T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không : Tác Giả Tác Phẩm – Đinh Hùng

 

Chân dung, di bút Đinh Hùng – Tạ Tỵ

Tiểu sử :
Bút hiệu Thần Đăng, Hoài Điệp Thứ Lang. Sinh ngày 3.7.1920 tại Phượng Dực, Hà Đông. Mất ngày 24.8.1967 tại Sài Gòn.
Tác phẩm :

Mê hồn ca, Đường vào tình sử, Ngày đó có em, Kỳ nữ Gò Ôn Khâu (kịch)

 

Đinh Hùng, những bài thơ không tuổi

Nguyễn Mạnh Trinh.

Thơ, ở cực độ truyền cảm nhất là những câu “ nhập thần “ . Những câu là châu báu trời cho, những tứ là những kho tàng lộ  diện, những vần là điệu nhac vô biên . Ngày xưa Nghiêm Vũ đời Tống   trong Thương Lang Thi Thoại  đã viết đại ý “ Điểm tuyệt diệu nhất  của thơ chỉ có một , đó là nhập thần. Thơ mà đạt tới mức nhập thần thì  tận thiện tận mỹ. Và không thể thêm thắt được bất cứ điều gì . Duy chỉ có Lý Bạch , Đỗ Phủ đạt được thôi còn những người khác hiếm hoi lắm…”

Với riêng tôi , Đinh Hùng có những câu thơ hoặc bài thơ “ nhập thần” như Nghiêm Vũ diễn tả. Không biết tôi có chủ quan quá độ hay không , nhưng có nhiều bài thơ khi tôi đọc xong như bị lạc vào một thế giới của không gian thời gian nào và ngôn từ không đủ sức để giải thích những cảm giác huyền nhiệm ấy. Đọc thơ Đinh  Hùng , cảm được những biểu tượng riêng, và nghe và thấy được những ngôn ngữ riêng của bản sắc độc đáo không bị trộn lẫn.

Đọc , để thấy cảnh và người,  ngôn ngữ và ý tưởng hòa đồng cùng nhau.  Bản sắc  của cảnh và nội tâm của người như có một tương quan mật thiết , cảnh gợi nên ý , ý gợi nên lời, lời gợi nên cảm ..Đọc bài Đường Trưa,  để thấy một phác họa người qua cảnh , của nỗi buồn mênh mang , đầy cảm xúc:

“ Lá xanh che khuất đường trưa

bóng thêu hoa nắng , lưa thưa điểm vàng

trời cao lắng xuống trường giang

hững hờ thay! Aùng mây hàng trôi qua

Mây kia còn mải nghĩ xa

Hồ lim dim ngủ chói lào ánh gương

Nhạc buồn một điệu thê lương

Kèn ve nổi tiếng xót thương mấy hồi

Buổi trưa ngừng giữa lòng tôi

Aùi tình đỏ sắc hoa rơi đầu cành

Chừng nghe qua bóng lá xanh

Có chân ai lặng bước nhanh trong sầu?”

Thơ Đinh Hùng  đầy những khát vọng , của những giấc mơ , của tuổi hoa niên mới lớn , của những bướcc chân hăm hở vào đời. Thơ xôn xao giấy mực , thơ như tấm lòng trải rộng theo chiều bát ngát  đất trời.

Khi tuổi trẻ , tấm lòng thường rộng mở với những mơ mộng trăng sao. Có một chút không bằng lòng với hiện tại , trí tưởng tượng mở ra đến tận những phương trời. Lúc ấy, thi ca góp vào cánh tay mở toang khung cửa để mây lồng lộng trời cao và gió phiêu du muôn bến.

“ Khi mới lớn tuổi mười lăm mười bẩy

làm học trò mắt sáng với môi tươi

ta bước lên chân vẫn dạo bên người

ngoài cặp sách trần ai coi cũng nhẹ

đời thấp thoáng qua học đường nhỏ bé

phố phường vui cuộc sống mới lên hoa

Ta ngồi nghe những tiếng thị thành xa

Hồn lơ đãng mộng ra ngoià cửa lờp

Nắng thuở đó khiến lòng ta hồi hộp

Ta nhìn cao mới rõ bị giam cầm

Oâi tiếng nào vang mấy bức tường câm?

không khí nặng mơ hồ thầy với bạn

Ta nhớn lên bước đường không giới hạn

Có lẽ đâu kìm giữ bởi tay người

Tuổi hoa hồng –kiêu hãnh của ta ơi

Tình đã hẹn ở trên đường nắng mới..”

Đọc những câu thơ như thế làm sao mà không xôn xao trong lòng.  Thế giới mở ra , ôi sao mênh mông quá! Mê nhất là nhìn theo những cánh chim để trí  tưởng tượng vút lên , cao rất cao lên đến đỉnh trời. Oâi tuổi trẻ hơn hớn xanh mầu mắt và bồng bềnh bờ tóc bay. Đọc thơ , để mường tượng một chân dung thi sĩ , nhà thơ Đinh Hùng.   Và cũng để hồi tưởng lại một thời của mình , ở thành phố Sài Gòn tràn đầy kỷ niệm.Những buổi trưa trốn học , nằm lăn trên bãi cỏ xanh, nhìn theo những sợi mây  bay lãng đãng trên những ngọn cây dầu cao vút để hồn lơ mơ với giấc mơ , với những tà áo bay bay trong tưởng tượng , của những mắt liếc hẹn hò , của tâm tình xôn xao muốn ngỏ . Đọc thơ để thấy mình là một  chú gà trống ngu ngơ nhưng tưởng như một anh hùng vô địch oai hùng trong cuộc đời và lãng mạn trong cuộc tình. Đọc thơ , để vô vàn những khao khát nổ bùng , của tưởng tượng về ngày mai, của tràn đầy hoa gấm  và nồng hương tình ái…

Cuộc đời Đinh Hùng như có một phận số riêng và thi ca cũng có một số phận khác. Cái thể chất ẻo lả  cộng thêm tàn phá của nàng tiên nâu làm ông  không có tuổi thọ. Thơ của ông , ngược lại , như không có tuổi và với lớp người đọc sau , luôn luôn có sinh động riêng và có đời sống văn chương dài  hôn nhiều tuổi thọ.

Ngày 24 tháng 8 là ngày giỗ Đinh Hùng . Ông mất năm 1967, thọ 47 tuổi. Một đời thi sĩ có  lẽ khá ngắn nhưng tác phẩm đã có  đời sống dài hơn gấp bội. Hai tập thơ “ Mê hồn ca” và “ Đường vào tình sử “có những bài thơ được coi như là tuyệt  tác của một thời  kỳ văn chương nở rộ. Chương trình ngâm thơ “ Tao Đàn “ do ông chủ trương  với tiếng nói  mở đầu   truyền cảm đã bao nhiêu năm trở thành một biểu tượng thi ca của miền Nam tự do.

Với những người làm thơ, Đinh Hùng có vị trí  của một vì sao Bắc Đẩu. Khi miền Nam bị  Cộng Sản miền Bắc xâm chiếm, nhà thơ Trần Dần đã nhắn vào cho gia đình nhà thơ Vũ Hoàng Chương” Anh yên tâm, với chúng tôi,  thơ của anh và Đinh Hùng vẫn có giá trị để được trọng vọng như thời tiền chiến …”

Cũng như về sau, trong cuộc mạn đàm với các văn nghệ sĩ ở Huế, Trần Dần đã xác nhận một lần nữa tấm lòng trân trọng với thơ Đinh Hùng  trong khi Hoàng Phủ Ngọc Tường thì chê rằng thơ “lòe loẹt  ghê ghê mùi son phấn thế nào ấy “.  Khi được hỏi  trong các nhà cầm bút thời tiền chiến thích ai nhất thì Trần Dần trả lời ngay ; Vũ Trọng Phụng , Vũ Hoàng Chương và Đinh Hùng. Và ông khẳng định: Đinh Hùng là thi sĩ Tượng trưng đầu tiên của Việt Nam với tập” Mê Hồn Ca”’

Đinh Hùng  thi sĩ  và Đinh Hùng nghệ sĩ đã có người tri kỷ là nhà văn Thạch Lam, một người cũng có tuổi thọ khá ngắn nhưng văn chương tài hoa. Đinh Hùng đã làm bài thơ Gửi Hương Hồn Thạch Lam như muốn sẻ chia tâm sự với người chung mang nỗi niềm tâm sự :

” Nhớ xưa cùng bóng dạ lan hương

Anh với tôi nằm mộng canh trường

Giường kế bên cửa , hoa kề gối

Anh truyện sầu , tôi truyện mến thương

Tôi với anh giường chung mộng chung

Vì duyên thơ mới co 1duyên lòng

Anh buồn tự thuở trăng lên núi

Aáy độ tôi hoài ước lại mong

Ai biết lòng anh thương nhớ đâu

Gần nhau không nói , nói không sầu

Cầm tay hỏi mộng , buồn như tủi

Thầm hiểu anh htôi , lặng cúi đầu

Tôi cảm thương vì hai chúng ta

Tuôpỉ đang xuân mà  bóng sang già

Đêm nào tôi mộng buồn riêng gối

Anh đã nằm yên dưới mộ hoa

Anh lánh mưa xuân nép cửa sầu

Đêm nằm ghê gió lạnh canh thâu

Gặp nhau nắm chặt tay lần cuối

Anh khép hàng mi chẳng nguyện cầu…”

Thời tiền chiến, giai phẩm Dạ Đài với sự góp mặt của Trần Dần, Đinh Hùng, Trần Mai Châu , Vũ Hoàng Địch,…đã tỏ lộ một khuynh hướng thi ca mới của thơ tượng trưng.  Và khuynh hướng này  là một khuynh hướng nổi bật của thi ca Việt Nam với các tầm vóc như Hàn Mặc Tử , Bích Khê, Đinh Hùng , nhóm Xuân Thu Nhã Tập , Chế Lan Viên thời trước 1945,…

Võ văn Ái, trong tác phẩm “ Bốn Mươi Năm Thơ Việt Nam/1945-1985 “ đã viết về Đinh Hùng như sau:

“…Trùm ảnh vì cái chết từ lúc bé, Đinh Hùng hướng về nguồn thơ Tượng trưng. . Vì Tượng Trưng là âm bản  của thực tại. Như chết là âm bản của sống. Thơ Tượng Trưng  thoát mình , rời xa thực tại  đang sống , đi tìm cái khuôn âm bản để xem thực tại ấy có là mặt – mày- xưa- nay vốn được đúc nặn từ đầu. Hay chỉ là những tam sao thất bổn? Thơ dựng lên khuôn mặt giai nhân, hoặc dựng lên cái tiền cảm bao quanh, tượng trưng cho khuôn mặt ấy , thì  vẫn là niềm  Thơ như thật của muôn thuở . Đó là giải thích theo tâm cảnh thơ Việt Nam. Trong thực tế, hầu như tất cả các nhà thơ tiền chiến đều chịu ảnh hưởng của các thi sĩ Pháp, đặc biệt là Beaudelaire, Mallarmé, Rimbaud.Cũng như  sau nay thi ca miền Bắc chịu ảnh hưởng của các nhà  thơ Nga , và miền Nam  lại tiếp tục chịu ảnh hưởng các nhà thơ Pháp với những Eluard, Aragon , Jacques Prevert…

Năm Đinh Hùng lên 11 , chị  Tuyết Hồng , hoa khôi Hà Nội, đã tự tử trên hồ Trúc Bạch. Mấy tháng sau thân phụ chàng đau nặng rồi thất lộc . Chị Loan , một người chị khác lại mất ba năm sau. Qua năm 18 tuổi chớm mối tình đầu, Đinh Hùng yêu một người có họ xa , nhưng người con gái măng tơ  và Liêu trai này cũng chết. Tập thơ Truyện Lòng  in trong Đường Vào Tình Sử  năm 1961 chính là tập thơ đã sáng tác từ năm 1938. Tiếp đến người bạn thân yêu nhất của đời chàng  là Thạch Lam cũng bỏ chàng đi năm 42 tuổi vì bịnh lao..

Bây giờ ta hiểu nỗi chết đã ám ảnh đeo đuổi Đinh Hùng như hình với bóng, đốt thắp  tâm tư chàng.Đinh Hùng không chạy trốn, chàng hàm dưỡng  ngọn lửa ấy cho nguồn thơ Tượng Trưng…”

Lúc còn sống, nhà văn Mai Thảo và nhà thơ Nguyên Sa cũng đặc biệt yêu  mến thơ Đinh Hùng. Nhiều lần,  nhà văn Mai Thảo đã đọc hầu như gần hết tập thơ Mê Hồn Ca  trong những buổi họp mặt  văn nghệ. Chắc phải yêu mến lắm nên mới thuộc lòng như vậy.Với phong cách đặc biệt, kèm theo những nhận xét dí dỏm nhưng chính xác,ông đã làm  thơ Đinh Hùng thành một không gian thơ đặc biệt mà mọi người tham dự  mãi năm tháng dài về sau không thể quên…Nhà thơ Nguyên Sa cũng vậy. Ông thường nói về thơ Đinh Hùng với tất cả những lời khen tặng. Khi tôi và ông cùng thực hiện tủ sách Tác Giả Tác Phẩm của nhà xuất bản Đời , cuốn đầu tiên là viết về Đinh Hùng…

Tạ Tỵ trong cuốn “ Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đã Đi Qua Đời Tôi” cũng   đã phác họa chân dung Đinh  Hùng qua từng thời kỳ ,  khi trai trẻ đến lúc tham gia dòng thơ tiền chiến, từ lúc kháng chiến rồi hồi cư về Hà Nội,  dến khi di cư vào Nam , làm  chương trình thi ca Tao Đàn,..

“..  Đinh Hùng nhìn tôi nhếch mép cười, cái cười ngạo mạn vì lúc gặp Đinh Hùng lần đầu , tôi là tên “mặt trắng “ còn Đinh hùng tuy chưa có tác phẩm  nhưng đã được nhiều người biết tiếng. Đây là trường hợp duy nhất của người làm thơ nổi tiếng trước khi có tác phẩm hoặc có nhiều bài đăng tải trên báo chí  ! Có lẽ thơ của Đinh Hùng mới quá  đi trước thời đại chăng?

Tôi mỉm cười xã giao bắt tay Đinh Hùng. Oâi chao bàn tay gì bé và mềm thế , như tay đàn bà! Về sau này  tôi được một người bạn cho biết , khi còn học ở trường Bưởi , Hùng cũng rất đẹp trai và ham tập thể thao lắm, đã bơi ngang Hồ Tây, tuy nhỏ nhưng thân hình cân đối và thi sĩ Huyền Kiêu, người bạn cùng lớp học đã mê Hùng như mê người tình, giống như trường hợp Xuân Diệu Huy Cận vậy. Ngoài tài làm thơ, Đinh Hùng còn chơi nhạc , đánh đàn mandoline , những khúc nhạc  của Mozart, Beethoven, và Beach rất hay. Hùng cũng biết vẽ lăng nhăng và chữ viết rất bay bướm .Khi học trường Bưởi , Đinh Hùng phụ trách báo tay cùng với thi sĩ Huyền Kiêu . Đinh Hùng ở một căn gác nhỏ trên đê Yên Phụ  gần Ngọc Hà và bài thơ “ Xin hãy yêu tôi” có những câu;”…Tôi mở sẵn một phòng sầu bé nhỏ

Riêng một đèn , một gối một tình yêu..” là chính căn gác này đã tạo cho thi nhânnguồn cảm hứng đó.Từ đầu đê Yên phụ, buổi tối nào “ đi xóm”( tức đi hát cô đầu) thì thôi , còn không Đinh Hùng cuốc bộ từ đó đến tiệm hút sau đền Bà Kiệu , phía bên hồ Hoàn kiếm , để họp bạn cùng vui thú yên hà . Đinh Hùng năm ấy(1940-1941 ) hãy còn trẻ lắm, mới trên dưới 20 tuổi mà đã đam mê gắn bó với Phù Dung tiên nữ , Dưới ánh đèn , mặt Hùng tái xanh, riêng đôi mắt sáng long lanh biểu lộ sự thông minh tuyệt vời,,”

Riêng tôi,   đọc  hai tập thơ Mê Hồn Ca và Đường Vào Tình Sử , đời sống có phảng phất của  sương khói mơ hồ của kiếp khác. Thơ , là những bước chân đi trong những ảo tượng để trí tưởng tượng như những vỗ cánh khởi hành vào cõi mênh mang của kiếp nhân sinh.

Thơ Đinh Hùng là bước chân về nguyên thủy. Ở đó, trời đất hoang vu,  kiếp người quạnh quẽ. Sống hờ hững đôi khi trải theo tâm sự Từ Thức về trần, đi tìm lại quá khứ trong tiềm thức xôn xao cảm giác.Ngôn ngữ, là vang vọng của tấm lòng yếm thế, của lòng rời rã tự tình, để thoảng vẽ ra, những đôi mắt nhìn sang cõi bờ khác lạ, của một chân trời mà thực và mộng chen lẫn vào nhau.

Thi ảnh của Mê hồn ca, của tiếng ca bộ lạc, đầy những biểu tượng của núi non, của gió tuyết, của cỏ hoa tịch mịch, mỗi mỗi là hình  dáng của mơ hồ , của sự liên tưởng nâng lên cao độ. Thi ảnh của Đường Vào Tình Sử tương đối gần cận cuộc sống hơn, có thêm sinh khí của tình yêu thiết tha, của những tấm lòng mở ra và ngỏ với mọi người. Ngôn ngữ   thơ có nhiều ảnh tượng có lẽ quen thuộc với  cảm quan mà vẫn có sức lôi kéo từ những vị trí đắc địa cũng như những cánh cửa mở ra những chân trời và những phận người. Thơ, như những nét bút vờn. Thơ,  là thi sĩ miệt mài đi trên con đường tìm kiếm lại chính mình, cái bản ngã có nét bàng bạc trong bức tranh nhân sinh mờ tỏ, có lúc rờn rợn mầu trắng mênh mông, của trang giấy trinh bạch, của nỗi niềm mù khơi đến tận vô cùng.

Đọc những câu thơ như:

“ rồi những đêm sâu bỗng hiện về

vượn lâm tuyền khóc rộn sương khuya

đâu đây u uất hồn sơ cổ.

Từng bóng ma rừng theo bước đi..”

Chúng ta sẽ cảm thấy gì ? cũng những ngôn ngữ có hơi quen thuộc đến có thể hơi sáo mòn. Nhưng kỳ lạ, có sức lôi kéo của những ý tưởng nảy từ bùa chú linh thiêng. Con đường đi, chập chùng thực mộng . Trí tưởng bỗng man mác , mênh mông..

“Bóng ta đi  trùm  khắp lối hoang sơ

và chân bước nghe chuyển rung đồi suối

lá cỏ sắc vương đầy trên tóc rối

Ta khoác vai manh áo đẫm hương rừng…”

Có phải thơ là phần ăn cách riêng của những người quen đơn độc, của những góc tối  mà con người nương náu vào đó cho hết một kiếp người. Trong nỗi buồn có niềm kiêu hãnh, trong ngày nắng có lẫn những canh khuya.

Có người nói thơ Đinh Hùng có những đóa hoa vô hình vô ảnh nhưng lại mường tượng được từ những phác họa tài tình. Người đẹp , có khi chỉ là nét trầm khuất xa xôi. Những mối tình, là thiên cổ không phai, là giấc miên viễn hiu hắt cùng trời và đất. Lời tình tự như ngỏ vào hư không. Mây gió cuộn một thời phong vũ.

“ Khuya sớm tìm sang lối tuyết trinh.

Lầu xuân hoa dựng ngọc liên thành

Lệ in bóng núi mờ nhân ảnh

Mây đó về đâu có gặp mình?

Thương nước vô danh người mộng ảo

Ta cười một nét vẽ hư linh

Aùo xiêm đã ố màu tang hải

Em thoát xiêm đi, hiện dáng tình…”

 

Em, có phải là hình bóng của yêu tinh, của đam mê đã lan cả đến cỏ cây hoa lá? Em, có phải là giọt máu loang huyết lệ, của những mối tình thiên cổ không phai?

“… Hỡi kỹ nữ, em có lòng tàn ác

ta vẫn gần, ôi, sắc đẹp yêu ma

lúc cuồng si, ta nguyền rủa cả đàn bà

Ta  ôm ngực nghe trái tim trào huyết

Ta sẽ chết, sẽ vì em mà chết

Một chiều nào tắt thở giữa môi hôn

Ta  hái trong em lấy đóa hoa hồn..”

Em , có phải là thần tượng lên ngôi? Em, có phài ta đã biến hình thành tên nô lệ?trong thi ca, là định mệnh trái oan, là ngôn ngữ của người lạc lõng trên con đường tháng năm của thời gian biền biệt

“.. Ta run sợ cho yêu là mệnh số

mặc tay em định hộ kiếp ngàn sau

vì người em có bao pháp nhiệm mầu

một sợi tóc đủ làm nên  mê hoặc

Ta đặt em lên ngai thờ nữ sắc

Trong âm thầm chiêm ngưỡng một làn da

Buổi em về xác thịt tẩm hương hoa

Ta sống mãi thở lấy hồn trinh tiết…”

Mê Hồn Ca, là : “ yểu điệu phương đông lướt dưới đèn

Ta nằm mộng đẹp đêm thần tiên

Dáng xuân nghiêng mắt cười không tiếng

Lửa hạ lên rồi- ôi Ý Liên..”

Mê Hồn Ca, là : “qua xứ ma sầu ta mất trí

Thiêu đi tập sách vẽ hoa nguyền

Trời ơi!  Trời ơi! Làn tử khí

Lạc lõng hương thầm đóa Bạch Liên..”

Mê Hồn Ca, là khuôn trời Liêu Trai, là những đêm âm phần trộn lẫn với trưa dương thế. Thì Đường Vào Tình Sử khác hơn, là những bài thơ tình của miên viễn chiêm bao, của những môi hôn trong mộng, của  man mác hương trinh. Mộng vẫn còn, mê ảo nhưng thực đã có da có thịt trong ngôn ngữ tình yêu

“ Khi tóc mùa xuân buông dài trước cửa

Khi nắng chiêm bao khẽ chớp làn mi

Khi những con thuyền chở mộng ra đi

Giấc mộng phiêu lưu như bầy hải điểu

Kỷ niệm trở về nắm tay nhau hiền dịu

Ngón tay thơm vàng phấn bướm đa tình

Anh sẽ tìm em như  tìm một hành tinh

Mặc trái đất sắp tan vào mộng ảo… “

Eâm đềm hơn,  bài hát mùa thu:

“Hôm nay có phải là thu

Mây năm xưa đã phiêu du trở về

Cảm vì em bước chân đi

Nước nghiêng mặt ngọc lưu ly phớt buồn

Ai về xa mãi cô thôn

Một mình trong khói hoàng hôn nhớ nhà

Ngày em mới bước chân ra

Tuy rằng cách mặt lòng ta không sầu

Nắng trôi- vàng chảy về đâu

Hôm nay mới thực bắt đầu vào thu…”

 

clip_image004Thơ Tình, đã từ mênh mang khói sương của Mê hồn Ca đãtrở vềthực tại trong Đường vào Tình Sử.Tâm hồn, mỗi lúc mỗi khác trong lộ trình tìm cái vĩnh cửu. Thơ ấp ủ ước muốn bất tử, để sau xưa trùng hợp, và nỗi niềm mang nặng từ lúc hoang sơ chuyển hóa lại thành thời khắc bây giờ. Có lúc “ xoay nhỡn tiền lại ngắm hiện thân “ nhưng cũng có lúc “ ta, suốt đời ngư phủ thả con thuyền trên mái tóc em buồn lênh đênh.” Làm thơ cho Ý Liên, Bạch Liên, Diệu Hương, Hoài Điêp,…  có người còn kiếp dương trần nhưng có người là phảng phất hồn ma bóng quế, là huyền ảo ẩn ức thành ngôn ngữ thi ca , để lẫn lộn mộng thực. Nếu có chữ Thần Tượng viết hoa, thì có lẽ Đinh Hùng al người tột cùng nâng niu cho từ ngữ ấy. Đọc thơ ông , để tâm trí bềnh bồng, ký ức phiêu du trên những nẻo đường mơ hồ.Có khi, trăng sao là hiện thân của giọt máu hồng tinh huyết để tình yêu chuyển đổi từ vùng cảm giác của bộ xương khô đến vóc dáng của một làn da, một mái tóc…

Thơ tượng trưng, sao từ sương khói quay ngoặt về thực tại, có phải vì trái tim đã đánh thức dậy những cảm quan từ bộ óc mơ màng không cân phân thực mộng? Nếu nói thơ là biểu hiện của niềm si đắm thì  Mê Hồn Ca, Đường Vào Tình Sử là những phiến kinh xưng tụng để đời!

 

 

 

 

Một trăm ngọn nến

Nguyễn Tường Thiết

Tên chủ nhà ghi trên tấm bảng đồng gắn phía trước cửa khiến tiếng gõ của tôi thêm mạnh dạn. Bên trong có tiếng giầy dép khua động. Rồi cửa mở. Chủ nhà, một người nhỏ thấp, giơ bắt tay tôi rồi ra hiệu mời tôi theo anh ta lên gác. Tôi bước lên một chiếc cầu thang gỗ. Ở đầu cầu thang nhìn qua một gian phòng rộng trên gác tôi thấy khoảng vườn cây xanh của một công viên nhỏ trước nhà sau một cánh cửa sổ mở rộng, khoảng trống tươi mát rất hiếm quý của Hà Nội bây giờ.
Tôi bước vào một phòng lớn trông như một thư viện. Một tủ sách rất rộng và cao chiếm nguyên một vách tường dài. Tủ gỗ đánh véc-ni bóng, sau ngăn kính những cuốn sách dầy cộm xếp ngay ngắn, trang trọng. Nhìn qua gáy tôi thấy có rất nhiều sách chữ Hán.
Giữa phòng là hai cái bàn phủ khăn trắng đặt liền nhau, trên để những chai rượu bia và đĩa đựng trái cây. Chủ nhà xếp tôi ngồi nơi một chiếc ghế đặt ở đầu bàn. Tôi nhìn hai dẫy ghế trống dài ở hai bên bàn, nói với chủ nhà:
– Anh bắt đầu làm tôi lo đấy. Tưởng đến thăm anh nói chuyện một lát thôi, không ngờ anh làm to chuyện quá.
Anh ta khẽ mỉm cười, nheo cặp mắt sáng sau cặp kính cận, nói:
– Có gì đâu. Nghe tin anh về một số anh em ở đây cũng muốn gặp anh. Vả lại hôm nay là một ngày rất đặc biệt, ngày sinh thứ 100 của Cụ. Chúng tôi cũng muốn làm cái gì để tưởng nhớ Cụ. Anh cứ tự nhiên nhé. Các anh em cũng sắp tới cả bây giờ.
Nói xong anh xin lỗi đi xuống cầu thang. Tôi nhìn xung quanh. Bên cạnh tôi trên một chiếc bàn nhỏ có đặt một máy vi tính để mở. Màn ảnh của máy hiện lên bức chân dung màu của bố tôi, bức tranh do họa sĩ Nguyễn Gia Trí vẽ.
Ngay trước mặt tôi, trên bàn, đặt một quyển sách rất dầy, bìa bọc giấy láng đề TỪ ĐIỂN VĂN HỌC bộ mới, Nhà xuất bản thế giới.
Tôi giở trang sách. Trên trang giấy đầu dưới hàng chữ in Từ Điển Văn Học là hàng chữ viết tay nắn nót và chữ ký của chủ nhà.
Bản tặng anh Nguyễn Tường Thiết và gia đình Nguyễn Tường nhân 100 năm ngày sinh cố văn hào Nhất Linh. Hà Nội 25-7-2006.
Nguyễn Huệ Chi.

***

Buổi sáng hôm ấy từ khách sạn Galaxy trước vườn hoa hàng Đậu tôi đáp xe ôm lên Yên Phụ. Chiếc xe hai bánh luồn lách trên đường Thanh Niên trong dòng xe cộ nườm nượp. Đường này xưa kia có tên Cổ Ngư nằm xuyên giữa hai cái hồ lớn của Hà Nội là hồ Tây và hồ Trúc Bạch. Đến cuối đường, vòng qua khách sạn Sofitel, xe vào một con đường nhỏ ôm sát hồ Tây và ngừng lại trước một cái cổng gạch quét màu vôi vàng.
Tôi nhìn lên vòm cổng hình cánh cung đề hàng chữ LÀNG YÊN PHỤ rồi trả tiền bác lái xe thả bộ vào làng trên con ngõ rất hẹp thoải dốc. Mặt ngõ tráng xi măng sạch sẽ. Hai bên những căn nhà gạch nằm ép sát nhau, quét vôi trắng, ngói mái đỏ, hai ba từng cao. Nhiều nhà trước có cửa song sắt thò ra những chấm đỏ hoa giấy.
Đi vào ngõ khoảng nửa cây số đến một khúc quành một tấm bảng bằng đá đen đập mắt tôi. Trên bảng có hàng chữ màu vàng ĐÌNH YÊN PHỤ dưới đề “Di tích lịch sử văn hóa. Đã xếp hạng.” Một mũi tên chỉ vào đình nằm phía bên kia ngõ. Ngay khúc quành một bờ xi măng cong vòng cao bằng đầu gối chắn ngõ với một cái đầm sen.
Khúc đường cong, đình Yên Phụ và cái đầm sen là ba điểm chuẩn giúp tôi định được vị trí ngôi nhà tôi đang tìm, ngôi nhà thời xửa xưa chúng tôi vẫn gọi bằng cái tên thân mật “nhà cây liễu.”
Nhà ấy là nơi tôi đã từng ở những ngày rất thơ ấu, cũng là nơi chú Sáu tôi, nhà văn Thạch Lam đã sống, viết và chết tại đó.
Đứng xoay lưng về phía đầm sen nhìn vào đình Yên Phụ nhà cây liễu nằm sát đình phía tay phải, ngay vị trí khúc đường cong. Trước nhà có bờ tường gạch chạy dài trên là lan can làm bằng những thanh sắt đầu có móc nhọn. Đằng sau hàng lan can ấy lại che đi bằng những tấm tôn sơn màu xanh khiến ở ngoài nhìn vào không thể nào thấy được ngôi nhà bên trong. Cuối bờ tường xây một cổng gạch có mái ngói, giữa cổng có hai cánh cửa sắt cũng sơn xanh đóng kín mít. Theo trí nhớ tôi thì phía sau cổng mé trái là vị trí của một khóm tre. Khóm tre ấy không còn nữa. Nếu còn thì hôm nay tôi phải nhìn thấy nó ló lên cao khỏi bờ tường này. Khóm tre ấy cũng chính là khóm tre mà chú Thạch Lam tôi đã nhiều lần nhìn ngắm và tả những cảm nghĩ của mình trong Theo Giòng “khi thấy các lá tre thổi vút một chiều tôi cảm thấy một vang động âm thầm và kín đáo trong tâm hồn.” Khóm tre ấy chắc là đã bị ai chặt mất từ một thuở nào xa xôi lắm cùng với cây liễu ven hồ Tây yêu quý của chú.
Không một khoảng hở để tôi có thể ghé mắt nhìn trộm vào trong. Tôi đứng ở ngoài tần ngần nhìn cánh cổng và bờ tường một lát rồi tôi quay trở lui, lững thững bước vào đình Yên Phụ ở sát cạnh, mang theo hình ảnh ngôi nhà mà mặc dù tôi đang ở rất gần nó, vẫn nguyên vẹn trong tôi là ngôi nhà cũ kỹ trong tâm tưởng sáu mươi năm trước.
Thủa ấy chúng tôi thuờng hay sang chơi bên đình Yên Phụ. Tôi còn nhỏ quá không thể nào nhớ hình dáng đình ra sao. Toàn thể khu này chỉ lưu lại trong trí tôi một màu xam xám nhàn nhạt trong đó hiện lên cái sân gạch bát tràng rộng thênh thang. Tôi bước vào sân đình vắng lặng. Màu xám nhạt thì vẫn còn nguyên đấy, nhưng cái sân gạch bé nhỏ hơn rất nhiều so với ký ức. Trong sân có mấy vại sành lớn trồng những cây mẫu đơn trổ hoa đỏ thắm. Tôi đến gần nhìn những đóa hoa này và ngay tức khắc hiện lên trong mắt những chấm đỏ xoay tít. Thì ra tôi đã thấy hoa này rồi, ở đây, thời bé. Hoa mẫu đơn là tập họp của vô số những cánh hoa bé tí màu đỏ với những cọng hoa li ti hình ống. Chúng tôi thường ngắt những cọng đó rồi luồn một sợi tóc qua ống, thắt một đầu nút và vê tròn sợi tóc trên hai đầu ngón tay nhìn những cánh hoa đỏ xoay xoay như một cái chong chóng tí hon.
Không một bóng người. Từ lúc rời khỏi đường Thanh Niên để bước vào làng Yên Phụ những tiếng ồn ào của Hà Nội dường như đứng lại ở phía ngoài cổng làng. Trong tĩnh lặng hình như ngay cả tiếng chim kêu ở đây nghe cũng thanh sắc hơn. Tôi bước qua cái sân gạch. Nhưng thay vì đi thẳng vào đình phía chính diện tôi rẽ tay phải đi qua một cái vườn cây mà tôi đoán sau vườn là hồ Tây. Bước ra khỏi bóng tối của vườn cây mắt tôi lóa đi trong giây lát. Phản chiếu ánh gắt nắng hè mặt hồ Tây như một tấm gương mênh mông bằng nước. Một bờ rộng xi-măng uốn vòng quanh đình Yên Phụ. Dưới bờ ấy sóng vỗ vào thềm mang theo những cánh bèo trôi rập rình. Tôi đi lần phía tay phải theo bờ nước cho tới lúc tôi không thể nào tiến xa nữa. Một hàng rào bằng lưới sắt ngăn đình Yên Phụ với căn nhà bên cạnh. Từ một bụi rậm nhìn qua lưới tôi lặng người thấy phía sau của căn nhà cây liễu cùng với mảnh vườn nhỏ ở ven hồ.
Ngôi nhà cũ của chúng tôi không còn nữa. Trước mặt tôi là một căn nhà gạch hoàn toàn khác, chắc là được xây rất gần đây vì màu nước vôi tường còn mới nguyên. Như vậy là từ hồi chú Sáu tôi ở đấy, căn nhà tranh của chú đã được xây lại hai lần bằng gạch. Tôi không thấy được toàn thể phía sau nhà vì bị chắn bởi một bức tường rộng bằng gạch ở giữa vườn. Tường này có khoét ba cái cửa tò vò lớn lại có mái hiên lợp ngói được xây với mục đích trang trí hơn là thực dụng. Trước là cái vườn nhỏ ngày xưa chúng tôi vẫn chơi đùa. Vườn thoải xuồng hồ. Xưa kia chỗ tiếp giáp với nước có cắm một hàng cọc tre lúc nào cũng vương bám những cánh bèo trôi bềnh bồng theo sóng vỗ. Những cánh bèo bây giờ vẫn còn đó, lại còn có vẻ dầy đặc hơn. Nhưng cây liễu trong tâm tưởng tôi thì biến mất. Chỗ đó bây giờ người ta trồng hai cây cau, giữa hai cây căng sợi dây kẽm phơi quần áo. Những chiếc cánh áo bay phần phật thay chỗ cho những nhánh liễu xưa kia lúc nào cũng chao nghiêng trong gió.
Một con chuồn chuồn xanh bay vụt trong trí nhớ tôi. Nó sà xuống đậu trên một chiếc lá liễu. Chà, con chuồn chuồn này thật to! Đầu bóng như hòn bi ve. Thằng bé đưa cánh tay thò phía sau đuôi con vật. Chiếc đầu bóng khẽ nhích một cái rất nhẹ như thể muốn ngoái nhìn phía sau. Thằng bé vội ngừng tay. Lát sau nó nín thở phóng tay thật nhanh nắm lấy chiếc cánh mỏng. Tôi còn nhớ lại như in cái cảm giác nháp nháp của những đường gân nhỏ trên cánh con chuồn chuồn áp vào làn da giữa hai đầu ngón tay. Thằng bé vạch bụng mình đưa đầu con vật gần lỗ rốn. Các anh nó nói để chuồn chuồn xanh cắn rốn sẽ biết bơi. Nó thèm biết bơi lắm. Nhưng cái miệng to ngoác của con chuồn chuồn làm nó sợ. Thằng bé tính thả con vật đi nhưng nó bỗng nghĩ ra được một trò chơi. Nó gập hai chiếc cánh chuồn chuồn làm một rồi lấy tay bứt đôi trước khi thả. Con vật với đôi cánh cụt ngủn không bay lên cao được. Nó đâm chúi xuống đám bèo. Thằng bé quên phắt con chuồn chuồn xanh. Mắt nó theo dõi những chấm đỏ bay loăng quăng trên đám bèo: vô số những con chuồn chuồn ớt đỏ chót là xuống nhón đậu trên những cánh hoa bèo tím, những hoa bèo nhấp nhô trên sóng nước mang những chấm đỏ rung rinh. “Nếu mình biết bơi mình sẽ bắt những con chuồn đỏ ấy.” Thằng bé nghĩ thế và nó tiếc đã không để con chuồn chuồn xanh cắn rốn. Không biết bơi như các anh tôi, tôi cùng chị Thoa làm thuyền. Chị Thoa khéo tay lắm. Chị làm thuyền bằng những thân bèo ghép sát nhau giữ bởi những cây tăm cắm xuyên. Một cái đũa tre cắm giữa thuyền, một hai chiếc lá bèo to xuyên qua đũa làm cánh buồm. Chúng tôi làm nhiều thuyền như thế lắm. Nhưng những chiếc thuyền được thả xuống hồ không đi xa được vì thường bị vướng mắc giữa những đám bèo luôn luôn dầy đặc ở ven bờ hồ. Chúng tôi phải nhờ các anh lớn bơi ra ngoài thả thuyền ra khơi. Những con chuồn chuồn bay lả trên đám bèo, những cánh bướm bay loáng trên bờ cỏ… Như thế đấy. Vỏn vẹn những hình ảnh vặt vãnh như thế lưu giữ mãi trong trong ký ức tôi về căn nhà của người chú… toàn những cái không đáng nhớ.
Nhưng chú Đinh Hùng thì khác. Trí nhớ của nhà thơ này mới thật đáng nhớ. Trong cuốn hồi ký viết về những kỷ niệm “chia ngọt sẻ bùi cùng Thạch Lam” chú đã tả quang cảnh nơi tôi đang đối diện này bẩy mươi năm trước như sau:

“Tuy là nhà tranh nhưng ngăn nắp sáng sủa, có đủ cửa kính lẫn cửa chớp, có thềm cao, với một khoảng sân nhỏ mấp mé ngay bờ hồ, với cây liễu rũ cành lá xuống nước và khóm tre xào xạc ngoài cổng.”
“Tôi đã ngủ nhiều đêm dưới mái nhà ấy, và canh khuya, khi cái tiếng vọng mơ hồ của thành phố xa xa lắng dần vào không khí óng ả của vùng hồ nước mát rượi, nằm nghe sóng vỗ vào bờ thao thức, nghe hơi thở uyển chuyển của gió lùa qua khóm tre, tôi cảm thấy những thời khắc đó thật đáng quý, khung cảnh thật dịu lành mà quyến rũ, và tôi thấm thía tại sao Thạch Lam không muốn đổi ngôi nhà tranh của anh lấy bất cứ một lâu đài dinh thự nào…”
“Những người bạn văn nghệ mà tôi thường gặp ở nhà Thạch Lam dạo đó là: Nhất Linh, Khái Hưng, Trần Tiêu, Thế Lữ (cùng cả vợ nhỏ là nữ kịch sĩ Song Kim), anh bạn thơ Huyền Kiêu, Nguyễn Tường Bách, Đỗ Đức Thu, Đoàn Phú Tứ, đôi khi Nguyễn Xuân Sanh, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Lương Ngọc, và một lần, Nguyễn Tuân, một lần Nguyễn Đỗ Cung…”
“Tất cả những người kể trên đều đã có lần tụ họp tại nhà Thạch Lam, thường thường quanh mâm rượu, thỉnh thoảng quanh chiếu tổ tôm hay cạnh khay trà. Ở địa vị chủ nhân tác giả Hà Nội băm sáu phố phường thực đã xứng đáng với cái danh ‘Hào sĩ’ mà chúng tôi tặng anh.”
“Tôi không bao giờ quên được bữa rượu hội kiến đầu tiên có mặt Nhất Linh, Thế Lữ, Huyền Kiêu, Thạch Lam…”

***

Từ trong nhà một người đàn bà đi ra bước qua cửa tò vò đến giữa hai cây cau. Người đàn bà túm lấy mấy chiếc áo khô bỏ trong một cái giỏ, lật mặt trái phơi tiếp mấy cái quần tây rồi bỏ đi vào trong nhà. Trong căn nhà ấy… tôi nhìn thấy – qua con mắt của chú Đinh Hùng – hình bóng những người thân yêu đã khuất của tôi, bố tôi và các chú…. đang ngả nghiêng đánh chén.
Khuya lắm, tiệc tàn. Bố tôi nằm trên chiếc võng giữa nhà, ê a ngâm thơ. Chú Sáu, chú Đinh Hùng và chú Huyền Kiêu thì loay hoay xuống bếp nướng mực và mò gậm giường lấy dưa chua trong vại ra nhậu… Cho đến rạng sáng, chú Sáu kêu người nhà đi mua thêm đồ nhắm. Bố tôi đã tỉnh ngủ từ hồi nào, ung dung ngồi vào dự tiệc. Trong khi tất cả đều say mèm bố tôi vẫn sung sức dẻo dai như khi bắt đầu uống. Bố tôi có tửu lượng rất cao. Hồi ở Đà Lạt tôi vẫn ngồi ngắm ông uống rượu. Càng uống ông càng ít nói, mặt chỉ tái đi chút đỉnh. Hồi ở bên Tàu – anh tôi kể – “cậu đã từng uống thi whiskey với ba tay lính thủy Mỹ lực lưỡng, ba tay này gục trên bàn rượu trong khi cậu vẫn còn tỉnh như sáo.” Cứ như thế tiệc rượu của bốn người kéo liền một mạch cho đến tận trưa. Tất cả đều say khướt, có lẽ chỉ trừ bố tôi. Chú Sáu và chú Huyền Kiêu rót rượu đầy tràn cả ra ngoài miệng chén.

Bố tôi giằng lấy chai rượu đem giấu vào góc tủ, nói:
– Thôi đấy nhé! Hết rượu rồi. Không ai được uống nữa.
Rồi bố tôi kêu nóng. Ông cởi phăng áo ngoài. Mình trần, quần cộc, bố tôi chạy ra sân, nhẩy tùm xuống Hồ Tây bơi ào ào. Khi cách bờ khoảng dăm chục thước ông lớn tiếng nói vọng lên:
– Các tửu đồ! Có hứng thử nhẩy xuống hồ này vùng vẫy chơi cho mát!
Chú Đinh Hùng cũng thoát y mặc xì-líp nhẩy xuống hồ bơi lóp ngóp dưới nước. Bố tôi vung tay vẫy và nhoài người bơi thật nhanh về phía chú. Còn cách nhau chừng dăm thước, bố tôi bảo chú Đinh Hùng:
– Tôi với anh bơi thi từ đây vào bờ, xem ai thắng.
Hai người ra sức thi đua liền. Biết là chú Đinh Hùng không bơi giỏi, lại sợ chú còn say, bố tôi bơi kèm sát chú để đề phòng bất trắc. Cả hai về gần tới bờ cùng một lúc. Nhưng bố tôi cố ý bơi thụt lại, nhường chú nửa sải tay. Hai người khoác tay nhau bước lên bờ. Rồi bố tôi cúi xuống. Nước hồ chẩy trên chiếc lưng rộng của ông…
Chiếc lưng ướt nước…Trí tôi thoáng hiện một kỷ niệm với bố tôi ở Đà Lạt.

***
Trời nóng. Mấy bố con tôi vừa vào rừng tìm lan và đang đứng phía dưới của ngọn thác Pongour, nơi có một chỗ nước suối khét sâu làm thành một cái vũng lặng. Bố tôi ngồi xuống cát, tháo đôi giầy rồi đứng lên cởi áo sơ mi lột áo lót. Ông cúi xuống vén hai ống quần tây lên tận bẹn, quay sang tôi nói:
– Trời nóng quá! Chỗ này nước lặng con có thể tắm được.
Tôi ngần ngại. Trên người tôi mặc độc chiếc quần cộc và áo ngắn tay. Không có cả xì-líp. Năm đó tôi 16 tuổi. Tôi đã qua từ lâu cái tuổi tắm truồng. Bố tôi biết ý nói:
– Con cứ mặc quần mà tắm. Trời này thì quần ướt sẽ khô ngay ấy mà!
Tôi cởi áo đi theo bố tôi lội xuống nước. Bố tôi không bơi mà chỉ dầm chân xuống suối ngang đầu gối. Ông cúi xuống hai tay vốc nước suối dấp lên mặt, lên vai, lên lưng. Trước khi nhẩy tùm xuống bơi tôi thoáng thấy trên cái chiếc lưng ướt của bố tôi một cục bướu tròn to bằng cái trứng chim cút nằm ngay giữa xương sống. Chỉ một thoáng thôi nhưng hình ảnh cái cục bướu ấy cứ lấn cấn mãi trong trí tôi cho tới tận ngày nay. Bố có cục u từ hồi nào? Liệu chú Đinh Hùng có nhìn thấy nó khi ông bơi với bố ở hồ Tây? Bố trăn trở ra sao mỗi khi nằm ngửa. Bố có khó chịu không? Vào khoảng đầu thập niên 60 ở Sài Gòn có phong trào các cô gái mặc áo cánh mà khuy cài lại ở phía sau lưng. Bố tôi thấy chị Thoa tôi mặc áo đó thì bình phẩm: “Mặc áo đó thì khó chịu chết, mấy cái khuy cứ cấn sau lưng sao mà ngủ được?” Thế còn cái bướu của bố nó to và cộm hơn mấy cái khuy áo nhiều, thì sao?

***
Một tiếng động sột soạt ở phía sau lưng khiến tôi ngoảnh ra sau nhìn. Từ trong một bụi chuối bước ra một cụ già quần áo nâu, râu tóc bạc phơ nhưng người trông cứng cáp khỏe mạnh. Thấy tôi cụ trố mắt nhìn. Cái nhìn nghi hoặc làm tôi lúng túng. Rõ ràng là tôi vừa bị bắt quả tang đang toan tính chuyện gì mờ ám. Một người lạ đến khu này mà không vào đình, lại lén lút chui vô cái xó kẹt này nhìn chăm chăm vào căn nhà bên cạnh thì quả là rất khả nghi.
Tôi mỉm một nụ cười gượng tiến lại phía cụ già lễ phép hỏi:
– Thưa cụ, cụ có phải cụ Từ trông nom đình Yên Phụ không ạ?
Ông cụ nhướng đôi mắt.
– Phải. Chính tôi. Ông muốn gì?
Tôi phân trần:
– Thưa cụ cháu định vào tham quan đình nhưng cháu nhìn mãi chẳng thấy một ai cả, cháu bèn ra hồ để ngắm cảnh.
Thấy cụ già hết nhìn tôi lại nhìn căn nhà bên kia lưới sắt, vẻ nghi ngờ, tôi nói thêm:
– Chẳng nói dấu gì cụ… cháu từ ở nước ngoài về. Trước đây hồi cháu còn bé, dễ cũng đã sáu mươi năm rồi, chúng cháu có ở căn nhà này. Vâng đúng là nhà này vì cháu nhớ nhà cháu sát cạnh đình Yên Phụ. Cháu bèn mạn phép tự tiện mò vào đây chỉ cốt là để nhìn lại căn nhà cũ của cháu, chứ thực tình không có ý gì khác. Nhưng cháu chẳng nhận ra được nhà cháu ngày xưa. Họ phá ra xây lại hết rồi. Cháu nhớ là ở chỗ cây cau kia kìa trước kia có một cây liễu…
Nói đến đây tôi thấy đôi mắt cụ Từ dịu xuống. Cụ nói:
– Cậu nhớ thế là đúng rồi. Cây liễu đó ai chặt mất từ lâu lắm. Ở đây không còn một ai nhớ ra là chỗ đó ngày xưa có cây liễu, ngoài tôi.
– Thưa cụ, như vậy cụ trông nom đình này đã lâu lắm. Chắc cụ biết trước kia nhà này là nhà tranh và nhà văn Thạch Lam đã từng sống trong nhà tranh đó.
– Ừ tôi biết chứ. Ông Thạch Lam tôi không được quen nhưng tôi biết ông Hoàn. Ông gì Hoàn nhỉ…? Tôi quên rồi. Hình như ông ta cũng có liên hệ với ông Thạch Lam.
– Thưa, chú Nguyễn Kim Hoàn là anh rể của chú Thạch Lam cháu…
Chúng tôi vừa nói chuyện vừa đi chậm về phía đình. Đi qua bụi chuối gần đến bên hông đình thì cụ Từ lại rẽ ngang dẫn tôi ngược lại phía hồ. Cụ nói:
– Chẳng mấy khi mà đình làng này được đón khách từ ở nước ngoài về. Cậu ra đây một lát uống với chúng tôi chén nước.
Chúng tôi vào một lối mòn xuyên giữa bụi chuối. Qua mấy chậu cây cảnh thì đến lại cái bờ xi-măng cong vòng lúc nẫy. Nhưng khúc bờ xi-măng này nhìn ra phía khác của hồ. Từ chỗ này không thấy nhà cây liễu, nhưng thấy được mái chùa Trấn Quốc ló ở tít xa. Một hàng dừa cao phủ bóng mát trồng dọc theo bờ xi-măng. Dưới bóng cây mấy người đàn ông ngồi ngắm cảnh hồ trên những chiếc ghế nhựa thấp, trước một cái bàn con có để một ống điếu cầy, một bình nước trà và mấy cái chén.
Cụ Từ chỉ tôi ngồi trên ghế rồi giới thiệu tôi với mọi người. Tất cả những người này đều đứng tuổi. Khi được biết tôi là cháu ruột của nhà văn Thạch Lam, một người lên tiếng bình phẩm:
– Thạch Lam à? Đệ nhất văn sĩ đấy! Văn thế mới đích thật là văn! Trước sau không một ai có thể viết được như Thạch Lam. Tôi dám cam đoan thế…
Với một vẻ trân trọng đặc biệt ông ta tiếp tục nói về Thạch Lam và những nhà văn khác thời đó. Giọng nói có xen lẫn chút u hoài như thể các nhà văn ông vừa nhắc tới khiến ông nhớ lại một thời tuổi trẻ của mình. Câu chuyện xoay quanh vấn đề văn chương và đặc biệt là văn chương của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Tôi hơi ngạc nhiên nghe những vị này bàn về văn đoàn cũng như thành viên của văn đoàn này với một sự hiểu biết khá chính xác, mặc dù Tự Lực Văn Đoàn là một đề tài cấm kỵ không được nhắc đến từ hơn một nửa thế kỷ. Trước đây tôi đã có dịp nói chuyện với vài người trong giới trẻ Hà Nội như mấy cô chú hướng dẫn viên các hãng du lịch hoặc các cô cậu sinh viên làm việc ở quầy tiếp tân các khách sạn, những người trẻ này có khả năng về ngoại ngữ rất cao, thể nói được nhuần nhuyễn cả hai thứ tiếng Anh, Pháp. Nhưng khi được hỏi về Tự Lực Văn Đoàn thì đa số trả lời là họ chỉ biết đến nhà văn Thạch Lam với truyện ngắn Hai Chị Em được dậy trong giáo trình giảng văn bậc trung học.
Rít một hơi thuốc lào một người khác ngửa cổ lên trời nhả khói rồi nói:
– Bây giờ người ta không biết viết văn… Cả một thế hệ không biết viết văn… Sách truyện bây giờ người ta in khối ra đấy mà chả có một cuốn nào viết ra hồn… Văn chả ra văn.
Tôi lên tiếng bênh vực:
– Bác nói thế có hơi quá không? Nhìn chung thì đúng như thế đấy, nhưng cũng có ngoại lệ chứ. Tôi đã đọc vài truyện tôi rất thích của một hai tác giả ở Hà Nội. Theo tôi họ viết cũng hay lắm.
– Ông nói thế là thế nào? Ông thử nêu tên vài cuốn tôi nghe thử? Làm sao họ có thế viết văn hay như những tiểu thuyết của nhóm Tự Lực Văn Đoàn được?
Tôi im lặng. Hơn bốn mươi năm trước hồi ở Sài Gòn đã có lần tôi nói tôi thích đọc văn của nhóm Sáng Tạo hơn đọc văn Tự Lực Văn Đoàn và khen nhóm này có nhiều tay viết rất cừ, mới chỉ nói thế thôi mà đã gây tranh luận trong đám bạn bè. Bây giờ nếu tôi mở miệng khen ngợi một hai nhà văn đương thời của Hà Nội với các vị mê say Tự Lực Văn Đoàn, xem văn của nhóm này như chuẩn đích cho cái hay của văn chương mọi thời thì chắc cũng lại chỉ gây tranh cãi vô ích.
Cụ Từ cúi xuống rót thêm nước chè vào chén của tôi. Từ lúc nẫy cụ yên lặng không tham dự vào câu chuyện văn chương. Cụ chắc đã trên tuổi bát tuần. Cái tuổi mà nếu các nhà văn bậc tiền bối còn sống hẳn là đã gọi cụ bằng hai tiếng thân mật “chú em.” Tôi nhìn ra hồ Tây phía xa. Trong rặng cây xanh bên kia bờ nổi bật mái đỏ của hai gian nhà lớn hai từng. Thấy tôi nhìn phía bên kia hồ cụ Từ chỉ tay về phía ấy nói:
– Bên ấy là làng Thụy Khuê. Rặng cây xanh là vườn Bách Thảo. Hai cái nhà lớn mái đỏ kia là trường Bưởi.
– Thế hả cụ? Cháu cứ nghe mãi tên trường Bưởi bây giờ mới biết nó ở đấy đấy.
Trường Bưởi, cái tên rất thân quen. Chu Văn An ngàn đời treo gương sáng… anh tôi vẫn cất tiếng hát, bài hát của ngôi trường một thuở nào xa xôi anh đã từng in dấu. Trường Bưởi, cùng với sóng nước hồ Tây, đã đi vào văn chương. Tôi mê đoạn văn sau đây, nhớ mãi. Có thật chăng một cuộc tình não nùng đã từng nẩy nở bên kia bờ nước, sau lùm cây, trên bãi cỏ, phía góc trường kia?

“Hai mươi năm đã qua… Quanh hồ đủ thứ đã đổi thay, song thần thái của hồ vẫn là muôn thuở. Vẫn mênh mang thế, vẫn bình yên, thong dong, lãng đãng thế và say đắm thế. Với sương mờ ban mai. Với vừng ráng chiều tà. Với rặng núi xa. Kiên chưa lần nào vào lại sân trường xưa để vòng sau nhà bát giác tới lùm cây ấy, bãi cỏ ấy. Anh chỉ từ rất xa, mé đường Thanh Niên mà nhìn về góc trường đó, mặt hồ dường như ngước nhìn anh bằng đôi mắt lấp lánh màu nâu của Phương, với vẻ kỳ diệu và nỗi ngậm ngùi của tuổi thơ ấu, của tình yêu đã đi qua, đã xa vời vợi. Và những chiều ngồi bên hồ bao giờ anh cũng ngồi nán lại cho đến khi vừng ráng chỉ còn đọng lại một ngấn đỏ chạy ngang trời. Ấy là ánh hồi quang của cái đêm hai mươi năm trước, bên bờ hồ, sau lùm cây, trên bãi cỏ, phía góc trường…
Sóng hồ dập dềnh, ì oạp vỗ vào bờ cỏ. Xa xa, từ chỗ pháo đội cao xạ chốt nổi trên đám bèo neo sâu trong hồ một hồi kẻng khuya chậm rãi dóng lên. Vị thần bảo hộ cứu tinh cho sự trong trắng và trong sạch của đôi bạn, chẳng phải ai khác ngoài chính họ.
Gió thở dài. Im lặng lan xa. Hai người như thể vừa từ đáy nước nổi bồng lên để rồi bị cuốn dạt ra mỗi ngả…” (Bảo Ninh, Thân phận của tình yêu).

Gió… không thở dài ở đây, bây giờ, mà lồng lộng thổi từ mặt hồ Tây mênh mang phía trước.

***
Ngày hôm qua tôi nói với Bảo Ninh ngồi đối diện tôi nơi một bàn tiệc:
– Tôi có đọc truyện Nỗi buồn chiến tranh của anh. Không khí truyện này rất lôi cuốn khiến tôi đọc mà muốn ngộp hơi. Đọc xong tôi hiểu vì sao anh bị giằng co trong sự lựa chọn giữa hai nhan truyện “Nỗi buồn chiến tranh” và “Thân phận của tình yêu.” Tôi thích nhan đề sau hơn, có lẽ bởi vì tôi bị mê hoặc bởi những đoạn anh viết về những cuộc tình hơn là những đoạn anh viết về cuộc chiến, tôi thích style văn rất mới của anh, cái lãng mạn trong văn phong anh, không phải cái lãng mạn trữ tình êm đềm kiểu Tự Lực Văn Đoàn mà là thứ lãng mạn chua xót và đớn đau. Tôi cho rằng mình đã đọc một truyện rất hay về cuộc chiến tranh mà anh với tôi đã cùng trải qua và trực tiếp dự phần, từ hai phía đối nghịch.
Bên kia bàn Bảo Ninh, trẻ hơn tôi đúng một giáp, mái tóc đã điểm sương bồng lên bù xù, hàng râu quặp trên mép, nhận lời khen của tôi một cách trịnh trọng, hơi kiểu cách: anh nắm chặt hai bàn tay vào nhau để phía trước ngực khẽ cúi đầu nói nhỏ “đa tạ!”. Trong lúc ăn Bảo Ninh luôn tay với chai rượu whiskey rót thêm vào cốc đưa lên miệng uống. Chả mấy chốc chai thứ hai đã được khui. Bàn tiệc có sáu bảy người. Một mình anh ta có lẽ đã tiêu thụ nguyên gần một chai rượu mạnh.
Ngồi bên trái tôi, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp yên lặng gắp đồ ăn, anh ăn nhỏ nhẹ không đụng tới một giọt rượu.
Bảo Ninh uống. Hết ly này đến ly khác. Mắt anh có một lúc rời tôi nhìn người ngồi cạnh tôi bên phải. Cặp mắt đã mờ say của anh ánh lên một tia nhìn dịu và đằm thắm, hẳn cũng là cái nhìn của nhân vật Kiên với những người nữ trong Nỗi buồn chiến tranh của anh.
Bên cạnh tôi là Đỗ Hoàng Diệu một nhà văn nữ rất trẻ, tác giả một quyển truyện nổi tiếng Bóng Đè. Tiệc tàn. Tôi hơi say. Cả bàn có lẽ chỉ có hai người không đụng tới rượu là Nguyễn Huy Thiệp và Đỗ Hoàng Diệu.
Nguyễn Huy Thiệp quay qua tôi hỏi:
– Để tôi chở anh về. Anh có bận gì không?
– Không.
Anh ghé nói nhỏ vào tai tôi:
– Nhà anh Tô Hoài rất gần đây. Mình ghé thăm anh một lát rồi tôi chở anh về nhà tôi chơi…
Nơi mé hồ gần bờ hướng chùa Trấn Quốc có một người đang bơi, cái đầu chồi ngụp trên mặt sóng. Hình ảnh bố tôi bơi với chú Đinh Hùng lại thoáng trong trí. Bố tôi đã ra đi bốn mươi ba năm trước… như con bướm trắng bay đi không trở lại. Nếu còn sống thì hôm nay là sinh nhật thứ 100 chúng tôi đã thắp một trăm ngọn nến trên chiếc bánh sinh nhật của ông.

***
Tôi đứng dậy nhìn đồng hồ tay. Nhớ tới cái hẹn tại nhà anh Nguyễn Huệ Chi tôi nói với cụ Từ xin kiếu về. Bước ra khỏi đình Yên Phụ tôi ngoái nhìn phía trước căn nhà cây liễu một lần cuối rồi đi rẽ về phía cổng làng.
Mặc dù không dặn nhưng khi bước qua khỏi cổng làng tôi đã thấy bác lái xe ôm ban sáng ngồi chờ tôi dưới một gốc cây. Thấy tôi bác lật đật đứng lên vứt điếu thuốc xuống lề đường. Lúc nẫy tôi đã định bụng không về ngay khách sạn mà tản bộ một lát trên đường Cổ Ngư, nhưng thấy bác ta chờ từ sáng tội nghiệp, tôi đổi ý và để bác ta chở về. Ngồi sau lưng bác tài trên chiếc xe hai bánh chạy ngược trên đường Thanh Niên tôi nhớ ngày hôm qua tôi ôm eo Nguyễn Huy Thiệp trên chiếc xe gắn máy của anh ta và hình như cũng chạy qua con đường này. Không có ý niệm về đường phố ở Hà Nội tôi không biết anh Thiệp đã chở tôi đi những đâu, qua những con phố nào, chỉ biết là anh chở tôi đi xa lắm tôi ngồi lâu trên xe ê cả mông đít.
Từ nhà hàng ăn chúng tôi đến thăm nhà văn lão thành Tô Hoài, tác giả của tập truyện Con dế mèn phiêu lưu ký tôi đã mê say đọc từ hồi còn nhỏ. Anh Thiệp sau đó chở tôi đến phố Hàng Trống thăm một xưởng tranh hình như là của người con anh. Chiều đến anh chở tôi về nhà anh ở vùng ngoại thành Hà Nội rất xa khu trung tâm thành phố. Khi chiếc xe rời con đường chính vào một con ngõ tôi đinh ninh sắp đến nhà anh. Nhưng không. Xe còn đi lâu lắm rẽ qua không biết bao nhiêu con ngõ rắc rối rồi cuối cùng mới dừng lại trước căn nhà có bờ tường rêu bao quanh và có cổng gỗ kiến trúc giống như cổng một mái chùa hay một ngôi đình làng.
Nguyễn Huy Thiệp tắt máy xuống xe tra chìa vào ổ khóa đẩy hai cái cánh cửa gỗ nặng nề dắt xe qua cổng. Bên trong mở ra một thế giới khác hẳn bên ngoài. Một khu tuy nằm trong lòng Hà Nội nhưng biệt lập yên tịnh và đặc biệt là rất đồng quê. Qua bóng rợp của một khu vườn cây rộng, toàn cây ăn trái, nào nhãn, nào ổi, nào khế… cây nào cây nấy nặng trĩu những quả, một con đường lát gạch dẫn tôi tới căn nhà hai từng nằm ẩn sau vườn, nơi mà “Không có vua,” “Tướng về hưu”… cùng những tác phẩm khác của anh được thai nghén và sáng tác.
Tối đó anh Thiệp mời tôi dùng cơm tại nhà anh. Tôi nhớ mãi bữa cơm rau ấy vì đã từ lâu lắm rồi tôi không được ăn một bữa cơm rất thanh đạm nhưng đầy mùi vị quê hương. Về khuya anh đưa tôi ra đầu ngõ đón xe về khách sạn. Anh nói trước khi chia tay:
– Văn chương nó bạc lắm anh ạ. Phần thưởng quí nhất có lẽ là qua nó chúng ta có được những người bạn mới ở khắp bốn phương.

***
Tôi cúi xuống mở cái ba-lô tôi để dưới chân ghế lấy ra quyển hồi ký Nhất Linh, cha tôi tôi mới xuất bản ở Mỹ. Tôi mở trang đầu cuốn sách viết lời đề tặng chủ nhà. Có tiếng động và tiếng người nói ở nhà dưới. Lát sau mọi người lần lượt lên cầu thang ngồi trên hai dẫy ghế hai bên bàn. Có hai vị khách được chủ nhà hướng dẫn ngồi ghế phía trước cạnh tôi. Tất cả khoảng hơn mười người.
Chủ nhà, giáo sư Nguyễn Huệ Chị, trưởng ban văn học Việt Nam Cổ cận đại viện văn học Hà Nội, cũng là chủ biên của tập Từ Điển Văn Học, giới thiệu những người hiện diện. Trừ vài người tôi đã nghe danh tánh như giáo sư Hoàng Ngọc Hiến, giáo sư Phan Đình Diệu, hai vị ngồi cạnh tôi, và một người ngồi phía dưới là đạo diễn Trần Văn Thủy, những người khác tôi mới nghe tên lần đầu.
Nghe anh Huệ Chi giới thiệu những người đó với toàn chức vị “tiến sĩ” tôi nói đùa với anh:
– Mặc dù Hà Nội đang giữa mùa Hạ anh cũng làm tôi rét đấy! Tôi chưa từng bao giờ được diện kiến với nhiều vị tiến sĩ như vậy trong đời…
Vài nụ cười nhẹ thoáng trên môi của mấy vị khách phái nữ.
Câu nói đùa của tôi không phá được bàu không khí khá trịnh trọng lúc ấy. Trong một lát tôi ngỡ ngàng. Tôi hoàn toàn không chuẩn bị để đối diện với cái không khí này. Vị trí ngồi của tôi ở đầu bàn cho thấy hậu ý của chủ nhà muốn tôi là người nói chuyện và có lẽ là người duy nhất phát biểu trong buổi kỷ niệm này với đề tài được mọi người trông chờ là nói về ông cụ.
Tôi biết nói gì đây, ở một nơi mà chỉ nội nhắc đến cái tên ông cụ không thôi đã là một điều rất cấm kỵ? Tôi mở đầu nói về tiểu sử và các hoạt động văn hóa của ông cụ. Tôi nói vắn tắt vì biết rằng hầu hết những người trong phòng này là những học giả uyên bác, họ đã nghiên cứu tác giả Nhất Linh rất kỹ và chắc hẳn là tường tận hơn tôi.
Còn về con người thứ hai của ông cụ, con người chính trị và cách mạng Nguyễn Tường Tam, thì đây mới thực sự là “điểm nóng.” Nhưng nơi này lại không phải là một chỗ thích hợp để nói tới và luận bàn. Tôi với tay lấy cuốn hồi ký của tôi trên bàn và đọc nguyên một đoạn dài trong bài “Nói chuyện với Huy Cận.” Bài viết đó tôi tường thuật buổi gặp gỡ giữa anh em chúng tôi với thi sĩ Huy Cận vào mùa Hạ năm 2001, bốn năm trước khi thi sĩ qua đời. Trong buổi nói chuyện ấy chúng tôi đã có một lúc tranh luận khá gay gắt khi Huy Cận bắt đầu nói về chính trị, đặc biệt khi ông tự dành quyền “phán xét” hành động chính trị của bố tôi, điều mà bố tôi không muốn: bố tôi tự chết chỉ quyết là không để ai được quyền phán xét ông, ngoài “lịch sử.”
Buổi nói chuyện trong đó tôi là người duy nhất lên tiếng chấm dứt trong im lặng. Không một tiếng nói thứ hai, không một lời bình luận. Sự yên lặng bao trùm khiến tôi liên tưởng đến thái độ của những người trí thức trong nước mà tôi đã có dịp tiếp xúc: họ nhã nhặn, lịch sự nhưng dè dặt. Sau đó chủ nhà đứng lên chuyển lại lời mời của tôi với tất cả mọi người hiện diện đến dự buổi cơm trưa tại một nhà hàng do anh ấy lựa chọn. Rồi anh chuyển quanh bàn cuốn Từ Điển Văn Học để tất cả cùng ký tên trên trang sách anh đã viết sẵn lời đề tặng chúng tôi.
Sau khi chụp hình lưu niệm mọi người lần lượt bước xuống cầu thang. Anh Huệ Chi bảo tôi:
– Anh cứ ở trên này một lát để tôi xuống trước thu xếp xe.
Tôi hỏi anh:
– Anh đã chọn được quán ăn nào chưa?
– Rồi. Quán Ngon.
Tôi hỏi lại:
– Quán gì?
– Quán Ngon.
– Chà, cái tên lạ nhỉ…
Anh mỉm cười bước xuống cầu thang.
Tôi ngồi xuống ghế lật trang đầu cuốn Từ Điển.
Bên dưới chữ ký của anh Nguyễn Huệ Chi có thêm chữ ký của các vị sau đây: Phan Đình Diệu, Trần Văn Thủy, Phạm Ngọc Lan, Đặng Thị Hảo, Nguyễn Bá Dũng, Phạm Thu Hương, Trương Hồng Quang, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Văn Bình.
Phía dưới nữa là một hàng chữ lớn viết tay và chữ ký của người viết:
Với cả tấm lòng quý trọng đại văn hào Nhất Linh.
Hoàng Ngọc Hiến

 

Nguyễn Tường Thiết

 

 

Đinh Hùng với cơn mê trường dạ

Tạ Tỵ

Ta suốt đời ngư phủ
Thả con thuyền trên mái tóc em buồn lênh đênh.
(Đinh Hùng)
Đinh Hùng, con người có may mắn được mọi người biết đến từ khi tác phẩm hãy còn là bản thảo. Đinh Hùng, con người kỳ lạ xuất hiện trên thi đàn Việt Nam với vóc dáng quái dị của ngôn ngữ làm mê hoặc người yêu thơ. Đinh Hùng, tượng hình cô độc trên vòm trời thi ca Việt Nam vào năm 1940 đến 1945. Rồi từ đây, Đinh Hùng mới tìm thấy bạn đường như Trần Dần, Phùng Quán v.v… Chất thơ của Đinh Hùng không giống và không mang một ý nghĩa thông thường của thi ca với những hình ảnh quen thuộc của thi nhân đang nổi tiếng hồi đó như Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương, Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, Nguyễn Bính v.v…
Đinh Hùng đi vào thi ca với những ước mơ kỳ lạ và suy nghĩ về cõi vô thức giữa một thời đại lười suy nghĩ nhất. Tiếng thơ của Đinh Hùng không thuộc về thứ tình cảm chung chung, mà toát ra tự ngôn ngữ làn ánh sáng diễm ảo, ở trong đó, từng nỗi băn khoăn, từng niềm ước vọng chạy xôn xao như tiếng thời gian đuổi nhau trên rừng cây trút lá. Đinh Hùng tự mình tạo nên sắc thái đặc biệt, rất đặc biệt, để ngụp lặn trong dòng mê cảm đó với khổ đau cũng như kiêu hãnh. Từng hình ảnh mông lung, từng nỗi buồn vò xé, từng uất hận nghẹn ngào, tất cả, biến Đinh Hùng thành một nạn nhân, nạn nhân của mặc cảm. Đinh Hùng đã bị mặc cảm giày vò tái tê từ thể xác tới linh hồn. Mặc cảm đó là nỗi bơ vơ lạc loài của kiếp người trói buộc vào áo cơm trách nhiệm với ngần ấy vốn liếng riêng tư giữa cuộc sống xô bồ giả tạo. Đinh Hùng làm thơ chẳng phải để tỏ bày tâm sự mà để xác định thái độ, một thái độ bi phẫn khi nhận thấy kích thước trần gian không phải nơi mình mơ ước.
Cõi nhân gian mà Đinh Hùng vọng tưởng đã khuất lìa. Nó là tiếng nói hoang sơ của thời tiền sử. Nó là thiêng liêng cao cả của một khung trời nguyên thuỷ. Nó rộng rinh và chói lói hào quang ân sủng của thi nhân đóng vai Thượng Đế. Nó là cái nước Vô Danh với sự hiện diện của con người Mộng Ảo đi suốt một hành lang cô liêu muôn đời không gặp thực tại.
Dòng thơ của Đinh Hùng đi từ sự mê hoặc của tâm linh vượt đến cõi ý thức của thân phận qua thi phẩm Mê hồn ca rồi ném mình theo Đường vào tình sử. Khúc hát nào lênh đênh trôi nổi trên đầu non, và tâm hồn nào còn giữ nguyên màu trinh tuyết trong xác thịt chứa đầy tội lỗi bi thương? Trong cái bóng tối mênh mông dày đặc của tương lai, trong nỗi khao khát hung cuồng đắm đuối cắn chặt ở môi ngậm cứng trái sầu đau, Đinh Hùng nhắm mắt lại, mở hồn thoát du vào ảo giác.
Đinh Hùng vào đời như đi trong ác mộng. Những hình dáng con người di động giữa kích thước thành phố đã làm người thơ phẫn nộ:

“Miệng quát hỏi: có phải ngươi là bạn?
Ôi ngơ ngác một lũ người vong bản
Mất tinh thần từ những thuở xa xôi
Ta về đây lạ hết các ngươi rồi
Lạ tình cảm, lạ đời chung cách sống”.
(“Bài ca man rợ”, Mê hồn ca)
Đi từ cõi huyền ảo của tiềm thức, Đinh Hùng dùng tâm tư mong biến cuộc đời thành trường mộng. Hình ảnh một sinh vật đơn côi trong một thiên nhiên mới hình thành, tia sáng thứ nhất của tâm linh chiếu rọi vào sự vật như một chứng tích ghi nhận có đời sống trần gian với những huyền bí còn nguyên màu huyễn hoặc. Cái Thiên Nhiên mà người thơ vùng vẫy thả bỏ mọi níu kéo làm Đinh Hùng mo ước trở về, sự trở về trong những lối hoang sơ – ở đấy – bước chân đi làm rung chuyển núi rừng, đồi suối. Đau đớn thay, sự hiện diện này làm kinh ngạc cả nhan sắc, làm cho tình thương cũng mất chìm trong cô độc.
Từ cái nhìn cô độc, Đinh Hùng không tin cõi đời hiện hữu là có thực và người con gái bằng xương bằng thịt kia với những mùi hương quyến rũ, vụt chốc trở thành xa lạ đến nghi hoặc khởi đi từ tri giác:

“Ôm nhan sắc với hai bàn tay sắt
Ta nhìn ai, ôi khóe mắt ta nhìn
Em có là ma, là quỷ, là tiên?
Em có mấy linh hồn bao nhiêu mộng?
Em còn trái tim nào đang xúc động?
Em có gì trong xác thịt như hoa?
Lạc thiên nhiên đến cả bọn đàn bà,
Với những vẻ dung nhan kiều diễm nhất”.
(“Bài ca man rợ”, Mê hồn ca)
Cái vũ trụ mà Đinh Hùng vọng tưởng đó đã mất. Trong bóng tối mênh mông dày đặc của hiện tại, người thơ không trông mong tìm thấy những gì mình chờ đợi. Đinh Hùng nhắm mắt lại để du hồn vào quá khứ, đi về những hướng sao rơi và theo lối chân cầm thú. Trong trời thơ Nguyên Thuỷ, Đinh Hùng bơ vơ, lạc loài giữa thế giới tâm linh, với tất cả tiếc thương, hờn giận. Đinh Hùng ẩn hồn trong toà lâu đài kiến tạo bằng vân thạch, gọi hồn cổ sơ về ngồi chung tâm sự. Người thơ muốn được “ăn hoa man dại” rồi “ngủ như muông thú”. Nhưng cái sống của “Gái-muôn-đời”“bộ ngực tròn nuôi cuộc sống đương xuân” không còn nữa. Nó đã chết theo tiếng cười man rợ và mối “Tình-thái-cổ” đã “thơ thẩn với trăng suông” tự ngày trái đất có con hươu vàng diệp, cất cao đầu nhìn hoàng hôn chìm vào đêm Thơ hiền hậu.
Do đấy, cái khung trời mà Đinh Hùng dùng để viết thơ của mình lên, là một khung trời chứa chấp toàn huyền ảo giữa người và sự vật, giữa suy tưởng và thiên nhiên, giữa mơ mộng và thực tế. Vì nhìn rõ vị trí của mình trong cuộc sống có đấy, Đinh Hùng chẳng cần tra vấn hiện tại, phó mặc thời gian vận chuyển, hằng đêm, bên ánh toạ đăng, lắng nghe tiếng thơ nức nở âm vang theo từng sợi khói mong manh:

“Đi vào mộng những Sơn Thân yên ngủ
Đôi hồn người tưởng gặp bóng cô đơn
Rượu Trường Sinh: ta uống mắt em buồn
Sầu mấy kiếp, giấc ngủ say bừng đỏ?
Quên đi em, hãy sống đời cây cỏ
Từng linh hồn dan díu với hương hoa
Ta nhớ xưa: đêm thu rụng tiếng gà
Trăng vĩnh viễn khóc thời gian tình tự…”
(“Trời ảo diệu”, Mê hồn ca)
Cái thời gian tình tự đó, có lẽ, chỉ hiện diện trong cơn say men khói vì “bầy xứ tình” đã khuất chìm theo lối mộng mà người thơ đã từng đi về “ân ái cũ”. Từng nhịp thở của đôi hồn người cô đơn cứ khắc khoải, chập chờn trong trí não Đinh Hùng làm cho chết ngợp cả một vùng ảo diệu.
Tiếng thơ Đinh Hùng không phải tiếng thơ buông lơi, dễ dãi hoặc chọn lời lựa chữ cho suôn sẻ thanh âm. Nói cho đúng, nó là chuỗi kim cương sáng ngời, như những vì sao lạ treo chênh vênh giữa vòm trời thi ca hiện đại.
Trong giai đoạn nguyên thuỷ, Đinh Hùng mang tâm trạng kẻ lạc loài giữa đồng loại không chấp nhận sự hiện hữu này là thực thể, nên luôn luôn người thơ đi tìm kiếm cho riêng mình một giá trị trong những giá trị có đó. Đinh Hùng mang tâm tư của loài rong biển trôi dạt theo lớp sóng ngầm giữa lòng đại dương bát ngát, phó mặc cho dòng nước luân lưu đưa đẩy, miễn tìm thấy hồn thời gian qua vọng tưởng.
Đi từ thơ Nguyên Thuỷ qua Thần Tượng, Đinh Hùng đã xê dịch từ rung cảm thuần tuý sang bình diện con người. Nghĩa là người thơ đã nhìn rõ giá trị của đời sống qua vóc dáng kỳ nữ – làm người thơ choáng váng.

“Ta thường có những buổi sầu ghê gớm
Ở bên Em – ôi biển sắc, rừng hương
Em lộng lẫy như một ngàn hoa sớm
Em đến đây như đến tự Thiên Đường
Những buổi đó, ta nhìn em kinh ngạc
Hồn mất dần trong cặp mắt lưu ly
Ôi mắt xa khơi! Ôi mắt dị kỳ
Ta trông đó thấy trời ta mơ ước
Thấy cả bóng một vầng đông thuở trước
Cả con đường sao mọc lúc ta đi
Cả chiều sương mây phủ lối ta về
Khắp vụ trụ bỗng vô cùng thương nhớ…”
(“Kỳ nữ”, Mê hồn ca)
Có lẽ, vóc dáng người kỳ nữ một sớm nào đó đã gõ nhẹ vào cửa lòng thi nhân làm cho tỉnh giấc. Bóng dáng động vân thạch bị lu mờ trước giai nhân và thời man rợ bị đẩy lui vào tưởng niệm. Cặp mắt lưu ly nào đó đã chiếu rọi vào tâm hồn thi nhân bằng tia sáng quang tuyến, có khả năng xuyên qua sự vật để nhận rõ bản thể đích thực của sự vật. Hơn thế nữa, nó còn cho người thơ tìm về thân phận với ước mơ còn đấy, với bóng vầng đông thuở trước và con đường sao mọc khi xưa. Thơ Đinh Hùng quả thực có ma lực, nó có đó mà vô cùng xa xôi, vô cùng cao trọng. Thực và Mộng luôn luôn xáo trộn tạo nên ấn tượng hoang vu, man rợ. Nó là tiếng kêu vò xé. Nó là lời thảng thốt giữa cơn mê loạn. Nó là nỗi đam mê bấn loạn. Nó là tiếng thở dài ai oán trút tự cõi lòng cô độc. Nó là thịt da, xương máu của thi nhân. Nó là sự giao hưởng nhiệm mầu giữa thơ và tơ trời kết lại:

“Ôi cám dỗ! Cả mình em băng tuyết
Rợn xuân tình lên bộ ngực thanh tân
Ta gần em, mê từ ngón bàn chân
Mắt nhắm lại, để lòng nguôi gió bão
Khi sùng bái ta quỳ nâng nếp áo
Nhưng cúi đầu trước vẻ ngọc trang nghiêm
Ta khẩn cầu từng sớm lại từng đêm
Chưa tội lỗi đã thấy tràn hối hận…”
(“Kỳ nữ”, Mê hồn ca)
Cái nhan sắc ấy làm Đinh Hùng hoảng hốt và mê đắm với lòng “sùng bái” như một tín đồ sùng bái đức “Giáo chủ”. Trong thơ Thần tượng, Đinh Hùng đã đóng vai gã si tình để tỏ bày ngưỡng mộ. Đối với thế gian, Đinh Hùng tỏ ra mình là thi nhân kiêu sa, còn đối với tình yêu Đinh Hùng muốn làm Bạo chúa.

“Ta quên hết! Ta sẽ làm Bạo chúa
Sống nghìn năm, ngự trị một lòng em
Cuộc ân tình ghê rợn suốt muôn đêm
Nào ai tiếc thương gì thân mỹ nữ!…”
(“Ác mộng”, Mê hồn ca)
Nhưng tình yêu với đôi cánh bay lượn chập chờn trong cõi nhớ mong và “người em gái” đã cùng thi nhân gặp gỡ trong “mộng linh hồn” đã vội trở thành một “yêu quái” biết cười vui và nói giọng êm đềm. Đinh Hùng phó mặc cho tình cảm lướt trôi cùng nhan sắc và nụ hôn đầu đã làm tê dại cả tâm can, người thơ gục khóc tưởng tình xưa ngồi cạnh. Rồi gác “ca-lâu” cũng rèm buông, lửa đỏ và xiêm áo như hoa thấp thoáng đi về giữa trời ảo ảnh.
Tình yêu đối với Đinh Hùng thoáng đến, thoáng đi và khắc sâu vào tâm khảm người thơ những lằn roi rướm máu.
Nhan sắc, nhan sắc thật mong manh và vô cùng diễm tuyệt. Đinh Hùng chưa kịp hưởng say men tình ái mà giông gió cuộc đời đã cuốn vội từng lớp tang thương. Từ hy vọng mê cuồng bước sang trời Chiêu Niệm. Người thơ đi tìm mình, đi tìm chân lý tuyệt đối của tình yêu trong đất lạnh, trong vóc dáng thương yêu gói tròn hoài vọng:

“Trời cuối thu rồi. Em ở đâu?
Nằm bên đất lạnh chắc em sầu
Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu…”
(“Gửi người dưới mộ”, Mê hồn ca)
Mùa thu với từng cánh lá vàng đẹp như cánh thơ rơi tự trời cao. Mùa thu làm se ngọn cỏ hanh vàng trên nấm mộ. Mùa thu với đám mây lãng đãng trở về sau cuộc phiêu hành khắp vòm vũ trụ. Mùa thu có hồn Vệ Nữ lạc loài bên cửa huyệt, có cây Từ Bi chợt nở đóa Ác hoa mà thiện căn không tìm đâu thấy.
Những vần thơ Chiêu Niệm chảy dài như dòng lệ không bao giờ khô trên gương mặt thi nhân. Nó kéo lê thê như một ám ảnh trong mỗi câu, mỗi chữ với nhịp điệu tiếc nuối, than van với bóng tử thần chập chờn, đe doạ.
Nhưng rồi, tháng năm với những u buồn còn đấy, Đinh Hùng ném hồn mình vào cõi Mê Hồn, ở đó, cái đau và cái nhớ chợt tan biến để thi nhân nhìn hé thiên cơ với ánh lửa tinh cầu “dựng lên địa chấn, loạn màu huyền không”. Đinh Hùng van xin Trăng đừng bỏ kinh thành, đừng bỏ nhân gian để thi nhân nằm chờ Siêu Thoát, mơ đến những thanh âm tạo dựng một kiến trúc với chiêm bao thần bí:

“Lời nói im ta nằm chờ siêu thoát
Mơ hoàng thành dựng lại bản thanh âm
Mười ngón tay run
Mở cửa để cầm
Ôi kiến trúc một chiêm bao thần bí
Ta lạc hồn giữa lâu đài kỳ dị
Suốt muôn đời không hiểu dãy hành lang…”
(Mê hồn ca)
Làm sao mà Đinh Hùng có thể hiểu được vì thực tế và mơ mộng không nằm chung ước lệ. Cái chất thơ cứ vươn lên, vươn lên mãi trong khi thân phận nằm đây, soi lệch ánh toạ đăng mỗi đêm với muôn vạn nhọc nhằn:

“Máu ta say không chảy thoát hình hài
Hằng kinh động chốn ăn nằm vĩnh viễn…”
(Mê hồn ca)
Trước viễn ảnh chói loà của thi ca, Đinh Hùng dùng nghệ thuật để đồng hóa thể xác mình với thời gian vĩnh cửu.

“Buổi chiều đến, sầu lên Kim tự tháp
Bóng ta đi hoài cảm góc trời mây…”
Đó, tất cả cái sáng láng, cái tinh hoa của Đinh Hùng trình bày với người đọc những nỗi niềm mà người thơ thổ lộ qua vần, qua điệu. Đinh Hùng muốn vượt thoát hình hài, vượt thoát hoàn cảnh để tự do múa lượn trong cõi trường mộng, vì cuộc đời có khác gì mộng ảo?
Thơ Đinh Hùng chính thực không hoàn toàn mang tính chất quái dị, đúng ra, nó hình dung những siêu thoát, những nhiệm mầu mà con người trong khi thất vọng thường bám víu lấy để cầu mong an ủi. Người thơ đi tìm bản thân trong chiều sâu tâm giác, trong ngôn ngữ xuất thần với suy tư dấy loạn nội tâm. Do đấy, lời thơ Đinh Hùng bao giờ cũng vượt qua được bức trường thành nhân thế để chiếu từng tia sáng mong manh nhưng sắc bén giữa những tâm hồn đồng điệu:

“Khi mùa Xuân buông dài trước cửa
Khi nắng chiêm bao khẽ chớp hàng mi
Khi những con thuyền chở mộng ra đi
Giấc mộng phiêu lưu như bầy hải điểu
Kỷ niệm trở về nắm tay nhau hiền dịu
Ngón tay thơm vàng phấn bướm đa tình
Anh sẽ tìm em như tìm một hành tinh
Mặc trái đất sẽ tan vào mộng ảo…”
(“Đường vào tình sử”)
Tình yêu vẫn có uy lực dẫn dắt thi nhân đi vào muôn ngàn lối ân tình. Dù trái đất có tan vào mộng ảo, dù buổi chiều nào tận thế, dù mùa thu phôi pha, mùa đông tàn phế, ta vẫn vì em mà sống đời ngư phủ, thả con thuyền trên mái tóc em buồn lênh đênh và sau cùng để chiêm ngưỡng Em như chiêm ngưỡng một hành tinh xa lạ.
Phải nhận rằng, trong tập Đường vào tình sử (Nam Chi Tùng Thư xuất bản, 1961), hơi thở của Đinh Hùng đã phần nào là buông cung điệu và nỗi hoài mong của thi nhân chỉ gói tròn vào tình cảm thông thường nơi tình yêu đôi lứa, dù cho tình yêu có được thắp sáng bởi trí tuệ người thơ. Những nét độc đáo với dòng suy cảm quái đản được gọi về từ thiên cổ không thấy xuất hiện. Lời và ý thơ trong Đường vào tình sử thật dung dị và đẹp:

“Tôi nghe em nói bằng im lặng
Bằng dáng nghiêng nghiêng động nét mày
Bằng cả mênh mang chiều lắng đọng
Nụ cười em gửi gió thu bay
Tóc quyện mây choàng vai mộng nhỏ
Chìm chìm hơi nắng bước thu đi
Hôn như khói toả say tà lụa
Chợt tỉnh, còn như truyện ngủ mê…”
(Đường vào tình sử)
Toàn tập hầu như thế cả, nguyên lý không gây được ấn tượng sâu đậm nào ở trong tâm thức người đọc như Mê hồn ca. Sở dĩ như vậy vì tập Đường vào tỉnh sử là sự góp nhặt nhiều bài thơ ở nhiều thời kỳ đã đăng tải rải rác trong các tạp chí văn học. Nhưng dù sao, vẫn có trong đó cái “chất” Đinh Hùng, cái “chất” đã đưa Đinh Hùng vào ngôi vị xứng đáng của nền thi ca Việt Nam.
Đinh Hùng chịu ảnh hưởng rất nhiều ở dòng thơ Tượng Trưng Pháp với các thi hào Baudelaire và Mallarmé của thế kỷ XIX. Nhất là Baudelaire nhà phù thuỷ ngôn ngữ trong thi ca Pháp, người đã dịch truyện của văn hào Mỹ Edgar Poe và có tập Fleurs du Mal (Ác hoa) đã gây sôi nổi dư luận quần chúng Pháp vì những tư tưởng táo bạo trong thơ.
***
Khởi hành từ trạng thái đớn đau trong tình yêu với sự dằn vặt đoạ đày ở mỗi không-gian-cuộc-sống, Đinh Hùng nhìn chòng chọc vào nó như thách đố và coi nhẹ hệ luỵ đến đỗi tưởng rằng chỉ có thế giới linh hồn là thực, kỳ dư đều mộng ảo.
Có những đêm đông Hà Nội, tôi đến thăm Hùng tại căn nhà cổ nằm sâu trong ngõ hẹp ở cửa Ô Cầu Rền, chẳng cách xa phường Dạ Lạc là bao. Bước chân dò từng phiến gạch gồ ghề trơn trợt dưới lớp bùn quánh đặc. Đi qua chiếc sân đất rộng đầy cây cảnh hiện sừng sững với hình thể đục, nặng vì thiếu ánh sáng. Hương nha phiến thoáng ngát. Tôi bước lên thềm cao, căn nhà trống trải âm u dưới ngọn đèn dầu cháy leo lét ở một góc, chỉ vừa đủ soi sáng một khoảng nhỏ. Tiếng kêu vo vo của nhựa thuốc thiêu trên ngọn lửa làm tôi thấy nôn nao. Đã nhiều đêm tôi ngồi bên để nhìn các bạn vui, nhưng sao mỗi lần gặp tôi, tôi vẫn mang cảm giác rờn rợn như gặp yêu nữ.
Tôi đứng yên ở dưới mái hiên nhìn vào. Trước mắt tôi, dưới làn khói mỏng như tơ, Đinh Hùng nằm nhỏ nhoi tựa đứa bé. Mái tóc nặng nề lẩn vào bóng tối. Đôi mắt tinh anh, mở nửa vời dài dại. Tôi biết Đinh Hùng đang nhập mộng. Chừng một phút sau, Đinh Hùng nhỏm dậy, cầm ấm trà màu gạch cua rót vào chiếc chén hạt mít trắng muốt đưa lên môi. Tôi nhẹ nhàng đi về phía giường. Mùi ẩm mốc quyện vào dầu lạc làm khó thở. Biết tính, Đinh Hùng không bảo tôi nằm xuống như bao nhiêu bạn khác mà chỉ mời ngồi, rồi lại thản nhiên nằm nghiêng đối diện với ngọn đèn đỏ khè ngọn bấc.
Ở khoảng thời gian đó, Đinh Hùng đang đi vào Chiêu Niệm với sự nuối tiếc một hình ảnh hoang sơ man dại từ khi trái đất mới hình thành mà tất cả vạn vật đều trở thành thần tượng với vóc dáng thiên nhiên in hằn trong tâm tưởng. Vật chất đôi khi làm cho thi sĩ đớn đau nhớ tiếc khôn cùng. Tiếng khóc thê lương đòi về đáy mộ. Tấm hình hài nào đó với đường nét thanh tao, với nụ cười tắt nửa chừng, với đôi mắt lưu ly soi thấu vô cùng vũ trụ, và âm dương đòi tái hợp cuồng mê tâm tưởng! Ôi! Niềm giao ước hung tàn giữa kẻ chết, người sống, giữa cõi nhân gian và đáy mộ vực đen, giữa tiếc thương và hy vọng não nề. Đinh Hùng đi tìm tử thần bên cửa huyệt, hay “Trong giấc ngủ đẫm mùi hương phấn lạ”. Đinh Hùng phóng hồn mình vào cõi bi thương với lời van xin ứ nghẹn. Hùng cầu nguyện với tấm lòng trinh bạch như kẻ ngoan đạo nguyện cầu dưới chân đức Thích Ca hay Đức Jésus xin dâng hiến máu, tim mình cho nguồn sống thiêng liêng cao cả mà chẳng đòi nhận về ân tưởng. Trong cõi Mê cung, Hùng lạc vào với từng bước đắm say giữa “Nghìn yêu ma chung bước cõi luân hồi” với khúc hát Vong tình bay chót vót trên núi non mở hội oan hồn.
Trong không gian ấm mốc, giữa vùng mê hoặc của hương nha phiến, Đinh Hùng cất tiếng ngâm bài “Tìm bóng tử thần”. Giọng của Đinh Hùng sang sảng. Ánh đèn le lói với hoa bấc rung rinh. Tiếng thơ đã làm tôi rúng động và tôi đâu ngờ, 10 năm sau, tiếng ngâm thơ đó còn vang trên làn sóng điện, tạo niềm cảm thông sâu xa giữa Thơ và cuộc sống qua hội Tao Đàn.
Tôi thường đến thăm Đinh Hùng như thế, đôi khi với nhiều bạn khác. Hùng đã tạo cho mình một vị trí, vị trí đó, Hùng làm chủ suý với các người làm thơ tiến bộ tụ họp, trong số ấy có Trần Dần, Phùng Quán, Lê Văn Thanh, Bích Câu v.v…
Vì dấn thân quá sớm, nhất là dấn thân vào một địa hạt phức tạp đầy dẫy ưu phiền, Đinh Hùng đốt cháy thân phận chẳng những trên đầu ngọn bấc mà còn ở men rượu và sênh phách. Đinh Hùng huỷ hoại hoa niên trong những đêm dài Dạ Lạc qua các cửa Ô, cũng như đắm chìm vào đáy ly nồng đắng. Ở tuổi hoa niên, tôi quen nhiều bạn biết uống rượu, nhưng chưa thấy ai uống hào bằng Đinh Hùng và Văn Cao. Riêng Đinh Hùng có thể uống hai lít đế, không cần đồ nhắm. Vì thế, Hùng mới có gan đối ẩm với Tản Đà hằng nửa ngày trời.
Trong tháng ngày kháng chiến lênh đênh, chúng tôi gặp nhau ở chợ Đại thuộc Khu 3. Tôi và Hùng ngồi trong một quán nước. Hôm đó, không nhằm phiên chợ nên thật vắng vẻ. Những con đường bùn lầy, hố “tăng xê” ngập nước ở hai lối đi. Những mái lá cũ kỹ nằm trên hàng cột tre già láng bóng. Hùng cao giọng đọc thơ, những vần thơ mà kháng chiến không chấp nhận. Tôi gọi hai cút rượu uống cho ấm lòng. Chúng tôi vừa uống vừa thảo luận về thơ và nhắc đến Hà Nội mến thương cách trở. Chúng tôi gọi tên từng người bạn với u hoài kỷ niệm. Hùng kêu rượu nữa, rồi cho tay vào túi áo lấy một gói nhỏ. Hùng nhẹ nhàng mở ra, dốc dúm bột màu nâu sẫm vào lòng chén. Tôi nhìn Hùng mỉm cười. Hùng lạnh lùng rót rượu, lấy ngón tay trỏ khuấy nhẹ rồi ngửa mặt nuốt ực một hơi.
Sau chén rượu bất ngờ đó, tôi và Hùng chia tay. Nhưng bài thơ “Sông núi giao thần” của Hùng vẫn còn âm vang trong tôi như lời cầu nguyện:

“Trăng ơi đừng bỏ Kinh thành
Hồn Cố đô vẫn thanh bình như xưa
Nhỡn tiên chợt sáng Thiên cơ
Biết chăng ảo phố, mê đồ là đâu?…”
Sau thời gian lang thang khắp núi rừng Việt Bắc, bệnh sốt rét đã làm tôi phải trở về Khu 3 để tiếp nối những ngày vô định. Những con người văn nghệ thuở kháng chiến như những cánh chim trời bay lạc loài khắp nẻo. Gặp nhau đấy rồi xa nhau ngay, nên mỗi lần gặp, mỗi lần thương nhớ chẳng rời.
Nhân có cuộc họp văn nghệ, tôi và Hùng gặp lại nhau và cùng đi Đống Năm thuộc tỉnh Thái Bình. Lần này đi thêm hoạ sĩ Bùi Xuân Phái, người hoạ có dáng điệu khù khờ với bộ râu đỏ hoe mọc lởm chởm trên màu da trắng muốt. Tôi nhớ buổi chiều hôm đó trời mưa bụi, chúng tôi lại ngồi uống rượu chờ tối để xuống đò. Mặt Hùng xanh mướt, một phần tại lạnh, một phần vì cơ cực. Chiếc trấn thủ màu cỏ già lem luốc, rộng thênh thang không làm ấm mảnh thân gầy phủ lên bộ quần áo nâu dính bùn bạc phếch. Ba chúng tôi khề khà cho đến lúc không gian mờ đục khuất chìm vào bóng đêm. Từng đốm lửa vàng hoe cháy hiu hắt đó đây. Hùng nhìn ánh đèn với nét mặt đăm chiêu.
Qua một đêm trắng nằm đò, chúng tôi lên bến Gián Khuất, đi Đống Năm, lướt qua bao nhiêu làng mạc, bao nhiêu cánh đồng và từng con đê dài thăm thẳm. Trong suốt cuộc hành trình Hùng nói rất nhiều về đủ mọi loại chuyện vui buồn. Hùng đọc thơ Baudelaire và rất thích cuộc sống của thi nhân này. Bài thơ mừng cô vợ da đen chết, Baudelaire lại được tự do, có thể lang thang uống rượu khắp nơi và ngủ ngon lành ở lề đường như con chó, làm Hùng cười sảng khoái. Sau ba ngày đêm chung vui, chúng tôi lại nắm tay nhau giã từ. Hùng ở lại Đống Năm với Vũ Hoàng Chương để dạy học.
Vào năm 1949, áp lực chiến tranh mỗi ngày mỗi đè nặng vào vùng đất Liên khu 3. Những con chim trời bay tản mác khắp ngả để tìm nơi an lành trú ẩn. Thời gian trôi đi theo tiếng bom đạn cày nát quê hương đau khổ!
Đến cuối năm 50, Hùng trở về Hà Nội. Cuộc sống của Hùng có thay đổi, Hùng đã lập gia đình như lập trường thi ca vẫn y nguyên. Gánh nặng áo cơm và nguồn đam mê đến chết-không-rời quấn chặt lấy thân phận nhỏ nhoi đó mà hành hạ. Thiếu thốn thường xuyên nhưng Hùng vẫn giữ nguyên phong độ của kẻ sĩ. Hùng được một số bạn thương giúp đỡ nhưng sự giúp đỡ này chỉ như những gáo nước nhỏ tưới vào một vùng hạn hán trường kỳ. Cứ như thế, như thế, Hùng sống cho đến ngày di cư vào Nam với thi phẩm Mê hồn ca làm vốn liếng và hành lý.
Kể từ đó cuộc đời đối với Hùng đã phần nào đỡ khe khắt. Hùng cố gắng bằng đủ mọi cách như viết truyện dã sử dưới bút hiệu Hoài Điệp Thứ Lang, làm thơ trào phúng ký Thần Đăng, phụ trách mục Tao Đàn v.v… Cuối cùng Hùng đã ngã xuống với tiếc thương đòi đoạn và vĩnh viễn đi vào Cơn-mê-trường-dạ.
Đường vào tình sử còn dài lắm, Hùng đành bỏ dở, và có mái tóc nào buồn lênh đênh cho thuyền hồn thi nhân thả mộng?…

“Khi anh chết các Em về đây nhé
Vị chút tình lưu luyến với nhau xưa
Anh muốn thấy các em cùng nhỏ lệ
Tay cầm hoa, xoã tóc đứng bên mồ…”
(“Cung đàn tưởng niệm”, Đường vào tình sử)
Nói đến Đinh Hùng là nói đến cô đơn, là nói đến khát vọng. Nỗi cô đơn và niềm khát vọng đó in hằn trong kích thước thi ca mà Hùng đã dấn thân như người lính cảm tử. Hùng đã sống trọn vẹn và chung thuỷ đến lúc lìa đời với hướng đi tự nguyện. Bao nhiêu đau khổ, bao nhiêu mật đắng do cuộc đời trao tặng, Hùng đem thiêu trên đầu ngọn lửa và nuốt trọn vào tim phổi mình với nguồn vui ảo giác. Hùng rất mực đa tình nhưng mối tình đầu oan trái với người em họ đã thui chột nụ hoa tình ái và biến Hùng thành cuồng bạo trong mỗi suy nghĩ về tình yêu.
Nói đến Đinh Hùng, không phải nói đến cái gì mới lạ, vì thi ca Việt Nam bây giờ đã vượt thoát khỏi trạng thái ước lệ, nó đi vào cõi mông mênh của Vô Thức. Từ Vô Thức nó trình bày Ý Thức Mới không hẳn là cố định nhưng, nó là thời đại chúng ta đang góp mặt. Nói về Đinh Hùng là nhắc đến một không gian cũ, là nói tới khoảng cách – ở đó – từ hiện tại trở lui về quá khứ, chúng ta vẫn nhìn rõ ánh sáng của ngọn Thần Đăng chói loà hào quang kỳ ảo.

 

Đinh Hùng(1920-1967), Giải Quán Quân Thơ ”Văn Chương Toàn Quốc 1961 ”(miền Nam ).

Thế Phong

Đinh Hùng sinh năm 1920, con út môt gia đình trung lưu, gốc làng Phượng Dực ( tỉnh Hà Đông) – từ lâu ra lập nghiệp tại Hà Nội. Ông bà Phán, còn gọi ông bà Hàn, sinh được hai trai, bốn gái. Trưởng nam Đinh Lân, và các chị Loan, Yến, Hồng, và Thục Oanh- cô chị này hơn cậu em 1 tuổi và chiếm được trọn vẹn tin yêu của cậu em khó tính là Đinh Hùng. Thật vậy, Đinh Hùng từ nhỏ đã khó tính, lại ưa cô đơn. Sống trong 1 gia đình đông vui, mà Hùng vẫn tưởng đâu là đang sóng giữa chiếc đảo nhỏ nhoi giữa một quần đảo, tứ bề xa cách. Phải chăng vì bà Phán hoài thai nhà thơ của chúng ta ở Manila ( Philippines) – nơi ông Phán được bổ nhiệm sang đây làm Chánh văn phòng Tòa Lãnh sự Pháp từ 1918. ( theo Tạ Tỵ- sách đã dẫn)

Chị ruột ông, Đinh Thị Thục Oanh ( sinh 1919 ở Manila) còn Đinh hùng sinh sau 1 năm – đích thị bà Phán đã hòai thai chàng thi sĩ bẩm sinh từ nơi quần đảo xa xôi ấy- sau này Vũ Hoàng Chương đã cho rằng thơ của cậu em vợ đã chịu ảnh hưởng này cách bất ngờ, rơi rớt lạc vào dòng thơ, có câu:

“…Hỏi bao quần đảo vừa ly tán

Trần tục là đâu hỡi đất bằng ! “

( Mê hồn ca )

Vẫn theo Vũ Hoàng Chương- Đinh Hùng bị cú sốc tinh thần vào lúc 11 tuổi – hoa khôi Đinh thị Tuyết Hồng nhảy xuống hồ Trúc Bạch tự vẫn. Cái chết của người chị trước đó, kéo theo sau tang tóc từ cụ thân sinh thất lộc khi tuổi chưa tới 50 – rồi 3 năm sau Đinh Hùng lại phải từ biệt một người chị đã lập gia đình, mà tuổi còn rất trẻ. Người chị cả đó là chị Loan.

Đinh Hùng tốt nghiệp Tú tài bản xứ- vừa khi đó- ông lại bị cú sốc tình đầu – yêu đơn phương một chiều- nàng Kiều Hương. Nàng đi lấy chồng, hệt Tố của Vũ Hoàng Chương và Đinh Hùng khắc họa chân dung nàng qua thơ:

“ Tần Hương ôi Tần Hương

Tên nàng như hoa đẹp

Chàng là bướm tơ vương

Nên chàng là Hoài Điệp…”

( Đường vào tình sử)

Và chẳng ngạc nhiên gì, sau này Đinh Hùng dùng bút danh Hoài Điệp ( trước ) và sau là Hoài Điệp Thứ Lang trong tiểu thuyết đăng nhiều kỳ trên báo từ sau 1954 – kể cả bút danh trào lộng Thần Đăng – và ông còn phụ trách ban Tao Đàn trên Đài Phát thanh Saigon, tiếng thơ réo rắt, và giọng nói Đinh Hùng nhừa nhựa sắc như lưỡi gươm bén, phóng vào đêm tối âm vang.

Thi sĩ Bàng Bá Lân, nhà thơ tiền chiến; khi phân tích thơ của nhà thơ trẻ Đinh Hùng- ông chú ý ngay từ khi “Bài ca man rợ”- được tập san “Giai phẩm”) Nxb Đời Nay của nhóm Tự lực văn đoàn, tâng bốc :

“… trước hết là trí tưởng tượng phong phú của tác giả. Ông tưởng tượng ra một con người nguyên lòng sơn dã, từ lâu ông sống một đời man rợ thiên nhiên trong núi sâu rừng thẳm, bỗng một ngày kia trở về đô thị”.

Cùng đọc một số đoạn trong “ Bài ca man rợ”:

“ Lòng đã khác ta trở về đô thị

Bỏ thiên nhiên huyền bí của ta xưa

Bóng ta đi trùm khắp lối hoang sơ

Và chân bước nghe chuyển rung đồi suối

Lá cờ sắc vương đầy trên tóc rối

Ta khoác vai manh áo đẫm hương rừng

Rồi ta đi khí núi bốc trên lưng

Mắt hung ác và hình dung cổ quái

Trông thấy ta cả cõi đời kinh hãi

Dòng sông con nép cạnh núi biên thùy

Đường châu thành quằn quại dưới chân đi

Xao động hết loài cỏ hoa đồng nội

Người và vật nhìn ta không dám nói

Chân lảng xa, từng cặp mắt e dè

Ta ngẩn ngơ nhìn theo bóng ngựa xe

Nhìn theo mãi đến khi đời lánh cả

Và ta thấy hiện nguyên hình sơn dã …”

Tôi trích 17/ 55 câu – một trong những bài thơ đầu đời Đinh Hùng – dường như đã quá đủ biểu hiện dòng thơ lãng mạn thời tiền chiến- mà không cần trích đủ toàn bài, như Bàng Bá Lân xưng tụng, trích dẫn về Đinh Hùng ..

Vậy bài thơ đầu tiên nào của Đinh Hùng được đăng báo ? Đó là “ Đám ma tôi “, Đinh Hùng ký Hoài Điệp, do Nguyễn Đức Chính đưa cho Nxb Tân Việt in – rồi Nguyễn Đức Chính lại đem thơ Đinh Hùng giới thiệu” ông Trùm coi sóc thi đàn Nxb Đời Nay- Thế Lữ”. chăng ? Tư liệu này do Vũ Hoàng Chương tiết lộ, và qua một nguồn khác lại cho rằng: Thạch Lam mới là người giới thiệu Đinh Hùng ( tác giả cùng tác phầm) với “ ông Trùm Thế Lữ” ? Câu chuyện được kể lại :

“…. Khi Thạch Lam xuất bản” Hà Nội 36 phố phường” , tác giả ở trong 1 ngõ rất sâu thuộc làng Trung Phụng ( ngoại ô Hà thành) – nơi này cũng là một nơi đất nhiều ma quái, đẫm lệ – nào có những bộ xương khô cùng lưỡi hái dài nanh ác luẩn quất trong lùm cây khế to đùng, cả cây cam âm u của trại Trung Phụng…”

Lại nói về Thạch Lam- mỗi khi lên phố, phải đi qua nhà ông bà Phán ( cha mẹ Đinh Hùng). Biết vậy, Đinh Hùng nghĩ kế cách nào để làm quen được với nhà văn nổi danh nhóm Tự lực văn đoàn? Ông bèn viết một lá thư kèm bài văn có tựa đề ”Thịt chó”- rồi chặn đường, gặp được Thạch Lam, trao cho đọc, xin ý kiến. Thế rồi, có một buổi, Thạch Lam ghé vào nhà Đinh Hùng thật – lần này” nhà thơ trẻ” sửng sốt, gây một ấn tượng tốt đẹp khó quên trong đời. Dần dà, Thạch Lam quen thân Đinh Hùng hơn, ông dắt đưa bạn trẻ đến trụ sở Nxb Đời nay ở phố Quán Thánh, rồi giới thiệu hết lời về Đinh Hùng với Thế Lữ, Khái Hưng, cả Nhất Linh nữa – toàn “ tay tổ” của nhóm Tự lực văn đoàn.

Và sau, chính Thế Lữ- là người đầu tiên nâng đỡ đích thực nghiệp văn thơ đầu đời nhà thơ trẻ – và Đinh Hùng tự-sự- kể:

‘….Hồi đó mỗi khi làm xong bài thơ nào, tôi thường tìm Thế Lữ để đọc cho ông nghe. Lần nào cũng vậy, nghe xong, ông lắc đầu bảo: “ Chưa được, cậu cần phải chịu khó hơn nữa”. Tôi buồn quá vì tự ái nổi dậy, nghĩ thế nào cũng phải làm cho được 1 bài thơ hay. Không lẽ cứ để cho Thế Lữ chê hoài ?…”

Hồi ấy, Đinh Hùng đang yêu thầm nhớ trộm một cô đầu trẻ ở phố Khâm Thiên- khi tác giả làm xong bài thơ “Kỹ nữ”,liền đem đến khoe nhắng với Thế Lữ. Thi sĩ “ ông Trùm thơ Đời Nay” thông cảm háo thắng bạn trẻ, đọc ngay, im lặng hồi lâu, chậm rãi, phán:

“-…được lắm ! cậu nên làm theo thể loại này!”

Thế là’ Mê hồn ca” được hình thành từ thời kỳ đó.

Qua một thời gian tham gia Kháng chiến ở Khu IV – bỗng một ngày kia, khăn gói lẩn trốn về Thành ( Hà Nội- lại gặp được ngay Hồ Dzếnh ) lúc này đã là chồng bà Nhật- chủ một hiệu, sách Bình Minh ở góc Phố Huế + Reinach)- Hồ Dzếnh đọc xong, nhận in ngay ” Mê hồn ca”. Khi đang xúc tiến in, gần xong, thì Hội nghị Genève 1954, Việt Minh và Pháp ký hiệp định chia đôi Việt nam – thì Mê hồn ca chịu chung số phận. Kẻ bỏ tiền in không có cơ hội phát hành ở ngoài Bắc, lại cũng không di cư vào Nam – Hồ Dzếnh giao cho tác giả cả ngàn tập Mê hồn ca cùng tác giả di cư vào Saigon- vừa phát hành, vừa bán, vừa tặng.

Rồi Đinh Hùng làm ” chủ soái banTao Đàn” – từ 7 giờ tối hàng đêm réo rắt giọng ngâm thơ hiều tài tử, nghệ sĩ tài danh: nào những Quách Đàm, Hoàng Thư, Tô Kiều Ngân, cả ca sĩ Thái Hằng và Hồ Điệp- một giọng ngâm thơ thật đặc biệt sáng giá! .

Vào đầu thập niên 1960, một chuyện như giai thoại thật trớ trêu xảy ra- khi chủ soái Tao Đàn mặc complet xám chững chạc, vừa hoàn thành thâu thanh, bước ra khỏi Đài Phát thanh Saigon – một cô chặn lại hỏi:

– thưa ông, có phải ông là Đinh Hùng?

– Phải, chính tôi- Đinh Hùng đáp.

Người vừa lên tiếng hỏi chủ soái ban Tao Đàn- một cô mặc đầm, nói năng lễ độ, miệng cười tươi. Nghe xong câu thứ 2, Đinh Hùng ngỡ ngàng:

–    Ông có nhớ 3 câu thơ mà ông vừa ngâm trên ban Tao Đàn tối thứ 2 không ?

–    Nhớ chứ , 3 câu ca dao nói về Án sát, Tuần phủ chứ gỉ ? Đinh Hùng đáp.:

–    Rất đúng thưa ông, và bắt đầu bằng :

–    “ Thứ nhất rắn hổ mang hoa

–    thứ 2 Trần Tán..

–    thứ 3 là Bùi Bành “

–    có phải không ạ ?

–    ..mà ông có biết Trần Tán… là ai không nhỉ ?

–    Đinh Hùng chưa kịp trả lời – nét mặt duyên dáng cô gái biến sắc, chuyển sang” tông” khác- cúi xuống lấy chiếc guốc dưới chân trái , rồi nện thẳng vào đầu nhà thơ.

–    Trần Tán là Trần Tán Bình, ông nội tôi. Bố tôi là con Cụ Tuần Bình : Trọng Lang- Trần Tán Cửu, chắc là ông có biết?

–    Nói xong, bỏ chiếc guốc vào chân trái, bước ra xe rất nhanh –một sĩ quan mặc đồ trận chờ ở ngoài lề đường – chở trên xe gắn máy đi mất tăm.

–    Thấy Đinh Hùng lấy tay ôm đầu máu, Hoàng Thư ( thì phải) lại dìu vào quán phở 44 đối diện. Hỏi han, Hoàng Thư cho biết tên sĩ quan chở cô em phang guốc vào đầu Đinh Hùng – đó là trung úy Trần Tán Đ…- trưởng nam nhà văn tiền chiến Trọng Lang có tên thật Trần Tán Cửu.

Rồi tới một buổi trưa thứ 7, trước cửa nhà số 38 đường Tú Xương ( Saigon 3) là Trường Cán sự Xã hội Caritas- tôi đến để đón C.M.N. và gặp Đinh Hùng vẫn trong bộ cánh “ complet xám” tự khai :” ông đón ai, còn tôi đón nàng thơ có phương danh Hoài Diệu. “ Và Đinh Hùng kể tiếp:

– Đáng lý” toa” phải lãnh nguyên cái guốc mới phải – thế mà “ moa” đã phải nhận thay” toa” rồi đấy ! “Toa” có nhớ không, chỉ vì 3 câu” vè” phải gió căn răng trong” Nhà văn tiền chiến. ..” của” toa” – “ moa” cho ngâm trên “ Tao đàn” – mà giờ này đầu “ moa” còn “ u” một cục !

Năm 1961, Đinh Hùng được giải 1- Giải thưởng Thơ Toàn quốc – sách in tuyệt đẹp ( linograph) tại” Kim Lai Ấn quán”:- với lời tựa đính kèm rất trịnh trọng của “ thi sĩ” Đoàn Thêm., . tay này đậu Cử nhân Luật thời tây- bấy giờ là đương kim Phó Đổng lý Phủ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông là tác giả đôi ba tập thơ, sách viết về lý luận thơ, dịch sách hội họa vv.. Dư luận “ phê” ngầm” :

– Có “ ông Phó” Đoàn Thêm “đề’ tựa” thì ” Đường vào tình sử” của Đinh Hùng, “ bố” thằng giám khảo nào dám tự ý “ lắc đầu” không bỏ phiếu thuận.

Cùng nghe Du Tử Lê, tác giả´Năm sắc diện, năm định mệnh: Đinh Hùng, Bùi Giáng, Tô Kiều Ngân, Thanh Tâm Tuyền, Thế Phong – Saigon 1965) kể về giai thoại giải thưởng kia – với lý do nào Đinh Hùng “dễ “được bỏ phiếu thuận để “ ẵm” chót lọt Giải thơ Toàn quốc của Tổng thống Diệm ?

Trước tiên, sách phải in đẹp, bây giờ chỉ có Nam Chi Tùng Thư ( Lãng Nhân giám đốc ), in đẹp nhất là Kim Lai Ấn quán, do tổng quản lý “ kỹ thuật” Nguyễn Doãn Vượng. mà thôi. Anh là thi sĩ, được lắm- thơ có hay” không nhưng trước tiên còn phải có tiền in thơ cho đẹp vào – thì mới lọt mắt Ban Giám khảo… Nếu không sẵn tiền cho lắm, – thì anh phải kiếm được người” sáng giá” viết” tựa”- cỡ ông Phó Đổng lý Tổng thống phủ Đoàn Thêm chẳng hạn thì mới” ăn giải” được !

Nhưng muốn có tiền để in thơ – sắp chữ linograph – tư nhân chỉ có Kim Lai Án quán, ắt phải có Bình Nguyên Quân; nhưng là ai đây ? .

Xin trả lời ngay

– Ông Đoàn Thêm, tác giả thi tập” Nhạc dế”- chuyên viên hàng đầu viết diễn văn cho Tổng thống Diệm đọc, và Đinh Hùng muốn in thơ ở K.L.Â.Q., ắt phải” cậy ông ta đề tựa” .

Vẫn theo Du Tử Lê- hồi đó Thế Phong gặp Đoàn Thêm, đã nói ngay:

“ … Anh Đinh Hùng rất buồn khi phải cậy anh đề tựa…”

Đoàn Thêm trả lời:

– Đó là tự ý Đinh Hùng cậy nhờ tôi…”

Thế Phong bồi thêm:

-vThế mà.. thực sự anh ấy không cảm thấy sung sướng một chút nào ?!”

Gần đây,khi hỏi về chuyện ấy, chính miệng Đinh Hùng tiết lộ Du Tử Lê hay- viết tựa kia là ngoài ý muốn Đinh Hùng. Thật ra, chẳng phải ông Đoàn Thêm bắt buộc phải có’ tựa”- nhưng muốn được in thơ ( tại Kim Lai Ấn quán) thì đành phải nhờ tới Đoàn quân thôi. Cùng năm, Đinh Hùng gửi” Đường vào tình sử’ dự giải Văn chương Toàn quốc- thì Ban giám khảo bộ môn Thơ là” học giả “ Đông Hồ và thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, cả hai bỏ phiếu tán thành Đinh Hùng chiếm giải 1 “.

Trước khi trình Phủ Tổng thống” ngự lãm”, theo tôn ti phép vua, phải qua ông Ngô Trọng Hiếu- Bộ trưởng Bộ Công dân vụ.

Nhưng…

Lại phải thêm chữ” nhưng” Ban Giám khảo Thơ gửi bản đề nghị đề cử Đinh Hùng xứng đáng chiếm giải 1 – thì giám khảo viên Phạm Đình Tân ( ở ban khác ) nhất nhất không đồng tình treo giải quán quân Bộ môn thơ cho Đinh Hùng. Bởi, Phạm Đình Tân còn là chủ soái” cái gọi là” Tinh Việt Văn Đoàn”, chủ nhiệm tuần báo” Văn đàn”- lại” ỷ” có bác sĩ Trần Kim Tuyến ( văn hữu xưa trong nhóm) nay Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị- Xã hội ( một tên khác: Mật Vụ) –từng là dịch sách” Định mệnh con người” do Nxb Văn đàn in ấn.

Do vậy, Phạm Đình Tân muốn” cậy nhờ” ông Trần Kim Tuyến- “ kính chuyển tờ phúc trình mật” – ý kiến ‘Tinh Việt Văn đoàn” không đồng tình treo Giải 1 thơ về tay tác giả tác phầm” Đường vào tình sử” .

Tổng thống Diệm đọc xong phúc trình- cho gọi ngay ông Lê Văn Thái ( tự Thái Trắng- phụ tá ông Trần Kim Tuyến) vào Dinh.

Tổng thống Diệm phán:

– Sao treo giải Thơ cho một cuốn như ri …?

–    Ông Lê Văn Thái- cánh tay phải Bác sĩ Tuyến, Chánh sở Mật Vụ – hoảng hốt- vì đọc hay chưa hề đọc “ Đường vào tình sử” thì không biết::

–    “…dù có đọc, tôi ( Du Tử Lê) chắc người ấy chả hiểu gì …?

–    Và ông Lê Văn Thái đành khất Tổng thống phúc trình đầy đủ sau.

–    Vẫn theo Du Tử Lê ( Năm sắc diện…. – sách đã dẫn) ), ông Lê Văn Thái bèn “ mò” ra ” La Pagode” ( ngã tư Lê Thánh Tôn + Tự Do) hy vọng gặp được Thế Phong, chàng ta thường ngồi cà phê cùng bạn bè tại đây. Tay này thường ăn sáng, với bánh kẹp Croque Monsieur, và ly cà phê đen” tổ bố” ( (khi rủng rỉnh quý kim ) – Du Tử Lê viết vậy. .

–    Từ lâu” Quán Cái Chùa” là nơi gặp gỡ của anh em làm văn chương. Tìm ai, chúng ta ( đây vẫn là Du Tử Lê ) chỉ cần sáng sáng hoặc chiều chiều là gặp thôi. Và Thái Trắng đã gặp được Thế Phong thật. Rồi Thái Trắng dạm ý – thì T.P. trả lời đại để:

–    .. đem Bàng Bá Lân so với Đinh Hùng- ai là người xứng đáng chiếm giải quán quân Thơ năm nay ư ? Kẻ xứng đáng thì không thể Bàng Bá Lân được, mà phải là Đinh Hùng, bởi lẽ : ” Đinh Hùng trúng giải là làm vinh dự cho giải Thơ – còn giải thưởng thì không thể tạo vinh dự cho Đinh Hùng được ! ).

–    Sau cùng, Hội đồng Giám khảo Giải văn chương Tổng thống năm 1961 đề bạt Đinh Hùng chính thức nhận giải 1- lại còn được bầu làm đại diện viết diễn từ đọc trước quan khách vào ngày Tổng thống trao giải tại Dinh Độc Lập. Và “ gà thơ dự giải Bàng Bá Lân “– từ “ chuồng” Tinh Viêt văn đoàn”( Công giáo) – chủ xị Phạm Đình Tân ‘ thả” “ gà tranh giải thơ “ bay vụt ra – nhưng chẳng mấy chốc bị đánh bật ra ngoài lề một cách không thương tiếc !

Bài thơ Kỳ nữ của Đinh Hùng được Thế Lữ khen từ thời mới vào nghề, liệu có thể gọi là một bài thơ hay ? Thật ra thì không hay lắm, nhưng ít ra cũng làm điểm tựa cho tác giả tin khả năng thi ca bước đầu không tệ lắm đâu ! Có những câu:

“ Có con đường sao mọc lúc ta đi

Cả chiều sương mây phủ lối ta về

Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ

Vì người em có bao phép nhiệm mầu

Một sợi tóc đủ làm nên mê hoặc

Ta đặt Em lên ngai thờ Nữ sắc ….”

hoặc rất” mô- nô -tôn”( monotonie ) , như trong” Thần Tụng “:

“…. Mây lòng vương giả bơ vơ từ thuở suy vong nửa cuộc giao tranh sầy đến tâm tình gỗ đá, kẻ phong sương, người lữ quán đã chưa kinh kỳ ảo tưởng, đã xoay nghiêng gác phấn lầu son. Từng điểm tinh anh lang thang những chiều tái tạo, bốn mùa hôn phối hiện lên thanh sắc cỏ cây, màu quân tử, nét văn khô, tuy chẳng cơn mưa móc từ bi cũng bừng nở…”.

Xu hướng thơ Đinh Hùng – đó là thơ viết theo hướng hoài vọng cá nhân. Và chưa có một thi sĩ nào có thể đem cái riêng tư sầu kín phản ánh qua thơ trung thực hơn Đinh Hùng- hoặc nói một cách khác – thì thơ ông đầy tính chất thần kỳ, ma quái, ý tưởng càng quái đản, nào hồn ma siêu phách, thế giới âm ty – nhưng thơ tình yêu lại rất cuồng nhiệt cụ thể! Đôi khi thôi, đọc thơ Đinh Hùng, người đọc hình dung được trong đầu thế giới vàng son, cung ngà, điện ngọc- như phảng phát đâu đây:

“ Gió trăng ngự uyển buồn sâu sắc

Thử bước vào xem cung điện ma ..”

Đinh Hùng thường bị ám ảnh, luẩn quẩn- thơ chàng thi nhân của lầu son, gác tía, xưa kia thích than mây, khóc gió – thì nay đã không còn! Bây giờ thế kỷ XX, chàng đành chấp nhận mặc bộ complet từ phương Tây du nhập, dấn thân đời trần tục, ta bà- lại không thể dễ quên thế giới hồng hoang!

Bùi Giáng- một thi nhân rất gần Đinh Hùng qua thi ca – lại rất khác biệt với con người ngoài đời. Đinh Hùng bình thường trong đời sống nhân sinh – còn Bùi Giáng nửa điên, nửa tỉnh- riêng lần đánh giá thi tài Đinh Hùng lần này lại rất tỉnh ( hoặc thời đoạn sống này Bùi Giáng chưa mê điên chăng ):

“…Đinh Hùng là thi sĩ muốn khai phá một nẻo đường đưa tới thế giới hồng hoang, nơi đây con người trút bỏ hết hình hài, thể phách, tinh anh cũ; mà đắm mình trong một bầu không khí ảo huyền, trác tuyệt, đầy những sương lá phong thần. Thi sĩ quên mối lo eo sèo thế sự. Cuộc sống tủi buồn của nhân thế đã xa biết bao! Tiếng cưới, tiếng khóc ở đây có những âm vang kỳ ảo: “ Trận cười tan hợp núi sông/ Còn mơ kỳ thú lạ lùng cỏ hoa / Hý trường đổi lớp phong ba / Mượn tay ngụy tạo xóa nhòa bể dâu….” ).

Nỗi buồn tiếc nuối thế giới hồng hoang từ thế kỷ nào vẫn lẩn quất mạnh mẽ trong tâm can Đinh Hùng – nét dị biệt khác hẳn thơ Vũ Hoàng Chương. Nỗi buồn trừu tượng mênh mang, siêu thực cách ảo hóa, ngông cuồng vô lối, “ sinh ra lầm thế kỷ “. Thơ V.H.C già cỗi, ảo mộng, người đọc dễ nhìn được tương lai sớm lụi tàn. Còn thơ tình Đinh Hùng trẻ trung, tươi, duyên dáng, ngây thơ, sâu sắc hồn nhiên, dung dị :

“… Trời hồng chắc má em tươi

Nước trong, chắc miệng em cưới thêm xinh

Em đi hoài cảm một mình

Hai lòng riêng, để mối tình cô đơn …”

Phút xuất thế đối với thi nhân- tuy tác giả muốn trốn chạy thế sự đa tạp, ngổn ngang để chui mình sâu trrong vỏ ốc – thi nhân sẽ không còn muốn sống hòa nhập với xã hội- nếu có- thi nhân muốn được nhìn là người từ một bộ lạc xa xôi, nay phiêu lãng về thăm:

“ Qua xứ ma sầu ta mất trí

Thiêu đi tập sách vẽ hoa nguyền …”

Với tình yêu- Đinh Hùng rất trân trọng- lại si mê cuồng dại tới mất trí, và chung thủy thì tới tận cùng! Tỷ dụ bài” Gửi người dưới mộ” –nàng thơ ngoài đời tên Liên. Thời kỳ này ông đang theo học ở Trường Bưởi, Nàng Liên là mối tình đầu Đinh Hùng chăng ? Nàng qua đời vào mùa thu – khiến thi nhân nuối tiếc, nhớ thương, đêm đêm nguyện cầu, rồi khóc nàng:

“ … Trời cuối thu rồi em ở đâu ?

Nằm bên đất lạnh chắc em sầu

Thu ơi ! đánh thức hồn ma dậy

Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu

Em mất về đâu, mộng về đâu ?

Đêm đêm ta nguyện với ta cầu….. “

Ở một tác phẩm văn xuôi khác” Đốt lò hương cũ”(Saigon 1971- Nxb Nhân sinh thâu thập từ nhiều bài viết trên các báo cho xuất bản ( sau khi tác giả đã qua đời )- tác giả nhớ bạn văn thơ qua đời trước ông, với bài mang tựa:” Gửi người bạn bên kia trần lụy”:

“ Cái tin” cả bầy văn tinh tối nay tụ họp tại nhà Bạch Liên “ ( không biết có phải Bạch Liên và Liên” mối tình đầu Đinh Hùng” là một chăng?) – với những tên tuổi như Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Thạch Lam vv…”Thâm Tâm, Vũ Trọng Can, Tô Ngọc Vân, Lê Văn Trương, Vũ Xuân Tự vv… ( thời tiền chiến) và Chế Vũ ( Hồ Xuân Tịnh), Quách Thoại vv.. ( thời hậu chiến) .

Theo tôi, một bài thơ viết theo lối” thơ xuôi “- bài “ thơ xuôi duy nhất của Đinh Hùng”- là “ Hoài niệm”. Có thể nói không sợ lầm, “ thơ tự do Đinh Hùng ” có ý tưởng thật phóng khoáng, lối diễn đạt không theo qui luật nào- mà cả đời thơ Đinh Hùng chỉ làm theo qui luật có sẵn :

“ (…………………………………….)

… Bạn là người chung tình

Gần nhau không hẹn

Lòng giữ nguyên hương hoa bình minh

Bên đèn tâm sự

Bạn với tôi như đôi hình viễn xứ

Đôi bóng phù du

Không dưng mà thương nhớ

Không đâu mà ngẩn ngơ

Rủ bướm chim theo vào giấc ngủ

Thả sầu trên con thuyền mây đưa

Trời giăng sao tỏ

Đêm mùa thu

Cửa phòng tôi bỏ ngỏ

Giấc mộng tôi hững hờ

Ta biết giăng buồn ngày ta còn nhỏ

Ai biết ta buồn vì lòng ngây thơ ?

Nhìn cuộc đời

Tin rằng hạnh ngộ

Bạn yêu giăng và tôi yêu gió

Cười nụ cưới đơn sơ…”

(………………………………………….)

 

( Hoài niệm bầy văn tinh )

Đinh Hùng qua đời lúc 5 giờ sáng 24 / 8/ 1967 tại Nhà thương Bình dân, và trước đó vài ngày, tôi có ghé lại thăm. Đinh Hùng ngồi trên đệm chiếc giường một, bụng trương to chẳng khác thiếu phụ ôm bụng trống sửa soạn lâm bồn. Bệnh nhân được chuyển tới bệnh viện Bình dân – nhờ bác sĩ Phạm Biểu Tâm đích thân lái xe hơi đưa từ Bệnh viện Cộng Hòa sang đây, để chính bác sĩ giám đốc chăm sóc, theo dõi tình hình sức khỏe Đinh Hùng.

Giáo sư bác sĩ Phạm Biểu Tâm rất tốt, hào sảng, có lòng với bạn văn chương, không chỉ với Đinh Hùng mà thôi. Bẩy năm trước, ông là bác sĩ điều trị ung thư gan cho chủ soái Nguyễn Đức Quỳnh ( nhóm Hàn Thuyên tiền chiến) một cách tận tình.

Tôi còn nhớ như in- gặp tôi, anh hỏi:

– …bao giờ ông vào Không quân ? nhớ là ngày đầu tiên mặc bộ đồ treilli, thì nhớ vào trình diện tôi đầu tiên nhé !

Giọng the thé- chỉ Đinh Hùng có -mà không thể lẫn bất cứ ai – từ âm vang, tiết tấu, giọng điệu, kể cà lời giới thiệu’ chủ soái Tao đàn” ( tôi thường nối điêu đùa cợt: “ tao đàn, mày hát, nó nghe”- đến lần đầu tiên tôi vô Saigon ( trước 4 ngày Điện Biên phủ thất thủ ) –chúng tôi cùng vào sàn nhảy “ Lệ Uyên” nằm trên đường Tổng đốc Phương ( Châu văn Liêm, quận 5 bây giờ )- vẫn là giọng the thé Đinh Hùng vang lên mừng rỡ gặp “ cô ca ve quen”. Đinh Hùng người nhỏ thó, mặc complet khiêu vũ, như cuộn tròn muốn bay lên, thì cô vũ nữ kềm lại. Hình như lần ấy Thái Thủy rủ đi, lẽ đương nhiên “ nhân viên trong ban Tao đàn chi ‘ địa” !

Lại nhớ tới ngày đầu 1965 ngồi trong Câu lạc bộ Trại Huấn luyện Cát Lở ( Vũng Tàu) – thì đâu đây tiếng Đinh Hùng giới thiệu ;”… chương trình “ Tao đàn” bữa nay giới thiệu cô X (tôi quên tên ngâm sĩ”) với bài thơ “ Soi gương” của Thế Phong “. ( bài lục bát đăng trên tạp chí “ Tân Phong” – Nguyễn Thị Vinh chủ nhiệm).

Vẫn là giọng the thé dễ nhớ của Đinh Hùng sau 11 năm.

Có một lần nữa, tôi đến phòng anh chị thuê ở trên lầu 1- số 7 Trần Văn Thạch, Tân Định, Saigon 1 – (nay là Nguyễn Hữu Cầu). Từ phòng cuối dẫy lầu 1, anh thong dong đi bộ ra tiếp tôi, dáng điệu bơ phờ, vì chưa đủ” cữ thuốc “ ( thuốc phiện). Cầm theo tập thơ” Đường vào tình sử”- lời đề tặng ký từ 1961( năm anh được Giải thưởng thơ Tổng thống VNCH )- “ bản Liên Tài” nét chữ “ rồng bay phượng múa’ điệu nghệ- đặc biệt “ chữ đề tặng … ( mực mầu đen) Thế Phong ( mầu mực hồng) “.

Đài Phát thanh Saigon loan tin Đinh Hùng qua đời- bạn văn đi đưa tang Đinh Hùng gần như đông đủ- nhưng thiếu” tên Thế Phong “ mặc đồ lính Không quân đang ” ắc ê” bài học quân sự căn bản.- không dám mạnh miệng xin cấp trên cấp phép xuất trại để đi đưa Đinh Hùng tới nơi an nghỉ cuối cùng! Không biết “nàng Hoài Diệu “- bữa nào mà anh đón vào một chiều thứ 7 – trước cửa nhà số 38 Tú Xương, có mặt đưa tiễn không đây ?

Tạp chí Văn ( N.Đình Vượng chủ báo- Trần Phong Giao thư ký gom bài) ra mắt một số đặc biệt về Đinh Hùng. Gồm nhiều bài chiêu niệm: Bàng Bá Lân, Vũ Hoàng Chương, ( 2 bài diễn thuyết các ngày 8/10 và 8/12/ 1967 / Saigon ), Mai Thảo, Trần Tuấn Kiệt, Thanh Nam, Thái Thủy, Kiên Giang_ Hà Huy Hà, Cao Tiêu, Huy Quang, Phan Lạc Phúc, Văn Quang, Tô Kiều Ngân, Tiểu Nguyên Tử vv… Chỉ một bài báo (potin) ngắn của Dương Tấn Trương là” giá trị nhất”( theo tôi mà thôi). Luật sư Trương viết báo, qua bút danh Tiểu Nguyên Tử từng sống ở Hà Nội , khoảng thời gian Tự lực văn đoàn hoạt động báo chí, văn chương rôm rả ( 1932-1942) – thì luật sư Trương quen biết nhiều bạn văn như Thế Lữ, Khái Hưng, Tchya, Lãng Nhân vv. mà lại không biết Đinh Hùng.“…Đinh Hùng nổi tiếng về sau. Và sau ngày di cư, dân chúng miền Nam mới biết được thi sĩ Đinh Hùng, qua Đài Phát Thanh.(…) Giọng ngâm hơi ngọng – vì lưỡi hơi ngắn, nhưng tứ thơ dồi dào, lời văn ngào ngạt, khiến cho tất cả thính giả, nghĩa là tòan dân đều biết Đinh Hùng. Tiểu Nguyên Tử chỉ quen với Đinh Hùng sau này, vì Đinh Hùng bị chủ đất đưa ra Tòa, đòi dỡ căn nhà lá một chái của nhà thơ. Đinh Hùng nhờ một luật sư thân với T.N.T. như bóng với hình, bênh vực. Và sau khi luật sư thành công, Đinh Hùng trả công, bằng một bức tranh vẽ… “ cái xóm nhà lá ấy”, do một bạn họa sĩ tạo nên, theo lời yêu cầu của thi sĩ. Bức tranh ấy hiện đang còn được treo tại phòng giấy luật sư, ngay cửa chánh. Rồi lại hay tin Đinh Hùng bệnh nặng, Đinh Hùng chết. Và là một đám tang long trọng…(…) Ở xứ người, một thi sĩ ở trong địa vị của Đinh Hùng, nghĩa là chẳng những nổi danh vì một tập thơ, mà lại còn… nổi tiếng qua Đài Phát Thanh – như “ Jean Cocteau” chẳng hạn – đã được giàu có trong lúc sống. Và sung sướng trọng đãi từ ngày nổi danh cho đến … mấy chục năm sau ngày chết. Xứ ta, thi sĩ hữu tài chỉ được trọng đãi sau ngày chết…. Nhứt là nhờ ngày chết ấy lại lọt trong thời kỳ bầu cử ….“

( nhật báo” Dân Chúng “ số 1004/ngày 4/9/1967).

“ Và quả thật khi giã từ cuộc đời- thì ra đi chỉ một mình- tất cả để lại sau lưng, có ai mang theo được gì! Tôi lẩm nhẩm mấy câu thơ nhớ được- từ” Hoài niệm” dành tặng “ văn tinh Đinh Hùng chữ của Đ.H.- TP chú thích) – ngay ỡ bãi cỏ quân trường – nơi lính tráng bị cấm trại 100% -dịp bầu cử Tổng thống VNCH (1967)- liên danh Nguyễn Văn Thiệu & Nguyễn cao Kỳ:

“… Mộng cung tần

Xoay nghiêng mặt gối

Ai cười? Ai nói? Ai xênh ca

Lênh đênh nước biển trăng nhòa

Những vì sao lạ đã xa xuống gần

Trời buồn giáng điệu giai nhân

Trái đất xoay vần – đứng lặng mà nghe

Rạt rào sóng nhạc pha lê

Đêm tàn, núi đổ – Ra đi một mình ..”

Saigon 1997.

(30 tết Canh Dần, chuẩn bị đón tân xuân Tân Mão – sao nhớ Đinh Hùng lạ thường !)

 

Tựa Đoàn Thêm” In Trong “Đường Vào Tình Sử “Đinh Hùng

Thế Phong

 

Kính gửi thi sĩ Đinh Hùng,

Ông bạn có cho xem bản thảo tập thơ ‘Đường vào tình sử’ và tôi đã trình bày qua thiên kiến. Song ông bạn còn muốn tôi ghi rõ ra, để tiện bề ngẫm lại.

Tôi nghĩ thế khác nào phê bình, mà phê bình theo tôi, cần dành cho những nhà văn chuyên trách nghiên cứu, chớ không phải là công việc của những người cùng sáng tác, nhất là khi hai đường lối làm thơ không giống nhau, rất e nhiều phần chủ quan bất tiện.

Vả chăng, tôi đã đọc kỹ, ngay trên các trang đánh máy, khuyên tròn, sổ ngang, hay gạch bằng bút chì đỏ xanh để lưu ý tác giả, như vậy tưởng đã đủ phận sự một bạn đọc với tất cả sự thận trọng cần thiết để xét một tác phẩm.

Nhưng ông bạn còn bảo: chính vì thấy đọc kỹ nên mới đòi hỏi, và mặc dầu đã như trên, chỉ có nhận định về chi tiết, còn thiếu về đại cương toàn thể; vả lại, có chịu viết ra hộ, thì mới cân nhắc cẩn thận từng ý, chớ không hời hợt gọi là, như khi nói chuyện qua loa.

Từ chối làm sao bây giờ? Thôi thì đành hạ bút, với sự dè dặt của người hằng quan niệm phê bình như một ngành văn học rất cao, chứ không thể là sự phán đoán táo bạo của bất cứ ai cầm sách đọc. Dù sao, nhìn rõ được đến mức nào, với tư cách một độc giả, cũng xin trình bày để tùy ý ông bạn xét.

Tôi còn nhớ khi trao tay cho tôi tập thơ này, ông bạn vừa cười vừa bảo”: Đây là loại thơ tình, có xem thì xem…”. Xem lắm chứ, nhưng vì sao tác giả đã thốt ra câu đó? Ngụ ý, là e ngại rằng tôi coi thơ tình không hợp thời, hoặc không hợp với sở thích của tôi, bởi vì khi tôi làm thơ, bạn biết tôi thường tránh nói thẳng về tình ái. Ông bạn đã xác nhận, thì tôi phải đính chính.

Lỗi thời, hợp thời ? Một vấn đề làm nhức óc kẻ sáng tác. Song đối với riêng tôi, và như có dịp trình bày trên một tạp chí, hợp thì càng lợi cho tác giả, không hợp thì chưa chắc đã hại gì đến giá trị tác phẩm. Nhiều tranh vẽ của Monet, của Cézanne, của Matisse, của Picasso, khi mới trưng ra, đã bị công chúng và các nhà phê bình mạt sát đả kích: nhưng cách đó một vài năm hay một vài chục năm, các vị trên lại được ca ngợi và họa phẩm được đấu giá hàng mấy trăm triệu quan mỗi bức. Ngược lại, có nhiều tác phẩm, tưởng là bị loại bỏ rồi, mà vẫn được các giới trí thức ưa chuộng, tỉ như kịch của Shakespeare. Vậy ông bạn không nên băn khoăn, chúng ta chỉ biết sáng tác bằng tất cả tâm hồn ta, giá thử tâm hồn đó đã được đào luyện theo nếp bị coi là cũ, thì đổi đề tài hay kỹ thuật cũng chỉ gượng gạo; và ngược lại, nếu tâm hồn ta được đào luyện theo các phương pháp mà có người cho là tân tiến, thì ý và lời ta muốn có vẻ khác, cũng chẳng thể dối ai. Tằm nhả tơ hay ong kéo mật, có biết là hợp thời hay lỗi thời đâu? Ta có mật, tuy đã có từ mấy ngàn năm nay, nhưng điều tốt đẹp, vẫn không thiếu người ưa.

Còn tình yêu mà ông bạn ca hát, đâu có lỗi thời ? Chất sống của con người mất làm sao được ? Có lẽ ông bạn ngại vì có người bảo: đương ở giai đoạn tranh đấu cho cuộc sống còn của dân tộc và nhân loại giữa lúc cần” nói lên” những thắc mắc và giải quyết những vấn đề con người thời đại “ vv… sao vẫn yêu đương vớ vẩn và say sưa mộng đẹp? Không bàn cãi vì ngại lạc đề, tôi chỉ nhìn nhận khách quan một sự hiển nhiên: hiện nay vẫn chẳng có tiểu thuyết nào hay, phim điện ảnh nào hay, mà hoặc không có tình hay không có người đẹp. Bỏ tình đi, đuổi hết người đẹp đi, vô số nhà xuất bản và các rạp điện ảnh sẽ đóng cửa: chẳng lẽ cho vỡ nợ cả. Tôi cũng tự hỏi vì sao hôm nay có phim ái tình ly kỳ thì hàng ngàn người gìa trẻ trai gái chen chúc lấy vé, ngay ở những thời kỳ bom đạn 1942-1945 .

Vậy tôi thiết nghĩ ông bạn cứ tùy ý chọn đề tài, hay đúng hơn cho nhà thơ, thì cứ theo cảm xúc riêng đưa đẩy tới những điệu vần hòa hợp với đời sống nội tâm, nếu tình yêu là chất đẹp dồi dào mạnh mẽ nhất của đời sống đó: chẳng lẽ tôi lầm, khi đã theo dõi dòng thơ của ông bạn chan chứa qua hàng trăm bài, nhất là từ” Mê hồn ca “? Tôi vẫn biết hiện nay một số nhà thơ đã tìm nguồn mới, ở cảnh vật nhìn theo những đường lối mới của nhỡn quan; hoặc những khu vực khác của linh hồn, trong thâm tâm u uẩn, hoặc những xúc động của thời đại, và tôi cũng không mong gì hơn là nhà thơ Việtnam dấn bước đến những miền bao la đó, thì tứ thơ của ta mới phong phú như của thi nhân Âu châu. Song chính ở Pháp, tôi thấy nhà thơ, tuy đã ngao du ở nhiều non nước lạ, cũng vẫn thiết tha với người đẹp, hoặc chưa dứt được yêu đương. Trong hai cuốn hợp tuyển toàn những thơ tình vừa xuất bản năm 1955 “ Anthologie de la Poésie amoureuse” của Georges Pillement có cả những nhớ nhung thao thức của Paul Valéry, Paul Claudel hay Marie-Noel là những thi nhân thiên về triết lý hoặc tín ngưỡng cao siêu, chớ không kể xiết những người như Aragon thất thanh kêu gọi nàng Elsa ?

Cho nên tất cả vấn đề ở đây, không phải là cứ làm thơ tình hay không nên làm nữa, nhưng là diễn tả thứ tình chi, với lời lẽ như thế nào, và làm sao rung động được, sau khi mặc khách tao nhân từ mấy ngàn năm nay đã cho chảy bao nhiêu suối mực, tràn bao nhiêu lớp sóng nước mắt vì mỹ nhân và tung ra bốn phương trời bao nhiêu luồng gió “ phong tình”? Vậy thì tình của ông bạn có những đặc tính gỉ ? Tôi không dám đòi hỏi những sự tân kỳ, vì đã yêu thì con người nào chẳng nhớ nhung, thương tiếc, sầu, ghen, giận, tủi, khóc, cười… Tôi cũng không dám đòi hỏi như nhiều bạn khác, rằng thi nhân phải nói hộ bằng lời đẹp hơn của tôi, những tình cảm mà tôi không diễn tả nổi. Vì tôi trọng tự do của mỗi con người, xin để cho mỗi người sáng tác cảm xúc theo cá tính và hoàn cảnh riêng biệt của người ta trước hết; rồi nếu hợp với tôi, thì càng tốt cho tôi; nhược bằng không nói hộ gì cho tôi, thì cũng chẳng sao. Cần nhất là họ hãy nói ra cho đẹp những gì của họ đã. Nếu không thế, thì tôi sẽ mắc lỗi độc đóan, kiêu căng ép buộc người ta phải hợp với tôi hay sao Nhưng tôi lại xin đặt vấn đề nội dung và văn thể như sau, vì tôi muốn đòi hỏi gắt gao hơn ở một thi nhân có tên tuổi: thi nhân yêu với ánh sắc chỉ mang bóng dáng Đinh Hùng, với lời lẽ gì gợi ra được những ánh sắc đó?

Thường khi đọc thơ tình, cũng như nhiều bạn, tôi hay tò mò tự hỏi : người đẹp ở đây là ai, đã có chuyện với tác giả trong trường hợp nào ? Thi sĩ Lamartine có nàng Elvire, Hugo có Drouet, Vigny có Marie Dorval là nữ tài tử kịch trường đi lại lâu năm… Vậy thì giai nhân của Đinh Hùng người ở đâu ta, gặp gỡ bao giờ, hay ít ra tên ho là chi ?

Phải chăng là cô Tần Hương mặc áo hoa vẽ bướm, đã khiến thi nhân tơ tưởng, khiến:

Chàng nhặt từng cánh hoa

Giữ từng con bướm ép ?

Không, đó chỉ là hình ảnh lơ mơ trong đầu óc người thiếu niên đương tuổi bừng xuân, áp ủ “ Giấc mộng ban đầu” cũng như bóng dáng phơ phất qua đường với:

Cặp má nào phơn phớt ánh phù dung

Đâu lả lướt mái tóc dài sóng gợn ?

( trong bài” Khi mới lớn”)

Hay là cô nhỏ ngây thơ còn trèo cây khế, vin hái quả xanh bên tường ? Không thể vì lại thấy em khác trong cảnh” Da hội” tưng bừng cho say mê chốc lát, để rồi thi sĩ thở than”

Ta chọn nhầm hoa, lẫn ái tình

Nếu cứ dò la như vậy thì đọc hết hàng mấy trăm câu cũng chưa tìm ra ái với dung nhan và tính tình rõ rệt. Khó lắm, chúng ta có kiên tâm thì cũng chẳng hài lòng, chỉ như Lưu Thần, Nguyễn Triệu trở lại tìm tiên mà chỉ thấy khói mây nghi ngút .

Tôi đọc nữa và ngẫm lại. Thôi phải rồi. Người đẹp của Đinh Hùng không phải là con nhà họ Trần ở Hà Nội hay họ Lưu ở Saigon. Đâu phải người cõi này ? Nàng là “ Em Huyền Diệu” , là” Nữ Chúa Sầu”. là” Công Chúa Si Mê”, là” Sầu Hoài Thương Nữ”, nàng

…. tự ngàn xưa chuyển bước về

Thuyền trao sóng mắt dán trăng đi

Dĩ nhiên nàng đẹp, nhưng với những dáng vẻ thấp thoáng của con người xứ mộng. Nàng ẩn hiện biến hóa khôn lường. Có lúc nàng mượn hình ở” Lam tuyền viễn mộng”

Nép mặt hoa rừng mưa giấc ngủ

Ngàn thương mái tóc xõa như mây

Có khi, nàng là thiếu nữ chờ yêu nũng nịu

Hồng lên má phấn hoa bừng tỉnh

Xuân với em vừa lá tóc xanh

Buổi khác, nàng nhập vào mỹ nhân bên hàng xóm, gió hiu quạnh rung phím dương cầm:

ôi mắt xanh, mày lặng, áng mi dài

người khuê nữ tóc buồn như suối chảy

Những đêm trăng, khi lòng chàng thao thức nàng rón rén đến gần bên:

Tuyết rợn làn da bóng nguyệt trôi

Lại có lần như người kiếp trước, nàng lặng lẽ đến trong giấc ngủ canh khuya:

Em đến mong manh góc ngọc chìm

Tàn canh hồn nhập bóng trăng im

Rồi chán làm cô gái nhỏ leo cây khế, hoặc cô vũ nữ một đêm vui, hay cô Tần Nương nào đó, nàng hóa thân ra tất cả các cô em xinh xắn ngây thơ

Các em đi tha thướt áo màu hoa

hoặc:

những nàng như liễu mắt xa xôi

để thi sĩ ngẩn ngơ say tỉnh

Chàng đã sống với nàng ra sao ? Rất thiết tha, đằm thắm: lúc” kể chuyện lòng” hay” tư tình dưới hoa “, lúc” gắn chặt lời thề trên gối” hoặc cùng hòa nhịp ân tình dạ khúc… Chàng kêu gọi” xin hãy yêu tôi”, say sưa chỉ vì một tiếng em, có bận” hờn giận nhau rồi tình lại mới” , chàng đã từng được hưởng cảnh ấm cúng, trong buổi” xuân ấm hương rừng”, ở giờ phút mở lòng đón” hy vọng chiều xuân”. Nhưng rồi cũng như bao khách si tình khác, phải chia phôi thương nhớ” gặp nhau lần cuối” trải qua đêm chớp bể mưa nguồn, bơ vơ trên đường khuya trơ bước, dù sao cũng “ lạc hướng Mây Tần”(*) .(* :- những chữ” trong ngoặc” lấy ở đầu đề các bài thơ của Đinh Hùng”- Đoàn Thêm chú thích.)

Điều rất đáng chú ý, là tuy họ yêu nhau, chàng thiết tha vô cùng, mà nàng thì ngay trong những giờ phút gần gũi, xem chừng không đủ đằm thắm để đáp lại mối tình sâu xa, sôi nổi, day dứt của chàng.

Chàng đón chờ từng nụ cười, khóe mắt, làn hương trên tóc, một lời êm ái, một bước đi

Chừng nghe qua bóng lá xanh

Có chân ai lặng bước nhanh trong sầu

( Thủy mặc)

Chàng băn khoăn thăm dò từng ý nghĩ, từng rung động của nàng và mỗi khi gần nhau, mong muốn nàng cũng xao xuyến như về mọi cảnh mọi sự để” hai linh hồn vào chung một mộng / hai bóng người làm một bóng thôi” ( Sâm Thương sầu nhạc). Cho nên, chàng phải gạn hỏi rất nhiều

-Em đã cho lòng thương nhớ chưa?

Khi chiều sương bạc ánh saot hưa

-Em có vì thu gieo lệ không ?

( Lạnh mùa đông cũ)

hoặc:

-Em hiểu rằng tôi yêu đến đâu

Khi trăng sơ ý xế ngang đầu

Hồn đêm chợt thoáng qua làn mắt

Tôi ngẩng nhìn em một thoáng mau

hoặc:

-Em muốn đôi ta mộng chốn nào ?

Ước nguyện đã có gác trăng sao…

( Tự tình dưới hoa)

Lúc vui cùng hỏi, lúc buồn cũng muốn biết, nghĩ sao :

-Em trở về đây để nắng hồng

Hồn xưa còn đẹp ý xưa không ?

( Buồn xưa)

Thu về em đã gặp thu chưa?

Giải nước trường giang lạnh mấy bờ ?

( Nụ cười thương nhớ)

Nhưng Nàng cứ im lặng, đôi khi nở nụ cười, nhiều lúc ngả bóng mi sầu, chẳng thấy trả lời một câu, dầu chàng năn nỉ hết lời: muốn biết dĩ nhiên cần nghe nói, và cứ lặng thinh thì thông cảm làm sao ?

-Nói đi em, từng ý nhỏ mà say

Từng rạo rực cánh lòng hoa đương mở

-Nói đi em cho từng mảnh sao rơi

Từng vũ trụ tắt dần trong lồng ngực

Hay là chẳng lên tiếng, thì ít ra cũng biểu lộ tâm tình bằng cách khác:

– Em hãy cười như thuở mới quen

Trời xanh trao khóe mắt như thuyền

Em hãy nhìn như thuở mới say

Màu xuân tô nét nắng đôi mày

( Hy vọng chiều xuân)

Van lơn mãi, cũng vậy thôi, “ anh nhìn em như chiêm ngưỡng một hành tinh,” ( Đường vào tình sử) song “Em nhìn lơ đãng biết bao nhiêu !” ( Truyện lòng). Kết cục, là anh đau khổ vì không thỏa dạ:

Khát vọng còn nguyên lửa cháy rừng

(Lời thề trên gối)

Trước tình trạng đó, ai có thể hành động khác thi nhân, nghĩa là chẳng ôm hận ra đi, mặc dầu vẫn yêu:

Từ buổi ấy, mê một làn hương quý

Tôi ra đi chưa biết sẽ về đâu ?

( Giáp mặt phù dung)

Mà có muốn tìm an ủi chốn khác, cũng vô ích, và chỉ:

thấy quanh đây toàn xác thịt âu sầu

toàn những dáng hoa phai buồn ủ rũ

Vì khát vọng của nhà thơ đâu phải là những xác thịt, nhưng là một tâm hồn bạn, một tâm hồn vừa chan chứa yêu thương, lại vừa cảm thấy được tất cả nỗi lòng thi sĩ vói bao nhiêu hoài mênh mang trước những bóng vang huyền ảo của tạo vật, những uẩn khúc vui buồn nhớ tiếc từ dĩ vãng tha về con người hiu quạnh trong hiện tại và âm thầm chờ đợi tương lai. Lạc bước đi tìm lại hạnh phúc của những ngày vui không còn nữa:

Dòng sông bơ vơ tìm dĩ vãng

Thuyền trôi bang khuâng về tương lai

( Hờn giận)

Và lời gió cùng run cùng cánh bướm

Em không thấy u hoài như sóng gợn

Tự lòng anh rung lại mấy thanh âm

( Tiếng dương cầm)

Ngày xưa bướm trắng mây vàng

Ta sống trong vườn tiên giới

Bây giờ lạc xuống trần gian

Tôi đi tìm Bồng lai mới

(Linh hồn Hoài Điệp)

Nỗi cô đơn trước cuộc đời và vũ trụ đã giải nghĩa khát vọng yêu đương kia, và được diễn tả qua những điệu vần đượm sầu man mác:

Giữa đêm lòng bỗng hoang vu

Gối chăn nghe cũng tình cờ quan san

( Vào thu)

Mây bay ánh mắt trăng tà

Nắng hương cỏ dại, sương pha áo ngàn

Người đi vào giấc mơ tan

Ta soi dòng suối đêm tàn tìm nhau

( Xuân ấm hương rừng)

Đêm tàn, núi đổ, ra đi một mình

( Hoài niệm)

Hồn rừng động tiếng nai kêu

Con thuyền độc mộc trôi theo nỗi buồn

( Sóng hồ Ba Bể)

Nhịp bước nắm cung đàn ảo tưởng

Buông chìm tâm sự nửa đêm say

( Một tiếng em)

Nhưng khách tình si còn nặng nợ với giai nhân, nên tuy lòng tự nhủ lòng, mà vẫn thiết tha kêu gọi, không phải để van lơn cho riêng mình, nhưng tin rằng tình yêu của mình rất cần thiết cho tất cả những ai là hiện thân của sắc đẹp muôn đời muôn vẻ, vì thi nhân sinh ra đời để ca tụng Đẹp của Hóa công, hoặc dùng thơ mà điểm tô Đẹp đó:

-Xin hãy yêu tôi, những lòng thiếu nữ

Tôi chép thơ ca tụng miệng hoa cười

-Tôi không yêu sao có má em hồng ?

Tôi không buồn sao có mắt em trong ?

Tôi không mộng sao có lòng em đẹp ?

-Yêu tôi với, tôi làm thơ ân ái

Để yêu người và cũng để người yêu

Để các em qua từng bước diễm kiều

Trong cánh nước non tình tôi xếp đặt .

( Xin hãy yêu tôi)

Như thế, nghĩa là thi sĩ vẫn yêu, không phải là yêu một người, nhưng yêu đời, yêu sắc đẹp. Cứ như thế mãi, hoa vẫn nở vẫn tàn, nước vẫn chảy, sông núi vẫn im lìm, giai nhân vẫn lặng tiếng; nhưng Đinh Hùng vẫn yêu như đã yêu từ muôn kiếp trước rồi “hóa thân vào nét chữ cuồng si”.

Chẳng biết sau khi nhận xét như trên, tôi đã thấu đáo hồn thơ của ông bạn chưa ? Dù sao, tôi đã hết lòng tìm hiểu đươc phần nào xin trình bày ra phần ấy.

Chắc ông bạn còn muốn biết ý kiến tôi về lời thơ.

Như tôi thường thưa chuyện với ông bạn, thiết nghĩ lời thơ phải tùy tứ thơ, chất thơ, là phần cốt yếu. Đã là tình yêu, thì không cần gọt rũa như khi khách quan tả cảnh, hoặc dùng những chữ mới lạ như khi muốn gợi những thắc mắc hoang mang; nhưng trái lại, lời phải thốt ra từ đáy lòng, càng sát bao nhiêu càng hay bấy nhiêu, thành thực của ý hiện ra bình dị của lời.

Về điểm đó, tôi nhận thấy ông bạn đã thành công ở nhiều bài nhiều đoạn và những câu mà tôi đã trích ra không những có tính cách dẫn chứng về nội dung, còn bộc lộ được tình cảm, có khi với âm hưởng hồn nhiên của lời ca dao thôn dã, nhưng luôn luôn có giọng đơn sơ thân mật của câu tâm sự hai người. Kể ra thì còn nhiều đoạn khác nữa, để khiến cho độc giả nhập tâm, chính tôi đã thuộc lòng những câu như:

Tôi hết thơ hoa, mộng bướm rồi

Bây giờ lòng kể truyện lòng thôi

Bởi em mơ dáng sầu đôi chút

Tôi mới bâng khuâng ngỏ mấy lời.

( Truyện lòng)

Tả tình như vậy, tả cảnh cũng có một đặc sắc: cảnh ngắm qua tình, tình hợp với cảnh, hay chỉ mượn cảnh tả tình ? không thể phân biệt rõ, nhưng chính vì thế mà cảnh không bao giờ khó khăn, lúc nào cũng đượm vui buồn; nghĩa là cảnh có hồn vậy

…Còn nhớ tới bây giờ

Những buổi trưa hè, tiếng võng xưa

Câu chuyện đêm trường bên giếng nước

Tiếng buồn, ai hát giọng đò đưa ?

( Lạc hướng Mây Tần )

Nhưng đơn giản không phải là thiêu thú vị, và những thi ảnh gợi ra bằng vài nét, nhiều khi thấp thoáng như bóng vang hay những cảm giác êm dịu, vì ngả về sầu, và được buông theo những vần điệu nhẹ nhàng:

Em về rũ tóc mưa sa

Năm canh chuốt ngón Tỳ bà khói sương

( Vào thu)

Lá xanh che khuất đường trưa

Bóng thêu hoa nắng lưa thưa điểm vàng

(Thủy mặc)

Bỗng nghe lạc trận mưa ngàn đổ

Cả một mùa thu đã quá giang

( Sóng nước đồng chiều)

Song theo tôi, đó chỉ là những vẻ đẹp rất thường gặp ở một nhà thơ nhiều năm tên tuổi.

Kính bút,

Saigon, ngày 25 – 12 – 1960

Đòan Thêm

 

 

 

Đọc thơ Đinh Hùng

 

Một Tiếng Em


Từ giã hoàng hôn trong mắt em,
Tôi đi tìm những phố không đèn.
Gió mùa thu sớm bao dư vị
Của chút hương thầm khi mới quen.
Cùng bóng hàng cây gập giữa đường,
Ân cần tôi ngỏ tấm tình thương.
Bao nhiêu hoài bão, bao hy vọng,
Nói hết cho lòng nhẹ mối vương.
Rồi đây, trên những lối đi này,
Ta sẽ cùng ai, tay nắm tay …
Nhịp bước năm cung đàn ảo tưởng
Buông chìm tâm sự nửa đêm nay .
Từng bước trôi cùng trăng viễn khơi,
Thâu đêm, chưa hiểu miệng ai cười .
Nụ cười gửi tự thiên thu lại
Tiền kiếp nào xưa, em hé môi ?
Dĩ vãng nào xanh như mắt em?
Chao ôi! Màu tóc rợn từng đêm!
Hàng mi khuê các chìm sương phủ
Vời vợi ngàn sao nhạt dáng xiêm.
Kỷ niệm thơm từ năm ngón tay,
Trăng lên từng nét gợn đôi mày .
Bóng hoa huyền ảo nghiêng vầng trán,
Chưa ngát hương tình, hương đã bay .
Sông biển nào nghe thấu nỗi niềm?
Sóng đâu còn khoé mắt thâm nghiêm?
Lòng ơi! hoài vọng bao giờ nói
Thăm thẳm trùng dương một tiếng “em”?
Nhẹ bước chiêm bao tưởng lạc đường,
Rưng rưng mùi phấn, bỗng ngùi thương,
Sương đầm vạt áo mong manh lệ,
Sao rụng bay vào tóc dạ hương.
Tôi lánh trần ai đi rất xa,
Bâng khuâng sao lạnh ánh trăng tà,
Ngày mai hứa hẹn bừng hương cỏ,
Tôi sẽ say nằm ngủ dưới hoa .

Gửi người dưới mộ


Trời cuối thu rồi — Em ở đâu ?
Nằm bên đất lạnh chắc em sầu ?
Thu ơi ! Đánh thức hồn ma dậy,
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu.
Em mộng về đâu ?
Em mất về đâu ?
Từng đêm tôi nguyện, tôi cầu,
Đấy màu hương khói là màu mắt xưa.

Em đã về chưa ?
Em sắp về chưa ?
Trăng sao tắt, ngọn đèn mờ
Ta nằm rỏ lệ đọc thơ gọi hồn.
Em hãy cười lên vang cõi âm,
Khi trăng thu lạnh bước đi thầm.
Những hồn phiêu bạt bao năm trước,
Nay đã vào chung một chỗ nằm.
Cười lên em !
Khóc lên em !
Đâu trăng tình sử,
Nép áo trần duyên ?
Gót sen tố nữ
Xôn xao đêm huyền.
Ta đi, lạc xứ thần tiên,
Hồn trùng dương hiện bóng thuyền U Minh.
Ta gởi bài thơ anh linh,
Hỏi người trong mộ có rùng mình ?
Nắm xương khô lạnh còn ân ái ?
Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình ?
Hỡi hồn tuyết trinh !
Hỡi người tuyết trinh !
Mê em, ta thoát thân hình,
Nhập hồn cây cỏ, đa tình mỗi đêm.
Em có vui thêm ?
Em có buồn thêm ?
Ngồi bên cửa mộ,
Kể cho ta biết nỗi niềm.
Thần chết cười trong bộ ngực điên,
Ta nghe em thở tiếng ưu phiền.
Nỗi lòng xưa dậy tan Thanh Vắng.
Hơi đất mê người — Trăng hiện lên.

Tự tình dưới hoa

Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ rằng:
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng.
Mắt xanh là bóng dừa hoang dại,
Thăm thẳm nhìn tôi, không nói năng.
Bài thơ hạnh ngộ đã trao tay,
Ôi mộng nào hơn giấc mộng này ?
Mùi phấn em thơm mùi hạ cũ,
Nửa như hoài vọng, nửa như say.
Em đến như mây, chẳng đợi kỳ,
Hương ngàn gió núi động hàng mi.
Tâm tư khép mở đôi tà áo,
Hò hẹn lâu rồi – Em nói đi !
Em muốn đôi ta mộng chốn nào ?
Ước nguyền đã có gác trăng sao.
Truyện tâm tình: dưới hoa thiên lý,
Còn lối bâng khuâng: Ngõ trúc đào.
Em chẳng tìm đâu cũng sẵn thơ.
Nắng trong hoa, với gió bên hồ,
Dành riêng em đấy. Khi tình tự,
Ta sẽ đi về những cảnh xưa.
Rồi buổi ưu sầu em với tôi
Nhìn nhau cũng đủ lãng quên đời.
Vai kề một mái thơ phong nguyệt,
Hạnh phúc xa xa mỉm miệng cười.

clip_image006

Tranh Đằng Giao

Đường vào tình sử


Khi tóc mùa xuân buông dài trước cửa,
Khi nắng chiêm bao khẽ chớp hàng mi,
Khi những con thuyền chở mộng ra đi,
Giấc phiêu lưu như bầy hải điểu,
Kỷ niệm trở về, nắm tay nhau hiền dịu,
Ngón tay thơm vàng phấn bướm đa tình,
Anh sẽ tìm em như một hành tinh,
Mặc trái đất sắp tan vào mộng ảo.
Trên đường ta đi,
Những đóa hoa nở mặt trời xích đạo,
Những làn hương mang giông tố bình sa,
Những sắc cầu vồng nghiêng cánh chim sa,
Và dĩ vãng ngủ trong hồ cẩm thạch
Của đôi mắt sáng màu trăng mặc khách,
Thời gian qua trên một nét mi dài.
Núi mùa hu buồn gợn sóng đôi vai,
Dòng sông lạ trôi sầu vào tâm sự.
Chúng ta đến nghe nỗi sầu tinh tú
Những ngôi sao buồn suốt một chu k ỳ
Những đám tinh vân sắp sửa chia ly,
Và sao rụng biếc đôi tay cầu nguyện.
Ôi cặp mắt sáng trăng xưa hò hẹn,
Có nghìn năm quá khứ tiễn nhau đi.
Anh vịn tay số kiếp dẫn em về,
Nhìn lửa cháy những lâu đài mặt biển.
Phơi phới thuyền ta vượt bến,
Từ đêm hồng thuỷ ra đi.
Lòng ta dao cắt
Chia đôi
Biên thuỳ,
Dòng máu kinh hoàng chợt tỉnh cơn mê.
Chúng ta đi vào lá hoa Tình Sử,
Hơi thở em hoà sương khói Đường thi.
Anh đọc cho em những dòng cổ tự
Ai Cập và Cổ Ly Hy.
Anh viết cho em bài thơ nho nhỏ
Bài thơ xanh ánh mắt hẹn tình cờ,
Có những chữ Hoa yểu điệu,
Không phải đại danh từ.
Nét uốn đơn sơ
Lưng mềm óng ả
Những chữ hoa không thêu phù hiệu,
Những chữ hoa không biết phất cờ.
Một bài thơ
Có tiếng thở dài đôi hồn tình tự,
Vần điệu dìu nhau đi trong giấc mơ,
Sông núi trập trùng lượn theo nét chữ,
Những chữ thương yêu,
Những chữ đợi chờ,
Đẹp như
Dáng em e lệ chiều xưa.
Anh sẽ tìm em, chiều nào tận thế
Khi những sầu thương cất cánh xa bay.
Khi những giận hờn, khi những mê say,
Khi tất cả hiện nguyên hình ảo mộng:
Giọt lệ hoa niên, cung đàn hoài vọng,
Và những hương thơm tình ái trao duyên.
Những không gian thăm thẳm mắt u huyền,
Những vạt áo bỗng trở màu sóng biển.
Chúng ta đến, mùa xuân thay sắc diện,
Chúng ta đi, mùa hạ vụt phai nhoà,
Gương mặt mùa thu phút chốc phôi pha,
Ta dừng gót chợt mùa đông tàn phế.
Em hát mong manh bài ca Tuổi Trẻ,
Bướm bay đầy một âm giai.
Khúc nhạc lang thang như hồn Do Thái,
Đại dương cồn sóng gọi tên ai?
Vời vợi tên em lướt qua Hồng hải,
Tiếng hát nhân ngư tuyệt vọng than dài.
Chúng ta thở những hơi nồng nhiệt đới,
Nghe mùa xuân nẩy lộc rợn trên vai.
Có những giấc mơ lẻn vào quá khứ,
Có những chiêm bao đi về tương lai.
Anh gặp em tự thuở nào?
Mênh mang sóng mắt
Ngờ biển dâu.
Núi non nhìn ta vừa nghiêng đầu
Hình như hội ngộ
Từ ngàn thâu.
Ta tỉnh hay mơ? Chiều nay trăng khép
Hàng mi sầu
Hay tà dương thu
Mưa rơi mau?
Em ơi! Vệt nắng phù kiều uốn mình ô thước,
Ta, suốt đời ngư phủ,
Thả con thuyền trên mái tóc em buồn lênh đênh.
Ôi chao dĩ vãng! Dĩ vãng thần linh!
Một phút, một giây, nhìn ta vạn kiếp!
Thầm gọi cỏ hoa sang tự tình.
Lời nói bâng khuâng, bàn tay duyên nghiệp.
Anh nhìn em như chiêm ngưỡng một hành tinh.

 

Hiểu bụng cá

 

Ai cũng biết Tản Ðà sành ăn, nhưng dường như ít người có dịp “ký sự” một bữa ăn “chính thức” của nhà thơ thích uống. Trong hồi ký Ðốt lò hương cũ, Ðinh Hùng vẽ cho ta xem cái phong cách ẩm thực độc đáo ấy.

(Thu Tứ)

clip_image008

tranh Nguyên Khai

Uống vừa tàn ba tuần trà thì niềm hào hứng của tác giả những Giấc Mộng Lớn, Giấc Mộng Con đã bốc lên tới cái độ hoàn toàn không còn phân biệt tóc bạc với đầu xanh. Tiếng cười sảng khoái của tiên sinh thẳng thắn vang lên trong ngôi nhà gỗ ba gian, làm bay vù những con chim sẻ tọc mạch đậu ngay đầu thềm, phía ngoài bức mành mành rung động bóng cây xanh. Lúc đó, tiên sinh dường như chính thức coi chúng tôi là bạn đồng lứa. Tiên sinh vỗ vai chúng tôi, không gọi chúng tôi là “Cậu” nữa, và rất trịnh trọng, rất chân thành, tiên sinh cũng gọi chúng tôi là “tiên sinh”… để rồi tiên sinh nhất định giữ chúng tôi ở lại uống rượu, dùng cơm với tiên sinh.
Bọn thiếu niên chúng tôi thực không dám chờ đợi những cử chỉ thù tiếp quá thân mật của bậc đàn anh thi bá, nhưng được dùng cơm chung một mâm với nhà thi sĩ tửu đồ nổi tiếng cầu kỳ về khoa ẩm thực, mà lại hầu rượu nhà thơ ở ngay căn nhà thơ mộng trông ra Sông Ðà, Non Tản, xét ra cũng là một dịp thú vị hãn hữu. Vả lại thi sĩ Tản Ðà không để chúng tôi kịp “làm gái” lấy lệ; tiên sinh lập tức gọi người nhà sửa soạn cơm rượu cho bốn người ăn, tiên sinh đích thân bầy biện mâm rượu, và cố nhiên tiên sinh định đoạt lấy thực đơn.
Trước hết, tiên sinh khệ nệ bưng từ dưới gầm giường lên một vò rượu lớn, tiên sinh chuyên rượu đó sang một cái nậm quả bầu, và rót rượu ra bốn chiếc chén cổ, tiên sinh mỉm cười và nói với chúng tôi:
— Các cậu còn trẻ tuổi, chắc chưa quen uống rượu. Nhưng thiếu niên cũng phải tập dần đi thì vừa. Cái lệ của tao nhân mặc khách, đã ăn tất phải uống, mà uống tất nhiên là phải uống rượu. Mời nhau ăn cơm, cao lương mỹ vị đầy đủ, không có rượu, thì thực là… “cầm thú chi tình”!
Chúng tôi nhớ mãi câu nói đó của nhà thơ sông Ðà, núi Tản, và quả tình, trong bữa ăn hạnh ngộ với thi sĩ Tản Ðà ở Khê Thượng hôm ấy, chúng tôi đã phải uống rượu rất nhiều, và ăn rất ít như một tửu đồ chân chính vì chúng tôi cứ nơm nớp lo sợ Tản Ðà chê là… “cầm thú”.
Tuy nhiên phải nhận rằng: ăn uống với một người có phong độ như Tản Ðà, thực là một điều khoái hoạt hiếm có. Tiên sinh đã nâng việc ẩm thực lên tới một nghệ thuật tinh vi, tuy có hơi phiền toái, nhưng nếu có hoàn cảnh hưởng nhàn, thì chính cái phiền toái ấy lại là yếu tố tạo thi vị cho miếng ăn, khiến con người có một chút nào quên đi cái định luật “Ăn để mà sống”, và nghĩ rằng “Ăn để mà tô điểm cho cuộc sống thêm phong vị”. Âu cũng là một quan điểm triết lý nhân sinh của nhà nghệ sĩ chủ trương sự nhịp nhàng hòa điệu cả tâm lẫn vật.
Mâm rượu của thi sĩ Tản Ðà là cả một bản hợp tấu điều hòa đủ mùi, sắc, hương vị, hình thái, cả âm thanh nữa, tiết điệu đơn giản mà linh động, hấp dẫn: trên chiếc mâm vỉ cổ kính thứ mâm gỗ hình chữ nhật vành son, sơn then nhà thơ bày la liệt những đĩa, những chén nho nhỏ xinh xinh, đựng linh tinh các món gia vị: chút tương vàng óng, chút nước mắm ô long nâu thẫm, những trái ớt đỏ tươi, những quả chanh cốm xanh ngắt, và đĩa rau riếp thái nhỏ điểm lên những cánh rau thơm, rau mùi, rau ngổ hái ngay ở vườn nhà, và đĩa rau muống chẻ non bẽo thứ rau muống Sơn Tây trắng nõn như ngó cần không thiếu từ chút hạt tiêu sọ, thêm cả một con cà cuống băm, mấy củ hành hoa, đĩa lạc rang, vài chiếc bánh đa vừng… Ðặc biệt, những gia vị đó đều chia ra làm nhiều đĩa, nhiều chén, đủ bốn phần dàn ra bốn góc mâm như kiểu ăn chả cá.
Liền bên cạnh mâm, ngay đầu giường, thi sĩ đặt cả hai chiếc hỏa lò, than hồng quạt sẵn.
Rượu đã cạn tới chén thứ ba, Tản Ðà mới tuyên bố:
— Hôm nay, ta thưởng thức bữa ăn toàn hương vị đơn sơ của sông Ðà, nghĩa là chỉ có tôm cá tươi, và linh hồn sẽ là món cá dấm… Thực đơn quê mà thôi, nhưng ngon miệng là đủ rồi.
Thi sĩ rung đùi ngâm luôn:
— Nay về Bất Bạt quê nhà,
Sông to, cá lớn lại là thứ ngon…
Và thi sĩ chỉ hai chiếc hỏa lò với hai cái chảo mà mỡ sôi đã bắt đầu xèo xèo một âm hưởng vui tai và ấm lòng. Thi sĩ giải thích:
— Hai chảo mỡ này, một để rán cá một để rán tôm nhắm rượu trước. Món nhắm đặc biệt, phải tự tay mình làm mới thú.
Người nhà đem những khúc cá chép đã đánh vẩy, mổ moi, làm lòng sẵn, máu tươi còn đỏ hồng thớ thịt. Tản Ðà tiên sinh chỉ việc hoàn thành khúc điệu rán vàng khúc cá. Mùi hành tỏi thơm điếc mũi… Khúc cá xắt từng khoanh mỏng được bàn tay rất có nghệ thuật của nhà thơ chuyển âm giai, tiết tấu nhanh thoăn thoắt, và bốn khúc chín vàng đều, cùng một lượt được gắp ra bốn chiếc đĩa men xanh. Ðó là phân khúc thứ nhất của bản hợp tấu.
Phân khúc thứ hai là món tôm rán thứ tôm lớn của sông Ðà vừa mới kéo vó lên khỏi mặt nước, liền được đưa tới đây để nhảy vào chảo mỡ của nhà thi sĩ. Xin nói ngay: đây cũng là món đặc biệt của Tản Ðà. Thường, người ta vẫn ăn tôm rang, tôm sốt cà chua hoặc tôm tẩm bột rán… Nhưng phải ăn tôm tươi rán thuần túy và đơn giản như Tản Ðà, và phải có chảo mỡ bên cạnh, để cũng như Tản Ðà, nhìn thấy từng con tôm cong mình trong mỡ sôi, và được con nào, gắp luôn ngay ra đĩa, lót mấy lá ngổ tươi phía dưới, hoặc điểm mấy cuống ngổ vào ngay chảo mỡ thay cho hành tỏi… (chính Tản Ðà thi sĩ đã nghiên cứu và nghiệm thấy rằng: chỉ có rau ngổ mới hợp vị, mới thực quấn quýt đậm đà với tôm rán. Riêng tôi cũng chịu nhận xét đó là đúng). Tóm lại, phải ăn tôm tươi rán như Tản Ðà ăn, mới thấm được tất cả cái chân vị thuần khiết của tôm Sông Ðà.
Tới món cá dấm là món tiêu biểu nhất của “Bất Bạt quê nhà”… Tản Ðà vội giảng cho chúng tôi nghe cả một bài học về ăn cá dấm:
— Cá dấm thường vẫn là món để ăn cơm. Nhưng, với các tửu đồ biết tự trọng và “hiểu được bụng cá” (nguyên văn của Tản Ðà) thì cá dấm chính là món để uống rượu tuyệt ngon. Và ngon nhất là cỗ lòng cá. Vì đã nấu dấm thì dù là cá chắm, cá chép hay cá mè, cá quả, cũng đều phải nấu cá lớn. Mà cá lớn thì giá trị nhất chỉ có bộ lòng. Ăn cá dấm mà bỏ qua mất bộ lòng, kẻ ấy đáng gọi là bỉ phu, nếu không phải là xuẩn ngốc!
Chúng tôi chỉ biết ngồi nghe thành khẩn. Hơi rượu đã bốc lên say ngây ngất, chúng tôi như chợt tỉnh hẳn người, khi ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt của thìa là, của khế chua, quyện với hơi mẻ nồng nàn tỏa lên từ nồi canh cá dấm nóng hổi, nước sóng sánh mỡ vàng.
Thi sĩ Tản Ðà thận trọng vớt riêng bộ lòng cá ra để vào một chiếc đĩa lớn, lại vớt riêng chiếc đầu cá để vào một chiếc đĩa nhỏ, đoạn nâng chén rượu, cạn một hơi, chìa tay mời chúng tôi vào tiệc và căn dặn mãi:
— Các cậu nhắm đi! Lòng cá ăn trước, đầu cá ăn sau. Chừng nào lòng cá hơi nguội, ta múc một thìa canh dấm nóng chan vào mà húp.
Nồi canh cá dấm đặt trên hỏa lò vẫn sôi sùng sục. Chúng tôi ăn, chúng tôi uống, chúng tôi đặt đũa xuống, nâng bát lên, nhất nhất đều theo cử động Tản Ðà tiên sinh. Tuy nhiên, dù không ai bảo ai, chúng tôi cũng đều cảm thấy đó là bữa ăn cá dấm ngon nhất đời.
Bộ lòng cá đã vợi quá nửa. Rượu đã phải chuyên thêm tới bầu thứ ba. Thi sĩ Tản Ðà càng uống nhiều càng như tỉnh táo thêm, và nói chuyện càng thêm hấp dẫn. Nhân vấn đề thưởng thức lòng cá, thi sĩ đã kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện rất… Tản Ðà, nghĩa là một câu chuyện điển hình thực lý thú về cái nết độc đáo của Tản Ðà trong việc ăn uống.
Có thời, tiên sinh đã ngồi dạy học ở một làng nọ, tuy xa Bất Bạt nhưng cũng thuộc tỉnh Sơn Tây, cũng ở bên cạnh bờ sông Ðà. Lũ môn sinh chữ Hán, ngoài giờ học, còn phải hầu thầy cả những việc lặt vặt: điếu đóm, trà rượu hàng ngày. Một hôm, có người đánh được con cá quả lớn còn tươi, đem biếu thầy đồ. Vừa tan buổi học chiều. Tất nhiên lũ học trò liền có bổn phận xúm nhau vào ngả con cá ra làm món nhắm để thầy xơi rượu. Ngồi dạy học ở nhà lạ, Tản Ðà không tiện xuống bếp “gà” cho môn đệ làm món ăn theo đúng quan niệm của mình. Cả lũ học trò, toàn những con trai mới lớn, dẫu được ông thầy tận tâm dìu dắt cho thông tỏ nghĩa lý thánh hiền, nhưng không có cố vấn trong việc hỏa đầu, nên cả bọn hì hục mãi, đến tối mịt mới xong được mâm rượu bưng lên mời thầy. Mâm rượu cũng khá trọng thể. Con cá lớn được làm thành nhiều món: cá xào, cá rán, cá kho và cũng có cá dấm. Gia vị cũng đầy đủ: rau cỏ miền quê vốn không hiếm. Duy thiếu mất một thứ… Thiếu hẳn mất một thứ bất khả thiếu trong bữa tiệc cá! Và chỉ thiếu mỗi một thứ đó mà cả mâm rượu trở nên vô vị, vô duyên, vô bổ. Y như thiếu một nữ điểm trang diêm dúa mà thiếu mất… tấm lòng!
Thi sĩ Tản Ðà hất hàm hỏi chúng tôi:
— Các cậu có biết mâm rượu thiếu mất cái gì không?
Chúng tôi đồng thanh đáp:
— Bộ lòng cá!
Tản Ðà nhoẻn miệng cười, nhưng cặp lông mày vẫn nhíu lại:
— Phải, lòng cá! Lũ học trò dại dột của tôi tuy có “lòng” quý trọng ông thầy, nhưng lại không biết tôn trọng “lòng” cá. Thực khó “lòng” tha thứ cho lũ thiếu niên nhẹ “lòng” nhẹ dạ, vô tâm, vô tích sự như vậy!
Chắc là nhà thơ bị món lòng cá ám ảnh, nên câu nói cũng lòng thòng toàn những chữ thuộc về lòng với dạ…
Nhà thơ không thể chấp nhận một bữa cá “thiếu quy tắc” như thế — có thể gọi là một bữa cá “thất niêm, thất luật” –. Và, nhà thơ nhất định không cần chiếu cố tới mâm rượu nữa. Lũ môn sinh ngơ ngác nhìn nhau lo lắng, tưởng rằng đã làm điều gì lỗi đạo thánh hiền, khiến thầy phật ý, thầy chẳng thèm ăn. Vỡ lẽ ra, các trò mới hiểu bụng thầy: chung qui chỉ tại bộ lòng con cá quả! Bộ lòng cá đó, lũ học trò “thực bất tri kỳ vị” kia đâu có hiểu biết giá trị! Khi các cậu làm cá ở bờ sông các cậu đã moi tuốt cả những cái gì lủng củng trong bụng cá vất trên bãi cỏ.
Kết cục, ngay giữa đêm tối, thầy đã bắt trò phải đốt đuốc sáng rực, lần ra bờ sông tìm lại cho kỳ được bộ lòng cá, để cho cá dấm có hồn. May sao trên bãi cỏ bờ sông vắng, bộ lòng cá vẫn còn nguyên vẹn. Lũ môn sinh hú vía, hý hửng mang lòng cá về trình thầy. Lòng cá đó liền được luộc lên, canh dấm hâm lại, và cuối cùng, lỉnh kỉnh mãi tới gần giờ Tý canh ba, mà thi bá của chúng ta mới khởi sự nâng đũa, rung đùi cạn chén rượu thứ nhất một cách hài lòng.
Ðó, câu chuyện khả dĩ coi là giai thoại về “nghệ thuật ăn” trong đời Tản Ðà. Thi sĩ vừa khề khà kể chuyện, vừa nhắm nhót, uống rượu, rung đùi, vừa ép chúng tôi uống, giục chúng tôi ăn. Tới khi câu chuyện chấm dứt thì bữa tiệc cũng gần tàn. Và từ đầu bữa ăn đến lúc ấy, tính ra có hơn ba tiếng đồng hồ. Quá ngọ đã lâu, chúng tôi đành xin buông đũa, cáo thoái nhà thơ, vì chúng tôi cũng không thể uống rượu nhiều hơn được nữa. Mặc chúng tôi đứng dậy, thi sĩ Tản Ðà vẫn cứ ngồi yên vị, vẫn cứ nhắm, vẫn cứ uống, vẫn cứ rung đùi… Cho tới khi chúng tôi ra về, nhà thơ của sông Ðà núi Tản vẫn chưa ngừng uống.


(Trong tập
Đốt lò hương cũ – Đinh Hùng)

Bài Mới Nhất
Search