. Tiếng rên vẫn bên tai. Những hình nhân quằn quại, quấn, xiết vào nhau trên màn ảnh. Tôi nhớ Kim vẫn rên như thế, nhưng ở một nơi chốn khác, một không gian khác. Bây giờ, lềnh bềnh giữa mê và tỉnh, tôi cũng không rõ Kim có thực, thịt-da-xương-tóc, hay chỉ là ảo ảnh, bước thẳng từ âm thanh, hình dáng những diễn viên trần truồng nghiêng ngửa kia vào giữa óc tưởng tượng tràn bờ và nỗi cô đơn vô cùng tận cuả tôi lúc này. Mắt tôi chuyển hướng nhìn lên trần nhà, rồi lại nhìn vào màn ảnh, đã đen kịt với những dòng chữ trắng kéo nhau bỏ chạy. Nhưng tiếng rên còn mãi, rền vang giữa sọ, và bỗng, bật văng từ miệng tôi há hốc.

Hà Nội mùa nước cạn

 

« Nhất định anh phải dẫn em đi Hội An đấy! ». Michico nói với tôi như vậy khi cẩn thận ghi lại trong sổ tay đoạn trích từ gia phả, định rõ vị trí ngôi nhà ông cố ngoại mở hiệu buôn gốm sứ, giữa thế kỷ mười bảy, mặt hướng ra sông Hoài, gần sát Chùa Cầu. Tôi đồng ý ngay, kèm theo điều kiện: Michico phải theo tôi thăm Hà Nội trước đã. Chúng tôi rời Sài Gòn hầm hập nóng bằng một chuyến bay đêm. Tôi vẫn thích chọn những chuyến bay như vậy. Bắt đầu bằng từng phi đạo thẳng đèn tăm tắp. Rồi khi phi cơ rời mặt đất bốc lên, cánh nghiêng, hiện bày cả vạt rộng hàng triệu đốm sáng lung linh. Một bãi sao nhiều màu xúm xít, sinh động. Bay trên bầu trời Paris, tôi nhanh chóng định vị được tháp Eiffel, từ đó dễ dàng nhận ra dòng ánh sáng khổng lồ hai chiều vàng-đỏ chầm chậm trôi trên đại lộ Champs-Elysées, song song với sông Seine, vết cắt đen, chia đôi thủ đô nước Pháp thành hai bán cầu lóng lánh. Giờ đây, với Sài Gòn, tôi chịu thua, chỉ còn biết hài lòng dán mắt vào ô kính nhỏ, nhìn thành phố khoác áo dạ hội bước vào đêm, uốn lượn theo góc khúc xạ từng đợt khí nóng gối đầu nhau cuồn cuộn bốc lên. «Thành phố nhìn từ trên cao, bao la như cả cuộc đời… », tôi lầm thầm hát theo một tứ nhạc vừa thoáng qua đầu, không nhớ đã nghe được ở đâu, lúc nào, chợt loáng cái, ào đến cùng những cảm xúc xốn xang. Ngày xưa, có lần tôi cũng từng nhìn Sài Gòn ở độ cao như thế này, và đã buột mồm nói lời vĩnh biệt. Thành phố hôm ấy chìm dần dưới từng lớp, từng lớp mây trắng đùn cuộn. Mây khép lại quá khứ, và khi tôi lia ngang tầm nhìn, chỉ còn thấy một màu da trời xanh buốt mắt.

Michico đánh thức tôi dậy bằng những mơn trớn đầu ngày. Chúng tôi nhập cuộc chơi khi đầu óc chưa hoàn toàn tỉnh táo. Cương dựng trong miệng Michico, tôi mân mê bấu nắn từng mẩu thịt da mướt mịn từ vai xuôi suốt cả khoảng lưng. Xuống. Lên. Nhịp nhàng. Thong thả. Khi cảm thấy môi lưỡi đã làm tròn phần việc, Michico dướn người, dồn hết trọng lực, ngồi thẳng xuống tôi. Xoãi ngang hai chân, người con gái có làn da phớt hồng màu hoa anh đào bấu hai tay xuống ngực tôi làm điểm tựa, đẩy dọc tiến lui. Khuôn mặt thanh tú với mái tóc búp-bê xuôi thẳng chắn che thoắt gần thoắt xa, như ảo ảnh ẩn hiện sau làn hơi nước mờ đục. Chỉ chốc lát, Michico đã chuyển ngay sang động tác lắc người xoay hông tròn quanh trục. Đôi vú nhỏ tâng nẩy. Môi trơn nước bọt hé mở. Mắt khép hờ, cung mày nhíu, mi rung từng chặp, chấp chới. Tôi xiết chặt tay quanh eo Michico, tiếp sức cho cơn bão lốc. Thân thể chúng tôi bây giờ thẳng góc với nhau, đồng thời quấn cuốn vào nhau. Tôi nghển cổ, nhìn khoanh rốn Michico vẽ vòng trước mắt. Vòng quay càng lúc càng nhanh, càng lúc càng xoắn lấy trục chặt hơn. Hơi thở gấp gáp, đôi lúc tức tưởi hực lên đứt quãng. Và khi đường xoáy trôn ốc thắt gút lại ở tâm điểm, khi tôi nẩy lên bung vọt, cũng đúng lúc Michico cong ngược người ầm đổ xuống, co giật, mười đầu ngón tay lún cứng vào mặt nệm. Chết sững.

Chúng tôi nằm im hồi lâu. Lúc những vuốt ve đều đặn dọc theo sống lưng xóa sạch chút xung động cuối cùng, lúc những giọt mồ hôi ứa rịn trên cơ thể bay bốc hết theo từng đợt hơi lạnh đều đặn tỏa ra từ máy điều hòa không khí, Michico chồm dậy, cười với tôi bằng đôi mắt hạnh nhân nồng nàn và ân cần cúi xuống tặng nụ hôn đầu tiên. Đằm thắm vị hoa trà hàm tiếu. Ngày thứ nhất ở Hà Nội của chúng tôi bắt đầu như thế.

Tôi ngồi nhìn Michico nghiêng người trước gương, xoè tay vuốt xuôi chiếc robe thun đen bó sát. Cũng cái dáng nhỏ nhắn ấy đã kiên nhẫn suốt một tuần ở Bàu Trúc để học cho bằng được cách đi xoay vòng ngược chiều kim đồng hồ của phụ nữ Chăm trong việc nắn lọ gốm. Cũng mười ngón thuôn trắng kia đã dệt trọn cả thước vải thổ cẩm với những hoa văn, sắc màu của người K’ho Lạch ven chân núi Langbian. Theo học ngành mỹ thuật công nghiệp ở Paris, đạt điểm cao với một số mẫu mã đặc thù và bắt mắt, có tham vọng lấn cả sang việc trang trí nội thất và thiết kế thời trang, ấy thế mà tôi không hiểu nổi óc thẩm mỹ của Michico để đâu khi chọn quần áo. Vú nhỏ, mông mỏng, đôi chân hơi cong, khi bước đi, đầu gối lúc nào cũng như muốn gập lại, khuỵu đổ người về phiá trước, vậy mà Michico chỉ thích độc nhất loại vải thun đen khít sát vào da, mặc không nịt ngực. « Con giun đất », tôi vẫn gọi diễu như vậy. Lạ lùng đến thế thì thôi! Lạ lùng như chính con người Michico. Hay vì, tôi sinh ra trên đại lục, trong khi Michico chào đời bên một triền đá chênh vênh của đảo nhỏ, ầm ào sóng đại dương? Hoặc đơn giản hơn, do Michico là đàn bà Nhật, còn tôi, đàn ông Việt?

Franck đón chúng tôi ở cổng Văn Miếu. Michico thích thú khi Franck trịnh trọng cúi chào đúng cách: « Michico-san » kèm theo một tràng tiếng Nhật hoa mỹ. Michico tròn thêm mắt nhìn Franck và tôi thùm thụp đập vào vai nhau, trửng giỡn bằng tiếng Việt. Hơn ba năm giữ chức trợ lý văn hóa của đại sứ Pháp tại Việt Nam, Franck có đủ thời gian, năng khiếu, đủ kiên nhẫn và đam mê để phát âm đúng giọng Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Hắn dư sức dẫn một thằng sắp mất gốc như tôi lặn lội hang cùng ngõ hẻm, lùng cho ra một món ăn ngon hay uống cho được một cút rượu lạ. Franck thích vỗ ngực tự nhận mình là người Tây, như ai đó thường phân biệt kẻ Bắc, Trung, Nam, hay túm tụm đồng hương, cùng xứ. Và như để chứng minh điều này, Franck rành rẽ giới thiệu với chúng tôi từng bức tượng Khổng Tử, vua Lý vua Lê, danh sách các tiến sĩ, những huyền thoại quanh dãy rùa đá đội bia, cái trống, chiếc chuông. Nhưng chẳng hiểu sao, khi đứng chụp chung một tấm hình kỷ niệm, tôi lại chú ý đến những cánh hoa súng úa vàng và vài xác cá phềnh bụng nổi lều bều trên bể nước cạn giữa Khuê Văn Các và Đại Thành Môn. Nắng trưa xuyên qua những tàng xoài nhọn lá, rơi lách cách xuống nền gạch đỏ bỏng. Michico sờ được từng hạt nước li ti trên đầu rùa đá hâm hấp sốt, trong khi Franck băn khoăn chỉ cho tôi xem những vết nứt còn tươi hiện ra đây đó trên dãy cột nâu bóng, tăm tắp thẳng hàng đã nhiều thế kỷ. Tôi nhìn lên, thấy mặt trời, qua khói trầm hương, qua ngói, qua lá, qua mây mảnh sợi, hình như xanh màu ngọc lưu ly, rưng rức.
Ăn bún măng ngan ở ngõ Cấm Chỉ xong, chia tay Franck, đang định rủ Michico đi tìm căn nhà số 14 phố Hàng Cân, nơi bà nội tôi đã ngồi suốt cả thời con gái trông cửa tiệm bán thuốc bắc cho ông cố, nhưng cảm thấy nhựa đường như muốn nhão ra dưới chân, tôi quyết định quay về khách sạn trốn nóng. Ngang qua phố Hàng Bông, đang bước, bỗng Michico nhào vào bíu chặt lấy tôi, miệng lưỡi líu ríu, tay cuống cuồng quơ chỉ. Cạnh miệng cống lộ thiên, một bầy chuột hơn chục con tróc trỉa, mắt đỏ sọc, đang cắn xé, chí chít giành giật nhau chút nước trong vũng đọng. Tôi kéo xệch Michico sang lề đường bên kia, bước vội. Run từng chặp trong vòng tay tôi, như đang giữa cơn động tình, Michico, mắt nhắm nghiền, để mặc tôi dìu đi, người dịu nhỉu. Về đến khách sạn, con giun đất lao ngay vào phòng tắm, tuột áo, xả nước, như cố chà rửa cho trôi sạch đi cái hình ảnh quái gở vừa nhìn thấy. Tôi vói tay bấm máy lạnh và truyền hình. Tin khí tượng cho biết, thêm một đợt khí nóng vừa tràn về khu vực đồng bằng Bắc bộ, rừng Trường Sơn liên tục cháy lớn, các tỉnh miền đông và tây Nam bộ hạn hán nặng, nhiệt độ thấp nhất từ 18 đến 25 độ, nhiệt độ cao nhất từ 35 đến 42 độ. Nước mặn ngày càng lấn sâu vào, khi mực nước sông Cửu Long và Đồng Nai xuống thấp dưới mức báo động. Các hồ Trị An, Đa Nhim, Suối Vàng, Dầu Tiếng, Yaly, Thác Mơ đồng loạt cạn kiệt. Bắt đầu từ tuần sau, Sài Gòn bị cắt điện định kỳ theo từng khu vực. Tắt vụt TV. Michico mở cửa phòng tắm, người mướt ướt. Tôi nhào đến, tìm đôi môi ẩm mọng, như vục vội mặt vào chút nước ngọt hiếm quý lòng ốc đảo, giữa hoang mạc cát khô.

Điện thoại di động rung bật. Giọng Franck hối thúc, ra ngay đền Ngọc Sơn, hồ Gươm, ra ngay, biết đường đi không, nhớ xách theo máy ảnh. Tôi xoay nhìn, Michico ngủ cong người thai nhi. Chụp vội tấm bản đồ. Hàng Nón – Hàng Quạt – Lương Văn Can. Bờ hồ đen nghịt người. Vừa băng qua đường, Franck vội lao ra, ngăn:

– Hiến, trễ quá rồi, không chụp được gì nữa đâu, đông lắm!

– Mà, có chuyện gì vậy?

Franck chưa kịp trả lời, một tiếng đục nổ bục mặt nước, cầu Thê Húc cong oằn, xoắn ngang, gãy đôi, đỏ ối. Đầu người đen đặc, nhấp nhô. Phía giữa hồ, rùa đùn nhau lớp lớp tràn lên đảo, vùn vụt leo, bám kín chóp tháp. Nước ùng ục sủi bọt, cạn dần từng phút. Tôi bấm vội vài pose hình. Người ngoi nước. Rùa đeo tháp. Toàn cảnh hồ Gươm, trơ kè, trốc đất. Franck gọi giật:

– Đi, Hiến! Nóng quá, hết chịu nổi rồi!

Tôi theo Franck bước vào quán Rendez-vous, nằm xiên theo phố Hàng Trống. Hơi máy lạnh quất thẳng vào mặt. Quán vắng hoe. Chắc khách hiếu kỳ đã đổ hết về bờ hồ. Cả những người phục vụ cũng nhóng mặt ra đường, xì xào chỉ trỏ. Vừa ngồi yên chỗ, chưa kịp gọi nước, một thanh niên từ bàn bên đứng bật lên, bước đến thân mật đặt tay lên vai Franck, ngó tôi, mắt ánh lên vẻ thách thức. Tôi nhìn Franck. Hắn nheo mắt, nhếch mép, nghiêng đầu, vỗ vỗ tay mình lên mu bàn tay trắng trẻo vẫn nắm chắc lấy vai, nói như reo:
– Phúc, hôm nay em ngồi café sớm thế! Đây là Hiến, bạn anh, mới từ Sài Gòn ra, với cô bồ người Nhật. Tên gì nhỉ? À… ờ… Michico. Đúng không ông?
Tia nhìn dịu hẳn đi. Phúc đưa tay cho tôi bắt. Bàn tay dày, mướt và ấm. «Chào anh!» Phúc vừa nói vừa kéo ghế sang bàn chúng tôi. «Thế, chị Michico đâu?»

– Ở khách sạn. Chúng tôi đang ngủ trưa, Franck phone, gọi tôi ra bờ hồ gấp để… Ừ, mà để làm gì vậy Franck? Để xem người chèn nhau trên cầu Thê Húc hay xem rùa đè nhau ngoài tháp? Có chuyện gì thế?

– Tôi đang lặc lè bước, tự nhiên trước mặt, thiên hạ nhốn nháo dạt cả ra một bên. Chạy đến gần, thấy một con rùa to bằng chiếc giường đôi đang thoăn thoắt bò vào đền Ngọc Sơn, nước dãi và vết chân nghều ngoào ướt đẫm cả cầu Thê Húc. Mọi người còn đang rúm ró sợ, tôi nhào theo, nhìn con quái vật kiễng vai hất văng bộ cốt rùa to tướng trong đền, rồi đột ngột búng người ngã ngửa, bốn chân chỉ quơ quào vài cái xong duỗi cứng. Tôi lao ra gọi ông, đúng lúc đám đông giật mình tỉnh giấc, tràn vào. May mà kịp thoát! Và cầu gãy, nước rút. Người. Rùa. Tôi cũng chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra nữa. Điềm gì vậy Hiến, vậy Phúc?

Tiếng còi xe cứu thương vẫn lọt được vào sau lớp kính dày. Phúc và tôi nhìn nhau. Hai thằng Việt không biết trả lời thế nào với thằng Tây. Ngoài tầm hiểu biết. Riêng tôi, đột nhiên khát, khát dữ dội, như cổ họng đang bị những ngón tay nhọn móng vô hình cào dọc, tưa tơi từng sợi. Gọi ngay một ly cà-phê đá, tôi hỏi:

– Phúc người Hà Nội hả? Những chuyện quái đản như thế này có bao giờ xảy ra không?

– Không… từ bé đến giờ… Em chỉ nghe bố kể, có năm cóc nhái từ đâu về ngồi chật cả những cánh đồng năm tấn ở Thái Bình. Hình như năm 1975 thì phải…

1975. Nhớ năm ấy, Sài Gòn có một mùa đông khác thường. Trời căm lạnh và sương mù đặc quện, để lại trên da những tinh thể rin rít, lóng lánh. Khi mặt trời chìm, dơi từng đàn từ chủng viện thánh Giu-se, từ tu viện Saint Paul, từ trường Lasan Taberd đổ về, dơi từ tháp chuông nhà thờ Đức Bà lao xuống, lượn quầng quầng trên đầu tượng Mẹ Maria bế Chúa Hài Đồng, nghiến răng ken két một hồi rồi mới chia nhau tỏa ra mọi hướng, lẩn vào sương. Không còn xe trường đưa đón học sinh, thằng bé con xách cặp đứng trơ vơ trước nhà sách Liên Châu, đợi cho dơi tản hết, đợi cho mặt đồng hồ to của Bưu điện chập kim vào nhau rồi mới leo lên chiếc xe lam vừa trờ tới, ngồi nhập vào những mặt người nhìn thẳng, lắc lư cùng một nhịp, tanh lạnh âm binh. Hết huyên náo. Thành phố im lìm chết từng đêm. Nó đã đem theo hình ảnh một Sài Gòn u ám như thế, lẵng nhẵng mộng mị suốt hai mươi mấy năm trời, cho đến tận ngày trở lại…

«Anh Hiến là Việt kiều Pháp à?» Phúc hỏi, ngón tay chạy quanh miệng ly sữa màu hồng nhạt.

– Tôi… à, chắc Phúc nhỏ tuổi hơn, đổi cách xưng hô nhé? Anh học chung tú tài với cái anh chàng Franck này này, lên đến đại học, cũng cùng trường, nhưng khác khoa. Hồi đó, tụi anh liên lạc với nhau thường xuyên, vì Franck mê Á châu, mê người da vàng, à, mà… không có mê anh đâu đấy nhé!

Đang ngửa cổ tu Heineken, Franck suýt sặc, đỏ mặt đập vào đầu tôi một cái rõ đau.

– Sao ông biết? Hiến không mê Franck thì có!

Chẳng hiểu Phúc có quen với lối đùa bỡn này không. Tôi và Franck thì hiểu nhau quá rõ. Tôi nhìn Phúc ngậm ống hút, chậm rãi mút vào miệng chất nước hồng, khuôn mặt xương xương, môi đỏ, da trắng và mắt đen láy. Một tay, Phúc hờ hững cầm ly dâu, còn tay trái của Phúc và tay phải của Franck có lẽ đang quấn lấy nhau dưới mặt bàn. Tự nhiên nhớ Michico. Hôm ấy, chúng tôi làm quen với nhau trong cuộc triển lãm ảnh về Hội An ở trụ sở Unesco. Trưa mùa thu. Trời vừa đủ lạnh để chỉ cần khoác chiếc áo len mỏng hay quấn một tấm foulard vải quanh cổ là đã có thể yên tâm lang thang hàng giờ trên vỉa hè vàng lá. Tôi mời Michico tách trà đào cuộn khói. Chocolat nóng phần mình. Quán café góc phố nhìn ra Điện Phế Binh, chênh chếch khu vườn tượng của bảo tàng Rodin. Michico kể cho tôi nghe giấc mơ kỳ lạ về những con chó đá, khỉ đá thu mình bụi bặm trong xó tối, chợt vùng dậy, vứt toẹt chiếc khăn đỏ trùm đầu và đuổi cô chạy băng băng qua nhiều con phố cổ ngoằn ngoèo, vắng ngắt, nhưng lại giăng giăng đèn lồng rực rỡ. Giấc mơ đến đúng vào những đêm rằm tháng tám mỗi năm. Đôi găng đen lòi mười ngón thuôn trắng run rẩy xoay vòng tách sứ nhìn nữ tính chi lạ. Tôi im lặng mân mê trong tay rồi cúi xuống đặt môi. Chúng tôi hôn nhau dưới bầu trời trong vắt, không gợn mây. Hương trà đào và vị chocolat đắng quyến tròn, bện thắt chúng tôi lại với nhau, từ đấy. Vậy mà đã gần bảy năm.

Michico gọi điện thoại, hỏi anh ở đâu đấy, sao bỏ em một mình trong khách sạn thế này, và muốn shopping. Tôi lại đang có những ý khác trong đầu. Thử nhờ vả xem.

– Franck và Phúc có rảnh không? Làm tài xế cho tụi này được không? Michico thích đi xem quần áo, còn Hiến định tiếp tục thăm Hà Nội.

Nhìn nhau. Franck hỏi:

– Michico biết nói tiếng Việt không?

– Không, chỉ biết vài chữ thôi. Tiếng Anh cũng chẳng khá.

– Thôi, nếu vậy, Phúc đưa Hiến đi lượn đi. Tôi sẽ thầu Michico. Chắc đưa cô ấy đi Tràng Tiền Plaza, tiện thể mời ăn kem. Hay là ra Vincom, tháp đôi…

Hẹn nhau bảy giờ ở phố Chả Cá. Franck muốn đãi chúng tôi ăn đĩa bánh cuốn Tuyết Nhung, với chén nước mắm có dầm sẵn một nửa con cà cuống khô. Sau đó, sang Lã Vọng. Trước khi chia tay, Franck dặn vói:

– Phúc ngoan nhé! Chở anh Hiến, phải cẩn thận, đừng phóng nhanh vượt ẩu đấy!

Như để trả lời, chiếc Attila đỏ bầm màu rượu của Phúc vọt như ngựa bất kham ra đường Lý Thái Tổ. Nước hồ Gươm đã cạn hẳn, phơi trơ rác rưởi, xác cá trương oằn, xác rùa sấp ngửa. Mùn bùn đen quánh. Tanh. Vài cây liễu đứng phừng phừng cháy. Người đâu vắng. Đầu tôi ong ong nhức. Nắng đổ hào quang. Hơi lạnh mùa thu Paris đã bị nhốt kín lại trong quán Rendez-vous. Tôi bay vào giữa hai luồng nóng phụt ngược chiều. Áo Phúc phần phật được một lúc rồi bết dính vào tấm lưng bè. Mùi mồ hôi gây gây, nôn nao. Xe ngoặt vào đường Hoàng Diệu. Trời tối sập lại sau hai tàng cây đan khít. Tôi đập vai, bảo Phúc dừng lại rồi nhào xuống ngồi bệt bên vệ đường. Oẹ khan. Phúc dựng đứng xe, không kịp tắt máy, chạy vòng ra ôm lấy vai tôi.

– Có sao không anh Hiến?

– Không… không sao! Phúc để anh thở một chút. Chắc do nhiệt độ thay đổi đột ngột quá, anh chưa quen, bị ngợp!

Phúc ngồi xuống bên cạnh, nhìn tôi, vẻ lo lắng lộ ra trong mắt. Tôi cố gắng hít thật sâu, phình bụng giữ hơi, thở ra chầm chậm. Cơn buồn nôn biến dần.

– Mặt anh bớt xanh rồi đấy! Anh làm em sợ quá!

– Một chút thôi mà Phúc, không sao đâu!

Gió lướt qua, phất phơ vài sợi tóc trước trán. Nắng loang tròn, đậm nhạt từng đốm. Đã đều nhịp thở, tôi nhìn xuôi theo con đường vắng. Hai hàng cổ thụ gợi nhắc những Gia Long, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Huyền Trân Công Chúa của Sài Gòn. Đặc biệt giống đoạn đường trước Dòng kín nữ tu Cát-minh hướng về công xưởng Ba Son. Nhưng khoảng thành cũ sau lưng tôi, nơi Hoàng Diệu thắt cổ tự tử khi Hà Nội thất thủ thì quả thật, chỉ thủ đô mới có.

– Anh đỡ mệt chưa?

Tôi gật: «Mình đi, Phúc!»

– À, ngay cạnh đây có đôi rồng đá đời Trần, anh có muốn chụp ảnh không? Khách du lịch mê lắm đấy!

– Để khi khác vậy. Lúc nãy, anh có bàn với Phúc rồi đó. Em cho anh đi… Phúc lấy dùm anh tấm bản đồ. Merci Phúc.

Phúc đứng dậy, tắt máy, giở yên xe, lục tìm.

– Xem nào. Đây nhé. Mình đang ở trên đường Hoàng Diệu. Đi thẳng, quẹo Trấn Vũ, quẹo Thanh Niên, chạy dọc theo Nghi Tàm. Phúc bảo ở Nhật Tân, có đường ra bãi sông Hồng, đúng không?

Như giữ ý, Phúc lái xe chậm hơn lúc nãy. Tôi nhìn thấy một khoảng trũng nông choèn choèn, lấp sấp nước. Trẻ con, và cả người lớn lúp xúp đuổi theo chộp bắt những con cá xanh thép vây đỏ, lớn bằng bàn tay đang quẫy lộn giữa bùn.

– Hồ Trúc Bạch đấy anh ạ! Nước đi đâu hết cả rồi!

Tôi nhớ ngay đến tấm ảnh đen trắng rìa răng cưa đã ngả màu dưa cải mà thỉnh thoảng mẹ vẫn lấy ra ngắm nghía và cho chúng tôi xem. Hai cô bé tóc dài, kẹp lửng, lơi tay chèo trên chiếc xuồng con lênh đênh mặt hồ. Dì Hạnh Châu chết trẻ, mẹ già hơn tuổi, còn những con tép bạc bấu người vào bờ đất chỉ chờ vớt vụt biến mất theo nước hồ Trúc Bạch. Tôi chỉ còn kịp thấy, thoáng qua như ảo ảnh theo tốc độ xe lao, khung xương cong một xác xuồng con úp sấp, trơ thớ.

– Bên tay trái là chùa Trấn Quốc. Hồ Tây bình thường to vật vã, vậy mà bây giờ trông giống như cái ao làng!

Phúc vừa nói vừa tiếp tục lái xe lướt qua đường Thanh Niên. Tôi nhìn thấy bảng hiệu «Bánh tôm hồ Tây», thấy ngọn tháp đỏ lửa nghiêm trang chọc thẳng lên bầu trời rực nắng, thấy hồ Tây hấp hối. Tôi nhớ trong một lần vui chuyện, bố kể về thành tích lẫy lừng thời sinh viên, bơi một mạch từ Thụy Khuê ra đến tận Phủ Tây Hồ, tôi nhớ đến ánh mắt mơ màng của bố khi nhắc về những buổi chiều thong thả dạo bước, nhìn mặt hồ tắt nắng. Người yêu cũ của bố ở lại Hà Nội, và chết vì bệnh ung thư cách đây vài năm. Vì sao tin tức đến được tận nơi bố đang sống, tôi cũng chẳng rõ, chỉ biết, lúc ấy, bố đột ngột quyết định hủy bỏ chuyến về thăm Việt Nam đã được chuẩn bị chu đáo từ nhiều tháng trước và liền trong mấy tuần lễ, cứ ôm lấy cây hạ uy cầm, chơi đi chơi lại bài « Thu quyến rũ » của Đoàn Chuẩn. Tôi không hiểu mình đã thừa hưởng được gì từ sự lãng mạn sóng-vỗ-mạn-thuyền của mẹ, của bố, chỉ thấy trước mắt, nước hồ Tây rùng rùng bốc hơi nghi ngút và Hà Nội đang nhão nhoét ra vì nóng, phố xá chảy mềm giữa lò lửa luyện ngục.


Anh có biết tin mấy hôm nay người ta tìm được vô khối xương người dưới lòng hồ không? Có trường hợp thân nhân nhận dạng ra được người mất tích từ cả chục năm rồi nữa đấy. Kinh chưa?

Nước vẫn luôn che dấu nhiều bí ẩn. Lòng ao hồ, sông suối, biển khơi. Từ viên ngọc ước đến những lâu đài thành quách. Từ nắm xương tàn kẻ chết oan đến cả kho báu của bậc đế vương, tất cả cùng rủ nhau chìm vào quên lãng. Nước phẳng mặt phủ lên, yên tĩnh, không chút xao động, xoá nhoà mọi thảm kịch, thầm lặng tẩy rửa, khuất vùi, chôn, lấp. Tôi bỗng thèm được lao ngay vào nước, đắm mình, phình trương lên, nỗi khát khao của kẻ đang teo tóp quắt queo trên chiếc yên xe rộp bỏng, hay của kẻ phút chốc bỗng ngộ ra rằng định mệnh của mình rồi sẽ gắn chặt vào mặt nước lặng lờ kia. Tôi muốn nhảy ngay xuống, đầu cắm vào bùn cũng được, để sẽ có chuyện mà kể lại cho bố mẹ nghe, về một Hà Nội giữa mùa nước cạn, với bao nhiêu lở lói đang dần dần phơi lộ.

– Mình tìm quán, uống tí gì đi Phúc.

– Gắng thêm một tị nữa được không anh? Sắp đến Nhật Tân rồi. À, anh Hiến có biết ăn thịt chó không nhỉ? Vùng Nhật Tân nổi tiếng hai thứ, hoa đào thì mùa này không có rồi, còn thịt chó cuối tháng… Hơi bị ngon đấy!

– Anh chưa ăn bao giờ, cũng muốn thử một lần cho biết. Nhưng, Phúc đừng có nói lại với Michico đó, cô ấy giết anh ngay! Ở Paris, cô ấy cưng con pékinois còn hơn cả anh nữa. Đi chơi mà cứ than vắn thở dài vì nhớ chó!

Phúc dừng xe. Chúng tôi bước vào quán. Vắng người. Ít ánh sáng. Tiếng máy lạnh rì rầm và giọng kèn saxo kéo hơi theo một điệu dài bi thiết. Phúc chọn bàn góc khuất, mắt long lanh nhìn tôi.

– Anh mà xơi thịt chó thì chị Michico đánh hơi ra ngay đấy! Nhưng em có cách để khử mùi…

Uống một mạch gần cạn chai nước suối, tôi thở hắt như vừa tợp được ngụm rượu ngon.

– Phúc định rủ thật à? Mình hẹn nhau với Franck bảy giờ ở phố Chả Cá đấy!

– Ừ nhỉ, em quên khuấy đi mất… Anh chắc là thân với anh Franck lắm, cứ nhìn cách hai người đùa với nhau thì rõ…

– Không thân lắm đâu, Phúc. Lúc sau này, có khi cả năm cũng chẳng buồn gửi cho nhau một cái e-mail. Chỉ vì tụi anh vẫn giữ thói quen từ thời còn là sinh viên, nên cứ ha ha hô hố thế thôi. Có thể Phúc thấy lạ…

Bàn tay Phúc phớt nhẹ lên tay tôi. Điện giật từng luồng. Cố ra vẻ thản nhiên, tôi thử xem Phúc muốn gì.

– Em… em yêu anh Franck lắm!

– Buồn cười nhỉ! Sao Phúc lại nói với anh điều đó?

– Vì… vì…

Bỏ lửng câu trả lời, Phúc rút tay về, buông thõng, đầu hơi cúi.

– Không có gì cả. Thôi, đi, anh!

Tôi nghĩ mình đã lỡ lời, nhưng khi thấy vẻ uể oải lúc Phúc mở gọng kính râm đeo lên mắt, tôi biết không phải vậy. Có chuyện chi đó quan trọng hơn.

– Sao cú rũ vậy? Phúc có điều gì không bằng lòng à?

– Không… không… Mà thực ra, anh cũng chẳng giúp gì được… Em ngớ ngẩn… Mình đi, anh Hiến, kẻo lại trễ hẹn!

Chạy thêm một quãng ngắn, Phúc cho xe quẹo phải, vượt qua khu chợ nhỏ và khoảng nhà cửa lô xô, đổ vào con đường gồ ghề đá. Thoáng cái, cảnh quang hẳn, sông Hồng lặng lờ ngay trước mặt, khó nhọc xuôi theo đường rãnh trũng, lượn quanh cồn bãi. Có chiếc tàu chở cát mắc cạn, phơi nghiêng. Những vạt bắp còi lắt lay ven bờ, lá nám nắng. Một con bò bướu lang thang đi về hướng chúng tôi, mắt lạc thần mở to. Vài bóng người, quần xắn quá đầu gối, vội vã băng ngang sông. Trong trí tưởng tượng của tôi, con-sông-Hồng-tiểu-thuyết-hóa lúc nào cũng phải sôi sục đỏ sóng, cuồn cuộn xoáy vỡ đê, cuốn trôi nhà, dìm chết người và gia súc. Dòng nước rỉ rả trước mặt, có hơn gì cái gọi là thác Cam Ly? Đất nẻ chân chim, hút kiệt hết nước của Hà Nội mất rồi!

– Đã ra đến tận đây, nhất định anh Hiến phải xuống nhúng chân vào nước sông Hồng một cái cho biết mùi đấy!

Phúc vừa nói vừa đẩy tôi xuống bãi. Lòng sông trơn nhợt. Nước nhờ nhợ đục, nóng như cũng sắp sửa bốc hơi. Đôi sandale tôi mang xỉn ngay lại như miếng thịt bò nhúng dấm khi vừa rời mặt nước. Không chút ấn tượng. Chỉ tiêng tiếc. Cho màu đỏ huyền thoại đã mất.
Điện thoại của Phúc và tôi gần như réo vang cùng lúc. Phúc nhìn tôi: «Franck!». Giọng Michico hốt hoảng ở đầu máy bên kia:

-Hiến, em sợ quá! Đang ngồi uống café Highlands ở Vincom với Franck, chim sẻ từ đâu hàng đoàn lao vụt vào cửa kính chết vỡ đầu. Còn đầy vết máu… Em nhớ mẹ kể, hồi núi lửa đảo Oshima sắp sửa hoạt động, chim cả bầy cứ hốt hoảng đâm xầm vào nhà cửa mà chết, lông cánh tơi tả trên sân. Phải làm gì bây giờ, Hiến? Hả… anh đợi máy… Ah, Franck muốn nói chuyện với anh. Anh đang ở đâu đấy, về ngay đi, về với em!

– Allo, Franck đây. Michico kể rồi phải không? Chắc có chuyện gì thật đấy ông ạ. Hồi đầu tháng, tôi đi Huế, thấy xác bướm phủ đầy lăng Tự Đức, còn ve sầu hàng ngàn con trong Thành Nội hôm ấy đồng loạt rơi ngập đoạn đường hướng ra Thế Miếu, cánh cong vênh. Hai con voi cũng bị xiềng lại, vì nghe đâu trước đó vài ngày, đã nổi khùng quật chết tay nài và ba người Đức rồi cuốn vòi nhổ bật rễ cả hàng sứ cổ thụ, khiến du khách bị một phen khiếp viá. Cho tới hôm nay, tôi vẫn chỉ nghĩ đơn giản là trời nóng quá, côn trùng, thú vật chịu không được, lăn ra chết hoặc phát rồ. Nhưng vừa rồi thấy rùa, bây giờ lại là chim… Chắc phải chạy vào Sài Gòn, hay tếch sang Thái Lan quá. Tôi run rồi, ông ơi!

– Hẹn nhau ở đâu?

– Vừa nhắn Phúc xong. Phòng vé Vietnam Airlines, góc Tràng Thi-Quang Trung. Đến liền nhé. Michico muốn về Paris ngay ngày hôm nay…

– Vậy thì giữ luôn cho Hiến một chỗ nữa. Cám ơn Franck. Tụi này tới liền.

Người đen nghịt trước Nhà Hát Lớn, một mô phỏng Opéra de Garnier. Hàng nghìn tượng, đứng đờ, tay thõng, mắt trợn tròn, miệng há hốc. Chỉ vang vang tiếng loa. Cả bốn cửa đập tỉnh Vân Nam vừa tháo tràn nước tối hôm qua. Dòng chảy của cuồng lưu đã vượt Miến Điện, Thái Lan, đang ồ ạt tuôn vào địa phận vương quốc Lào. Hình ảnh được vệ tinh ghi nhận rõ. Theo dự báo, chậm nhất chiều ngày mai, toàn bộ khu vực Biển Hồ và vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ ngập dưới hai thước nước. Chính phủ đã khẩn cấp điều động quân đội để thực hiện một cuộc di tản trong vòng trật tự, cố gắng đưa tất cả dân chúng lên những vùng cao để tránh lụt. Tin thêm cho biết, sáng sớm ngày hôm nay, ở ngoài khơi vịnh Bắc bộ, tàu hải quân Trung Quốc đã khiêu khích và bắn chìm hai tàu hải quân Việt Nam. Để trả đũa, các chiến sĩ canh giữ vùng biển của ta đã gây thiệt hại nặng cho một chiến hạm và hai tàu hộ tống Trung Quốc. Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lập tức tuyên chiến và huyênh hoang sẽ lại dạy cho Việt Nam một bài học mới. Đề nghị toàn dân, toàn quân bình tĩnh, sáng suốt, đoàn kết thành một khối để sẵn sàng chống giặc ngoại xâm. Mọi sự hoảng loạn, xáo trộn, gây rối sẽ chỉ tiếp tay gây lợi cho kẻ thù mà thôi… Những tượng người vẫn không nhúc nhích. Tròng mắt đảo đều cơn lên đồng tập thể. Hàng loạt ngón tay co giật, máy động liên hồi như lũ càng cua động kinh. Tiếng da khô rào rạo cọ vào nhau, rộ ran từng chặp. Mồ hôi tuôn như suối trên khuôn mặt đỏ gay của Franck. Michico nhoè nhoẹt son phấn, rúc đầu, quẹt từng quầng màu tao loạn lên ngực áo polo trắng bết nước của tôi.

– Franck đưa Michico về Pháp ngay đi. Tình thế này, tôi phải ở lại đây thôi. Chẳng biết sẽ làm gì, nhưng…

Tôi nói bằng hơi thở mỏng, mắt tối xầm lại vì bóng dơi năm cũ vụt về choãi cánh giăng đen đồng tử.

– Người Việt gốc Tây không đi đâu cả!

Câu nói đùa của Franck không làm tôi nhếch mép nổi, nhưng Phúc giật phăng cặp kính râm, mắt sáng rực:

– Anh ở lại với Phúc, Phúc biết, rồi anh sẽ mãi mãi thuộc về Phúc. Anh chỉ là của một mình Phúc mà thôi.

Họ nắm chặt tay nhau, ôm choàng lấy nhau, hút cứng vào nhau. Những tượng người chung quanh đồng loạt vỡ bục, tung tan từng mảnh, tiếng điếc khô. Michico xiết thắt tôi:

– Em yêu anh. Sống chết với anh. Đừng bắt em xa anh, nghe Hiến!

Khi môi chúng tôi vừa chạm nhau, nụ hôn ướt mèm vì cơn mưa đầu mùa đột ngột trút xuống, và nước bốc hơi xèo xật khi rơi đúng vào những mảnh tượng vỡ, đỏ màu ngói vừa nung. Tươi máu.

 

 

Phụ Đính :

 

Thống muội

Florence Dugas

nguyên tác: Dolorosa Soror [a]

(trích đoạn tiểu thuyết Cổ Ngư chuyển ngữ)

Lược truyện – Nhận định về tác phẩm và tác giả

Ở tuổi mười chín, người ta biết gì về tình yêu? Florence gặp JP, người giúp cô khám phá ra ma lực cuả khổ hình: trong sự đau đớn và nhục nhã, có niềm thống khoái. Và từ những lằn roi hằn vết trên thân thể, Florence tìm cách tự hiểu mình, chấp nhận mình, tự mổ xẻ mình. Florence còn lôi kéo Nathalie, một thiếu nữ được JP giới thiệu cho Florence, vào một cuộc tình bạo dâm-khổ dâm không khoan nhượng. Hành trình tìm kiếm sự thật cuả Florence chỉ gói gọn trong vòng vài tháng, nhưng dữ dội và tuyệt vọng, đã lật nhào tất cả và để lại trong tâm khảm cô những dấu ấn không thể xoá nhoà. Nathalie, dị bản cuả Florence, đã không tránh khỏi cái chết.

Ở mức độ cao hơn một tiểu thuyết khiêu dâm, Florence Dugas dẫn người đọc tiến dần đến chỗ thưà nhận nỗi đau và sự chối từ hiện hưũ, mà nguyên nhân bắt nguồn từ một tuổi thơ bất hạnh. Viết thẳng tay bằng một văn phong sống sượng – nhưng không trơ trẽn – Florence Dugas, với tự truyện Thống Muội, đã bóc trần mọi tình huống, gây xót xa, băn khoăn, trăn trở nơi người đọc. Là giáo sư kịch nghệ của hàn lâm viện kịch nghệ tại Pháp, cô cho xuất bản Thống Muội năm 1996, lúc 28 tuổi.

Vào truyện

Tôi có yêu em không? Không gì có thể làm tôi quên được đôi tay hay khoé miệng em, không gì có thể khiến tôi chấp nhận được sự ra đi của em, kể cả việc chuẩn bị tang lễ, hay với những dòng chữ này, tôi viết để cố phục sinh em. Em có yêu tôi không? Người ta có yêu người thương mình không? Em ở đâu đến? Một tối nọ, JP dẫn em đến theo lời yêu cầu của tôi, để làm người mẫu chụp hình. Em ơi, em đâu rồi? Cái chết của em đã chia cách chúng ta, nhưng cái chết của tôi rồi cũng sẽ không kết hợp mình lại với nhau được nữa. Và tôi, tôi đang ở đâu?

Ðiạ ngục, hình như vậy…Những người nữ bị đày, bị đoạ…

Ngoài đường, tôi hay thấy trước mặt mình nét người thon cao của em, dáng đi nhún nhảy đặc biệt của em, bờ vai trần rất tròn làm vải áo cứ trượt trên da – em kiên nhẫn kéo hoài về phiá cổ bằng một động tác nhịp nhàng quen thuộc – với sóng tóc trên vai… Và, khi tôi đến gần bên, lọn tóc mai vàng sáng dán vào chiếc má phính, làm liên tưởng ngay đến đôi mông đầy… Tôi dấn bước, vượt qua mặt và quay lại nhìn. Không phải em, chắc chắn là như vậy rồi. Chỉ có trong tiểu thuyết, người ta mới trở về từ cõi âm. Tôi nghĩ đến Eurydice [b]. Ảo ảnh và sự thất vọng, đó là tất cả những gì còn lại nơi tôi, để luôn được bên em. Cách tôi chọn để mãi mãi thuộc về em. Là em.

Chương 1 – Nỗi Ðau Tấy Ðỏ [c]
Tháng Chín

Tôi đã cố yêu bọn đàn ông, như thể làm đàn bà thì phải yêu đàn ông, cho phải đạo. Khi tôi nói «bọn đàn ông», có nghiã là, chưa quá hai mạng, và ở những thời điểm khác nhau, vì tôi vốn không thích sưu tầm, thu thập, lại cũng chẳng khoái chuyện lập đi lập lại. Yêu hử? Lúc mười chín tuổi, người ta biết gì về tình yêu?

Rồi anh ấy đến, để chút nữa tôi sẽ kể thêm. Lúc đó, tôi đang vừa học đại học vừa đi tập kịch. Giọng nói của anh ấy ngân lên những âm điệu đam mê lẫn xa cách. Chính cái khoảng cách, cái kiểu giữ kẽ của anh ấy lại quyến rũ tôi.

Anh ấy có yêu tôi không? Anh ấy diễn, dạy tôi diễn – đạo diễn đời sống thực cuả tôi (*)[1].

 

Cho tới lúc đó, tôi cố tỏ ra nghiêm túc trong những mối tình phù du cuả mình. Như một bà Bovary[d] dỏm, từ bốn năm nay, tôi cứ khư khư ôm lấy cái thói đa sầu đa cảm và, nói gì thì nói, cái thói uỷ mị này cũng không đủ để giúp tôi sướng ngất khi mấy thằng bồ quấn chằng vào người.

Có một điều mà cả lũ đàn bà con gái đều biết: chính mình tự gây được nhiều khoái cảm hơn là do mấy thằng kép hờ mang lại. Vậy mà, có khi họlại nghĩ mình có lỗi, khi chỉ cảm nhận được tí chút tê mê từ những hành động vụng về của bọn kia, vì, họ cứ bị nhồi sọ mãi bằng luận điệu: đấng mày râu là đấng toàn năng, toàn quyền (*)[2]. Gập người xuống phục dịch. Kết quả, chỉ làm bọn đực rưạ xuất tinh nhanh hơn, còn lũ đàn bà thường chỉ mới lơ lửng nửa chừng xuân, đã chưa tới bến…

Tôi cũng giống họ thôi: tự buộc tội, cứ nghĩ mình lóng nga lóng ngóng, chỉ vì đã chán, đã ngấy tận cổ. Với JP, tôi lại chẳng bao giờ thấy nhàm, kể từ lần đầu tiên.

Thực ra, tôi và anh ấy đồng tính luyến ái. Không ái nữ, nhưng đúng là ái nam.

Tôi muốn nói… Ai cũng nghĩ mình mang thêm trong người một phần phái tính khác. Thế này nhé: Với JP, tôi giống như một thằng lỏi khoái bọn con trai – hay về sau này, với Nathalie, tôi giống một đứa con trai mê lũ con gái.

Tại sao cha mẹ lại nặn tôi ra là gái? Chỉ tính toán sai một tí tẹo, thế là cả đời dài lãnh đủ, không cách gì sửa chữa được!

JP thì lại dạt dào nữ tính – nữ tính cuả những cô nàng chỉ biết yêu có mỗi đàn bà.

Ðẹp đôi đấy chứ…

Còn con bé Nathalie, con đĩ rạc, chiụ nhận làm gái với lũ con gái và cả với bọn con trai. Mở banh ra cho hết thảy. Hứng trọn tất cả mọi tánh thói kỳ khôi. Hồn nhiên đồi bại như mèo mả gà đồng.

Chẳng có gì là gàn dở hay tư duy trong tính cách cuả Nathalie cả: cũng giống như cây cỏ vậy thôi, chiụ đựng ngón vuốt ve lẫn cơn bạo cuồng của gió với cùng một vẻ nồng nhiệt như nhau.

Thật ra, đó chỉ là những gì tôi nghĩ trong đầu. Sau này, tôi mới hiểu thêm rằng, con bé lúc nào cũng vác một nỗi tuyệt vọng khổng lồ bên mình, một tội lỗi nứt toác không gì có thể ân giảm, gỡ xoá đi được. Ðau khổ quá, chỉ còn biết cách dùng chính thân xác mình để trút tháo nỗi niềm.

*

Ngày ghi danh, vừa mới bắt chuyện trong hành lang lầu bốn trường đại học, JP và tôi đã nhận chân ra nhau ngay.

Thời đó, tôi có một thằng, tạm gọi là bồ. Tôi đã ngủ với hắn ba lần, lần đầu cho biết, lần thứ hai để tự thuyết phục mình, và lần thứ ba để quên cái chuyện thuyết phục thuyết phiếc vớ vẩn đó đi.

Thằng bồ chịu khó lấy tay ve vuốt tôi hàng giờ hàng giờ, rồi còn nào hôn vào gáy, nào nói yêu tôi. Chán ốm người! Tôi, lạimuốn hắn chiếm mình thật nhanh, thật hung, nhất là đừng có tìm cáchlàm tôi kích ngất – tham vọng ngửi không nổi của đa số đàn ông, cứ nghĩ là điều đó sẽ miễn thứ hết cho cái tội ích kỷ của họ…

Thằng bồ hay gọi điện thoại cho tôi, lảm nhảm hoài cái điệp khúc mùi mẫn cũ mèm (*)[3], rủ tôi đến vài buổi chơi nhạc mờ ám ở mấy khu ngoại ô phức tạp, và chẳng còn khuấy động nổi những giấc mơ của tôi nữa.

JP khác xa. Anh ấy lớn tuổi hơn – gần gấp đôi tuổi tôi. Sự mỉa mai lộ ra trong mắt anh qua hai tia nhìn phối hợp: châm biếm và tự hạ giá mình. Anh ấy làm yên tâm, đồng thời gây nghi ngại.

Người ta biết anh ấy dám làm gì, nhưng lại nghi ngờ khả năng thực hiện của anh ấy.

Trong khóa học, chúng tôi quen biết nhau đủ để anh ấy đánh trượt tôi. Mãi sau này tôi mới rõ, đó chính là cách anh ấy hay dùng nhất để kết thân. Lúc đó, tôi bực bội như một con ngốc. Rồi chúng tôi gặp nhau một buổi xế trưa, anh ấy mời cà-phê, đề nghị tôi ngồi làm mẫu, và ba ngày sau, chúng tôi ngủ với nhau.

Anh ấy đến tôi khoảng sáu giờ chiều một ngày tháng chín đẹp trời, với champagne ướp lạnh và một lô lỉnh kỉnh thiết bị nhiếp ảnh. Anh không sử dụng ngay ngày hôm ấy, chỉ bố trí mọi thứ đâu vào đấy, cẩn thận, tỉ mỉ, và để nguyên như thế. Phần tôi, ngồi yên trên chiếc giường lớn mạ kền chiếm gần nửa căn gác. Chúng tôi cụng ly…

Một lúc sau, anh ấy nhìn, cứ như mới trông thấy tôi lần đầu tiên, rồi nhã nhặn yêu cầu tôi cởi quần áo. Còn anh thì không, vẫn e dè giữ ý giữ tứ với bộ jeans trên người.

Paris cuối thu năm ấy thật ấm. Trần truồng giữa phòng, tôi ngồi yên, lòng bàn tay ẩm, lòng bàn chân cũng vậy, chẳng mát hơn chút nào khi đặt lên nền gạch lạnh. Không biết làm gì với hai tay – tôi đã học bao nhiêu điều về cách dùng chúng trên sân khấu – tôi đặt tay lên hông và hất vai, ngả người ra sau. Dị hợm. Anh ấy đứng dậy, đến khép lại cánh cưả sổ. Tiếng động ngoài phố đột nhiên ngưng bặt, và giọng anh vang to một cách bất thường giữa sự im lặng đột ngột ấy.

– Em nằm xuống giường. Nằm sấp đấy. Mặt hướngvề phiá cửa sổ nhé.

Tôi cảm thấy nhẹ cả người khi được vùi mặt vào gối…

Tôi nghe tiếng anh ấy mở túi. Cảm thấy anh nghiêng người xuống tôi. Anh khẽ cầm tay tôi và lần lượt trói từng bàn tay một vào những thanh sắt đầu giường bằng mấy sợi dây da mảnh đã được chuẩn bị từ trước. Anh xiết thật chặt, để tôi hiểu rằng đây không chỉ đơn thuần là một trò chơi, và những ngón tay của tôi vội vã xoè ra cụp vào y như mấy cái chân gà. Tôi biết: có điều khác lạ sắp xâm chiếm lấy đời mình.

Không một giây phút nào tôi nghĩ đến chuyện chống đối, bởi vì tôi cảm thấy mình hoàn toàn tự do để từ chối, do đó, có hoàn toàn tự do để chấp nhận.

Anh ấy vuốt vai, miết gáy, hôn tôi thật lâu. Môi anh vẽ vệt trên lưng, lưỡi trôi dọc theo cột sống, đổ xuống trũng lưng, len vào giữa mông. Như mèo mẹ nựng niụ con, anh dướn lên, cắn vào vai tôi, day khoảng gáy rồi lại chuồi xuống vùng hông.Tôi thắt người lại khi anh lấy tay vạch mông; rồi cái cảm giác vừa buồn cười vừa thèm muốn cứ cồn cào gan ruột, khuyến khích tôi mở rộng ra hơn nữa. Lưỡi anh nhẹ lướt theo rãnh, nhấn, lút trong hậu môn, trở ra, rà sâu vào giữa hai đùi dạng. Ít ai có thể làm tôi dầm dề ướt đến thế. Chúi vào âm hộ, anh dùng tay khẽ vân vê mép ngoài, lưỡi lần tìm hạt thịt, tóc cọ quẹt giữa háng. Tôi co thắt và lại càng mở rộng ra hơn.

Anh liếm láp cho đến lúc tôi mê ngất. Anh liếm, mút, cắn, cào, vuốt, hành hạ tôi, lấy tay ấn ngập vào âm đạo tươm tưới xong quay sang ve vuốt hậu môn với những đốt tay sũng ướt, đâm sâu vào, một ngón, rồi hai, ba. Chưa bao giờ tôi lại nghĩ mình có thể mở ra dễ dàng đến thế. Còn tay phải, anh xoa nắn đôi vú đang bị tôi đè dẹp trong chăn nệm.

Tôi xong cơn sướng khoái, anh nhổm dậy, nhưng ngón trỏ vẫn nằm sâu trong âm hộ, những ngón khác vẫn đùa nghịch với vành môi và hạt thịt của tôi. Quằn kéo mấy sợi dây trói tay, tôi giãy duạ như một con ếch mất đầu. Van xin anh buông tha tôi.

Anh vẫn giữ vẻ xa cách thật khó hiểu, làm như những mơn trớn nãy giờ chẳng có liên quan gì đến anh cả, làm như anh đang máy móc nhấn nút, những cái nút mà anh đoán ra cách vận hành mà chẳng cần phải đọc bản hướng dẫn sử dụng.

Ðáng lẽ tôi phải căm hận cái thái độ ấy. Ðàng này, tôi lại biết ơn anh, đã tránh cho tôi khỏi rơi vào cái mớ tình cảm lằng nhằng và những biểu hiện tự mãn của giống đực. Cùng lúc, tôi thấy mình vừa giống món hàng vừa như ẩn ngữ – một bản văn viết bằng thứ ngôn ngữ khó đọc, khó hiểu.

Anh ngồi ghé xuống giường, quần áo vẫn chỉnh tề, lơ đãng mơn trớn vai và gáy tôi. Tay anh lần lên mặt, ngón đút vào tai, lướt qua miệng, viền quanh môi. Tôi tự hỏi: «Mùi cuả mình đây sao?»

Anh đặt tay lên cổ và tháo sợi dây chuyền vàng có móc khoen nhẫn của bà tôi, kỷ vật duy nhất của bà mà tôi còn giữ được. Tức khắc, tôi đoán ngay ra anh ấy định làm gì. Hoảng loạn.

Anh thò vọc, nhấn một đốt tay vào sâu trong âm đạo, bấu nhè nhẹ lên vành trong, miết khẽ hạt thịt. Anh lấy ngón cái tẩm đẫm trong âm hộ rồi ấn tọt vào hậu môn.

Hình như thời gian ngưng lại, vừa đủ để tôi phơi mở ra hơn theo những mơn trớn dần trở nên quen thuộc của anh. Bỗng vút một cái, anh quật mạnh sợi dây chuyền xuống mông tôi.

Một sự đau đớn dữ dội, mới mẻ, một điều gì đó mà tôi chưa từng biết, nhưng lại nhắc nhớ, dựng dậy từ sâu thẳm những tàn dư. Một vết bỏng ba mươi phân, với hơi nóng tức khắc lan toả ra chung quanh. Tiếp ngay cú thứ hai. Cú thứ ba.

Không cắn răng chịu đựng nữa, tôi gào lên. Không phải để phản đối: chỉ đơn giản gào thét, tiếng thét của thịt da bị hành hạ. Vì kiêu hãnh, tôi đã cố gắng nín nhịn, cố đếm nhẩm trong đầu từng cú một, để thoát khỏi hiện tình… Nhưng không gượng nổi, ngay sau đó, tôi khóc rống, những cú quất liên tiếp xả xuống từng lằn song song nhau, từ hông đến đùi, và tôi hoàn toàn bị nỗi đau chiếm ngự. Tôi van xin anh ấy dừng tay, không đắn đo suy nghĩ gì nữa cả (*)[4].

Dĩ nhiên, tôi đã tự hỏi tại sao mình lại để anh ấy hành hạ như vậy, tại sao tôi lại còn nghiêng hẳn người ra chờ cú quất kế tiếp, tại sao tôi lại còn cảm thấy kiêu hãnh một cách quái đản khi bị tả tơi như vậy. Chỉ còn biết tự trả lời. Tôi khóc vì đau, nhưng cũng vì, ở bên dưới sự đau đớn rõ rệt kia, còn dâng lên từng đợt trong tôi cả một huyệt sâu đầy những nỗi kinh hoàng bị vùi lấp, mà một ngày nào đó, chính tôi phải tự giải thích cho mình hiểu. Ở trận đầu này, tôi nghẹn ngào nức nở như khi còn bé và không sao kìm nín nổi, nước mắt nối tiếp nước mắt nối tiếp đòn roi.

Ðột nhiên, tôi nhận ra anh đã dừng tay, và tôi chỉ còn là một vết thương mênh mông ướt đầm nơi khoảng giữa thân thể. Tách rời khỏi cái đau toàn diện ấy, là cảm giác nhức nhối riêng biệt nơi hai cổ tay bị trói. Có một sức nặng đè xuống giường, giữa hai đùi tôi rộng mở. Anh ấy chồm lên tôi nhưng không đè xuống, vạch mông bằng một tay… Anh đặt đầu dương vật vào hậu môn tôi và chầm chậm đẩy vào, để tôi cảm thấy rõ ràng từng giây từng phút một là anh đang ép tôi phải dâng mình làm vật hy sinh.

Chưa bao giờ tôi làm tình như thế cả. Mới vưà đây thôi, ngay cả những ngón tay của anh cũng đã làm tôi hãi hùng, dù sau đó, tôi không còn cảm thấy như thế nữa.

Thật kinh khủng khi mũi khoan nhọn đục thông lối vào – một khoảng lặng trước khi anh đè nặng và đánh bại tôi, nhục nhã nhưng kiêu hãnh vì đã bị chinh phục. Và tôi cảm thấy cái khối thịt cứng như thép ấy xuyên thẳng vào mình, càng lúc càng sâu.

Âm đạo có đáy. Một thằng đàn ông chơi chị, trừ phi của hắn bé như Tom Pouce[e], sẽ thấu đáy nhanh chóng. Ngay cả cái tư thế mà chị khứng chịu còn làm chuyện đó xảy ra lẹ hơn nữa – chân quắp vào cổ hắn, cán chổi cuả hắn chọc sâu vào chị. Và hắn không thể nào vào sâu hơn nữa, ngay cả khi hắn tưởng rằng có thể thực hiện được với từng cú thúc hung bạo, ngay cả khi chị phơi bày hết cỡ, mở rộng hơn bất cứ một ả đàn bà nào khác. Âm đạo là ngõ cụt. Dead end.

Hậu môn không có đáy. Dù của quý của hắn có lớn dài cách mấy đi nữa, dù tính khí của hắn có hung hăng, điên khùng cách mấy đi nữa, chị vẫn còn giữ được trong mình những khoảng trống khao khát, những vực sâu khuất lấp, niềm bí mật. Của anh ấy to khổ hơn nhiều so với hai thằng bồ cũ của tôi, mặc dù cái ấy của tụi nó cũng không đến nỗi tệ. Và anh đâm sâu như muốn xuyên tận tim tôi. Tôi cong ưỡn người, mông chổng cao để anh có thể vào sâu, sâu thêm, sâu hơn nữa.

Chịu nhục hình cọc nhọn đâm xuyên. Từ đó, tôi miệt mài hiến thân cho bọn đàn ông ẩn mặt dấu tên, dâng mình cho những rễ cái chắc khoẻ nhấn lút giữa hai mông, cắm cứng vào khoảng tối ám – mất hút trong tôi, như đã hoàn toàn thuộc về tôi, biến thành một phần thân thể tôi. Nhưng không một cuộc truy hoan nào đã để lại được nơi tôi cái cảm giác mới lạ của lần đầu tiên này, cái cảm giác khám phá ra những khoảng không gian còn trinh nguyên trong vòm vũ trụ-tôi.

Ðút đít: còn từ nào khác nữa không? Tôi thấy rất rõ hình ảnh chày thịt anh mất hút vào giữa tôi ẩm tối, tôi đoán trước được lúc nguồn hoan lạc của anh tuôn trào, đặc trắng, ấm nóng giữa lòng hang thẳm (*)[5]. Với cái cảm giác bỏng rát trên thịt da tơi tả trộn lẫn vào độ lạnh băng tan giữa gan ruột, tôi kích ngất như chưa bao giờ từng. Giống bàn tay bóp chặt, hậu môn tôi thắt thít lấy dương vật anh, giữ sâu trong lòng – khoan khoái mút sạch, rút hết nhựa sống đổ ra từ mũi cọc đã xuyên xóc lấy tôi.

Sau đó, anh nghiêng người tháo dây trói cho tôi. Nghe tiếng anh vào phòng tắm, tiếng nước vòi sen. Tôi rã rời. Tan loãng. Và sau khi anh đi rồi, mới nhận ra mình đã đái ướt cả giường trong khi sướng khoái.

Tắm xong, anh đến bên tôi, áo quần tươm tất, nhưng, trước đó, anh có cởi đồ ra không, hay chỉ đơn giản là để đi tắm? Anh nâng đầu tôi lên, khẽ hôn lên trán, rồi mắt, và môi. Chúng tôi trao đổi với nhau vài câu vô thưởng vô phạt. Anh nói sẽ nhờ tôi ngồi làm mẫu chụp hình trong một dịp khác. Anh đi ra cửa, tôi theo, hôn anh, ngực trần run rẩy vì chạm vào làn da thuộc lạnh lẽo của áo khoác ngoài. Anh luồn tay vào giữa háng tôi, và tôi muốn cho anh thấy mình đang ẩm ướt đến nhường nào. Tôi quỳ xuống, kéo quần anh, ngậm đầy miệng cành nhánh còn đang cong rũ.

Khoan khoái thấy nó cương dần lên. Khoá thắt lưng toòng teng cạ vào má tôi. Tay anh túm chặt lấy tóc tôi quăn rút từng lọn. Lần đầu tiên trong đời, tôi hân hoan nuốt hết dòng keo sữa. Anh đi ngay sau đó.

Tôi vào phòng tắm.

Trừ mắt hoen đen và môi bóng nhẫy, khuôn mặt tôi chẳng có gì khác lạ cả. Người ta có thể biến đổi một cách toàn diện mà không để hằn lại chút vết tích nào hay sao? Chỉ có cườm tay đỏ vệt.

Tôi quay mình, xoay kính để nhìn được phiá sau lưng. Từ hông đến đùi, người tôi vằn vện những lằn tím bầm chồng chéo nhau, nối dài, lẫn lộn. Những lằn trên mông trắng rõ nét hơn ở lưng hay đùi nâu đỏ, vì làn da tháng Chín cuả tôi hãy còn rám nắng hè. Ðếm được khoảng bốn mươi lằn song song. Mỗi lằn, như một hình ảnh trùng chặp của đoạn phim, một dòng ghi chú bên lề trang sách. Da hơi tróc, sưng phồng nơi có vết miếng khoá dây chuyền móc vào.

Tôi không nhớ có bảo anh đeo nó lại vào cổ trước khi rời phòng không? Tôi lại nhìn mình lần nữa trong gương. Chiếc nhẫn vàng, đã xỉn, đong đưa giữa đôi vú, như mọi khi.

Ðúng vào lúc đó, lần đầu tiên tôi cảm nhận được niềm kiêu hãnh đã bị đánh vằn vện, cái cảm giác có được kể từ ngày ấy, mỗi khi nhìn thấy mình trong gương, thịt da bầm dập. Hôm sau, đã hết đau. Chỉ còn lại trên da những chứng tích vẽ vệt ngang dọc. Mấy ngày nữa, tôi vừa dửng dưng vừa thích thú theo dõi những vết xước lặn dần. Chỉ còn sót lại đây đó vài đốm xanh mờ, rồi da liền miệng, trắng ngần, như khát khao một cuộc hiến tế mới.

Tám ngày sau, anh ấy gọi lại cho tôi.

***

 


[1] (*) Nhớ nhé: tôi diễn kịch, vưà để tự nhận diện, vưà để tự vấn – như những mặt nạ vũ hội hoá trang: không bao giờ «để vui chơi». JP dựng kịch liên miên. Tạm gọi là anh ấy tự tìm kiếm mình không ngưng nghỉ, và vẻ tự tin cuả anh ấy (gần với sự dửng dưng, lãnh đạm, mà bạn sẽ thấy ở những trang sau) thật ra chỉ là một cách để gây sự chú ý nơi người khác mà thôi. Nếu chúng tôi còn yêu nhau, chính vì còn có dịp lần lượt thay phiên nhìn nhau diễn bên cánh gà. Trừ những dòng này, tất cả những chú thích ở các trang kế tiếp đều do JP ghi. Tôi đã yêu cầu anh ấy làm điều đó khi đọc quyển truyện này. Tôi không bôi xoá một dòng chú thích nào cả. Nhưng tôi cứ tự hỏi, chẳng hiểu tại sao anh ấy lại ghi chú ở chỗ này mà không ở nơi khác…

 

[2] (*) Truyện cuả Florence giăng mắc những câu trích dẫn từ các kịch bản, có lẽ do ảnh hưởng bởi quá trình đào tạo và diễn tập trên sân khấu; đã thấm nhập cả vào đời sống thực cuả cô ấy.

 

[3] (*) Florence đã sớm bị rơi vào cái mà tôi gọi là hiệu ứng-trích dẫn. Ở mỗi câu, mỗi thái độ, người ta lại phát hiện ra việc cô ấy cứ bỏ bừa những thứ vay mượn vào mạch văn mà chẳng mở ngoặc đóng ngoặc gì cả. Những lời yêu đương cứ nối lấy nhau như một bài vè bất tận. Các cử chỉ, điệu bộ được mô tả rất tuồng, cứ y như của một người nào đó viết cho một người nào đó diễn, không liên quan gì đến cô ấy cả. 

 

[4] (*) Khi tôi so sánh vài trò khai vị này với những gì Florence đã chiụ đựng sau đó, và đến phiên chính cô ấy thực hành trên Nathalie, tôi thấy có hơi quá, khi cô ấy nói đến sự đau đớn. Thật lạ lùng, Florence viết như đây là lần đầu tiên, như cô ấy sao chép lại một quyển nhật ký ghi từ ngày này qua tháng nọ, chỉ biết hôm nay mà không biết những gì sẽ xảy đến trong mấy ngày sau đó. Khi Florence viết những dòng này, làm như cô ấy không biết rằng, vài tuần sau, cô ấy đã bị đánh đến bật máu. Làm như cô ấy không nhớ rằng, thỉnh thoảng, thời chúng tôi còn gặp nhau với những lý do rất chính đáng – công việc chẳng hạn, khi chúng tôi cùng hiệu đính lại kịch bản và xem xét lại cách bố trí sân khấu cho vở Oedipe cuả Sophocle, vở kịch cô ấy muốn dựng, tôi đã bảo Florence vén cao váy trước khi chia tay, và quật xuống roi thúc ngựa hay roi gân bò, để những vết tích này sẽ cặp kè theo cô ấy cho đến tận lần hẹn sau. Ðể khi lên cầu thang, lấy thang máy hay đi ngoài đường, cô ấy có cảm tưởng mọi người sẽ chòng chọc nhìn vào những vết bỏng sót ẩn hiện dưới lớp vải mỏng đang mặc trên người – cảm giác vưà ngượng nghiụ vưà kiêu hãnh – nhưng thật ra thì, phố xá lãnh đạm, thiên hạ dửng dưng.

 

[5] (*) Tự nội soi, ngày xưa người ta gọi như vậy. Florence hay nhìn thấu phần trong thân thể mình: thấy được từng tia sệt ngậy phủ kín vách màng nhầy thẫm đỏ, tươi ửng lên vì những lần rút ra đâm vào. Một ngày kia, liên tiếp bảy hay tám gã đàn ông đã xuất tinh trong miệng Florence, như cô ấy sẽ kể lại ở những chương sau, cô ấy nói với tôi: đã thấy rất rõ việc bộ máy tiêu hoá hấp thu loại nước cốt mới lạ này và sau đó, tràn ứ chất đạm của giống đực.

 


[a] Dịch từ nguyên tác Dolorosa Soror, tiểu thuyết đầu tay của Florence Dugas, nxb Blanche, có thể xem bản dịch Anh ngữ Sad Sisters của Marti Hohmann. Florence Dugas đã viết các tiểu thuyết Post-Scriptum và L’Evangile d’Eros. [Cổ Ngư]

 

[c] tiểu tựa của Hợp Lưu

[d] Bà Bovary: tác phẩm quan trọng cuả nhà văn Pháp Gustave Flaubert (1821-1880). Xuất bản năm 1857, tiểu thuyết «Bà Bovary», với nhân vật chính cùng tên, đã khuấy động dư luận một thời. Truyện kể về cuộc đời Emma Rouault, xuất thân từ một gia đình giàu có. Ðược nuôi dạy ở trường dòng, cô lơ lửng trong một thế giới ảo mộng do đọc quá nhiều tiểu thuyết diễm tình. Lấy chồng, tên Charles Bovary, Emma va chạm với đời sống thực, nhanh chóng vỡ mộng. Sau đó, bà Bovary lần lượt có hai người tình là Rodolphe và Léon. Với Léon, bà Bovary đã mượn một món tiền lớn để chi tiêu. Khi bị đòi nợ, bà Bovary tìm đến Rodolphe và Léon để yêu cầu được giúp đỡ, nhưng cả hai đều quay lưng. Tuyệt vọng, bà Bovary tự tử bằng thạch tín. [Cổ Ngư]

[e] Tom Pouce: chú bé tí hon, chỉ cao bằng ngón tay cái cuả người lớn, nhưng rất thông minh, lanh lợi. Có nguồn gốc từ thời Trung Cổ, truyện Tom Pouce được nhà văn Pháp Pierre-Jules Stahl (1814-1891) viết lại thành tiểu thuyết có tính cách giáo dục thiếu nhi, mang tưạ đề «Những cuộc phiêu lưu cuả Tom Pouce».

 

 

Đĩa nhạc ”Nhật Thực” và thơ Vi Thuỳ Linh

 

Nghe lọt vào tai lời khen của nhạc sĩ Phạm Duy, việc làm ”có văn hoá” đầu tiên của tôi khi về tới Sài Gòn hồi tháng sáu vừa rồi là ghé vào tiệm sách tìm mua ngay đĩa nhạc ”Nhật thực”, nhạc Ngọc Ðại, phổ từ bảy bài thơ cuả Vi Thuỳ Linh, Ðỗ Bảo hoà âm và Trần Thu Hà hát (*). So với âm nhạc cuả người Việt trong và ngoài nước sáng tác hiện nay, quả nhạc Ngọc Ðại xứng đáng được xếp vào loại a-văng-gạc (mở ngoặc: hình như có người dùng chữ ”tiền phong”, nhưng sao nghe sặc mùi ”cách mạng”! Vả lại, dân Việt ta hay có lối vừa nói vừa đệm thêm tiếng tây cho… sang, vì vậy, đang sống ở xứ tây, tôi lại càng phải áp dụng cái thói trưởng giả sì-nốp này. Ðóng ngoặc), hậu hiện đại, với sự pha trộn có sáng tạo giữa rock, pop, nhạc cổ điển Âu châu với hát ả đào, ca trù, đồng dao Việt, giữa tiếng tụng kinh, gõ mõ và âm thanh cuả đại phong cầm nhà thờ, giũa tiếng thở đục và giọng cười trẻ con trong vắt. Trần Thu Hà, với lối nhả chữ cố ý uốn éo, trây trợt, dẻo quặt, thõng, nhẽo, với cách hát khi thì thào, khi gào thét, chỗ véo von, lúc khê đặc, lột tả được phần nào cái không gian đậm dục tính cuả lời thơ Vi Thuỳ Linh. Cả nhà thơ và ca sĩ, hình như chỉ mới ngoài hai mươi… Về nhà, nghe tới câu ”Em yêu anh cuồng dại, yêu anh đến tan cả em ra” trong bài ”Dệt tầm gai”, đang nằm lơ mơ, vợ tôi bật dậy như lò xo, buột miệng kêu: ”Ðã quá!”. Tôi, thắc mắc hoài, cứ muốn giải cái bí mật: ”ngày cuối tháng, ngày em chóng mặt” cuả cô gái trong bài hát đầu tiên và khoái lỗ nhĩ với những âm thanh chen chúc, pha trộn vào nhau trong ca khúc cuối cùng cuả đĩa nhạc, tạo nên cảm giác hỗn loạn, kỳ bí, hoang mang cuả một ngày nhật thực. Những bài còn lại, lời và nhạc, hình như chưa đủ liều lượng để gây một vụ nổ lớn, ít ra là với chúng tôi, những người đã có dịp nghe các loại hard-rock dậm dật và đọc những dòng thơ hừng hực lửa dục cuả Ðỗ Kh. hay Lê Thị Thấm Vân.
Cuối tháng bảy, lên mạng đọc Talawas, lại thấy bàn nhiều đến thơ Vi Thuỳ Linh, khen chê đủ cả (chuyện không có gì mà ầm ỹ, cả đến thánh thơ, thần thơ cũng còn bị chê nữa là…). Tôi lại bỏ đĩa nhạc ”Nhật thực” vào máy nghe tới nghe lui thêm vài lần, còn cẩn thận đọc kỹ lời mấy bài thơ được phổ nhạc, mong… hiểu được thơ Vi Thuỳ Linh thêm một chút. Xong, mới thấy tội nghiệp cho cô nhà thơ này. Chẳng lẽ chỉ vì những câu ”cùng lũ gái trai xiết vào đêm cháy…”, ”khi anh đẩy em bằng mắt, trăng vưà tròn mười chín…” hay:

Cài then tiếng khóc cuả em bằng đôi môi anh…
Cài then em, cài những ngón tay trầy xước cuả em bằng anh!

mà cô sinh viên báo chí Ðinh Bích Ngọc và bạn bè phải rùng mình, đỏ mặt vì giận dữ (theo bài viết ”Từ ”thơ vọt trào” đến hội chứng khen trào vọt…” cuả tác giả Trần Mạnh Hảo)? Vì thật sự bị xúc phạm đến danh dự hay chỉ vì muốn tên mình và những suy nghĩ ”phải đạo” cuả mình được đưa lên báo? Tôi đặt câu hỏi này do cũng vừa đọc xong một bài viết báo động tình trạng phá thai ngày càng tăng cuả các ”thiếu nữ” Việt Nam dưới hai mươi tuổi trên toàn quốc (nhỏ tuổi hơn Vi Thuỳ Linh và Ðinh Bích Ngọc đấy nhé!). Tác giả Lê Thị Huệ (”Sex Sells : Cảm giác sau khi đọc những bài bình thơ Vi Thuỳ Linh cuả các đàn anh văn nghệ”) thì lôi một đống ”kính chiếu yêu” ra, nào là nữ quyền luận, rồi tâm lý học, sinh lý học, cơ thể học… để đốt, à không, để đọc thơ Vi Thuỳ Linh. Cô nhà thơ này có dán cái nhãn phê-mi-nít (lại xổ tiếng tây tiếng u!) lên trán đâu mà bắt cô ấy phải đấu tranh cho bình đẳng, bình quyền cuả phụ nữ? Và tôi, đàn ông đàn ang, không biết gì nhiều lắm đến các bí mật cuả phụ nữ, cũng xin có ý kiến riêng: một cô gái thành thị thế kỷ hai mươi mốt, khoảng hai mươi tuổi, ít ra cũng đã làm quen và điều chỉnh với những biến đổi cuả cơ thể (trích Lê Thị Huệ, bài đã dẫn) được năm bảy năm, và nếu muốn, không thiếu cơ hội để ”nghiên cứu” và sử dụng các phương tiện ngừa thai để ”tự giải phóng”. Hơn nữa, trong một tháng ba mươi ngày, chỉ cần vài ngày thân thể thật khoẻ mạnh, tinh thần thật sảng khoái, là cô gái đã có thể yêu mãnh liệt được rồi, đã dư sức xuất thần sáng tác những câu thơ ”gợi cảm” được rồi. Và nếu Vi Thuỳ Linh ”mê giai” thì đã sao? Hàng đống nam thi sĩ (và không thi sĩ) đông-tây bao thời ”dại gái” khóc than rên rỉ, có thấy ai nói gì đâu? Cũng may mà Vi Thuỳ Linh viết: ”Cái lưỡi mềm cuả anh nơi gan bàn chân em”, còn bị tác giả Lê Thị Huệ cho xếp đứng ngang hàng với cái xương sườn cuả đàn ông, giả dụ cô ấy viết: ”Cái lưỡi mềm cuả em nơi gan bàn chân anh” thì sẽ còn bị ”giáng cấp” xuống đến đâu nuã không biết! Tác giả Nguyễn Thanh Sơn, trong bài ”Linh ơi…!” nhẹ nhàng phê phán cách sử dụng những ngôn từ to tát, như một rừng khẩu hiệu cuả Vi Thuỳ Linh, trong thơ. Chắc ông đã quên, ở tuổi đôi mươi, cái tuổi coi trời bằng vung, cái tuổi bẻ gãy sừng trâu ấy, những người có máu nóng (trong đó có Vi Thuỳ Linh, tôi nghĩ vậy) mơ lấp biển vá trời, ”bốc”, ”xung độ”, dùng hàm ngôn, lộng ngôn, ngoa ngôn là chuyện bình thường, là điều tự nhiên. Cũng không nên quên là họ rất thích triết lý vụn, thích những gì mới, hào nhoáng, và nhất là, thích nghĩ mình đã lớn, đã trưởng thành (sinh viên rồi chứ bộ giỡn sao!). Vi Thuỳ Linh đang sống và đang nghĩ ở đúng tuổi cuả cô ta, nên thơ làm ra cũng bồng bột, sôi nổi cuồng nhiệt như vậy. Chỉ buồn cười cho những lời khen ”nổ văng miểng” và những lời chê ”nghiêm trang trịnh trọng” cuả các nhà văn, nhà thơ đã hai ba lần hai mươi tuổi.
Tái bút 1: xin đừng ai nghĩ tôi có họ hàng làng nước, quen biết gần xa hay ái mộ văn tài cuả Vi Thuỳ Linh mà viết bài này đấy nhé! Ngay cả mặt mũi cô nhà thơ hai mươi tuổi này ra sao, tôi cũng chưa hân hạnh được biết, chỉ thấy in trong đĩa nhạc nào mắt, nào tóc, nào tai, nào tay, chân, vai, cổ, yếm mờ mờ ảo ảo, không biết là của ca sĩ Trần Thu Hà hay của ai?
Tái bút 2: đọc lại đoạn đầu, thấy mình cũng tầm bậy tầm bạ khi đem so sánh thơ Vi Thuỳ Linh với thơ Ðỗ Kh. và Lê Thị Thấm Vân. Hai vị này, trước tiên đều đang sống ở các nước ”tư bản đồi truỵ” láo lếu ”tự do ngôn luận”, sau nữa, Ðỗ Kh. là đàn ông, Lê Thị Thấm Vân đầy kinh nghiệm sống, so sánh thơ của họ với thơ Vi Thuỳ Linh là điều không phải phép. Xin thành thật tạ lỗi cùng tất cả mọi người vậy!

 

Hãy nằm im và lắng nghe

những vũng nước xanh lơ xôn xao trong đầu

Tôi không nhớ rõ đã liên lạc với nhà văn Kiệt Tấn từ lúc nào, nhân chuyện gì. Hình như bắt đầu bằng điện thoại. Ông gọi cho tôi trước, hay ngược lại, cũng quên tuốt luốt! Chắc vì cái mốc khởi đầu ấy, với tôi, không phải là một sự kiện cực kỳ quan trọng, bắt người ta phải ghi nhớ, để sau đó một năm, năm năm, mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, một trăm năm sau, lại lôi ra làm sinh nhật, tưởng niệm, dựng bia, đặt tượng, vỗ tay hay nhỏ lệ. Tôi kinh ngạc, rồi quen dần với cách nói chuyện qua điện thoại của ông, giọng miền Nam lề nhề, lâu lâu lại bị ngắt quãng rồi được tiếp tục bằng một tiếng toóc rất ư gợi cảm! Ông vừa gọi phone, vừa uống, vừa say. Và tôi ngồi ở đầu dây bên này, loay hoay tìm cách giải mã những điều ông đang nói. Nói chuyện điện thoại đâu đôi ba lần, rồi cũng được dịp gặp mặt. Nhìn dáng ông xách cái túi nhựa của siêu thị Tang Frères đứng xớ rớ chờ vợ đi chợ trong khu tam giác vàng Chinatown của quận 13 Paris hay hì hụi kéo một xe đầy sách lên cho Thư viện Diên Hồng, tôi không nghĩ đó là một Kiệt điên vì mê, cuồng vì yêu từ thời “Bến đò trao thơ”, “Đêm cỏ tuyết”, qua “Người em xóm học”, “Yêu em xứ tuyết” cho đến “Sáng dậy nghe em khóc”, một chàng playboy bảnh toỏng chạy quanh nhiều cuộc tình với những Hoa, Tuyết, Ánh, Diane, Louise, Danyèle, Hường… Tôi hình dung ra một Út Kiệt với bộ bà ba trắng lụa lèo thong dong giữa ruộng vườn bát ngát miền nam. Vĩnh Long, Bạc Liêu, Mỹ Tho, có phải là những nơi ấy không? Vậy mà ông đứng đó, cũng như tôi, với chiếc parka dày sụ, cổ quấn mấy vòng khăn quàng, rồi nón, rồi găng, giữa gió lạnh đất Pháp. Mấy chục năm sống nơi xứ người, từ thời du học cho đến ngày “xin nhận nơi này làm quê hương bất đắc dĩ”, với vóc đậm, mặt vuông, Kiệt Tấn vẫn giữ nguyên cho mình dáng vẻ chân chất của người đồng bằng sông Tiền sông Hậu, dường như lúc nào cũng sẵn sàng ngả ra mời: dzô một ly, rồi xuống sáu câu vọng cổ thiệt mùi. Vậy mà…
Thuở nhỏ, tôi có dịp sống khoảng bốn năm ở Thủ Đức. Cho đến bây giờ, tôi biết, đó vẫn là những tháng năm tôi được gần gũi nhất với thiên nhiên, dù cái khoảng thiên nhiên thời thơ bé đó chỉ gồm một vuông sân trước với ba tàng trứng cá, một hàng rào dâm bụt đơn đỏ hồng, một dãy dâm bụt kép đủ màu, vài cây sứ cùi, và một mảnh vườn sau đủ rộng để có chuồng gà chuồng vịt, ao thả rau muống và cá rô, một cây ổi, một cây mít, một cây chanh, một cây phượng, bụi xả, bụi chuối, mấy thân đu đủ khẳng khiu đeo nặng trái. Nhưng cho một đứa trẻ ở những năm đầu tiểu học, đó đã là khoảng sân chơi khổng lồ, với cả một microcosmos – vũ trụ vi mô – phất phới nhiều cánh bướm muôn màu, chuồn chuồn hổ, chuồn ớt, chuồn kim, chuồn voi, lúc nhúc nào dế than, dế lửa, dế cơm, dế trũi, cào cào, châu chấu, sè sành, bọ ngựa, bọ cam, bọ sít, ốc sên, ốc ma, sâu róm, kiến đen, kiến lửa, nòng nọc, thằn lằn, kỳ nhông, đôi khi lạc loài cả một trự cóc xù xì hay vệt nhái bén xanh mướt vút xuống ao. Cùng với những đứa bạn đồng lứa, chúng tôi chơi trong thiên nhiên, chơi cùng thiên nhiên. Thấm nước miếng vào trái đậu nổ, quơ gót chân trên đám lá mắc cỡ, xách thùng đổ nước đầy hang dế cơm, hay để một chàng kiến tướng đen trùi trũi banh ngàm đọ sức với gã kiến lửa có cái đầu to bằng hạt mè, bóng láng, đỏ lựng, nhìn phát nể! Thiên nhiên thơm mẻ cá rô chiên dòn rụm, hăng mùi lá chanh non mới hái hay nồng nàn khắp vườn ngày mít căng, da nứt. Thiên nhiên chiêm chiếp mở tròn con mắt nhìn đời sau cú khẻ mỏ quyết định của từng lứa gà, lứa vịt hay nhỏn nhẻn ngon lành cùng chiếc răng thỏ cắn ngập vào thân xanh càng cua tròn mướt… Đùng một cái, gia đình dọn về Sài Gòn, còn tôi ngơ ngác như đàn bò vào thành phố[1]. Khu Đakao. Cầu Bông, cầu Sắt với con kinh đen kịt bùn. Ngôi chợ ồn ào quà bánh. Căn nhà thiếu ánh sáng, không cửa sổ, chỉ có những khoảng trổ phiá trước phiá sau, vừa đủ để hứng khí trời, để thấy một khoảnh xanh trên cao và mái ngói đỏ xỉn màu rêu của nhà hàng xóm. Phiá trước cũng có sân. Tráng đặc xi-măng. Phiá trước cũng có cây. Thân bông giấy leo, gai tua tủa, cứng ngắc. Tôi mất thiên nhiên. Vùng vằng đi tìm. Con gà nhép, con vịt lụa nuôi trong lồng chúc mỏ vào ăn trong lòng bàn tay tôi, rồi cũng chết vì thiếu hơi mẹ. Con nhen mua ở Chợ Cũ, loài sóc nhỏ có vằn đen trắng dọc sống lưng, nâng lát chuối cắt bằng hai tay nhỏ xíu, rồi cũng chết trong lồng vì nhớ rừng. Thành phố, căn nhà cùng với nhựa đường, xi măng, gạch ngói chung quanh đã biến thành chiếc chuồng khổng lồ, nhốt tôi trong đó, rồi vô tình, tôi lại bắt chước người lớn, nhốt những con vật đáng thương vào chiếc lồng nhỏ hơn. Và chúng chết. Nhưng chỉ thêm vài năm sau nữa thôi, là đến 1975. Tháng tư. Cùng với những tan loạn, đau thương của người lớn, thêm một lần nữa, tôi mất: tuổi thơ.
Không thể nào tìm lại được tuổi thơ trong thời khốn khó, tôi cố vớt vát thiên nhiên bằng cách thỉnh thoảng chui vào sở thú, lang thang trong vườn Tao Đàn hay ngồi hàng giờ bên thành hồ ngôi chùa Tàu thờ Ngọc Hoàng ở gần nhà, nhìn vài đầu rùa nhấp nhô chìm nổi trên mặt nước sóng sánh những đốm nắng hiếm hoi lọt được qua mấy tàng cây vú sữa rậm lá. Tôi đi tìm lại cái microcosmos của mình qua bước chân phiêu lưu của chàng dế mèn trong truyện Tô Hoài. Tôi mơ về một thiên nhiên hoang dã còn vắng bóng người với “Hương rừng Cà Mau” của Sơn Nam. Rồi khi qua đến Pháp, tôi gặp Kiệt Tấn. Và tôi thấy mình gần với ông hơn so với Tô Hoài hay Sơn Nam. Ngồi trong métro, tôi chảy nước mắt khi đọc:
… Bên bờ giếng, tôi dành một khoảng đất nhỏ để chôn cất mấy con vật đã cùng tôi bầu bạn một thời: chim sáo, cá lia thia, dế than, trâu đất, cu cườm… Tôi không chơi đá cá đá dế. Cá và dế của mấy thằng lỏi trong xóm cho đá với nhau tới lúc trầy vi tróc vẩy, sứt càng gãy gọng ngất ngư hết mới chịu quăng ra. Tôi lượm về rán lấy nước muối và đất sét chập chộ cho tỉnh hồn. Mấy thương binh gượng sống ngắc ngoải thêm được ít bữa mới chịu nhắm mắt lìa đời. Tôi khóc lóc và đem đi chôn ở nghĩa địa riêng của mình bên kia bờ giếng. [2]
Thằng bé-tôi lúc sáu tuổi không có được cái tâm bồ tát như thằng bé Kiệt lúc sáu tuổi, và những con nhen, con gà nhép, con vịt lụa chết trong lồng bị vứt vào thùng rác, đổ đi. Mảnh sân thành phố đặc cứng xi măng, làm gì có đất để đào mà chôn với cất, mặc dù con vịt lụa tôi nuôi có khác gì lắm so với em vịt vàng của Út Kiệt:
… Lép kép! Lép kép! Con vịt con thò chiếc mỏ vàng nhỏ xinh xắn rỉa mấy hột cơm tôi vừa mớm ra cho nó ở miệng. Nó ngước lên nuốt mấy hột cơm, chiếc cổ nhỏ xíu ngửng lên trời ngửa ra sau, xong nó giương đôi mắt khù khờ ngó tôi kêu lép kép chờ đợi. Tôi đưa vịt con cạ cạ lông nhung mịn của nó lên má mình, lòng rạt rào sung sướng, thương quá là thương! Tôi sáu tuổi, con vịt con vừa nở được năm ngày. Nó đưa chiếc mỏ rỉa trong vành tai tôi nhột nhột khiến tôi rụt đầu ngoẻo cổ qua một bên. Vậy mà đã ghê. Vịt con thủ thỉ chuyện trò với tôi, lép kép! lép kép!… Chỉ có một mình tôi hiểu được em tôi muốn nói gì.
Tôi mở tay ra. Con vịt nhỏ nằm gọn lỏn trong hai bàn tay tôi, ngoan ngoãn, lép kép! lép kép! Toàn thân con vịt màu vàng, lông tơ mịn màng non nớt thơm tho, mỏ và chân hơi ửng màu cam, trên mỏ có chấm hai lỗ thở nhỏ xíu, mắt tròn vo đen lay láy, ngây thơ ngờ nghệch. Lép kép! Lép kép! Tôi lại mớm cho nó mấy hột cơm. Tôi dặn nó kêu nho nhỏ, sợ má nó nghe được chạy tới đòi lại…
Cái tình của tôi đối với những con vật nuôi chỉ dừng lại ở những giọt nước mắt tuổi thơ, ở cái bần thần suốt tuần, ở việc bỏ cơm một buổi, nhưng với Kiệt thì khác, cái đau xé lòng hơn nhiều:
… Chiếc xe cam nhông thứ hai lăn tới áng khuất, cụm lông vàng mịn không còn ngó thấy đâu nữa, tôi chỉ kịp nghe một tiếng chét thảm thương bên tai, thôi rồi! Chết em tôi rồi, tôi ngã quỵ xuống lề đường, đầu gối đập lên đá cục mà không cảm thấy đau đớn gì hết!… Đoàn xe tiếp tục lăn qua chậm chạp, từ từ, nhưng tiếng động cơ phát ra xầm xì không đè át được tiếng chét! chét! thảm thương nhỏ nhít của em tôi còn đang chấn động từng chập trong cùng tận ruột gan mình. Tôi gẫy quặp người tới trước, hai tay cấu lấy bụi cỏ lông gà, ghịt kéo để cố dằn tiếng nấc đang cướp mất hơi thở mình… Bụi cỏ trốc gốc, tôi lại té ngửa ra sau, một chân lọt xuống mương nước, tôi nấc tiếp liền mấy tiếng bứt ngang hô hấp, miệng không thể nào khép lại được nữa, tôi nhăn hàm răng xiết ăn ngó trời, lệ tuôn đầm đìa lai láng, trời mây trên cao tan loãng thành vũng nước mắt không còn hình thù gì nữa, tất cả mờ run mịt mùng, lung linh nhòe nhoẹt. Hết rồi! Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! Em đã chết, bỏ tôi thiệt rồi!…
Em vịt vàng chết vào những ngày giáp Tết, nên chú bé Kiệt, dù giờ đây đã thành ông nội, ông ngoại, vẫn rưng rưng nhớ về mỗi khi xuân đến:
… Nơi tôi ở bây giờ, ngoại ô Paris, không có mai vàng. Chỉ có anh đào trổ một màu hường phơn phớt lợt mọc trên dốc đồi thoai thoải bên những cội lệ liễu xõa tóc dịu dàng.
Và năm nay đào lại nở!
Phải, năm nào mà đào lại chẳng nở. Đào lại nở, tôi lại nhớ em tôi, em vịt vàng nhỏ xinh xắn tội nghiệp. Mỗi năm, khi vừa chớm đông, từng bầy vịt hoang và ngỗng trời từ Bắc Âu vỗ cánh bay ngang Paris, rồi di chuyển về miền Nam để trốn lạnh, sang đến tận Châu Phi.
Khi ngó lên trùng trùng chấm đen lướt qua cao vút trên đầu, lần nào tôi cũng tự hỏi không biết có em vịt vàng nhỏ của tôi trong bầy chim hoang đó hay không, và lần nào tôi cũng thầm lo ngại không biết em tôi có được đủ ấm như một thuở xa xưa nào khi Tết gần đến, tôi đã từng ôm em úm trong lòng để mớm cơm cho em ăn và chuyện trò cùng em thủ thỉ. Nhưng tôi lại tự nhủ chắc là em không có mặt trong bầy vịt đang bay trên cao tít, bởi lẽ quê hương của em, quê hương của tôi, quê hương của anh em mình không phải ở đây. Tôi hình dung giờ này chắc em đang tung tăng bơi lội trong một vùng nước mặn ấm áp quanh năm trước mương lộ của nhà tụi mình ở Xóm Mới, miệt Hậu Giang phù sa mặn mòi, đồng ruộng phì nhiêu quấn quít sông ngòi đặc ngừ tôm cá…
Rồi cũng có dịp đến thăm nơi tôi ở bây giờ, ngoại ô Paris, không có mai vàng, chỉ có anh đào trổ một màu hường phơn phớt lợt. Căn appartement chênh vênh nơi từng mười lăm một cao ốc. Có cả em vịt vàng ở đó nữa. Nhưng chỉ là một mẫu vịt nhồi bông đứng cứng đơ tội nghiệp bên một hàng gáy sách. Nhà của một người viết văn có nhiều sách. Dĩ nhiên, sách xếp dài trên kệ, ngăn nắp. Nhưng bên cạnh, còn rất nhiều cây, lá xanh tươi, mướt bóng. Một chút không gian nhiệt đới? Một chút không gian đồng bằng sông Cửu Long? Ai mà chẳng thèm, cái một-chút-mà-thật-khó-tìm ở nơi chốn này, phải không? Trong khi người lớn bắt đầu ăn uống, bắt đầu nói chuyện văn chương, chuyện nắng mưa, chuyện trên trời dưới đất, thằng con hai tuổi rưỡi của tôi, đứa con nít duy nhất trong buổi gặp mặt, lẩn thẩn chơi một mình. Như con chó nhỏ đi đánh hơi từng góc kẹt căn phòng lạ, thằng bé lang thang chỗ này chỗ kia, cầm lên đặt xuống những con thú bắt gặp đây đó trên con đường khám phá. Lâu lâu, thằng bé chạy lại há mồm xin miếng cơm, rồi trở về góc của nó. Có lúc, khi xin cơm, nó cầm theo một con vật, giơ cao hỏi chúng tôi: “Con gì đây bố? Con gì đây mẹ?”. Tôi phải đe trước: “Con đừng làm hư mấy con thú nhe, coi chừng ông rầy!”, rồi mới trả lời nó, này là con trâu, kia là đàn heo, nọ là gà trống, gà mái, gà con. Ở cái tuổi nhỏ xíu của nó, thằng bé cũng đã thấy voi và hươu cao cổ trong sở thú, thấy vịt gà ngan ngỗng, bò dê lừa ngựa, heo cừu thỏ… chuột ở trang trại gần nhà, nhưng tại những nơi đó, nó chỉ được đứng xa xa để ngó qua chấn song chuồng, chứ làm gì được đưa tay sờ mó như ở nhà ông Kiệt! Tôi nhìn quanh, và chợt hiểu, người đàn ông ngồi trước mặt cũng đang rất thiếu thiên nhiên, đang rất thèm thiên nhiên. Ông đang bị nhốt trong một chiếc lồng chật hẹp, và có phải luôn vùng vằng muốn tìm cách thoát ra, bằng thật nhiều những chậu cây xanh lá, bằng thật nhiều những con thú ẩn hiện góc này xó nọ quanh nhà? Con trâu bằng đất nung phủ verni bóng loáng kia, có phải đã gợi lại một hình ảnh cũ:
… Nhà ông Đương có được cặp trâu cổ khoẻ mạnh, mình mẩy phình lớn đen xám, lông thưa đều cứng mướt, cặp sừng cong dài quớt ra hai bên cách nhau ngót một thước bề rộng, dọc trên thân sừng có nhiều ngấn dợn hũng. Dáng trâu bậm trợn hùng dũng như vậy mà cặp mắt trâu, trái lại, hiền lành ưu ái vô cùng, lông mi trên mí mắt mọc đan khít nhau càng tô điểm cho ánh nhìn của mắt trâu thêm dịu dàng. Theo truyền thuyết, trâu là hiện thân của một vị Bồ tát hạ thế để tế độ cho nhân gian có lúa gạo mà ăn. Cấy cầy vốn việc nông gia, ta đây trâu đó ai mà quản công. Bao giờ ngọn lúa còn bông, thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Đại để tánh trâu rất hiền lành chậm chạp, tuy nhiên thỉnh thoảng cũng có lúc trâu nổi máu hung hăng và cụng húc nhau ầm ĩ. Những lúc đó, không một ai can nổi, lạng quạng có thể bị sừng trâu vít lòi ruột như chơi. Vì vậy, chú Tám dặn hai đứa cháu mình một mẹo nhỏ là lúc nào đi chăn trâu cũng nên thủ sẵn trong người một khúc sừng trâu gãy. Khi nào trâu cụng nhau hăng quá thì liệng khúc sừng đó vào giữa hai đối thủ. Trâu nọ ngó trâu kia, thấy cặp sừng còn nguyên vẹn, tưởng đâu sừng gãy nằm dưới đất là của mình, bèn bỏ chạy. Cuộc đấu sức đọ sừng chấm dứt.
Xóm gà vịt lít nhít nọ, có phải đã gây hứng để ông nhớ về những hình ảnh sống động độc nhất vô nhị của một gã vịt cuồng dâm:
Cùng lứa với con Mẫu Hậu là con vịt xiêm đực, hỗn danh Đại Bàng, tên này cũng do ba tôi đặt. Con Đại Bàng mắc chứng cuồng dâm nên vịt xiêm, vịt ta, vịt lớn hay vịt nhỏ gì đều cũng bị nó đạp mái ráo trọi. Cả gà ngỗng cũng bị nó hiếp dâm luôn. Gà mái bị đã đành, gà trống cũng bị như thường. Gặp nhằm gà nòi đá độ, anh chàng bị phang cho mấy cựa đổ máu dạt ra, mà rồi cũng không tởn. Ngay cả con heo thiến má tôi nuôi trong chuồng cũng bị Đại Bàng đáp đại lên lưng mổ cắn trì kéo lỗ tai heo và vặn vẹo cái đuôi vịt, không biết ý gì. Bận khác, bà chủ nhà của tôi ra ngồi ở bãi cỏ khuất mà giải thủy, tưởng đã yên chí, ai dè Đại Bàng nằm vùng ở đó tự lúc nào bèn đưa mỏ cứng ướm thử cái bàn ngồi của bà chủ một phát. Bà la chói lói và chạy vô mắng vốn má tôi: bà bị con vịt phải gió của nhà tôi nó rỉa. Ba tôi che miệng cười khúc khích nói nhỏ với anh Hai tôi: Gặp tao, tao cũng rỉa nữa… huống hồ là con vịt!
Mãi về sau này, dung rủi lần nọ, khi đã tàn cuộc truy hoan trên mương lộ trước nhà, Đại Bàng còn hừng chí vỗ cánh phùng xòe bản Hành Dâm Khúc mà quên thu hồi báu kiếm. Xảy đâu có chàng cá lóc lội ngang nhác thấy, tưởng là mồi bở, trồi lên đớp mất. Thế là… tàn đời bạo chúa! Nhưng Bạo chúa không chịu băng hà, cho nên mới chết dân lành. Vì khi bị dâm hành mà đạp mái không được, Đại Bàng nổi điên vỗ cánh bay lên ngọn cây rượt theo mấy con quạ và chim tu hú mà cắn mà mổ. Rồi một chiều mưa gió nọ, Đại Bàng đã lướt gió tung mây vĩnh viễn ra đi, vịt cồ nhất khứ bất phục phản (hay là bạo chúa đã xuống tóc đi tu?) Kể từ đó, thanh bình mới thực sự được vãn hồi cho gà vịt heo ngỗng (và bà chủ nhà) trong Xóm Mới hiền hòa của tôi.
Un clin d’oeil, bất ngờ có thể gây bật cười với những tình huống ngộ nghĩnh, được kể lại bằng một giọng văn không kém phần dí dỏm. Loài vật như biết khóc, biết cười, biết thương, biết hận trong văn Kiệt Tấn. Đôi khi, chúng còn được ngòi bút Kiệt Tấn đẩy lên cùng với nhiều hành trạng lạ lùng, quái gở:
… Cái hiện tượng kỳ bí dị thường này cứ thỉnh thoảng lại thấy xảy ra ở đồng quê vào những đêm trăng rằm, ngoài ruộng vắng. Như thể cả lươn lẫn rắn đều say rượu trăng và bầy lươn vừa chếnh choáng vừa bị thôi miên lờ đờ tự động bò lên bờ lểnh nghểnh để tình nguyện nộp mình cho rắn nuốt. Cũng không rõ bằng cách nào mà cả hai lũ đều biết được nơi hẹn hò để lướt tới. Đầy cả một mương dài lúc nhúc toàn những rắn và lươn quấn lấy nhau vặn vẹo uốn éo, thân nhớt và vảy mun lấp loáng rờn rợn dưới trăng sáng. Cả hai loài bò sát đều ngất ngưởng truy hoan trong cuộc dạ yến kỳ quặc, trong cuộc tế lễ ma quái mà cả hai phe chịu tế lẫn phe nhận tế đều phải trả bằng mạng sống của mình. Rắn luôn luôn nuốt lươn khởi sự bằng đầu. Rắn nhỏ hơn lươn, chỉ nuốt được phân nửa rồi cả hai đều nghẹt thở mà chết. Rạng ngày, cả mương đầy nhóc những rắn và lươn dính chùm lẫn với nhau, tàn cuộc hoan mê, không còn một mống nào sống sót.
Đôi khi thay vì lươn là rắn, cuộc dạ yến chỉ có độc toàn là những rắn và rắn tham dự. Cả tập thể rắn bề ngoài mới ngó vô tưởng chừng như hỗn độn đó mà thiệt ra bên trong lúc nào cũng chỉ gồm rặt hai loại rắn khác nhau mà thôi. Và lúc nào lũ rắn nhỏ cũng nuốt trọng lũ rắn lớn hơn mình. Để rồi cả hai bầy đều chết tiệt không còn một mống. Như một cuộc hò hẹn cùng định mạng khắc nghiệt, trói buộc bất khả phân ly bởi tử thần tự kiếp nào, không có cách gì ngăn cản nổi. Một cuộc tự sát tập thể, điên rồ, thúc bách, bất cưỡng.
Đoạn văn khiến tôi nhớ ngay đến một khúc phim tài liệu của hãng Walt Disney được xem ở Hội Việt-Mỹ, hồi nhỏ. Một loài gậm nhấm đào hang dưới đất, những con lemmings, mỗi năm cứ đến mùa xuân, lại lũ lượt rùng rùng kéo nhau về những triền đá ven biển rồi chen chân nhảy xuống nước để… chết chìm! Chỉ những con chuột lạc bầy hay quá nhỏ, chưa đủ sức trẩy hội là còn sống sót, để tiếp tục gây dựng nòi giống, chuẩn bị cho một cuộc tự sát tập thể vào mùa xuân năm sau. Không người lớn nào trả lời nổi những câu hỏi “tại sao?” của tôi lúc đó. Khi lớn hơn một chút, tôi nghĩ, có lẽ chiến tranh cũng là một cách tự sát tập thể của loài người, để bớt nạn nhân mãn. Nhưng khác với con thú, con người xâu xé lẫn nhau, khoan khoái nhìn đồng loại đau đớn dãy chết, trước khi đến lượt chính mình ngã gục. Khác với con thú, con người văn minh ngày càng rời xa nguồn cội đơn sơ của thiên nhiên, để mắc kẹt giữa chính cái màng nhện rối rắm do mình đan dệt nên, và hối hận, than trách:
… Dưới nội cỏ bệnh viện hoa vàng rực chói mắt. Không phải hoa mai. Từng cụm nhiều nhánh từ dưới đất chỉa lên sai oằn bông vàng chi chít. Không thấy lá, hực hỡ chóa lòa. Từng bầy chim sà xuống, loại chim đuôi ngắn ngủn không phải chim sẻ, không phải chim sáo, cúi đầu mổ lia lịa, chạy lúp xúp trong cỏ, không thấy chưn, tưởng như loài chim đồ chơi cơ động, lăn trên hai bánh lẩn khuất, chạy tới chạy lui ngộ nghĩnh. Tôi thèm chạy trên cỏ. Lần nào ngó chim chạy trên bãi cỏ nắng tôi cũng thấy mình ngu. Trời ơi! Sao hạnh phúc dễ ợt như vậy mà tôi không với tới! Bao nhiêu lần tôi đến ngồi trong vườn Luxembourg suốt mùa xuân suốt mùa hè để chỉ nghĩ đến chuyện thất nghiệp. Kìa xem con chim bồ câu đang tắm rửa rỉa lông và kêu rù rù bên ống nước lủng có tia nước xịt ra nhỏ rức, nó đâu có phải làm đơn xin việc kèm theo phiếu lý lịch có dán hình thắt cà vạt hẳn hòi như tôi. Nọ xem con chim sẻ con đang chạy theo chim mẹ cánh xòe ra, mép vàng chưa mất dấu, hả miệng chờ mồi, và mẹ nó hết sức kiên nhẫn tận tụy. Tình thương của trời đất. Đời sống sờ sờ như vậy mà tôi tự ý ngoảnh mặt làm ngơ, giam mình trong ngục tù do mình dựng ra và do mình cai quản…
Và cũng chính từ những con thiêu thân nhỏ nhít, những cánh bướm đêm dật dờ, những dáng chim mỏng manh ấy, mà đôi khi con người ngộ ra được nhiều điều thú vị:
… Con chim se sẻ lại bay lên, lại sà xuống, lại cắn lại mổ lên mẩu bánh mì. Lần nào nhìn con chim se sẻ nhảy nhót, tôi cũng không khỏi bồi hồi. Con chim đẹp đẽ hết sức. Đẹp đẽ không phải vì nó có bộ lông rực rỡ. Bộ lông nó hết sức giản dị, nâu xám trộn lẫn, vậy thôi. Nhưng nó đẹp tại vì tôi ngó thấy nó đẹp. Biết nhìn, thì con chim nào lại không phải là một con chim đẹp, bông hoa nào lại không phải là một bông hoa đẹp, ngọn cỏ nào lại không phải là một ngọn cỏ đẹp? Mỗi vật trong trời đất là một đẹp đẽ, một chiêm ngưỡng, một kỳ công, một nhiệm mầu.
Con chim se sẻ lại mổ, lại ngó chừng, lại kêu chim chíp, lại mổ, lại ngó chừng, lại sợ, lại dáo dác. Nhìn con chim nhỏ thưởng thức mẩu bánh mì và ham sống, tôi xúc động sa nước mắt. Trời ơi! Cuộc sống đối với nó giản dị, đẹp đẽ và đáng sống biết chừng nào!
Bị bứt rời khỏi xứ sở, xa cách cả với thiên nhiên, sống lơ lửng ở tầng lầu mười lăm, một nơi tay chưa với tới trời mà chân đã không còn chạm đất, văn Kiệt Tấn chất đầy kỷ niệm, đầy hình bóng cũ, đầy mùi hương, đầy tiếng động. Từ mùi chanh ở một kỷ niệm gần, một không gian gần, vùng biển ấm miền Nam nước Pháp:
… Gió đưa hương chanh chín mùi luồn qua mành lưới đan khít gắn ở cửa sổ. Bên kia cửa sổ, vườn chanh đang khua lá giặt rửa dưới dòng trăng, rì rào suối nguyệt. Lẫn trong hương chanh, còn có mùi biển mặn mà từ lòng vịnh dưới thấp ùa lên. Cửa sổ bằng cây tôi quên cài móc đập vào khung cửa – là lúc dây đàn tôi đứt phựt? Cơn mơ Vọng Nguyệt một lần nữa lại trở về…
Thoáng chốc, mạch hồi tưởng của người viết đã dẫn người đọc vút ngược về quá khứ xa hơn, trên cùng một nơi chốn, Le Vieux Nice, để tự tình trong đêm bên người yêu cũ, rồi vèo một mạch, vượt cùng lúc cả không gian, thời gian, trở lại thuở thiếu thời với một mối tình vụng dại nơi bến đò. Miền Nam nước Pháp hay miền Nam nước Việt? Nắng rám, gió lộng, biển mở ra bát ngát, mùi trái chín, mùi thịt da… Ở đâu, cũng thấy tràn trề nỗi nhớ!
Bạc liêu là xứ quê mùa,
Dưới sông cá chốt, trên bờ Tiều châu.
Cơn gió chiều ào ạt xoáy quanh hàng chân cầu bê tông cốt sắt, lượn uốn vi vu dưới gầm cầu rồi thốc vọng lên cơn gió mát mẻ lồng lộng. Chiều nào, hàng hàng nam thanh nữ tú cũng đưa nhau từng cặp ra Cầu quay hứng gió. Những cơn gió rám nắng đượm tẩm hương vị thịt da của Hậu giang lúa chín, đậm đà sức khỏe mặn mòi của muối biển Cà Mau. Nơi cuối điểm này của châu thổ sông Cửu Long, xứ sở trương rộng mũi phù sa hít thở không gian bát ngát của Thái bình dương mà ước mơ những chuyến viễn du có bầy cá nược mướt mun phóng mình lội đua với ghe lườn trong buổi chiều nắng quái.

Cầu quay bắc nhịp nối liền làng Vĩnh Châu vào tỉnh lỵ Bạc Liêu, một trong những kho lúa tràn trề của miền Hậu Giang với đồng ruộng cò bay thẳng cánh. Làng Vĩnh Châu dàn trải bãi bùn đen và cát mặn ra tận ranh giới của thủy triều đại dương, tạo thành biển nhãn. Gọi biển nhãn bởi lẽ hai tiếng rừng nhãn không đủ sức mô tả những hàng nhãn điệp trùng chiếm cứ nhiều diện tích mênh mông mút mắt dọc theo ven biển. Những gốc nhãn cổ thụ xen lẫn chồi non, muôn vạn vòm nhãn tỏa tròn trương xòe đọt nhãn mềm mại mướt tươi nhấp nhô trùng trùng đợt sóng xanh lục ùa nhau xô tràn ra biển cả như muốn lấn ngược dòng thủy triều để vượt khơi, nếu không có những chùm rễ tua tủa của rừng mắm ven biển cắm sào giữ lại. Những chùm nhãn nơi đây tích tụ tinh anh ngọt thơm luyện cất từ cát bùn và gió biển, một sự huyền nhiệm mà chỉ tay tạo hóa mới trổ tài làm nổi. Tới mùa nhãn chín, mùi nhãn thơm lừng lay dậy sực nức khứu quan trong đêm tối, khiến cho trọn cả một vùng lân cận bao la thao thức mất ngủ. Và mỗi năm, dòng họ nhãn lại tung ra một đòn tuyệt kỹ: Nhãn Chú Út. Những trái nhãn cuối cùng, kết thúc cuộc đời của cội nhãn sau hai mươi năm dâng hiến trái ngọt cho đời. Nhãn Chú Út lớn bằng trái chanh, hột nhỏ bằng hột đậu đỏ. Lớp vỏ vàng nhám bên ngoài lột đi, lớp da non mỏng trắng bên dưới bày lộ, bao bọc lấy cơm nhãn no đầy thanh khiết, cắn vào, vị ngọt lẫn hương thơm vương vấn cả một đời khó quên.
Ông yêu thiên nhiên. Và rất yêu mẹ của mình. Nên khi ông lồng hai tình yêu ấy vào cùng một khung cảnh, người đọc bắt gặp được một hình ảnh quen thuộc lắm, nhưng cũng tha thiết lắm:
… Buổi trưa, khi ngồi vá áo bên cửa sổ, bà ngó tôi cười móm trong vuông nắng, tự nhiên tôi có cảm giác đang nằm dưới một gốc tre già bên bờ ao, lá tre trên cao thoảng gió rì rào, giọt nắng trộn lẫn bóng lá tre nhảy nhót trên khuôn mặt tôi mát rượi, tôi thiu thỉu ngủ, giấc mơ thơ thới… Ôi! Chi xiết êm đềm “nụ cười tre trúc”! Cho dù má tôi không cười thành tiếng, tôi vẫn nghe có tiếng rì rào thanh thoát của tre trúc rộng lượng chở che. Tôi là con trâu nghé nằm trong bóng lá im buổi trưa hè nắng gắt…
Thiên nhiên luôn song hành bên cuộc đời người viết, từ ruộng vườn làng mạc quê hương, qua xứ tuyết khắc nghiệt Gia Nã Đại hay ầm ào tiếng sóng bên Bãi Thiên Thần đêm Địa Trung Hải. Đôi khi, trong phút xuất thần, hai đối tượng “Tôi” và “Thiên nhiên” đột ngột hội tụ, trùng chéo, tan nhập thành một:
… Cô đơn mãnh liệt tới mức tạo cho tôi một cảm giác đau đớn vật chất, như một mũi tên nhức nhối bắn phủng qua đầu. Cô đơn muốn ngất xỉu. Chung quanh chỉ có tuyết rơi và tuyết rơi. Thình lình tôi chợt thấy mình tan trong tuyết: Tôi và vũ trụ chỉ là một. Cảm giác gây sự ngây ngất mãnh liệt bàng hoàng. Cô đơn chợt tan biến…
Nhiều năm sau khi đọc văn Kiệt Tấn, tôi đã có dịp qua Tiền Giang đục lờ phù sa, xuôi xe ngang nhiều xóm thôn trù phú, toòng teng mắc võng giữa bóng lá lao xao, nghe tiếng eo óc của gà trưa gáy xen vào giữa bài vọng cổ. Tìm được ở đâu cái cảm xúc vừa yên bình, vừa cô quạnh ấy, ngoài miền Nam nước Việt? Vậy mà, tôi không được may mắn nghe hò, lần về quê ấy. Hay những câu hò điệu lý cũng đã rơi rụng hết cả trong dĩ vãng, vì không đủ sức đương cự nổi với truyền thanh, truyền hình, đầu máy karaoké của thời đại tân kỳ? Hình ảnh cũ, âm thanh xưa, chẳng lẽ chỉ còn thoi thóp trên những trang sách, những thước phim chở đầy hoài niệm?
… Trời đã sáng hẳn. Vừng kim ô chói rọi trên mặt nước lóa chóa, chim nhạn dập dìu trên nhánh nước mênh mông, gọi bầy lao nhao, cắn mổ kiếm mồi, tranh la xao xác. Những cánh trắng xòe ra chở nắng tươi tốt đảo vòng trong không khí ẩm mát, chốc chốc vụt chúi xuống, xớt một con cá vẩy bạc óng ánh rồi vút bay lên hớn hở rộn ràng. Ghe lớn ghe nhỏ từng đoàn túa ra dòng thủy lượng lợïn cợn phù sa, chở khẳm trong khoang hàng hóa, đồ ăn, vải vóc, trái cây, tuôn về chợ Phong Điền, chợ Cần Thơ, chợ Cái Răng cho mọi người từ thôn dã đến thị thành đua nhau mà sắm Tết. Chú Ba cảm thấy sướng lây, lơi tay khoan xới mái dầm để thưởng thức cái tiết xuân đang tỏa ra trên sông rộng, để ngắm nghía cái khí xuân đang bương bả trong những cánh tay vặn chèo thúc bách. Một chiếc tam bản vượt lên dưới sức khuấy động của cô gái trẻ sung mãn, nón lá mới tinh khôi ngã bóng tròn trên nách áo vã mồ hôi khiêu khích. Chiếc tam bản qua mặt chiếc ghe cà dom chở dưa hấu nặng khẳm, người đàn ông chống sào dài trên mui ghe hoát cười rộng miệng, đưa tay ngoắc ngoắc cô gái rồi buông tiếng hò hoa nguyệt:
Hò ơ ơ ớ…
(Chớ) Ngó lên Châu Đốc Vàm Nao
Thấy buồm em chạy như dao cắt (ờ ớ) lòng
Hò ơ ơ ớ…
Bữa nay loan phụng hiệp bầy
Hò chơi nhơn đạo (ờ ờ)
(Chớ) Hò chơi nhơn đạo sau vầy nhơn (ờ ớ) duyên (ơ ơ)…
Nhưng, tại sao tôi cứ phải đặt quá nhiều câu hỏi? Tại sao tôi cứ phải thắc mắc với những điều, những việc đã, đang và sẽ xảy ra, lớp này chồng lên lớp kia, xô đẩy, nhấn chìm, bôi xóa? Vũ trụ có sự tuần hoàn của những chu kỳ, nảy sinh-trưởng thành-tàn lụi, xuân-hạ-thu-đông, đêm-ngày, mới-cũ, thịnh-suy… Đã cứ là như thế, từ muôn đời, nghìn kiếp. Những con cào cào non vẫn tiếp tục bay nhảy tíu tít. Những con chim ngắn đuôi vẫn tiếp tục bay lên đáp xuống tìm mồi. Đời sống vẫn tiếp diễn và đang tiếp diễn, không hề ngừng nghỉ một giây phút nào. Đời sống vẫn luôn luôn sẵn đó, vốn nó sờ sờ như vậy, từ bao giờ, tự bao giờ… Thắc mắc làm gì, tại sao làm gì. Một lúc nào đó, hãy gạt bỏ hết mọi tất bật eo sèo của cuộc sống, nhắm mắt, tĩnh tâm, yên, để nghe: thiên nhiên quanh ta đang phập phồng sống-chết, trong cái lẽ tự nhiên, thường tình nhất của đất trời:
Khởi viết sau giao thừa

Bagnolet – Choisy-le-Roi

01-03.2006

Cổ Ngư

 

 

©T.Vấn 2011

Bài Mới Nhất
Search