T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

T.Vấn: Ghi Chép cuối cùng về “Người Cuối Cùng”

Nhà vắng. Bàn không. Chiếc lá phơi
Uống khan ly rượu nghẹn bờ môi.
Gục đầu nhìn xuống bàn tay bẩn.
Cát bụi vườn ai lấm chỗ ngồi.
(Uống rượu một mình- Trần văn Sơn)

1. Tháng 10 năm 2007, tôi viết bài “Người Cuối Cùng (the Last Man)” kể câu chuyện thật đẹp và cảm động về tình bạn của một nhóm anh em bằng hữu khiến nhiều người chú ý:

Họ có tất cả là 14 người, cùng sinh năm 1920, trong cùng một thành phố, Wichita. Lớn lên với nhau ở cùng một khu phố nghèo, cùng chia sẻ với nhau những kỷ niệm ngọt ngào thời thơ ấu, cùng học với nhau một trường từ Tiểu Học, rồi Trung học và cùng tốt nghiệp năm 1937. Rời ghế nhà trường trung học, những chàng trai 18 tuổi còn đang không biết phải hướng tương lai mình về đâu, không biết phải làm gì để chứng tỏ mình là những thanh niên cường tráng, đầy ắp nhựa sống nhưng họ đã sớm nghĩ đến những bất trắc của cuộc sống, của ngày mai đang rộng mở ngòai kia với bao nhiêu đe dọa. Và họ quyết định dựa vào nhau để cùng bước chân vào tương lai. Sau khi đã trải qua bao nhiêu năm bên nhau ở cùng một khu phố, ở cùng một mái trường, họ có quá nhiều điều chung khiến khó có ai trong số 14 người ấy nghĩ đến một ngày họ không còn có nhau. Thế là họ mượn ý kiến của những cựu binh thế chiến thứ nhất (WW I) để gọi nhau bằng cái tên “The Last Man’s Club”. Một “bản hiến chương” của nhóm ra đời. Điều 1: Mỗi năm sẽ có một buổi gặp mặt mọi người cho đến khi không có ai sống còn để tham dự. Điều 2: tất cả mọi thành viên còn sống phải tham dự, dù ở bất cứ nơi đâu. Nếu không thể tham dự được, phải thông báo cho nhau biết lý do. Điều 3: Nơi gặp mặt nhất thiết phải là thành phố Wichita, nơi họ sinh ra và lớn lên, và thời điểm phải là thời điểm linh thiêng và ý nghĩa nhất, ngày 29 tháng 12 hàng năm. Các điều khỏan tiếp theo quy định những họat động trong buổi gặp mặt, việc tu sửa bản Hiến chương phải hội đủ ít nhất 3 phần tư số thành viên còn sống. Cuối cùng, bản Hiến Chương được ký đúng ngày 29 tháng 12 năm 1937 với chữ ký của 14 thành viên của nhóm.

Đến nay (năm 2007) đã 70 năm từ ngày nhóm được thành lập, và chỉ còn một người duy nhất sống sót, Người Cuối Cùng như cái tên gọi của nhóm 14 người. Kẻ may mắn – hay không may mắn – ấy, năm nay đã 87 tuổi. . . . “

Ngày thứ Bẩy, 16 tháng 3 năm 2011, Người Cuối Cùng trong số 14 người bạn ấy đã lặng lẽ qua đời trong một căn nhà nhỏ ở Wichita, Kansas, thành phố mà 14 người bạn đã cùng được sinh ra, lớn lên, rồi cũng từ đó họ bay nhảy khắp bốn phương trời để rồi khi cuối đời, ai cũng cố gắng tìm cách trở về để được chết nơi họ sinh ra. Một người láng giềng đã phát hiện ra cái chết của ông già khi không thấy ông ra nhặt tờ báo trước sân nhà mỗi sáng như lệ thường.

Người Cuối Cùng thọ 90 tuổi. Trong căn phòng nhỏ nơi ông sống những ngày cuối đời, ngòai bản hiến chương được lồng trong khung gỗ cũ đã lên nước có thủ bút của 14 người bạn thuở niên thiếu, tập kỷ yếu đầy những hình ảnh kỷ niệm của 70 năm, còn có chai rượu Champagne một lít rưỡi phủ đầy bụi bậm, phần thưởng của 13 anh em đã qua đời gởi đến Người Cuối Cùng.

Họ đã giao hẹn với nhau, người nào trở thành kẻ duy nhất sống sót, phải mở chai rượu uống mừng cho sự may mắn của mình và ngậm ngùi cho sự kết thúc không thể tránh khỏi của kiếp người. Nhiều năm trước, khi chỉ còn 2 trong số 14 người sống sót, họ đã ngồi bên nhau trầm tư không biết ai là người sẽ phải mở chai rượu đầy ắp kỷ niệm. Nhưng, họ biết chắc một điều, người cuối cùng ấy sẽ chết ngay sau khi chai rượu được mở. Ngày 4 tháng 7 năm 2007, một trong hai người còn sống sót ấy qua đời. Người Cuối Cùng ngồi ngậm ngùi nhìn chai rượu sau khi dự lễ tang của bạn mình. Ông đã chính thức mang danh hiệu Người Cuối Cùng của 14 anh em bằng hữu. Khi ấy, ông đã tự hỏi mình. Tôi là người sống lâu nhất. Nhưng để được gì ngòai nỗi cô đơn vô tận? Dù Bản Hiến Chương quy định rằng người cuối cùng phải mở chai rượu, nhưng ông quyết định khác đi. Giây phút này đây ông là người duy nhất có quyền sửa đổi hiến chương vì không ai còn sống để tranh cãi. Chai rượu này sẽ được giữ nguyên, và nó sẽ được chôn theo ông xuống mồ giây phút ông nằm xuống.

4 năm trước, tôi đã viết về ông: “The Last Man cầm lấy chai champagne, rồi lại khẽ khàng để xuống bàn, im lặng. Ông đưa tay đỡ gọng kính lão nặng nề đang trễ xuống sống mũi hay một cử chỉ cố che dấu đôi dòng lệ gìa nua hiếm hoi đang muốn chảy ra khỏi hốc mắt sâu như hố thẳm thời gian. Hồi tưởng lại 70 năm những lần gặp mặt, âm thanh rộn ràng của chai Champagne được mở làm ông thêm yêu đời bao nhiêu thì bây giờ, cầm chai Champagne cuối cùng phần thưởng dành cho người cuối cùng, ông gìa lại sợ phải nghe cái âm thanh réo rắt ấy của kỷ niệm.

Ông biết, chẳng bao lâu nữa, ông sẽ đi theo những người bạn thân quý của mình. . . “

Người Cuối Cùng nay đã xum họp với bạn bè ở bên kia thế giới. Con cháu ông có chôn theo quan tài chai rượu Champagne nặng một lít rưỡi phủ đầy bụi bậm của thời gian như ý nguyện của ông hay không có lẽ cũng chẳng có gì quan trọng.

Cái chết đã giải thóat cho Người Cuối Cùng khỏi nỗi cô đơn thật đáng sợ.

2.

Hơn ai hết, tôi thấu hiểu nỗi cô đơn đáng sợ ấy. Tôi là người sống lâu nhất. Nhưng để được gì ngòai nỗi cô đơn vô tận?

14 anh em bằng hữu ấy đã từng cùng nhau trải qua một cuộc chiến tranh (Đệ nhị thế chiến). Khi nước Mỹ nhập trận, tất cả họ đều lên đường theo tiếng gọi của tổ quốc. Những cuộc gặp gỡ hàng năm đành tạm thời bị hủy bỏ. Sau chiến tranh, may mắn thay không ai bỏ mình nơi chiến địa, dù có kẻ phải mang thương tích trên người. Trở về, họ lại nối kết sự liên lạc như ngày xưa.

Họ cũng đã từng cùng nhau trải qua những thời kỳ kinh tế suy thóai, nạn thất nghiệp trầm trọng, nhưng họ vẫn có nhau, nương tựa, an ủi nhau vượt qua những trắc trở, bất an trong đời sống. Trong ngần ấy năm, những cuộc hội ngộ hàng năm vẫn đều đặn được tổ chức nơi thành phố quê hương (Wichita, Kansas). Kẻ ở xa xôi đến đâu, vẫn “đến hẹn lại lên“. Người nào không về được đều gởi thư, gởi thiệp hoặc điện thọai vào đúng giây phút xum họp.

Kể từ ngày 4 tháng 7 năm 2007, trong tổng số 14 bằng hữu, chỉ còn được 1 người.

Trong ngày hội ngộ hàng năm, cũng tại nơi hẹn quen thuộc, Người Cuối Cùng ngồi một mình, nhìn chung quanh 13 chiếc ghế trống. Trước mặt ông, chai rượu Champagne đầy bụi, tấm khung kính lộng bản hiến chương có thủ bút quen thuộc của những người bạn và tập kỷ yếu chứa những tấm hình đen trắng bạc màu vì thời gian.

Chỉ thương chiếc ghế còn bỏ trống
Bạn không về nữa biết ai ngồi
Biết đến khi nao mà hò hẹn
Hay là tay trắng sẽ buông xuôi?

( Thơ Trần Kiêu Bạc )

3.

Hãy tưởng tượng những chiếc ghế đã bị bỏ trống, những chiếc ghế sẽ bị bỏ trống. Và đôi mắt già nua nhìn đăm đăm vào khỏang không, như cố tìm trong đó những hình dáng thân quen của bằng hữu.

Hình ảnh cô đơn ấy thật buốt lòng.

Nhiều năm trước, những người bạn của tôi cũng đã ký tên vào một chai rượu với lời hẹn ước chung, mỗi khi “đến hẹn” ai cũng phải cố gắng để “lại lên”. Nay chai rượu vẫn nằm quạnh quẽ ở góc phòng nơi một thành phố miền nam nước Mỹ. Bạn bè tôi vẫn mỗi đứa một nơi. Những khỏang cách tính bằng ngàn dặm. Lời ước hẹn “lại lên” không phải ai cũng làm được.

Trong chúng tôi, ai sẽ là người “may mắn” được hưởng chai rượu mang thủ bút của những người bạn cũ.

Nhưng rượu làm sao uống một mình được. Khi ấy, kẻ sống sót chắc cũng sẽ giống như ông già người Mỹ 90 tuổi mới chết vài hôm nay mà thốt lên. Tôi là người sống lâu nhất. Nhưng để được gì ngòai nỗi cô đơn vô tận?

Nhà vắng. Bàn không. Chiếc lá phơi
Uống khan ly rượu nghẹn bờ môi
Gục đầu nhìn xuống bàn tay bẩn
Cát bụi vườn ai lấm chỗ ngồi
(Uống rượu một mình- Trần văn Sơn)

T.Vấn

Tháng 3 năm 2011

© T.Vấn 2011

Bài Mới Nhất
Search