T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Độc Thoại về những cuốn phim chiến tranh

clip_image002

Ảnh (Courtesy of ronazevedo.com)

Đây là điều tôi giữ kín. Không ai khác được biết. Tôi chỉ kể cho duy nhất một người bạn của tôi mà thôi.

Tôi làm công việc quay phim. Tôi đến đó mang theo tất cả những gì tôi đã được chỉ dạy : đối mặt với chiến tranh, người ta sẽ trở thành một nhà văn thực thụ. Giã từ vũ khí* là quyển sách gối đầu giường của tôi. Khi tôi đến, thấy dân chúng đang cuốc đất trong vườn, chung quanh có cả xe xúc đất, máy gieo hạt. Tôi sẽ làm gì đây? Không có cảnh súng nổ đạn bay nào để quay phim cả.

Cảnh quay đầu tiên của tôi là tại trụ sở ban nông nghiệp. Người ta đặt một cái máy truyền hình lớn giữa sân khấu rồi tụ họp mọi người chung quanh. Họ đang nghe ông Gorbachev nói chuyện – ông ta bảo mọi chuyện đều ổn cả, chúng ta đang làm chủ tình hình. Trong ngôi làng mà chúng tôi đến quay phim người ta đang làm công việc “giải xạ”. Người ta đang chùi rửa các mái nhà. Nhưng làm sao có thể chùi rửa cái mái nhà của một bà cụ già nếu nó đã bị dột? Còn với đất, để giải xạ thì phải xúc đi hẳn lớp đất màu mỡ trên mặt. Sau đó chỉ còn lớp cát vàng. Có một bà cụ, bảo sao là bà làm đúng như thế, bà ném bỏ lớp đất trên mặt đi nhưng giữ lại chỗ nào có phân bón để sử dụng sau này. Thật tiếc tôi đã không quay cảnh đó.

Đi đến đâu, hễ thấy tôi là mọi người lại kêu lên: “Đây rồi, người của phim ảnh đây. Chờ chút nhé, chúng tôi sẽ đi tìm cho các ông những nhân vật anh hùng.”. Họ dẫn đến giới thiệu với chúng tôi một ông già và đứa cháu trai của ông. Cả hai đã vất vả suốt hai ngày trời lùa lũ bò ra khỏi khu vực ngay bên cạnh trạm Chernobyl. Cảnh quay xong, một chuyên viên về gia súc đã gọi chúng tôi đến xem một cái hố khổng lồ, nơi đó người ta chôn xác bò bằng máy ủi đất. Nhưng lúc ấy tôi lại không bận tâm quay cảnh cái hố chôn súc vật. Thay vào đó, tôi đi tìm những cảnh phù hợp với truyền thống vĩ đại của những phim tài liệu về lòng yêu nước : Mấy người lái xe ủi đất đang ngồi đọc báo Sự Thật, với hàng tít lớn ngay trên đầu trang báo : “Đất nước sẽ không bỏ rơi những người dân đang gặp hoạn nạn!“. Thậm chí, tôi còn gặp may mắn hơn nữa là lúc ấy có một con cò trắng đang đứng giữa cánh đồng. Thật là một biểu hiện đầy ý nghĩa! Bất kể mọi thảm họa đang đổ xuống trên đầu chúng ta, chúng ta vẫn sẽ chiến thắng! Đời sống vẫn cứ tiến về phía trước.

Những con đường làng. Đầy bụi bậm. Tôi đã biết đó không chỉ là bụi, mà còn là bụi phóng xạ. Tôi đậy kín máy quay phim lại để bảo vệ mặt kính. Dạo đó là vào tháng 5 trời rất khô hạn. Tôi không biết mình đã nuốt bao nhiêu bụi. Sau một tuần lễ, các cục hạch bạch huyết cầu trên da tôi sưng tấy lên vì chất phóng xạ. Chúng tôi sử dụng rất tiết kiệm phim giống như người lính tiết kiệm đạn dược, vì có tin viên bí thư thứ nhất ủy ban trung ương đảng cộng sản Belarus là Slyunkov sẽ đến thăm. Không ai cho chúng tôi biết đích xác nơi ông bí thư sẽ ghé lại nhưng rồi chúng tôi cũng tìm ra được. Mấy hôm trước, tôi lái xe đi trên con đường đất bụi nhiều đến độ tưởng như đang lái xe xuyên ngang một bức tường đất. Thế rồi, hôm sau thấy nó được sửa chữa, lát mặt đường bằng xi măng dầy đến hai ba lớp. Tôi đoán ngay đó sẽ là nơi người ta đứng chào đón viên lãnh tụ đảng đi qua. Sau đó, tôi đã quay được cảnh mọi người đi trên con đường xinh xắn, sạch sẽ với lớp xi măng mới tinh vừa được lát trên mặt. Nhưng lề đường thì vẫn là lớp đất bụi. Tôi có quay cảnh lề đường nhưng sau đó đổi ý, không sử dụng nó trong kịch bản.

Không một ai hiểu được rõ ràng cái gì đang xẩy ra, đó là điều đáng sợ nhất. Máy đo độ nhiễm phóng xạ cho biết một loạt những số liệu, nhưng báo chí lại đăng tải những số liệu hoàn tòan khác. Dần dà tôi cũng tự mầy mò hiểu được đôi điều : Tôi có đứa con nhỏ ở nhà, cùng với người vợ yêu thương . . . thế thì tôi là thứ ngu ngốc nào để mà lại có mặt ở đây? Chà, có thể người ta sẽ ban thưởng cho tôi huân chương. Nhưng vợ tôi sẽ bỏ tôi mà đi. Sự cứu rỗi duy nhất ở đây là biết cách diễu cợt mọi chuyện. Có hàng tá những câu chuyện diễu cợt được lan truyền.Trong một ngôi làng người ta chỉ tìm thấy có một anh chàng vô công rồi nghề và 4 phụ nữ. “Thế chồng của chị đâu rồi ?”. Họ tự diễu cợt với nhau như thế. “Ôi, thằng vô lại cũng trốn biệt qua làng bên rồi!”. Nếu mà mình lúc nào cũng cứ cố nhìn mọi việc bằng con mắt nghiêm chỉnh, thí dụ như, ở Chernobyl này – người ta đang lát lại đường xá – thì phải hiểu rằng cuộc sống vẫn cứ trôi đi như nó phải trôi đi. Mọi việc đã xẩy ra như nó phải xẩy ra. Tôi đã từng có cảm giác này khi một người thân của tôi qua đời. Bình minh vừa rạng, chim chóc bay lượn đây đó,  những con chim sẻ cất tiếng hót vang, bỗng trời đổ mưa. Vậy mà người thân của tôi qua đời. Bà có hiểu được không? Tôi muốn giải thích cái tâm cảnh ấy một cách ngắn gọn, cái tâm cảnh đã khiến tôi khó thể quên được.

Tôi bắt đầu quay cảnh những cây táo đang ra hoa. Cảnh bầy ong thơ thẩn bay vo vo hút nhụy từ những bông hoa màu trắng cô dâu. Mọi người ai cũng bận rộn giữa những khu vườn hoa nở rộ. Tôi cầm máy quay phim trên tay mà vẫn không hiểu gì hết. Có cái gì đó không ổn ở đây. Ánh sáng quay phim bình thường, hình ảnh đẹp, nhưng tôi vẫn cảm thấy có gì khác lạ. Và rồi tôi chợt nhận ra : Mũi tôi không ngửi được mùi thơm đáng lẽ phải có của một vườn hoa. Sau này tôi mới được biết rằng đôi khi cơ thể con người phản ứng lại sự xâm nhập của một lượng lớn chất phóng xạ bằng cách tạm ngưng sự hoạt động của một chức năng nào đó. Lúc ấy, tôi nghĩ đến mẹ tôi, bà đã 74 tuổi và không còn phân biệt được mùi gì. Từ đó, tôi cho rằng chức năng ngửi của mình đã bị hỏng. Tôi hỏi 3 người bạn đồng sự : “Cây táo có mùi gì không?” “Họ chẳng ngửi thấy mùi gì cả.”. Vậy là có một điều gì đó không ổn xẩy ra với chúng tôi. Ngay đến cả hoa Tử đinh hương như thế mà chúng tôi cũng không ngửi thấy được mùi. Tôi có cảm tưởng chung quanh mình tất cả đều không có thật. Và chính mình đang ở trong một cảnh phim được dựng lên từ sự tưởng tượng. Tôi không thể lý giải được điều gì nữa. Từ trước tới nay tôi chưa hề đọc hay nghe nói về một trường hợp tương tự.

Hồi nhỏ, tôi được một chị trong xóm kể cho nghe về kinh nghiệm du kích trong thời chiến tranh của chị. Một lần, đơn vị của chị bị quân Đức bao vây rất chặt, nhưng bọn chị vẫn tìm cách thoát được. Tay chị bế đứa con trai mới 1 tháng tuổi của mình chạy dọc theo một khu vực đầm lầy trong rừng. Bọn Đức bám theo rất sát mà đứa bé cứ khóc. Chúng có thể lần theo tiếng khóc ấy để bắt giữ toàn bộ đơn vị du kích đang tìm cách lẩn trốn. Thế là chị đành phải bóp mũi đứa bé để nó không thể khóc được nữa. Chị kể câu chuyện với một giọng bình thản như thể người mẹ ấy không phải là chị, và đứa bé không phải là con chị. Tôi không nhớ tại sao chị lại kể cho tôi nghe câu chuyện này. Nhưng tôi nhớ rất rõ cảm giác kinh hoàng của chính mình. Sao mà chị có thể làm như thế được? Tôi cứ tưởng rằng cả đơn vị du kích ấy tìm cách thoát khỏi vòng vây là để cứu đứa bé, chứ không phải để bảo toàn mạng sống của những con người khỏe mạnh kia bằng cách bóp mũi đứa bé đến chết để nó thôi không khóc. Vậy đâu là mục đích của sự sống? với tôi, tôi chắc mình không thể sống bình thản sau một sự việc như thế xẩy ra. Dù khi ấy tôi vẫn còn là một đứa bé nhưng sau khi nghe câu chuyện, tôi đã mang cảm giác khó chịu mỗi khi nhìn thấy chị hàng xóm.

Còn chị ấy thì nghĩ thế nào về tôi? {Im lặng một lúc.} Đây là lý do tại sao tôi không muốn nhớ chút gì đến những ngày tháng tôi sống ở Khu Cấm. Tôi đã tưởng tượng ra nhiều cách giải thích khác nhau, nhưng tôi không muốn mở cánh cửa của sự tưởng tượng. Thay vào đó, tôi muốn biết những gì thuộc về tôi, phần nào là có thực và phần nào là không thực.

Một đêm, tôi thức giấc trong căn phòng ở nhà tạm nghỉ vì một âm thanh đơn điệu và thứ ánh sáng màu xanh rất kỳ lạ. Tôi kéo tấm màn cửa sổ, nhìn xuống thấy những chiếc xe có dấu hiệu chữ thập đỏ được trang bị còi hụ nhưng lại di chuyển trong sự im lặng hoàn toàn. Tôi cảm thấy đầu óc choáng váng. Tôi nhớ loáng thoáng những phim chiến tranh đã xem thời nhỏ. Lớn lên sau chiến tranh, chúng tôi đứa nào cũng thích xem phim chiến tranh, với những cảnh gây cảm giác rất mạnh nơi chúng tôi, đại loại như nếu tất cả mọi người đều đã bỏ thành phố di tản hết cả, chỉ còn lại một mình mình, thì mình sẽ phản ứng như thế nào cho đúng đây? Chẳng lẽ mình sẽ giả vờ chết? Hay làm gì khác?

Ở Khoyniki, có một tấm bảng “Ghi Công” được dựng lên ngay giữa trung tâm thành phố. Tất cả những người tiếng tăm nhất thành phố đều có tên trong bảng ghi công ấy. Nhưng lại chính là viên tài xế tắc xi nát rượu đã chạy vào khu nhiễm phóng xạ để cứu những đứa bé ở khu nhà trẻ chứ không phải bất cứ một ai có tên trên bảng ghi công ấy. Con người ta ai thực sự như thế nào thì sẽ trở nên như thế thôi. Sau đó là cái vụ di tản. Đám trẻ con được cho đi trước bằng những chiếc xe bus to tướng. Tôi chợt nhận ra là mình đang quay những cảnh phim y hệt như người ta quay những cảnh phim trong thời chiến. Mọi người trước mặt tôi kia cũng có những cử chỉ động tác tương tự những cảnh trong cuốn phim mà nhiều người ưa thích – Khi đàn sếu bay qua **– cũng một giọt nước mắt đơn độc và lời giã biệt ngắn ngủi. Thì ra chúng tôi thẩy đều vô thức phản ứng theo một cung cách quen thuộc. Chúng tôi muốn chứng tỏ mình đã sống đúng với vai trò mà xã hội mong đợi, và đây cũng là điều chúng tôi muốn ghi nhớ. Ngay đến một bé gái nhỏ cũng đang giơ tay chào tiễn biệt mẹ mình theo cái cách có ý nghĩa rằng “mọi chuyện sẽ ổn cả thôi mẹ ạ. Con sẽ tỏ ra can đảm và chúng ta sẽ chiến thắng!”.

Tôi nghĩ tới lúc mình sẽ đến Minsk và ở đó người ta cũng chuẩn bị để di tản. Tôi phải nói lời chia tay với vợ và con trai tôi như thế nào đây? Tôi tưởng tượng chắc mình cũng sẽ lập lại một cử chỉ giống hệt bé gái kia : Chúng ta sẽ chiến thắng! Chúng ta là những chiến binh quả cảm mà. Trí nhớ của tôi vẫn còn rõ ràng hình ảnh cha tôi trong bộ quân phục, mặc dù ông chưa hề một ngày trong quân đội. Chỉ có bọn tư sản mới chỉ nghĩ đến tiền bạc và chỉ có những người không yêu nước mới chỉ quan tâm đến cuộc sống của riêng mình. Sự đói khát là một trạng thái bình thường của cuộc sống. Tổ tiên chúng ta đã từng sống qua bao nhiêu gian khổ, và chúng ta cũng phải trải qua những đoạn đời khó khăn tương tự. Nếu không, chúng ta sẽ không bao giờ trở thành con người đúng nghĩa.

Chúng tôi đã được tôi luyện như thế. Nếu mỗi ngày qua đi chúng tôi chỉ phải làm việc và được ăn uống no đủ thì quả đó là một sự kiện lạ lẫm và không thể chịu đựng được.

Chúng tôi sống cùng dãy nhà với những thanh lý viên trong khu vực thuộc về một cơ quan chuyên trách kỹ thuật. Họ là những thanh niên còn rất trẻ. Thường hay đem qua cho chúng tôi cả thùng rượu Vodka để đối phó với chất phóng xạ. Bất ngờ chúng tôi được biết có một nhóm y tá cũng ở trong khu. Tất cả đều là nữ. Mấy anh thanh niên bàn tán : “Vậy là mình có thứ để vui rồi!”. Trong số họ có hai anh chàng tinh nghịch chạy qua bên đó rồi trở về ngay với cặp mắt tròn xoe đầy kinh ngạc. Họ thấy mấy cô gái đi ngoài hàng lang, mặc những bộ quần áo rộng thùng thình, dài phết đất, với bộ dạng không một chút thiết tha gì đến chung quanh. Trông họ giống nhưng những chiếc móc trên đó người ta treo những miếng vải cũ kỹ, xốc xếch. Có người chân đi dép, có người chân mang ủng rách lòi cả ngón chân. Bên ngoài họ khoác lớp trang phục bằng mủ đã được sát trùng. Đêm đến có người cứ để nguyên như thế leo lên giường, không buồn cởi chúng ra. Một cảnh tượng thật kinh khủng. Mà thực sự mấy cô gái này không phải là y tá, họ chỉ là những học viên thuộc một học viện quân sự nào đó. Người ta bảo rằng họ chỉ phải ở đây vào mấy ngày cuối tuần thôi, nhưng khi chúng tôi dọn đến, các cô gái ấy đã ở đây từ hơn một tháng rồi. Họ kể lại đã được đưa đến khu lò phản ứng và đã nhìn thấy đám cháy. Nhờ vậy chúng tôi mới được biết về vụ cháy vì duy nhất chỉ có họ mới kể lại với chúng tôi về việc này. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn hình dung ra được hình ảnh họ đi qua dẫy hành lang với bộ dạng của những người mắc bệnh mộng du.

Báo chí đưa tin rằng, thật may mắn hôm ấy gió đã thổi đi một hướng khác, không về hướng thành phố, không về hướng Kiev. Đúng thế. Nhưng nó lại thổi về hướng Belarus, về hướng tôi, về làng Yurik của tôi. Chúng tôi đang đi vào rừng hái bắp cải. Trời ạ, chẳng có ai nói cho chúng tôi biết điều gì cả. Từ trong rừng, chúng tôi về lại Minsk. Rồi tôi đi làm bằng xe bus. Trên xe, tôi nghe người ta bàn tán về vụ Chernobyl : có mấy phóng viên đến quay phim ở đó, và một người đã bị chết trong lúc làm nhiệm vụ. Anh ta chết vì bị lửa thiêu cháy. Tôi băn khoăn không biết anh phóng viên nhiếp ảnh ấy là ai, liệu tôi có biết anh ta không. Rồi tôi nghe : anh phóng viên còn rất trẻ, nhưng đã có hai con. Họ cho biết tên của anh: Vitya Gurevich. Đúng là đoàn quay phim chúng tôi có một người với cái tên đúng như thế. Nhưng nguồn tin về hai đứa con thì có vẻ khác lạ. Sao anh ta chẳng cho chúng tôi biết gì về việc này? Khi tôi sắp đến sở, người ta cho tin tức chính xác hơn : Họ của anh chàng phóng viên xấu số không phải là Gurevich, mà là Gurin, Sergei Gurin. Trời đất ơi! Sergei Gurin lại chính là tôi! Chuyện thật tức cười. Tôi bước vào sở với sự nôn nóng lúc mở cửa ra sẽ nhìn thấy hình của mình chễm chệ trên bệ tưởng niệm. Và ngay lúc đó là sự thắc mắc hết sức tức cười : “Họ lấy hình của mình ở đâu nhỉ? Chắc là từ phòng nhân viên chăng ?”.

Những tin đồn như vậy xuất phát từ đâu? Tôi cho rằng do bởi sự không cân xứng đến độ vô lý giữa tầm vóc của thảm họa và con số những nạn nhân của nó. Một trận chiến nổ ra, chẳng hạn như ở Kursk, với con số thương vong hàng ngàn người, đó là điều có thể hiểu được. Nhưng ở Chernobyl, trong vài ngày đầu tin tức loan báo con số thiệt mạng chỉ khoảng độ 7 người. Rồi thêm vài người nữa. Thế rồi, ngay sau đó, sự thiệt hại được cho biết to lớn đến độ hầu như phi lý khiến không ai hiểu được, nào là “di hại cả hàng mấy thế hệ” hay “mãi mãi bị tiêu hủy” , hoặc “chẳng còn gì sót lại”. Từ đó, đẻ ra những tin đồn về những con chim có 3 đầu, hay chuyện con gà mổ chết con chồn, hoặc những con nhím bị rụng hết lông v.v.. và những câu chuyện vô lý tương tự. Sau này, chính phủ cần thêm người đi làm việc ở Khu Cấm. Một anh phóng viên nhiếp ảnh trình giấy chứng nhận mình bị mắc khối u trong cơ thể để được miễn trưng dụng. Một anh xin đi nghỉ phép thường niên. Tóm lại, ai cũng tìm cớ để né tránh. Thế nên, mặc dù tôi vừa mới từ Khu Cấm được mãn nhiệm trở về, vẫn được lệnh trình diện. Họ bảo “anh phải đến đó lần nữa!”. Tôi phản đối : “Nhưng tôi mới ở đó vừa về đến nhà!”. “Đấy, chính vì vậy mà chúng tôi cử anh đi đấy. Anh đã từng ở đó rồi thì việc quay trở lại lần nữa không còn là vấn đề. Ngoài ra, anh cũng đã có con cái. Còn những người khác thì họ còn quá trẻ và chưa có con cái gì.”. Ôi, Chúa ơi! Có thể tôi muốn có 5 hay 6 đứa con thì sao! Nhưng người ta tiếp tục làm áp lực, đại khái như, chúng tôi sắp sửa phải tái xem xét lương bổng của nhân viên, anh đã có công trạng như thế này thì chắc chắn sẽ được tăng lương thôi. Câu chuyện nghe vừa buồn vừa tức cười. Tôi đã hầu như bỏ được nó ra khỏi tâm trí của mình.

Trước đây, đã có lần tôi quay một cuốn phim về những người đã từng sống trong các trại tập trung. Họ tránh gặp gỡ nhau. Tôi có thể hiểu được tại sao. Có cái gì không được tự nhiên lắm trong việc tụ họp nhau lại rồi nhớ đến những ngày tháng chiến tranh. Nhất là với những người đã từng bị sỉ nhục, đầy đọa chung với nhau, hoặc chứng kiến cảnh những con người khi bần cùng đã đối xử với nhau như thế nào. Ở Chernobyl tôi cảm thấy mình hiểu được điều gì đó đã xẩy ra nhưng thực sự không muốn nói về nó. Chẳng hạn như sự thật hiển nhiên là mọi lý tưởng nhân loại đều chỉ có giá trị tương đối. Trong những tình huống cực kỳ khác thường, con người không cư xử giống như được mô tả trong những quyển sách. Thậm chí còn ngược lại với sự mong đợi. Không phải ai cũng có thể làm anh hùng.

Xét cho cùng, con người chúng ta vốn là những kẻ bán lẻ những thảm họa. Thảm họa lớn, thảm họa nhỏ. Trong đầu tôi vẫn còn giữ những hình ảnh khó quên. Viên chủ tịch nông trang muốn có được hai chiếc xe để chuyển vận cả gia đình ông ta cùng với tất cả quần áo, bàn ghế trong nhà. Và thế là bên cơ quan đảng cũng đòi phải có được một chiếc xe, để cho công bằng. Trong khi đó, đã nhiều ngày người ta không có đủ xe cộ để di tản những nhân viên và học viên của một trường huấn luyện y tá. Vậy mà ở đây 2 chiếc xe vẫn không đủ chở đi hết những đồ đạc của gia đình chủ tịch nông trang, bao gồm cả những hũ lớn đựng bánh mứt và dưa chua. Tôi đã chứng kiến họ chất những thứ ấy lên xe. Nhưng tôi không quay cảnh đó. {Bỗng nhiên cười lớn}.

Chúng tôi có mua một ít xúc xích, một ít thịt hộp trong tiệm thực phẩm, nhưng lại sợ không dám ăn. Đi đâu, chúng tôi cũng mang những thứ thực phẩm ấy theo, đơn giản chỉ vì không muốn vất chúng đi. {Trở nên nghiêm túc}. Guồng máy của sự ác vận hành hữu hiệu dưới những điều kiện, trong đó không thể không kể đến sự tồn tại của những huyền nhiệm. Đó là một điều mà tôi đã hiểu được. Lúc nào người ta cũng sẵn sàng ngồi lê đôi mách, nịnh bợ chủ, lo giữ cái máy truyền hình cũ mèm và cất kỹ chiếc áo lông xấu xí của mình. Con người rồi sẽ như vậy cho đến ngày tận thế. Luôn luôn là như vậy.

Tôi cảm thấy buồn vì đã không giúp gì được những người trong nhóm làm phim của chúng tôi đòi những quyền lợi sau khi mãn nhiệm công việc ở Chernobyl. Một người trong anh em chúng tôi cần thuê một căn hộ ở chung cư. Tôi tìm đến ủy ban công đoàn, bảo họ : “Xin hãy giúp chúng tôi. Chúng tôi đã ở Khu Cấm 6 tháng trời. Chúng tôi xứng đáng được hưởng quyền lợi như đã được hứa hẹn.”. Họ trả lời : “Được rồi. Đem giấy xác nhận đến đây. Phải có dấu đóng đầy đủ đấy!”. Chúng tôi đến gặp Khu Ủy trong Khu Cấm. Ở đó chỉ còn lại một người phụ nữ, chị Nastya, đi đâu tay cũng cầm cây móp lau nhà. Những người khác đã bỏ đi hết rồi. Cũng còn có một tay giám đốc. Ông ta giữ hàng đống những giấy xác nhận mà chúng tôi cần. Nào, xem nào! anh này đã ở đâu nào, đã quay những cảnh phim nào. Một vị anh hùng, phải không ?

Trong hồi ức của tôi có một cuốn phim dài, vĩ đại, nhiều chương đoạn. Cuốn phim mà máy quay của tôi không bao giờ ghi lại {Im lặng}. Chúng ta đều là những kẻ đi bán lẻ những thảm họa.

Tôi nhớ có lần chúng tôi cùng với những người lính vào căn lều của một bà cụ già .

“ Bà ơi! Mình đi thôi!”

“Được rồi, các cháu ạ!”

“Vậy bà hãy thu tóm đồ đạc nhanh lên nhé!”

Chúng tôi ra ngoài, hút thuốc, chờ. Một lúc sau, bà già bước ra, trên tay bà có một bức tượng, con mèo và cái túi nhỏ. Gia tài của bà cụ chỉ có thế.

“Bà cụ ơi, bà không thể mang theo con mèo được. Người ta cấm vì lông của nó chứa đầy chất phóng xạ!”.

“Không được, các cháu ơi! bà sẽ không đi nếu không được mang theo con mèo. Để nó ở lại làm sao được? bà không thể để nó ở đây một mình. Nó là gia đình của bà đấy.”

Thế đấy, từ bà cụ già cương quyết không chịu bỏ rơi con mèo, từ cây táo không có một mùi vị gì, tôi đã bắt đầu suy nghĩ. Từ lúc này trở đi, tôi chỉ quay phim súc vật. Có lần tôi đã cho lũ trẻ con coi những thước phim tôi quay ở Chernobyl, cha mẹ chúng tỏ ra rất khó chịu : sao ông lại làm thế? trẻ con đâu cần phải biết những việc này. Vậy là chúng cứ phải sống trong sự sợ hãi giữa những lời bàn tán, những tin đồn, khiến máu chúng thay đổi, hệ thống miễn nhiễm của cơ thể chúng bị đứt đoạn. Buổi công chiếu những thước phim Chernobyl của tôi được người đến xem chật rạp, trong khi tôi thực sự chỉ mong có 5 hoặc 10 người đến là đủ thành công rồi. Họ xem và đặt ra đủ loại câu hỏi, nhưng có một câu hỏi làm tôi nhớ mãi. Đó là câu hỏi từ một cậu bé có cử chỉ nhút nhát, miệng lắp bắp chứng tỏ cậu thuộc loại trầm lặng, ít nói : “tại sao không có ai giúp đỡ những con thú vật?”. Cậu bé đặt câu hỏi ấy đã là người đến từ tương lai. Tôi không thể trả lời được câu hỏi. Nghệ thuật của chúng ta là chỉ nói về nổi đau khổ và tình yêu của con người, chứ không của tất cả các loài sinh vật khác. Với chúng ta, chỉ có con người là đáng kể. Chúng ta không tự hạ mình xuống một mức độ ngang tầm với thú vật, cây cỏ vì chúng thuộc về một thế giới khác. Vì vậy, ở Chernobyl, con người phẩy tay với hết thẩy những chủng loài khác không phải mình.

Tôi tự mình tìm hiểu, đi hỏi dò khắp nơi, được cho biết rằng trong những tháng đầu sau khi tai nạn xẩy ra, có người đã đề nghị thực hiện một dự án di tản thú vật cùng với con người. Nhưng di tản như thế nào? Làm cách nào để tạo dựng một môi trường sống cho chúng? Hãy cứ cho là người ta có thể di tản những sinh vật sống trên mặt đất, thế còn những sinh vật sống trong đất, như con trùng, con sâu, thì sao? rồi lại còn những sinh vật bay trên trời? di tản lũ chim sẻ, chim bồ câu như thế nào đây? Chúng ta sẽ phải làm sao với chúng, khi không hề có bất cứ một phương tiện gì để có thể “thông tin liên lạc” với các sinh vật không phải con người? Đó chính là thế lưỡng nan mang tính triết học. Một cuộc đổi mới về cảm thức đang diễn ra ở đây.

Tôi muốn thực hiện một cuốn phim có tên “Những Con Tin” để nói về thú vật. Một điều kỳ lạ đã biến đổi tôi mạnh mẽ. Mỗi ngày, tôi cảm thấy mình gần gủi hơn với thú vật, với cây cối, với chim chóc. Khoảng cách giữa tôi và chúng đã mỗi ngày mỗi thu hẹp lại. Đã nhiều năm nay tôi thường lui tới Khu Cấm. Có khi tôi thấy một con heo rừng chạy ra từ một ngôi nhà bị bỏ hoang, có khi là một con nai. Đó là những cảnh phim mà tôi đang quay. Cuốn phim của tôi sẽ cho người xem nhìn mọi sự việc qua con mắt của một loài thú. Người ta thấy vậy, hỏi tôi : “Ông đang quay phim gì vậy? Hãy nhìn xung quanh kìa. Chiến tranh vừa nổ ra ở Chechnya đấy!”. Nhưng mà ông thánh Francis vẫn đi giảng đạo cho lũ chim chóc nghe. Ông ta đối xử với chúng thật bình đẳng. Thử hỏi điều gì sẽ xẩy ra,  nếu lũ chim nói chuyện với thánh Francis bằng ngôn ngữ chim của mình chứ không phải chính thánh Francis đã tự hạ mình xuống nói chuyện với chúng?

Sergei Gurin

Nhà quay phim

Chú Thích :

*Giã từ vũ khí ( A Farewell to arms ). Một tác phẩm chiến tranh kinh điển của nhà văn Mỹ Ernest Hemmingway (1899-1961).

**Khi đàn sếu bay qua (The cranes are flying)(1957)- Phim của đạo diễn người Georgia Mikhail Kalatozov mô tả sự độc ác của chiến tranh và nỗi thống khổ mà người dân Xô-Viết phải chịu đựng sau trận đệ nhị thế chiến.

“Tiếng Vọng từ Chernobyl”-Mục Lục

“Tiếng Vọng từ Chernobyl” của Svetlana Alexievich.

Bản Việt ngữ do T.Vấn & Bạn Hữu thực hiện, dựa trên bản Anh ngữ của Keith Gessen, Nhà Xuất Bản Dalkey Archive Press –Normal – London 2005.

©T.Vấn 2016

Bài Mới Nhất
Search