T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Hai Trầu Lương Thư Trung: MỘT CHÚT BÂNG KHUÂNG TRONG THƠ CỦA NGUYỄN HÀN CHUNG

 

Bìa thi tập Dự Cảm Rời của Nguyễn Hàn Chung, ấn hành năm 2015, Hoa Kỳ; và bìa thi tập Lúc Bát Tản Thần, Bản Sắc Việt ấn hành, năm 2018, Hoa Kỳ.

Thơ Nguyễn Hàn Chung vốn rất khó đọc! Từ “Nghịch Lưu Của Tuổi”, rồi qua “Dự Cảm Rời” mấy năm trước và mới đây trên các trang thơ của “Lục Bát Tản Thần” là một chuỗi dài những vần thơ khó đọc! Dường như việc làm thơ ở Nguyễn Hàn Chung không phải là để thả hồn vào những vần thơ mà là chữ và chữ… Nói thế không biết có vội vàng, phiến diện lắm không khi người làm thơ như Nguyễn Hàn Chung đã có một chặng đường khá dài mơ màng cùng thi phú? Là một người đọc bình thường như tôi thì tôi nghe ra ở thơ ông là gánh nặng của một người đang gánh chữ giữa cơn nắng cháy những trưa Hè! Làm thế nào mà tôi có thể nghĩ khác cho được?

Thế nhưng, người làm thơ nào, dù tài giỏi cách mấy, dù cao siêu cách mấy, kể cả nhọc nhằn gánh chữ trên đôi vai đôi lúc mỏi rụng rời, họ không thể nào thoát ra khỏi cái chất rất gần, rất thật của một con người bình thường! Chính vì cái nền tảng bình thường ấy ở mỗi con người mà người làm thơ còn chắt chiu lại được phần nào; đó chính là cái nền của thi ca trữ tình mà anh không thể cất giấu ở đâu cho được! Và cũng chính vì cái nền tảng bình thường ấy ở mỗi con người làm thơ là cái tình cảm, cái rung động, cái chất lãng mạn, cái chất trữ tình ấy mới làm nên những vần thơ thực sự là thơ! Nhận ra điều ấy, tôi nghĩ người làm thơ như Nguyễn Hàn Chung, ông cũng không phải là người ngoại lệ!

Có một điều may mắn cho người đọc thơ của Nguyễn Hàn Chung qua một chặng đường  dài từ 1968 đến nay, năm 2018, tròn năm mươi năm, là không phải đi tìm đâu xa những bài thơ cũ; mà nó có ngay trong tuyển tập “Dự Cảm Rời”(2015),và Lục Bát Tản Thần”(2018), thành ra, thơ của ông đang ở đây và bây giờ!

Dường như, bối cảnh chung quanh của mỗi thời mà bất cứ nhà văn, nhà thơ nào đã và đang sống cũng chảy tràn vào tâm tư của mỗi tác giả. Chúng ta thấy cái thời tác giả Nguyễn Hàn Chung vừa lớn lên và biết suy tư cũng là cái thời chiến tranh khói lửa khốc liệt! Những năm tháng mà chúng ta thường nghe kể về những “dấu binh lửa”, “dọc đường số một”, “mùa hè đỏ lửa”, “đại lộ kinh hoàng”,“Tết Mậu Thân”… là những năm tháng mà bất cứ người nào từng trải qua và từng nghe nhắc tới đều là những thời kỳ mà người ta từng băng qua những ngày dài khói lửa ấy đều băn khoăn về sự tàn phá kinh hoàng của chiến tranh, cả sự tan tác ngoài trời cùng nỗi tan tác trong lòng người của một bà mẹ già trăm đắng ngàn cay:

“Lệ tràn pha sắc máu

Lửa đỏ ngập trời đông

Trắng đêm niềm uất hận

Máu chảy loang thành dòng

 

Bước chân già khập khiểng

Lê lết kéo trên đường

Bom chực rơi đầu ngõ

Đạn muốn hằn qua xương

 

Người mẹ già bật khóc

Âm ba không thành lời

Bởi không còn nước mắt

Cho căm hờn thương đau.”

 (Chiến cuộc với mẹ, 1968, Dự Cảm Rời, trang 19)

 Với vài nét chấm phá ngắn ngủi như mấy vần thơ vừa dẫn, chúng ta thấy ở Nguyễn Hàn Chung, có lẽ lúc bấy giờ tác giả còn rất trẻ, nếu không muốn nói là còn quá trẻ, nhưng ông đã thấy, đã nghĩ về chiến tranh và đã sống với chiến tranh bằng một chút tình của một người trong cuộc lữ…

Dĩ nhiên rồi, là một người con trai nào từ thuở nhỏ cho đến lúc mới lớn lên và đi vào đời với một chút bâng khuâng lãng mạn mà không mơ mộng yêu đương? Chàng trai trẻ Nguyễn Hàn Chung với chút hồn lãng mạn của thuở đôi mươi ấy cũng để lại chút xót xa cho một buổi trở về quê cũ của một lần nắng hạ, và cơn gió khô giữa ngày Hè:

“Khi trở về giữa một ngày nắng hạ

Em có còn hong nỗi nhớ cho tôi

Mưa cuối phố se hồn tôi giọt quạnh

Bước chân về cũng hiu hắt buồn thôi.

 

Khi trở về giữa một ngày gió hạ

Môi khô ran những thương mặn tình nồng

Tôi chợt mọc trong hồn trăm sợi nhớ

Cũng u hoài như con nước mênh mông.”

(Khi trở về Đà Nẵng, 6-1970, DCR, trang 20)

 Nhưng rồi chàng trai trẻ ấy không chỉ “cũng hiu hắt”, “cũng u hoài”, mà tác giả còn tự ví mình như “loài cỏ hạ, mọc giữa khu rừng cao hoang vu” và đâu đây cótiếng“cười rộn rã” vô tình của người yêu ngày cũ và để rồi tự nhủ lòng mình thôi thì cũng đành hờ hững như một giấc chiêm bao!

 “Khi trở về tôi như loài cỏ hạ

Mọc cỗi cằn trên hoang phế rừng cao

Khi tôi về tiếng em cười rộn rã

Cũng hững hờ như một thoáng chiêm bao.”

 (Khi trở về Đà Nẵng, 6-1970, DCR, trang 20)

 Trong bài “Một khúc tình không tưởng”, tác giả sáng tác tháng 10 năm 1971, với hai câu thơ mở đầu:

“ Nhớ hoài khanh nhớ hoài khanh

Ngựa thời gian đã tế nhanh trong mù.”

 (Một khúc tình không tưởng, DCR, trang 21)

 Ở đây, tác giả cố ý làm mờ đi một điển tích xưa với mấy chữ “ngựa thời gian”, nhưng có lẽ dưới con mắt của người đọc nhà quê già như tôi vốn cổ hủ, tôi chợt nghe ra ở đó có mấy chữ “bóng câu”: Do chữ “câu ảnh”. Trong Tống Sử có câu “Nhân sinh như bạch câu quá khích”, nghĩa là: Đời người như bóng con ngựa trắng nhỏ chạy qua lỗ hở. Ý nói đời người qua mau và quá ngắn ngủi. Thì ra, “khúc tình” xa xưa ấy dù “không tưởng”, dù được thời gian mau mau vùi lấp đi rồi nhưng hồn thơ ở Nguyễn Hàn Chung vẫn mang một mối u hoài, thương cảm, bâng khuâng:

“Nhớ hoài khanh nhớ hoài khanh

Bên hiên chải tóc thề xanh độ nào.” 

(Một khúc tình không tưởng, DCR, trang 21)

 Rồi đến năm 1972, một năm sau đó, Nguyễn Hàn Chung vẫn không rời nỗi nhớ; nhưng cũng đành thôi với chút cay đắng ngậm ngùi:

“Gọi người tình mãi không thưa

Đành thôi chút đắng cay thừa cũng xa.”

 (Lục bát cho người tình, DCR, trang 22)

Tác giả Ngyễn Hàn Chung năm nay chắc ông chưa già, nhưng có lẽ tác giả cũng không còn trẻ nữa! Chính vì vậy mà “Nghịch lưu của tuổi” lúc này tức là ông làm một công việc mà người trọng tuổi nào cũng muốn một lần quay gót trở về; trở về với những ngày của tuổi hai mươi, của những năm tháng trước, của một thời khó quên, một cố gắng dù không khó nhưng cũng làm cho hồn thơ của ông nhiều lúc bồn chồn tấc dạ xiết bao!

“Mùa mưa nào không trắng xóa hà phương

em ở lại chiều anh không hẹn thuở

anh thức hết những bọt bèo rơm rạ

tiếng chuông câm rưng rức buổi xa người

nhỏ chăn đồng cuối tóc phải chăn côi

ngoai ngoái lại mồ cha xanh nếp trán

nâng chai cạn mà không đành nốc cạn

 

Giọt rơi tràn con mắt nhướng sa mi

tuổi lăn tròn đời bể nửa viên bi

những cạnh sắc cứa vào đâu cũng xóc

thôi thì cố níu trái tim thất lạc…”

(À ơi điệu cũ, trang 121)

 Trở về nhưng không làm sao tìm lại được tuổi thơ ngày ấy, thì thôi cũng đành “cố níu trái tim thất lạc” giữa muôn trùng! Để rồi, người thơ đành ngồi trầm tư và than trách số phận chính mình:

“Chiều tới sáng lục tìm mưa cắm cúi

ngón với bàn ngong ngóng đến thê lương

gần rất lạ xa tới tầm tay với

sợi mong manh riết róng cột âm thầm

lầu cây khế leo tấm thân chùm gởi

nhướng lên mù thấy rõ một xa xăm

vẫn mụ mị lùng bùng cơn cớ trước

ngơ ngơ ngác ngác những phương chiều

 

Mùa không hắt

tia nắng vàng. Vô phước

kẻ điêu nào còn léo hánh cô liêu.”

 (Léo hánh cô liêu, DCR, trang 127)

 Trên đây là vài bài thơ trong “Nghịch Lưu Của Tuổi” mà tác giả cho in lại trong “Dự Cảm Rời” như một tuyển chọn mà cũng là một cách đổi tên trong ngăn tủ ký ức của tác giả, một thứ ký ức rất xót xa, thêm chút bâng khuâng nhưng mãi hoài cứ theo chân người thơ trăn trở những bóng chiều! Rồi người đọc không dừng lại ở đó, theo thời gian, có lẽ cũng thêm một lần mời bạn đến với “Lục Bát Tản Thần” của Nguyễn Hàn Chung, xem chừng hơi lạ!

Thực tình ra, tôi không có ý cắt nghĩa tựa bất cứ một tác phẩm nào của bất cứ một tác giả nào; và  với “Lục Bát Tản Thần”, cũng vậy. Lục bát là thể thơ rất cũ nhưng sao lại là “lục bát tản thần”? Điều này có lẽ chỉ có người tạo ra nó và đặt cho nó cái tên thì mới có thể cắt nghĩa được đầy đủ! Nhưng cần gì thắc mắc về một cái tên gọi giữa cõi nhân sinh này! Phải vậy không, thưa bạn? Và cái mà tôi muốn mời bạn bước qua khỏi cái tựa rất ư lạ-lạ ấy là trong những trang thơ huyền ảo của Nguyễn Hàn Chung còn đọng lại chút gì không sau mỗi lần mình gắp sách lại? Đó là trọng tâm của mấy hàng ngắn ngủi này xin thưa cùng bạn vậy!

“Lục Bát Tản Thần” vốn là một mạch dài trong chuỗi sáng tác của Nguyễn Hàn Chung, nên như tôi có nhắc qua khi vào bài, ôi thôi, chữ là chữ! Nhưng có một điều là dù ông có giấu kỹ những suy tưởng của mình về trời đất, về thế thái nhân tình trong những câu thơ lục bát còn nguyên hình hài cũ hoặc chúng đã bị cắt rời, cắt rời…; và làm cho mỗi câu dài đủ âm đủ vần thành từng khúc, từng khúc ngắn dài rất lạ khác nhau thì cái chất trữ tình trong máu huyết ông, cái nỗi dằn vặt trong hồn ông nó vẫn còn đó một cách nguyên vẹn, khó phai lợt! Bạn muốn tôi dẫn ra vài vần thơ tiêu biểu ấy chứ gì? Thì đây, xin mời bạn:

“Từ ta héo đến ta hon

Cười toe toét giấu nỗi buồn tái tê”

 (Về đâu đợi nàng, LBTT, trang 23)

 “Chắc chi đủ khạp, khui, khàn

Mai kia còn được tới hoang dưới mồ.”

 (Chơi tứ sắc ở hội cao niên, LBTT, trang 33)

 “Lề mề câu trước câu sau

Câu nào cũng có dàu dàu. Vì ai!”

(Cô liêu ca, LBTT, trang 40)

 “Tưởng rằng dứt áo là thôi

Nào hay sợi rách cột người chết trân”

 (Cột, LBTT, trang 41)

 “Giá như cứ giá như hồi

Xưa ta đâu phải ngậm ngùi. Giá như.”

 (Giá như, LBTT, trang 56)

 “Già thì phải quạnh hiu thôi

Cớ chi ngày trẻ trung thời ngủ quên

Cớ chi bán sống lấy tiền

Cớ chi mơ mộng hão huyền đầy kho”

 

….

 

“Già rồi biết phận mình đi

Chén cơm sớt đổ bát mì bưng rơi

Cớ chi còn nhớ nón cời

Như nàng Chăm nhớ hồn Hời năm xưa”

 (Cớ chi, LBTT, trang 64)

 “Kệ đi đừng có ưu phiền

Kệ đi, đừng có ưu phiền. Kệ đi.”

 (Kệ đi, LBTT, trang 65)

 “Chiều trời xưa ấy thu phân

Tiếc không thể tiếc, quên dần, không quên.”

(Gió giông quê cũ, LBTT, trang 224)

 Vâng, thưa bạn, còn nhiều lắm những vần thơ tê tái ấy!

Qua hai thi tập “Dự Cảm Rời” và Lục Bát Tản Thần” của Nguyễn Hàn Chung mà tôi vừa đọc lại như người vừa đi ngang qua một khu vườn trồng cây ăn trái, tôi cố tìm ra những trái chín cây mà ông chủ vườn muốn giấu kỹ cho riêng mình! Nhưng qua cái nhìn rất quê mùa của một người nhà quê già chuyên trồng cây ăn trái với phân cỏ mục như tôi cách nay có tới ngoài bảy chục năm, tôi thiển nghĩ thơ ông sau này có lẽ sẽ còn lại với riêng ông là một chút tình riêng, một chút buồn man mác mà xa xăm, diệu vợi cùng với một chút “bâng khuâng như tỉnh như say một mình”(*) ; và dù đôi lúc ông rất cứng cỏi vì cái gốc chàng trai xứ Quảng Nam với sông nước Thu Bồn ngày nào cứ chảy mải miết, không ngừng trong huyết quản của ông, nhưng rồi ra sẽ có một ngày lòng ông sẽ mềm lại vì một chút tình riêng ấy, một chút buồn man mác ấy, và một chút bâng khuâng ấy!

Mong lắm thay!

Hai Trầu-Lương Thư Trung

Houston, giữa tiết Thu lạnh, ngày 28 tháng 11 năm 2018

(*) Câu Kiều của Nguyễn Du.

 

Bài Mới Nhất
Search