T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Chữ Nghĩa Làng Văn

Ngộ Không : Chữ nghĩa làng văn (Kỳ 47)

  Thờ cúng ở đình làng Ðình làng lớn thường có một tòa nhà hình chữ T, phần dọc là đình trong (hậu cung hay nội điện) là chỗ thâm nghiêm để thờ thần, phần ngang là đình ngoài (tiền tế hay đại bái) chia làm ba khoảng, giữa gọi là trung đình là nơi

Đọc Thêm »

Ngộ Không : Chữ nghĩa làng văn (Kỳ 46)

“m” Nhiều học giả cho rằng phần lớn các âm tiếng Việt biểu thị một cái gì đó. Như phụ âm “m”, hàm ý nghe rất…êm dịu, thỏai mái, như: Mịn màng, mềm mại, mượt mà, man mát, mơn mởn..v..v.. (Nguyễn Triệu Việt – tạp chí Tân Văn) Xạo luận vui về chữ “Tử” Chết

Đọc Thêm »

Ngộ Không : Chữ nghĩa làng văn (Kỳ 45)

Ăn mày chữ nghĩa Khổng Tử đi chơi ra phía đông, thấy hai đứa bé cãi nhau, hỏi tại làm sao, thì một đứa nói rằng: “Tôi thì tôi cho mặt trời, lúc mới mọc, ở gần ta hơn. Về buổi trưa, ở xa ta hơn.” Còn một đứa nói: “Tôi thì tôi cho mặt

Đọc Thêm »

Ngộ Không : Chữ nghĩa làng văn (Kỳ 44)

A Di Đà Phật Trong thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu có câu: “Thỉnh ông Phật tổ A-Di”. “A” có nghĩa là vô. “Di Đà” có nghĩa là lượng. A Di Đà Phật là tiếng Phạn, là lời niệm mong khi tịch được trở về cõi cực lạc (nguyên nghĩa “vô lượng thọ

Đọc Thêm »

Ngộ Không : Chữ nghĩa làng văn (Kỳ 43)

Lúa Chiêm Cây lúa cần nhiều nước nên ban đầu, chỉ có một vụ lúa vào mùa có nhiều mưa (hè, thu) gọi là lúa mùa (1). Về sau có thêm loại lúa có khả năng chịu hạn vào mùa khô (đông, xuân) gọi là lúa chiêm. Lúa chiêm xuất xứ từ Chiêm Thành khô

Đọc Thêm »

Ngộ Không : Chữ nghĩa làng văn (Kỳ 42)

  Chữ “tua rua” trong tiếng Việt cổ Một câu ca dao khác có từ thời cổ xưa mà nguồn từ tộc Nam Dương hay Mã Lai cổ mà nhiều nhà nhân chủng học cho là có liên hệ đến chủng tộc Việt: Bao giờ thấy vỏ thị rơi Tua rua quặt xuống thì thôi

Đọc Thêm »

Ngộ Không : Chữ nghĩa làng văn (Kỳ 41)

Văn hóa du mục Văn hóa Việt từ thời nhà Lê sau này lấy Nho giáo làm quốc giáo. Trong đó có tư tưởng “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” với “nam tôn nữ ti”, hay “dương…thiện âm…ác”. Ác hơn nữa là văn hóa du mục Tầu sang nước ta, các cụ ta

Đọc Thêm »

Ngộ Không : Chữ nghĩa làng văn (Kỳ 40)

  Tiếng Việt sao lắt léo thế Về cách biến thể của những câu nói, chỉ cần ngắt câu thì những câu không giống nhau : Đàn bà không có đàn ông, là con số không Đàn bà không có đàn ông là con số không Đàn bà không, có đàn ông, là con số

Đọc Thêm »

Ngộ Không : Chữ nghĩa làng văn (Kỳ 39)

Giá sách cũ Nhóm Bách Khoa chọn tòa soạn ở đường Phan Ðình Phùng do nhà văn Huỳnh Văn Lang sáng lập. Sau giao toàn quyền việc điều hành cho ông Lê Ngộ Châu. Ông Châu không phải là nhà văn, cũng không hề là nhà báo. Nhưng ông Lê Ngộ Châu là người có

Đọc Thêm »

Ngộ Không : Chữ nghĩa làng văn (Kỳ 38)

Chữ “Việt” theo “Tầu” Khi có chữ viết thì người Tầu dùng phép tượng hình. Để chỉ người Việt, vì người Việt dùng cái rìu làm vũ khí. Họ viết “chữ Việt nguyên thủy” gồm có: Một nét ngang dài tượng hình cho cái cán. Dưới có một cái móc xéo tượng hình cho lưỡi

Đọc Thêm »

Ngộ Không : Chữ nghĩa làng văn (Kỳ 37)

  Chữ nghĩa thập niên 20 Trùng dương – Trùng dương là ngày mùng chín, theo tục xưa thi nhân lên núi cao, cắm hoa phù du, uống rượu cúc và làm thơ. Thu hứng – Trong làng văn, các cụ nhà nho rủ nhau lên núi uống rượu, làm thơ, ấy là thu hứng.

Đọc Thêm »

Ngộ Không : Chữ nghĩa làng văn (Kỳ 36)

  Truyện cực ngắn – Chiến tranh Ði lính hơn ba năm, hắn khoe hắn đã bắn chết đúng tám tên địch. Sang Úc, mỗi lần nhậu ngà ngà, hắn lại khoe khoang thành tích ấy. Bạn bè hắn không tin. Hắn cởi áo và xắn quần lên khoe: trên lưng và dưới chân hắn

Đọc Thêm »
Search
Lưu Trữ