T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không : Về bài thơ Hồ Trường

clip_image002

( Đây là bài cuối cùng  trong lọat bài về Rượu của Ngộ Không Phí Ngọc Hùng.Bài 1 là “ Tửu Sư “, bài 2 : “ Cái nồi ngồi trên cái cốc “, bài 3: “ Nón lá áo tơi ra quán chợ “, và bài 4 : “ về Bài thơ Hồ Trường “.)

Những bài viết dưới đây được người sưu tầm cô đọng lại vì vô hình chung có nhiều tiết mục

trùng hợp của nhiều tác giả viết cùng về một bài thơ Hồ Trường. Như tiểu sử Nguyễn Bá Trác,

nguồn gốc từ báo Nam Phong, hay bản dịch bài thơ qua chữ Hán ra chữ Quốc ngữ, hoặc chữ “thương” thành tên “Hồ trường”, v..v.. Xin chân thành cáo lỗi cùng tác giả – Phí Ngọc Hùng.

 

Bài thơ Hồ trường và Nam phương ca khúc

Phạm Thắng Vũ

Cho đến nay, có ít nhất 5 bản in lời ca Hồ Trường (1) mà các bản có nhiều chỗ không giống nhau. Để góp một phần tài liệu cho sự tham khảo, đối chiếu được rộng rãi chúng tôi trích lục các văn bản bằng chữ Hán, chữ Việt đã in trên Nam Phong tạp chí – nơi xuất xứ của lời ca này – cách nay đã 86 năm đối với Nam phương ca khúc và 84 năm đối với Hồ Trường.

Trong bài viết này chúng tôi quy ước như sau: Gọi Hồ Trường đối với lời ca tiếng Việt đã lưu hành từ trước tới nay. Nam phương ca khúc là tên tạm đặt cho lời ca mà Nguyễn Bá Trác đã nghe được, chép lại và dịch thành lời ca Hồ Trường.

clip_image004

 

Hồ Trường theo chữ Hán.

(Nguồn: vietbao.vn)

 

***

 

I. Nguồn gốc Lời ca Hồ Trường

Nam phương ca khúc (NPCk) được đăng lần đầu tiên theo thiên ký sự Hạn mạn du ký (HMDK) của Nguyễn Bá Trác trên Nam Phong tạp chí phần chữ Hán số 30, trang 214 năm 1919.

clip_image006

Trang trong tờ Nam Phong Tạp chí

HMDK trước tiên được viết bằng chữ Hán, đăng tải từ số 22 đến số 35 năm 1919, 1920; sau đó thiên ký sự này được chính tác giả dịch sang chữ Việt và đăng tải ở phần chữ Việt của Nam Phong từ số 38 đến số 43 năm 1920, 1921.

Hạn mạn du ký là thiên ký sự gồm 14 chương kể lại cuộc đông du của tác giả trong khoảng 6 năm (1909 – 1914) từ Sài Gòn sang Xiêm La – Hương Cảng – Nhật – Trung Hoa – rồi về VN.

Nam phương ca khúc nằm ở chương 10: “Tại Thượng Hải gặp người đồng hương”. Vào khoảng năm 1912, khi lưu lạc ở Thượng Hải, tác giả gặp một người đồng hương cùng chí hướng, người này có giọng hát hay (giọng Quảng Đông). Một đêm nọ, hai người đi uống rượu, “rượu ngà ngà, Nguyên quân đứng dậy mà hát” (lời Nam phương ca khúc), ở bàn bên cạnh, một võ quan họ Lưu, người Trực Lệ, nghe điệu hát, sang hỏi là điệu gì, được trả lời: “Ấy là một điệu đặc biệt ở phương nam” (2), họ Lưu nói “nghe tiếng bi mà tráng, nhiều hơi khảng khái, nam phương mà có điệu hát đến thế ru?”. Sau đó họ Lưu xin người hát chép ra giấy lời ca ấy để giữ xem.

Về mặt văn bản mà xét, thì bài ca ấy không rõ tựa đề, không biết tác giả, Nguyễn Bá Trác chép lại toàn vẹn Nam phương ca khúc. Và khi Hạn mạn du ký được chuyển sang chữ Việt thì lời ca này đã được dịch rất thoát, tuy nhiên nó vẫn là “lời ca” minh hoạ cho văn cảnh ấy chứ không phải “bài thơ hồ trường” như nhiều người từng gọi.

Cũng vì vậy, trong bài viết này, người viết xin gọi theo cách cũ là “Lời ca hồ trường” (3).

Hồ trường so với Nam phương ca khúc có nhiều điểm khác biệt. Người dịch đã linh động nương theo âm điệu tiếng Việt và có chỗ thêm tứ có chỗ bớt lời, khéo giữ được cái thần thái hào sảng của nguyên tác.

Hồi ấy Hồ Trường được dịch thẳng từ lời ca chữ Hán sang lời ca chữ Việt mà không có bản dịch nghĩa, nay thấy cần có nguồn tài liệu để dựa vào mà đính chính một số điểm khác biệt của Hồ Trường, nên tôi chụp lại nguyên tác hán văn Nam phương ca khúc từ Nam Phong tạp chí, đồng thời phiên âm dịch nghĩa để bạn đọc tham khảo.

***

II. Nam phương ca khúc

Phiên âm:

 

Trượng phu sanh bất năng phi can chiết hạm vị thế phù cương thường
Tiêu dao tứ hải, hồ vị hồ thử hương
Hồi đầu nam vọng mạc vô cực hề, thiên vân nhất sắc đồ thương thương
Lập công bất thành, học bất tựu, thiếu tráng hữu cơ thời hề, toạ thị bách niên thân thế khu âm dương
Phủ chưởng cuồng ca vấn tư thế, mang mang thiên địa, an đắc tri nhất tri kỷ (4) hề, , thí lai đối chước hữu dư thương.
Dư thương trịch hướng đông minh thủy, đông minh chi thủy vạn đội khởi cuồng lan
Dư thương trịch hướng tây sơn vũ, tây sơn chi vũ nhất trận hà uông dương
Dư thương trịch hướng bắc phong khứ, bắc phong dương sa tẩu thạch phi thù phương
Dư thương trịch hướng nam thiên vụ, vụ trung hữu nhân khai khẩu nhất ẩm cừ nhiên túy
Thiên địa vũ trụ hồn tương vong, dư bất túy hĩ, dư hành dư chí
Nam nhi tự cổ sự tang bồng, hà tất cùng sầu khấp phần tử

Dịch nghĩa:

 

Kẻ trượng phu sống mà không vạch gan, bẻ cột lo giềng mối cho đời
Rong chơi bốn biển, quê hương ở nơi đâu?
Quay đầu trông về nam, miệt mù vậy hỉ! Trời mây nối màu xanh ngắt
Lập công chẳng được, học không xong, trai trẻ có bao lâu, ngồi ngó trăm năm, thân đuổi cuộc sớm chiều.
Vỗ tay hát khùng, hỏi đời kia, đất trời mờ mịt vậy, một người tri kỷ tìm ở đâu, thử đến giúp ta rót chén rượu này
Ta quăng chén rượu đầy trộn nước biển đông, nước biển đông nổi cuộn vạn lớp sóng
Ta quăng chén rượu đầy vào mưa núi tây, mưa núi tây một trận sao lênh láng
Ta quăng chén rượu đầy đuổi theo gió bắc, gió bắc tung cát lăn đá bay nơi khác
Ta quăng chén rượu đầy vào mây mù trời nam, trong mây mù có người há miệng điềm nhiên say tràn
Trời đất dọc ngang đều mất hết, sao ta không say, chí ta thời ta làm
Từ xưa nam nhi đuổi theo tang bồng, cớ gì sùi sụt sầu cố hương.

Qua bản phiên âm và dịch nghĩa NPCK, chúng tôi thấy cần dừng lại lưu ý một đôi chỗ. Số là trong HMDK đăng tải trên Nam Phong – ở cả phần chữ Hán và chữ Việt – không có phần chú thích các từ khó hiểu thuộc về điển tích đã dùng trong NPCK và Hồ Trường, nay xin nói thêm về các điển ấy.

Ở câu đầu tiên có cụm từ “xé gan bẻ cột”. Trong NPCK ta thấy viết là Bẻ cột – chiết hạm. (Có nhiều người lầm viết là bẻ cật). Theo các từ điển thông dụng Trung Quốc thì điển tích “bẻ cột” xuất phát từ sách Hán Thư – truyện Chu vân: Thời Hán thành Đế, Hòe Lý Lệnh (một chức quan trong hàng Tam Công) là Chu Vấn tâu với vua xin giết An Xương Hầu Trương Vũ, vua nổi giận sai chém Chu vân. Khi bị bắt lôi đi, Chu Vân uất ức bám tay vào vặn cột điện, cột cung điện bị gãy, nhơn lúc lộn xộn ấy, Tân Khánh Kỵ giải cứu Chu Vân. Sau đó Thành đế biết Chu Vân xin giết Trương Vũ là vì lòng trung, bèn tha tội.

Khi sửa cung điện, Thành đế lệnh phải giữ nguyên dạng phần cột bị gãy, lấy hình ảnh đó mà biểu dương lời nói ngay thẳng của Chu Vân. Đời sau thường dùng từ “chiết hạm – bẻ cột” để chỉ hành vi dũng cảm trong việc dùng lời lẽ để can gián vua. Thôi Đồ trong bài thơ Ký cữu (gởi cậu) có câu “trí quân kỳ chiết hạm” (hết lòng vì vua mà bẻ gãy cột).

Chữ “Thương” ở cuối câu thứ năm (được lặp lại nhiều lần trong lời ca) có thể đọc là “trường” hay “tràng” mà Nguyễn Bá Trác đổi thành “Hồ trường”, từ một chữ “thương” biến thành hai chữ “hồ trường” rồi thành hẳn tên bài ca, kể cũng kỳ thú!

Thương có ba nghĩa:

1. Là cái chén uống rượu giống như cái tước, làm bằng sừng, “thương” là chén rót đầy rượu, khi chưa rót rượu vào thì gọi là “chí”.

2. Mời rượu người khác một cách kính trọng gọi là “thương”. Sách Lã Thị Xuân Thu – thiên Đạt Úc có câu “Quản tử thương Hoàn Công” (Quản Từ kính cẩn mời rượu Tề Hoàn Công).

3. Tự uống rượu một mình gọi là “thương”, Phạm Thành Đại trong bài “Túc tư khẩu thỉ văn nhạn” có câu “bá tửu bất năng thương” (nâng ly khó uống một mình).

Khi dịch nghĩa NPCK, chúng tôi dùng nghĩa “thương là chén rượu đầy”. Còn từ “hồ trường” trong lời ca Hồ trường là sự sáng tạo của dịch giả Nguyễn Bá Trác, chúng tôi không dám lạm bàn.

Chữ “phần tử” mà chúng ta thấy ở cuối bài NPCK là một từ chỉ quê hương (mà dịch giả Hồ trường đổi thành “cỏ cây”). Phần và tử là tên hai loại cây. Cây phần là một loại Du trắng nên còn gọi là “Phần du”.

Trong Hán thư – Giao tự chí, quyển thượng có ghi lại rằng: “Trong buổi lễ tế Giao, Hán Cao tổ có khấn mình là người ấp Phong, làng Phần du (làng có trồng cây phần du làm đặc trưng, sau thành tên làng), người đời sau lấy chữ Phần du để chí cố hương. Cây Tử tức là cây Thị, gỗ dùng để đóng đàn, khắc bản in…

Quê cha đất tổ gọi là “tử lý” hay “tang tử”. Kinh thi có câu “duy tang dữ tử, tất cung kính chi” (cây do cha mẹ trồng, ắt phải cung kính vậy); Phạm Thành Đại có câu “thân tu tử lý cung” (cung kính quê nhà mà lo tu sửa thân); truyện Kiều có câu “có khi gốc tử đã vừa người ôm”. “Phần tử” là từ được ghép bởi “Phần du” và “Tử lý” (hoặc “Tang tử”). Nguyễn Du viết: “Đoái thương muôn dặm tử phần; hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa” (Kiều).

Các chú thích vừa nêu có thể là dài dòng nhưng qua đó, phần nào bạn đọc có thể thấy những điểm khác biệt giữa NPCK và Hồ Trường, đồng thời có thể xác định bản Hồ trường nào đã theo đúng bản gốc.

***

III. Lời thơ Hồ trường

Nguyên bản trích từ Nam Phong tạp chí số 41 năm 1920. Trang 400 – 401 (giữ nguyên các lỗi sai so với chính tả ngày nay)

1. Trượng phu không hay sé gan bẻ cột phù cương thường;
2. Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương
3. Trời nam nghìn dậm thẳm, mây nước một mầu sương
4. Học không thành, danh chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc, trăm năm thân thể bóng tà

dương.
5. Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ lại đây cùng ta cạn một hồ

trường.
6. Hồ trường! Hồ trường! ta biết rót về đâu?
7. Rót về đông phương, nước bể đông chẩy xiết sinh cuồng lạn;
8. Rót về tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan
9. Rót về bắc phương, ngọn bắc phong vì vụt, đá chạy cát dương;
10. Rót về nam phương, trời nam mù mịt, có người quá chén, như điên như cuồng
11. Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết, lòng ta hay
12. Nam nhi sự ngiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây.

 

Qua lời ca Hồ trường này, chúng ta thấy các bản in lại có nhiều chỗ khác biệt. Các điểm sai lệch quan trọng có thể kể:

Ở câu 1: vài bản in là bẻ cật (có lẽ do liện hệ gan – cật nên thành xé gan bẻ cật thay vì bẻ cột).

Ở câu 2: nhầm thành tha phương (nguyên bản là “tha hương”).

Ở câu 4: hầu hết các bản in lại đều là “thân thế” (nguyên bản là “thân thể”), tuy nhiên, ở đây có lẽ bản gốc Nam Phong sai vì trong NPCK chữ Hán dùng chữ “thân thế”.

Ở câu 5: vài bản in “vỗ gươm mà hát” (thay vì “vỗ tay”) và tiếp đó là “nghiêng bầu mà hỏi” (thay vì “nghiêng đầu”). Ở câu 9 hầu hết các bản đều in “ngọn bắc phong vi vút” (thay vì “vì vụt”)…

Như đã nói, bài viết này chỉ dựa vào bản Hạn mạn du ký in lần đầu trên Nam Phong, người viết chưa được đọc bản in thành sách sau đó, cũng có khả năng tác giả HMDK có điều chỉnh đôi chỗ về ý hoặc về lỗi kỹ thuật, đồng thời bản dịch NPCK của chúng tôi nếu có lầm lẫn, xin bạn đọc điều chỉnh giúp cho.

***

Chú thích:

 

(1) Các bản được biết gồm: 1. Trong tập Hạn mạn du ký – Đông Kinh ấn quán – Hà Nội 1921 (tác giả in lại). 2. Phạm Thế Ngũ – Việt Nam văn học sử giản ước tân biên – Quốc học tùng thư – Sài Gòn – 1965 (bài ca Hồ trường in ở trang 327 – tập 3). 3. Lãng Nhân – Chơi chữ – Nam Chi tùng thư – Sài Gòn – 1960 (in lời ca Hồ Trường theo một giai thoại, trang 94). 4. Đông Trình – (bài báo) – TS chủ nhật ngày 7-6-1998.5. Vương Trùng Dương – Nguyễn Bá Trác và bài thơ Hồ Trường – võng trạm www.xuquang.com – in lại bản của cháu ngoại tác giả công bố.

(2) Phương nam ở đây chỉ miền Lãnh Nam – Trung Quốc.

(3) Người sau gọi Hồ Trường là trích lấy chữ trong lời ca mà gọi chứ không phải tựa đề do tác giả Hạn Mạn du ký đặt ra.

(4) Chữ KỶ này ở nguyên bản hán văn in nhầm là chữ Dĩ.

(5) Các chú thích ở phần dịch nghĩa Nam phương ca khúc được tổng hợp từ các sách Từ Hải, Từ Nguyên, Cổ Hán ngữ từ điển, Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển.

 

***

 

Bài Hồ trường


Nguyễn Lý Tưởng

 

1. Nguyễn Bá Trác là aỉ

 

clip_image002[1]
Theo tài liệu của những người đồng hương với ông ở trong nước cung cấp:

Nguyễn Bá Trác, hiệu là Tiêu Đẩu, sinh năm 1881 (Tân Tỵ), tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam), thi đỗ cử nhân khoa Bính Ngọ (1906) tại trường Thừa Thiên. Sau đó, ông theo phong trào Duy Tân và Đông Du do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh khởi xướng, qua Tàu rồi qua Nhật. Ngày 10-07-1907, Pháp ký với Nhật một hiệp ước thương mãi, cho Nhật vay 300 triệu quan Pháp và dành cho Nhật nhiều quyền lợi khác, v.v. để đổi lại, Nhật phải trục xuất các thanh niên VN theo phong trào Đông Du, hiện đang trọ học ở Nhật, phải về nước hoặc đi nơi khác. Cảnh Sát Nhật được lệnh lập danh sách học sinh VN và thông báo cho họ biết nước Nhật không muốn chứa chấp họ nữa.

Tất cả các nhà cách mạng VN như Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, cụ Phan Bội Châu,v.v. và các thanh niên VN đang ở Nhật đều bắt buộc phải ra đi, tìm đến một nước khác. Trước tình thế đó, đa số học sinh đều muốn trở về VN, Nguyễn Bá Trác cùng một số bạn bè chạy qua Trung Hoa, số khác chạy qua Thái Lan. Tâm trạng của thanh niên VN đi làm cách mạng trong thời gian nầy gặp bước thất bại, đa số bị bắt, bị tù, bị xử tử hoặc sống thiếu thốn bệnh hoạn, cảm thấy hiện tại quá bấp bênh, vô vọng …nên đa số muốn trở về VN. Nguyễn Bá Trác cũng ở trong hoàn cảnh đó.

Ở Trung Hoa được ít lâu, vì cùng đường, Nguyễn Bá Trác đã trở về Hà Nội tìm cách ra đầu thú với Pháp. Vốn biết ông là một thanh niên có tài, có học nên, vào khoảng 1916- 1918, Pháp đã cho ông làm việc ở Phòng Báo Chí, Phủ Toàn Quyền Đông Dương và trao cho phụ trách một tờ báo bằng chữ Hán (tờ Cộng Thị báo). Mục đích của tờ báo nầy là kêu gọi thanh niên trí thức VN ra hợp tác với Pháp. Năm 1917, Nguyễn Bá Trác được Pháp đưa qua làm việc với Phạm Quỳnh, phụ trách phần chữ Hán của báo Nam Phong (do Phạm Quỳnh làm chủ bút). Khoảng 1922- 1932, ông vào làm Tham Tri Bộ Học ở Huế, (có sách ghi là Tá Lý Bộ Học tức là Phụ Tá cũng như Tham Tri) Trong thời gian nầy, ông đã biên soạn nhiều tác phẩm bằng Hán văn có giá trị như:
– Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu (2 cuốn, tổng cộng 552 trang) xuất bản năm 1925 tại Huế. (bản dịch do Bộ Giáo Dục VNCH Saigon, 1963) nội dung ghi chép các biến cố quan trọng xảy ra trong lịch sử nước ta từ thời Hùng Vương về sau, có tham khảo nhiều tài liệu lịch sử của Trung Quốc, Nhật bản và VN. Sách biên soạn rất công phụ Sách nầy được biên soạn trong thời gian ông làm việc tại Bộ Học ở Huế (1923- 1925).
– Cổ học viện thư tịch thủ sách ( 11 cuốn) sách nầy do nhiều người cộng tác biên soạn, nội dung ghi chép và phân loại các sách vở, tài liệu trong thư viện của nhà vua tại Huế, nhiều tài liệu cổ rất giá tri.. Sách biên soạn xong năm 1924 .
– Các bài biên khảo bằng Hán văn đăng trên tạp chí Nam Phong như : Hán học Văn học khảo (thơ, văn từ 1917- 1932), Hàn mạn du ký (1920) , Bàn về Hán học (1920), Bàn về học thuật nước Tàu (1918), Mấy lời chung cáo với các bạn nhà Nho (1921), Hương Giang mộng (1920), Ngã An Nam dân tộc Nam tiến chi lịch sử (1921), Nguyễn Bá Học tiên sinh chi lược sử cập kỳ di ngôn (1921) Lĩnh Nam dật sử nghi án (1921), Du thanh hòa ký (1921)…

Sau đó ông được thăng Tuần Phủ Quảng Ngãi rồi Tổng Đốc Thanh Hóa, Bình Định. Tháng 8- 1945, khi Việt Minh lên nắm chính quyền, ông bị bắt và bị xử bắn tại Quảng Ngãị

2. Nguyễn Bá Trác có phải là tác giả bài “Hồ Trường”?
Cho đến bây giờ, chúng tôi chưa tìm ra bài thơ “Hồ Trường” được chính thức đăng vào sách văn học trước 1945 hoặc trước 1975 tại VN. Thỉnh thoảng, chúng tôi cũng có nghe bạn bè ngâm hay đọc bài thơ nầy, hoặc đọc thấy trên báo, nhưng không biết rõ xuất xứ.

Người ta nói tác giả bài thơ nầy là Nguyễn Bá Trác.

Nhưng tôi hỏi các cụ nhà Nho ở Huế, trong đó có những vị là Thầy dạy của tôi, nhiều người biết ông Nguyễn Bá Trác, nhưng không ai nghe nói đến bài “Hồ Trường” nầy. Chính cụ Võ Như Nguyện (trưởng nam của cụ Võ Bá Hạp), người biết nhiều chuyện xưa liên quan đến các bậc tiền bối cách mạng, mà cũng không biết gì về bài thơ nầỵ (Trong thư đề ngày 02 tháng 10 năm 2002, gởi cho người bạn ở Huntington Beach, Californiạ Cụ viết: “Bài thơ “Hồ Trường và dinh Tổng đốc Thanh Hóa dưới thời ông Nguyễn Bá Trác, tôi chưa được nghe”.

Về ông Nguyễn Bá Trác (Tổng Đốc Thanh Hóa) và cụ Võ Bá Hạp, ông Phạm Hải Hồ qua bài nhan đề “Vui Buồn Vùng Vịnh” viết: “Tôi xin kể một chuyện liên hệ đến một nhân vật khoa bảng Hán học, một nhà cách mạng, một tác giả của bài thơ bất hủ còn phổ biến rộng rãi cho đến bây giờ được nhiều người biết và ca ngợi là quá haỵ Nhân vật đó là ông Nguyễn Bá Trác, từng là nhà cách mạng bôn ba ở hải ngoại để mưu đồ đánh đuổi thực dân Pháp, giành Độc lập, Tự do cho dân tộc. Hình như ông là nhà cách mạng đồng thời với Phan Bội Châụ Ông Nguyễn Bá Trác là tác giả bài thơ Hồ Trường, chan chứa khí phách của một trượng phu, một chí sĩ yêu nước với tâm tư bi phẫn trước cảnh đất nước đang quằn quại dưới gót giầy sắt của bọn xâm lăng Pháp.

“Đại trượng phu nào ai xé gan bẻ cật. Phù cương thường hà tất tiêu dao bốn bể luân lạc tha phương…” “Vậy mà trong những giây phút yếu lòng nào đó, khiến cho nhà cách mạng Nguyễn Bá Trác đã về nước hàng phục xâm lăng Pháp và triều đình bù nhìn. Ông được bổ nhiệm làm chức Tham Tri rồi sau làm Tổng Đốc Thanh Hóa ( 2 chức vụ này tương đương nhau, nếu làm việc trong triều thì gọi là Tham Tri, làm việc ở ngoài triều thì gọi là Tổng Đốc).

“Trong thời gian làm Tổng Đốc Thanh Hóa, ông Nguyễn Bá Trác can thiệp, vận động với Pháp để Pháp dễ dãi, khoan hồng cho đồng chí cũ của mình là nhà cách mạng Võ Bá Hạp bị Pháp bắt giam. Ông Võ Bá Hạp thường được đưa tới dinh Tổng Đốc Nguyễn Bá Trác để dọn dẹp lặt vặt, nhổ cỏ, quét dọn, vệ sinh. Mỗi khi thấy mặt quan Tổng Đốc, ông Võ lại mắng nhiếc thậm tệ như : anh là tên Việt gian, phản quốc, tay sai thực dân,v.v…

“Quan Tổng Đốc Trác nghe xong chỉ cúi đầu lảng đi, không nói năng gì cả. Một bữa ông Hạp được lệnh tha, Tổng Đốc Trác đưa xấp tiền biếu để ông Hạp về với gia đình. Nhưng ông Hạp từ chối, vừa cầm nắm tiền vứt trả vừa buông lời xỉ vả quan Tổng Đốc một lần cuối:”Tôi không thèm nhận những đồng tiền dơ bẩn của anh”. Tổng Đốc Trác vẫn im lặng. Sự im lặng này hàm chứa một ý nghĩa rõ ràng: Ông Nguyễn Bá Trác đã biết hối hận, biết sỉ nhục, biết mình đã đi vào con đường sai lầm. Bỏ con đường phi nghĩa, tà đạo, phản bội lại quốc dân, để mưu cầu sự vinh thân, phì gia trong hoàn cảnh quê hương đang mắc vòng nô lệ ngoại xâm.

“Một thời gian sau, ông Nguyễn Bá Trác về hưu, sống ẩn dật trong nhà, không xuất hiện ngoài xã hộị Đến năm 1945, VC lên cướp chính quyền, đã xử tử ngay Nguyễn Bá Trác, cũng như chúng đã xử tử Phạm Quỳnh, Cung Đình Vận, v.v…

***

 

Nguyễn Bá Trác có phải là tác giả bài “Hồ Trường”?

Mặc Lâm, RFA
Bài thơ Hồ Trường trên Nam Phong tạp chí

Bài thơ này ai cũng cho rằng tác giả nó là Nguyễn Bá Trác vì khi in trên Nam Phong tạp chí không thấy ghi chú là được dịch từ một bài thơ của Trung Quốc. Mãi cho tới năm 1998 thì bài thơ mới được Đông Trình dẫn lời của Nguyễn Văn Xuân là dịch từ một ca khúc của Trung Quốc.

Gần đây nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc Phạm Hoàng Quân mới sưu lục được tác phẩm gốc đã được Nguyễn Bá Trác dịch thoát thành bài thơ bất hủ Hồ Trường

“Hạn mạn du ký” bản gốc của bài Hồ trường

Nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân cho biết nguyên nhân dẫn ông đến bài thơ bất hủ này:
– Đó cũng là một việc tình cờ trong lúc tôi làm cái tổng mục lục cho phần Hán văn của Nam Phong. Mặc dù trứơc đó mình có biết bài Hồ trường nhưng khi làm mục lục thì vô tình phát hiện bài “Hạn mạn du ký” bằng chữ Hán. Đọc lướt qua và khi dừng lại thì thấy có bài lời ca Hồ trường bằng chữ Hán ở đó. Khi gắn kết bài thơ lại tôi mới nhớ lại thì biết rằng đây là bản gốc của bài Hồ trường, bài mà ông Nguyễn Bá Trác dịch ra tiếng Việt. Bản dịch của ông Nguyễn Bá Trác dịch thẳng từ chữ Hán qua thẳng lời ca chữ Việt không có phiên âm thành ra nó hơi lạ một chút nhưng nội dung nó còn giữ được tinh thần của bản gốc. Từ đó tôi mới làm cái đối chiếu để cho rõ cái nguồn gốc thì một số anh em thấy vậy cũng hứng thú.

Sau đó tôi có viết lại một lần nữa bài viết cho nó đầy đủ hơn về nguồn gốc đó.

Nam Phong tạp chí là nơi ông Nguyễn Bá Trác từng làm chủ bút phần chữ Hán còn ông Phạm Quỳnh chủ bút phần tiếng Việt. Ông Nguyễn Bá Trác làm chủ bút những năm đầu của Nam Phong nên ông đăng những công trình nghiên cứu hay du ký của ông ấy lên trên phần chữ Hán.

clip_image008

Bìa Nam Phong Tạp chí số 1,

xuất bản năm 1917.Wikipedia

Có một số đã được dịch và đăng bên phần tiếng Việt còn một số vẫn còn ở bản chữ Hán cho đến hiện nay thì vẫn còn một số công trình của Nguyễn Bá Trác chưa được dịch ra tiếng Việt.

Theo nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân thì cho đến nay, có ít nhất 5 bản in lời ca Hồ Trường mà các bản có nhiều chỗ không giống nhau. Một trong năm bản ấy là Nam phương Ca khúc.

Hồ Trường so với Nam phương ca khúc có nhiều điểm khác biệt. Nguyễn Bá Trác đã linh động nương theo âm điệu tiếng Việt và có chỗ thêm tứ có chỗ bớt lời, khéo giữ được cái thần thái hào sảng của nguyên tác.

***

Bài thơ Hồ Trường và tác giả Nguyễn Bá Trác

Trần Văn Giang

Bài thơ được nhiều người biết nhưng lại không thuộc cả bài lẫn thân thế tác giả cùng lý do ra đời của nó. Rồi sau đó đã được nhiều thế hệ thanh niên sao đi chép lại nên đã không tránh khỏi chuyện dị biệt. Dưới đây là 4 bản Hồ Trường mà tác giả sao lục để quý bạn đọc so sánh.

clip_image010

1. Bản in trong trang 327, quyển Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên

(NXB Anh Phương, Sài Gòn năm 1965) của giáo sư Phạm Thế Ngũ.

Trượng phu không hay xé gan bẻ cột phù cương thường,
Hà tất tiêu dao bốn bể luân lạc tha phương.
Trời Nam ngàn dặm thẳm, mây nước một màu sương.
Học chẳng thành công chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc, trăm năm thân thế bóng tà dương.
Vỗ tay mà hát, nghiêng bầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường, hồ trường, ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nước bể Đông chảy xiết sinh cuồng lạn.
Rót về Tây phương, mưa Tây rơi từng trận chứa chạn
Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút đá chạy cát dương.
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt, có người quá chén như điên như cuồng.
Nào ai tỉnh nào ai say.
Chí ta ta biết lòng ta ta hay.
Nào ai tỉnh, nào ai say.
Chí ta ta biết lòng ta ta hay.
Nam nhi sự nghiệp ở hồ thì, hà tất cùng sầu đối cỏ cây.

2. Bản đăng trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật

(trong nước) số… năm 1998.

Trượng phu không hay xé gan bẻ cật phù cương thường.
Hà tất tiêu dao bốn bể, xuân lạc tha hương.
Trời Nam nghìn dặm thẳm, mây nước một màu sương.
Học không thành, công chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc, trăm năm thân thế bóng tà dương.
Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang ai là tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nước biển Đông chảy xiết sinh cuồng loạn
Rót về Tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan
Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút đá chạy cát dương
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt có người quá chén như điên như cuồng
Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết, lòng ta at hay
Nam nhi sự nghiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây?

3. Bản in trong báo Thế Kỷ 21 (Hoa Kỳ),

trang 8, số 115 ra tháng 11 năm 1998.

Trượng phu không hay xé gan bẻ cật phù cương thường,
Hà tất tiêu dao bốn bể, lưu lạc tha phương.
Trời Nam nghìn dặm thẳm, non nước một màu sương
Chí chưa thành, danh chưa đạt, trai trẻ bao lăm mà đầu bạc, trăm năm thân thế bóng tà dương.
Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi, trời đất mang mang ai người tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nước biển Đông chảy xiết sinh cuồng loạn.
Rót về Tây phương, mưa phương Tây từng trận chứa chan.
Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút đá chạy cát giương.
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt có người quá chén như điên như cuồng.
Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết, lòng ta ta hay
Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây.

4. Bản in trong quyển Chơi Chữ

của tác giả Lãng Nhân-Phùng Tất Đắc,

trang 75 (Sài Gòn-1970)

clip_image012

Trượng phu đã không hay xé gan bẻ cột phù cương thường,
Sao lại tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương?
Trời Nam nghìn dặm thẳm; mây nước một màu sương.
Học không thành, công chẳng lập, Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc; trăm năm thân thế bóng tà dương.
Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi: Trời đất mang mang, ai là tri kỷ? Lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nước bể Đông chảy xiết sinh cuồng-lạn.
Rót về Tây phương, mưa Tây-sơn từng trận chứa chan;
Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút, đá chạy cát dương.
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt, có người quá chén như điên như cuồng.
Nào ai tỉnh, nào ai say?
Chí ta ta biết lòng ta ta hay.
Nào ai tỉnh , nào ai say?
Chí ta ta biết lòng ta ta hay.
Nam nhi sự nghiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây!

 

***

Rượu Hồ Trường

(trích đoạn Vương Trùng Dương)

clip_image014

 

Lịch sử Hồ Trường:

Hồ Trường được lấy theo tên của bài ca Hồ Trường của tuần phủ Nguyễn Bá Trác:

Hồ Trường Hồ Trường

Ta biết rót về đâu …

Thành phần và công dụng:

Hồ Trường là loại rượu thảo dược đặc biệt được làm từ 32 loại thảo dược khác nhau. Rượu sau khi được chưng cất sẽ ủ từ 3 đến 5 năm trong các hầm ủ tiêu chuẩn trước khi đưa ra đóng chai.

Hồ Trường là nậm rượu, bầu rượu hình dáng như trái bầu mà người xưa thường dùng nó để đựng rượu, bài thơ Hồ Trường có câu “nghiêng bầu mà hỏi”. Trong văn hóa Đông phương, điển hình như Trung Hoa, có nhiều loại cho đồ đựng rượu và uống rượu là nghệ thuật tạo hình trải dài qua mấy nghìn năm. Từ vật dụng đựng rượu có sẵn trong thiên nhiên như gỗ, tre, sừng, vỏ ốc, quả bầu (hồ lô) đến vật dụng được chế biến từ đất nung, sành sứ, kim loại, thủy tinh… theo tiến trình văn minh của con người sáng tạo ra nhiều loại khác nhau và mỗi loại lại có hình dáng riêng của nó.

Ngày nay, có nhiều thứ trở thành đồ cổ quý giá với lai lịch của nó hình thành trong mỗi triều đại. Hình ảnh bầu rượu được buộc dải lụa ở nước ta được thấy trên các mái đình, miếu, am và trên nóc Tháp Rùa ở Hà Nội, điện Thái Hòa, Thế Miếu, Ngọ Môn ở Huế… còn lưu lại hình ảnh nầy. Từ thời xa xưa, quả bầu được xem như biểu tượng thiêng liêng đựng nước thiêng rồi sau đó đựng thức uống rất quý là rượu. Hình ảnh “bầu rượu túi thơ” được minh họa qua nhân vật nổi danh như Lã Đồng Tân, Lý Thiết Quảng, Lý Bạch, Lưu Linh… trở thành quen thuộc qua nhiều thế kỷ ở Đông phương. Bìa thi phẩm Mây của Vũ Hoàng Chương do Tô Ngọc Vân vẽ bầu rượu đựng túi mây phiêu bồng mô tả tâm hồn thi nhân nơi trần gian.

Thi ca Trung Hoa và Việt Nam, có hàng trăm bài thơ đề cập đến rượu, có bài nhắc đến tên rượu, có bài thể hiện ở nội dung… Nguyễn Bá Trác dùng vật dụng là tựa đề cho bài thơ, vừa hay về âm điệu vừa gợi hình ảnh đồ dùng của loại men nồng, trở thành nét đẹp trong nghệ thuật tạo hình.

 

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

 

 

©T.Vấn 2012

Bài Mới Nhất
Search