T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Đỗ Xuân Tê : Vùng Đất Chim Độc Thoại

 

Hình : Chim Bắt Cô Trói Cột của rừng núi Yên Bái

Yên Bái, mùa hè 1976…

Đoàn tù chúng tôi sang phà sông Hồng. Trời tối mịt, từng cá nhân với chút hành trang lỉnh kỉnh từ miền Nam ra mò mẫm đi vào vùng cấm địa. Sau này mơí biết đây là bến phà Âu Lâu, gần thị xã Yên Bái, ai lên mạn ngược đều biết điạ danh này.

Traị tù nằm sâu trong thung lũng hẹp, dựa theo sườn đông của rặng Hoàng liên sơn. Địa hình vùng này quả là nơi lý tưởng để giam tù caỉ tạo. Bốn bề là đôì núi, cây trái không thứ nào ăn được, ăn lầm là hết thở. Thú rừng trừ loài khỉ, các loài khác không có đất sống. Chim chóc thì độc một loài với tiếng kêu độc thoaị mà các cụ tôi thường kể cho nghe hồi thơ ấu, đó là loài chim “bắt cô trói cột” mang âm hưởng của một vong hồn oan nghiệt, nghe riết phát khùng. Tuy chỉ sống ở đây khoảng gần hai năm, nhưng ký ức về vùng đất này lại là những tháng ngày không thể nào quên.

Nơi đây, các bạn tù của tôi nhiều người đã nằm xuống. Chủ nhân hai mộ phần đầu tiên được thiết lập trên đất Bắc laị là người có quan hệ mật thiết với tôi, một ông là cấp chỉ huy cũ cùng ngành bị chết ngộp trên tàu khi chưa đến trại, một ông cùng đơn vị vì chứng sốt vàng da. Nhiều nấm mộ mới tiếp tục mọc lên trong những tháng ngày kế tiếp. Nguyên nhân tử vong cũng chỉ nằm trong ba dạng, hoặc tự tử vì sợ không có ngày về, hoặc sốt vàng da do sơn lam chướng khí, nặng nhất là kiết lỵ do cầu tiêu lộ thiên, dòi bọ ô nhiễm nguồn nước.

Luôn được nhắc nhở phải an tâm cải tạo để có ngày về, nhưng những traị viên còn sống sót vẫn không tin vào chính sách vì tử thần luôn rình rập chẳng biết ngày nào đến phiên mình quay lại Ba Đình thăm lăng Bác.

Rồi học tập đâu chẳng thấy, chỉ thấy lên non lao động môĩ ngày. Ăn uống lại chẳng được no, còn chết co vì rét. Thân lính lệ ngày xưa nghe nói đóng đồn ở vùng này tuy ‘ngày thời canh điếm, tôí dồn việc quan’, có vất vả thật nhưng tuị Tây hay bọn quan viên còn cho ăn no mặc ấm. Ngày nay dù đám lính canh giữ tù, mang tiếng là Quân đôị nhân dân nhưng cũng chẳng khá hơn, sức trai bắt ăn tiêu chuẩn nhiều đứa cũng đói, phải xin khoai mì của dân để caỉ thiện thêm. Chính vì thấy đám lính đáng tuổi con em mình sau những năm tháng phải ‘vượt Trường sơn đi đánh Mỹ’ laị bị đầy lên vùng đất này để tiếp tục phí phạm tuổi xuân thì nỗi cay đắng của những tù nhân biệt xứ cũng tạm vơi đi khi nhìn lại thân phận mình.

*

Nhân một chuyến đi bắt heo về cho traị nhằm ngày 2-9 (nói cho ngay, cả năm được dăm ba lần ăn thịt heo hoặc trâu), chúng tôi năm ngươì được lệnh theo viên quản giáo và một chú bộ đội ra phà Âu lâu. Mấy tháng cùi cuị trong rừng, mọi chuyện bưng bít chẳng hiểu từ đâu đến đâu, nay được ra bến sông nhìn nước sông Hồng, lòng thấy vui vui.

Càng đi xa trại, càng thấy lác đác nhà dân, laị gặp từng tốp Kinh có, Tày có, nam ít nữ nhiều trên đường vô thung làm rẫy. Trên đường đi laị được nghe âm vang của chiếc đài chú bộ đội đeo toòng teng bên khẩu AK đang hồ hơỉ phát ra những vần thơ của Giang Nam ca ngơị Tổ quốc mến yêu, quê hương giàu đẹp. Bài thơ bóng bảy, chải chuốt, đậm đà tình tự dân tộc (được sáng tác nhân quốc hội khai tử cái gọi là Mặt trận GPMN, khai trương nước Việt nam thống nhất) nghe thấy nhẹ lòng dù có đọan xa rời thực tế, khi nhà thơ nhắc đến Hoàng liên sơn, vùng đất của loài chim độc thoại mà mười bàn chân chúng tôi đang rảo bước đi qua.

Gần đến bến sông, mắt bọn tôi đang dán vào mấy sơn nữ đi ngược chiều, thì một hình ảnh đập ngay vào mắt muốn tránh cũng không được vì con đường độc đạo. Đó là một mái nhà tranh, bên trong trừ một cái chõng tre, còn thì trống trơn. Ngoài cửa lại treo cái bảng ‘Nhà Giữ Trẻ’, nhưng trẻ đâu không thấy, chỉ thấy một con trâu già với bãi cứt trâu to tướng. Tôi đoán có thể con trâu là của Hợp tác xã gưỉ nhờ qua đêm, còn trẻ thì từ lâu chắc không ai đem đến gửi. Nhưng nghịch lý ở chỗ có cái bảng gỗ với hàng chữ kẻ sơn rất ngay ngắn, “chủ nghĩa Lê-nin vô địch muôn năm” nằm ngay kế bên. Anh bộ đội có vẻ ngượng, tắt đài, dục tụi tôi đi nhanh lên.

Tới bến phà, chúng tôi rẽ vào một khu xóm có khoảng mấy chục nóc gia, theo lối sinh hoạt chắc là gốc Kinh, về sau mới biết họ là những người dưới miền xuôi do gốc gác thành phần bị mất quyền sau cải cách ruộng đất bị chỉ định lên cư trú vùng này. Viên quản giáo cùng anh đôị trưởng vào nhà dân tìm thu mua heo, bốn anh em chúng tôi với chú bộ đôị chờ ngoài quán nước. Goi là quán nhưng hàng hóa cũng lèo tèo. Bà chủ quán già chắc hết tuôỉ lao động từ lâu, biết chúng tôi từ Nam ra, vồn vã mời chào. Chúng tôi thú thật không có tiền vì trại không cho phép giữ tiền, xin ngồi nghỉ thôi. Bà cụ đổi thái độ, quay sang dúi cho anh bộ đội hai điếu Đồ sơn tất nhiên không tính tiền.

Chú bộ đội vốn cảnh giác, sợ tụi tôi trốn, nên chỉ đứng ngoài, để mặc tuị tôi ngồi trong quán (ngồi dưới đất cho dễ kiểm soát). Đột nhiên bà cụ quay lại nói nhỏ, ‘các anh cứ hút thuốc lào và uống chè (trà) thoải maí, không tính tiền đâu mà sợ.’ Laị cho một nải chuối già và chỉ cái rổ khoai lang khỏang vài chục củ bảo cứ ăn. Chú bộ đội biết nhưng cũng lờ đi vì nể bà cụ. Đối với anh ta làm gì thì làm miễn là đừng… trốn. Hơn nữa chọn năm thằng tôi đều thuộc loại ‘lao động tốt, học tập tốt’ nên cũng yên tâm.

Ấy vậy mà lúc ngồi trong quán, tôi thấy anh Thìn gốc Thủy Quân Lục Chiến cứ mắt la mày lém, tôi ngại cái ông này dám trốn lắm, vì đã có mấy trường hợp trốn rồi tuy không thoát dù họ toàn là những cao thủ chuyên chiến đấu nơi rừng núi sình lầy. Lựa lúc chú bộ đội quay đi, bằng một thao tác rất nhanh, Thìn cởi aó tù bên ngoaì, lột cái aó len của vợ mới gửi cho mặc bên trong, lén trao cho bà cụ. Bà cụ bảo các anh cứ “vẽ “(tiếng Nam là bày đặt), nhưng cũng vui vẻ nhận liền và dấu ngay dưới cái sạp tre. Qua trao đổi, tuị tôi biết được ít nhiều về cái xã miền núi này tuy nghèo nhưng có cái tên khá đẹp: Việt Hồng.

Xục xạo mãi cũng mua được hai con heo và ba con chó (chắc cho cánh bộ đôị). Bắt hai con heo không khó khăn, nhưng đuổi và tóm ba chú cẩu là hết sức vất vả. Rút cục phải nhờ mấy ông chủ nhà giúp sức. Hỏi ra thì hai ông bộ đội là dân ăn thịt chó và giết chó nhiều lần nên mấy chú cẩu đánh mùi không chịu cho bắt.

Trên đường về trại, đẩy xe cải tiến đã thấy thấm mệt, tự nhiên có đám con nít chay theo, một thằng cứ hát toáng lên ‘Lợn to! Giò mơí ngon!’ nhái theo điệp khúc của bài hát rất thịnh hành sau “ giaỉ phóng” (Như có Bác trong ngày vui đại thắng). Anh bộ đội vội quát lớn, ‘Thằng ranh con bố láo, đi chỗ khác chơi không chết bây giờ.’ Chắc sợ nên tuị nhỏ vòng ra ngả khác, nhưng âm hưởng của điệp khúc ‘Việt nam! Hồ chí Minh!’ bị pha chế vẫn còn vọng laị trong cảnh tĩnh lặng của chiều hoang.

Thật sự, miệng lưỡi của con trẻ ai mà cản được, nhưng ngạc nhiên ở chỗ sao dưới chế độ cộng sản, được dạy dỗ và suy tôn Bác như thế mà đám thiếu nhi cháu ngoan của Bác vẫn ‘bố láo’ như vậy! Hai anh chàng bộ đội có vẻ khó ăn khó nói với bọn tôi, dù sao họ cũng là thế hệ được lớn lên từ xã hôị này.

Về đến trại, anh đội trưởng dặn ngay chúng tôi thằng quản giáo (trước mặt xưng hô theo nôị qui, sau lưng hai bên đều goị nhau bằng thằng) nó dặn tuị mình ai hỏi đi bắt heo ở đâu thì nói trong thung, đừng nói lung tung lần sau không cho đi nữa! Tuị tôi hiểu ý chữ ‘lung tung’ nên giữ mồm giữ miệng về những điều tai nghe mắt thấy.

Nhưng làm gì có lần sau, vì cuối năm đó họ sợ chúng tôi trốn nên dời chúng tôi xuống các trại miền xuôi do tình hình căng thẳng vùng biên giới Trung quốc dẫn đến cuộc chiến tranh năm 79 giữa hai anh láng giềng ‘vừa là đồng chí vừa là anh em’.

ĐỖ XUÂN TÊ

©T.Vấn 2011

Bài Mới Nhất
Search