T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không: Tác Giả và Tác Phẩm – Kiệt Tấn (II)

clip_image002

 

Tiểu sử

Tên thật: Lê Tấn Kiệt, sinh năm 1940 tại Bạc Liêu. Hiện sống tại Bagnolet, Pháp.

Tác phẩm

Nụ Cười Tre Trúc, Thương Nàng Bấy Nhiêu, Nghe Mưa, Lớp Lớp Phù Sa, Biết Ðâu Tìm.

 

Đọc Văn Kiệt Tấn

Đêm cỏ tuyết

Anh nói với em nhiều tiếng thâm trầm

Nằm đêm nghĩ lại nát bầm lá gan.

Ca dao

Tôi dắt Tuyết xuống bờ đê. Mùa gặt đã qua từ lâu, ruộng khô chỉ còn lác đác một vài gốc rạ. Trăng lưỡi liềm kín đáo ngọt ngào. Tình nhân yêu nhau, trăng yêu tình nhân, từ muôn thuở. Nhưng có chắc tôi yêu Tuyết? Có lẽ. Nhưng điều đó nào có quan trọng gì với tôi lúc này. Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu.

Tôi tìm một lùm cây có bãi cỏ kéo Tuyết ngồi xuống. Trước mặt là con rạch nhỏ. Nước nhiều hay ít, tôi không để ý. Có lấp lánh ánh trăng hay không, tôi cũng không biết. Tôi chỉ có một mục tiêu duy nhất: Tuyết.

Khi nãy trên đường từ cầu Bắc chạy về, Tuyết biểu tôi dừng vespa, vì nàng mắc lắm rồi. Trước đó hai đứa tôi ăn cháo trắng hột vịt muối, uống trà đá ly cối, hèn gì. Tôi còn đang loay hoay dựng xe thì Tuyết đã chạy ù xuống ruộng. Xong, nàng ngồi chồm hổm mà giải thủy tỉnh bơ. Tôi bị kích thích, tim đập mạnh như bước hụt, chới với. Chẳng phải riêng tôi. Mấy chiếc xe hơi chạy ngang, thắng gấp, tiếng bánh xe cày trên mặt đường rít nghe ê răng. Không có tai nạn. Cũng may. Khi sắp trở vào thành phố Vĩnh Long, tôi quẹo xe ở ngã ba và trực chỉ hướng Cần Thơ. Tôi đậu xe lại ở gần ruộng dưa gang và dắt Tuyết xuống bờ đê. Tuyết ngoan ngoãn đi theo, thỉnh thoảng cười rúc rích. Còn tôi thì chẳng biết gì đến cười nói, thần kinh bị kích thích căng thẳng, có lẽ mặt tôi lúc đó hắc ám lắm. Tôi tìm lùm cây khuất, từ mặt đường ngó vào không thấy phía sau. Tuyết vừa ngồi xuống là tôi đi thẳng vào nỗi ám ảnh của mình. Mê mẫn, sung sướng, hạnh phúc. Cứ gọi là hạnh phúc, dù tôi chẳng có định nghĩa nào về hạnh phúc. Cả người tôi cháy thành một khối đê mê. Tôi đã biến mất.

Sau cơn cảm xúc mãnh liệt, tôi vội vã, hấp tấp. Loay hoay, luống cuống, bộp chộp. Tôi trật ngã, thiếu chút nữa lăn xuống rạch nước. Tuyết kịp nắm vai áo tôi giữ lại.

Và cơn dục tình của tôi đã được thỏa mãn. Khi đó tôi mới nghĩ tới hôn nàng. Tôi áp môi trên má nóng hổi của Tuyết và hít chùn chụt. Nàng vuốt ve lưng tôi, trách mát: “Anh này đồ quỉ! Đã chưa?” và nàng cười rúc rích. Tôi ngồi dậy. Ánh trăng mát mẻ trên thân thể nàng thật tuyệt vời và hấp dẫn. Mùi ân ái còn thoang thoảng. Tuyết hối tôi:

– Thôi mình đi về, không có chị Tư chỉ la em. Hồi nãy xin phép đi có một giờ mà đi quá mạng, hết lên cầu Bắc rồi lại ghé đây.

Tôi cố tình chọc Tuyết:

– Em nóng ruột thì ra đón xe đò về trước đi.

Nàng la:

– Đồ quỉ! Thôi đừng cù nhây, đưa em về sớm, mơi mốt chị Tư còn cho phép đi chơi. Tối nay thứ bảy đông khách mà quán chỉ có mình chỉ với con Liên, lo hổng xuể.

Tôi vừa cặp xe vào hông quán, quả nhiên chị Tư Tùng đã cất tiếng:

– Dữ thần hông! Đi đâu mà mất biệt làm chị lo muốn chết. Cậu chở nó đi đâu vậy?

Tôi phịa đại:

– Thì cũng chạy gần gần đây thôi. Nhưng hồi nãy lên tới cầu Tân Bình thì xe bị bể bánh…

– Thôi cậu đừng có nói dóc. Cái tuồng đó tui rành quá mà!

Rồi chỉ vào bánh xe sơ-cua gắn trên chiếc vespa, chị hỏi:

– Vậy chớ cái gì đây? Còn mới tinh mà nói bể.

Tôi giả lả:

– Thôi mà chị. Em biết trễ sợ chị la nên nói gỡ gạc vậy thôi, chị thông cảm.

– Ai mà dám la cậu. Mà thôi mấy người cũng lớn hết rồi, muốn mần gì đó thì mần. Hồi nãy tui sợ không biết có tai nạn dọc đường gì không mà đi lâu quá, cả hơn hai tiếng đồng hồ nên mới nói vậy … Cậu cũng biết tui thương con Tuyết lắm, coi nó như em ruột, gia đình không có nên …

Lúc đó khách quen tới, chị đon đả chạy ra chào khách. Tôi thừa dịp thoát thân, chạy qua phía bên kia quán, kéo ghế ngồi ở bàn đặt cạnh bờ sông. Gió từ bên cù lao An Thành thổi qua mát mẻ. Những dề lục bình chỉ còn là những khối đen lững lờ trên dòng nước. Nhìn Tuyết chạy lăng xăng khui nước, chặt dừa, xay rau má, lòng tôi tràn đầy hạnh phúc mến thương. Thỉnh thoảng nàng liếc tôi và cười ỏn ẻn, đồng lõa. Chập sau nàng đem tới cho tôi một ly cối nước cam-sô-đa với hai tròng đỏ hột gà nổi lờ đờ:

– Anh uống đi, bổ lắm!

– Bổ là có chuyện nữa!

– Đồ quỉ!

Chị Tư cưng Tuyết cũng phải. Nhan sắc nàng cũng đại khái thôi, nhưng thịt da mơn mởn dễ nhìn, cười lúm đồng tiền có duyên tuy hai răng trước có kẽ hở. Nàng hay cười nói vui vẻ nên kéo khách cho chị Tư cũng bộn – trong đó có tôi. Khi đó tôi vừa đậu xong tú tài đôi, về Vĩnh Long nghỉ hè. Ban ngày tôi họp bạn đánh đàn, đi thăm người yêu nữ sinh, hoặc ngủ li bì. Ban đêm tôi la cà. Chị Tư thì tôi biết từ hồi còn học đệ tứ, thuở tôi bắt đầu mặc quần đa-cờ-rông láng coóng, thắt dây nịt nhỏ, chải đầu trét bi-dăng-tin, đi giầy mỏ vịt. Hồi đó xuống quán là để uống nước dừa, ăn cơm gà rô-ti, tán dóc với bạn bè. Và theo dõi đàn anh tán gái để chờ ngày xuống núi hành đạo (hay hành lạc?) Nói quán nghe rườm rà chớ thiệt ra đó chỉ là một cái chòi bằng thiếc khi giương thì mở ra bốn phía, khi sập xuống thì kín mít. Tuyết nằm ngủ bên trong với Liên, trên một diện tích khoảng hai thước nhơn hai thước. Quán nằm phía cuối chợ cùng với ba quán khác, hai quán bán cơm, một quán bán nước cạnh tranh với chị Tư. Bàn ghế bắc xung quanh quán, không có vị trí nhất định. Tôi thường xuống quán rà rà để được ngửi mùi nem nướng hay thịt bò xào. Mùi thơm ngọt ngào sực nức, khói tỏa mịt mù mà thú vị biết bao! Tôi không ăn vì sợ ăn sẽ đâm ngán cái thú ngửi mùi đó. Tôi như một cô hồn thưởng thức đồ cúng. Tôi hạnh phúc mà không hay. Có lẽ nhờ vậy mà hạnh phúc. Khi hay, hạnh phúc tan biến.

Sống như con nít ngây thơ, ngơ ngác, lúc nào cũng khám phá, khám phá nào cũng tuyệt vời. Tôi khám phá đàn bà như con nít trước một rương đồ chơi bí mật. Lắm lúc tôi cười, nhiều khi tôi khóc. Tôi mê đàn bà, tôi tội nghiệp tôi, thằng ngốc tử. Tôi tội nghiệp các nàng đã trót yêu thằng ngốc tử.

Dĩ nhiên, nếu chỉ ngửi thôi thì làm sao sống nổi. Tôi cũng có ăn. Tôi khoái nhất món hủ tiếu “đầu trọc”. Không phải ăn vô rồi là rụng tóc trọc đầu, mà bởi món này do một ông chệt đầu trọc gánh đi bán dạo, gõ nhịp lắc-cắc-cụp trên hai miếng tre ngắn đã lên nước. Hủ tiếu khô của ông có nước sốt gì nâu nâu sền sệt chan lên ăn là hết sẩy. Xế trưa tôi một tô, Tuyết một tô, ních vô là thấy hạnh phúc nằm trong tầm tay, đâu cần gì phải đi hành hương xa xôi trắc trở. Lại thêm giọng cười rúc rích của Tuyết giữa trưa nắng rạng rỡ miền Nam, với ngần ấy thứ mà không ngửi thấy hạnh phúc thì dù có tu chín kiếp cũng coi như huề cả làng. Chị Tư không thích hủ tiếu nên thường làm một tô mì hai vắt, cũng mì khô có nước sốt mầu nhiệm đó chan lên. Chị buôn bán nhưng tánh chị thật thà. Da chị ngăm đen, môi dầy, mũi lân và… đa tình. Tụi tôi biết vậy nên dụ dỗ kép Thế xuống quán. Kép này là một tay tứ chiếng giang hồ, lấy đĩ làm vợ, cao lớn đẹp trai, có nụ cười lém lỉnh như Gene Kelly. Chị Tư chíp lắm. Mà khi chị đã chịu đèn rồi thì tụi tôi dễ bề làm ăn với Tuyết và Liên. Có quá quắt thì chị cũng làm ngơ. Có chở đi quá giờ thì chị cũng xí xóa. Dẫu giận mấy, có “anh Thế” xuống là xong ngay. Thành thử tôi cũng được rảnh chưn rảnh tay “một mình thong thả mần ăn, khỏe quơ chài kéo mệt quăng câu giầm…”

Lúc đầu tôi xuống quán bên kia. Một tối Tuyết ngó tôi nheo mắt cười tình mấy cái là tôi di cư luôn qua quán chị Tư. Tuyết làm bộ hỏi:

– Anh ghé chơi một chút rồi dọt qua bên kia hả?

– Không, anh lấy cơm tháng ở đây luôn.

Nàng cười rúc rích:

– Anh giỏi tài ba xạo!

Tôi cũng chỉ biết nhăn răng ra cười trừ. Rồi tôi tán tỉnh Tuyết ra sao tôi cũng không nhớ rõ. Tôi vốn đã ít nói. Mà cuộc trao đổi văn nghệ giữa một cậu tú mới toanh và một em bé bán nước dừa chắc cũng không có câu nào đáng đi vào văn học sử. Nhưng hai đứa cũng khắng khít nhau ra rít, đâu cần gì phải vô vọng cổ hay thao thức viết thư tình. Có lần tôi tò mò hỏi Tuyết:

– Em có yêu anh không?

– Em hổng biết, nhưng em khoái anh?

– Khoái ở chỗ nào?

– Tại anh có hàm răng bẹt-lông, cười có duyên thấy ghét.

Perlon là hiệu kem đánh răng đang được quảng cáo thời đó, với một nụ cười duyên dáng và hàm răng đẹp. Tôi có ngó vô kiếng cười thử, thấy răng cửa của mình lớn và hơi gie ra đằng trước, không có gì đáng ca ngợi. Anh tôi bảo mày hô ống điếu (?) nên cười có duyên ngầm (!). Chắc tại tôi có cái duyên “ống điếu” nên Tuyết đâm mê.

Còn tôi, tôi thèm muốn Tuyết. Yêu? Gọi thế nào cũng được. Có đặt tên cho tình cảm hay không thì nó cũng vậy thôi. Riêng tôi, tôi không quan niệm tình yêu mà không có tình dục. Nếu ép tôi bỏ bớt một thứ, có lẽ tôi sẽ giữ lại tình dục. Tôi thường ngạo mấy cô tình nhân khi các nàng từ chối tình dục: “Em yêu anh bằng linh hồn, còn xác thịt em để cho người khác? Nếu vậy hãy cho phần thứ hai, anh xin trả lại em tình yêu”. Kết quả tôi lại bị rầy: “Anh khôn thấy mồ!” Té ra yêu bằng linh hồn là ngu lắm sao? Tôi bị rầy là nàng đã hiểu. Xong. Thành thử tôi chỉ có một tình yêu duy nhứt không có tình dục: đó là lúc tôi học tú tài một ở Mỹ Tho và yêu Hoa. Không phải tôi thánh thiện mà vì lúc đó tôi chưa thành quỉ. Chưa gặp dịp, có lẽ.

Cùng lúc dâm lụy với Tuyết, tôi lại thánh thiện với Ánh, người yêu nữ sinh. Tôi tới nhà Ánh ngồi chơi, rất mực là thư sinh ngoan ngoãn. Nói chuyện gì tôi cũng không nhớ rõ. Nhưng nghĩ cũng phục tôi luôn. Nói gì mà nói nhây hàng giờ, ngày này qua ngày nọ, mà không sờ mó mân mê gì cả. Phục lăn. Nhưng xét ra cũng chẳng có gì đáng phục. Tôi đã no nê dục tình với Tuyết, hơi sức đâu mà mơ ước chuyện gì khác. “Phàm một con hải cẩu…” nhưng tiếc thay tôi chưa bằng được con hải cẩu. Tôi chẳng bao giờ hẹn Ánh nơi tối tăm nào khác, bên lùm bên bụi hay (người hẹn cùng ta tới) bên lùm chuối…

Mỗi tuần tôi phải dắt Ánh đi xem phim Ấn Độ một lần, với bà má vốn mê phim Ấn Độ. Tôi thường bẻ một chùm bông thiên lý đem theo. Khi trên màn ảnh hoàng tử và công chúa bắt đầu nắm tay nhau ca múa và lắc lắc cái bụng cà ri là tôi ngủ gật với mùi thơm ngầy ngật của hoa lý ở đầu mũi. Nhưng tôi được an ủi lúc ra về. Ánh theo má đi trước, tôi lẽo đẽo theo sau. Trăng lên cao, ngọn dừa dật dờ lấp lánh, dáng Ánh gầy gầy, bóng Ánh ngã trên đường nhẹ hổng như vết chim bay. Tôi nghĩ nàng chỉ cần đập cánh là có thể bay lên trời, bỏ tôi lại cõi trần gian dâm dật này cho Tuyết với đôi mông trắng mát. Có lẽ tôi sẽ khóc, nhưng rất bằng lòng. Tình thực tôi cũng chẳng giấu giếm gì Ánh. Tôi nói tôi ngủ với mấy cô bán quán. Ánh không tin và cho rằng tôi nói vậy để lấy le. Đến một hôm, Ánh bắt gặp tôi chở Tuyết chạy ngang nhà, nàng mới bắt đầu ngờ vực là tôi nói … thiệt.

Mà trong cái tỉnh nhỏ xíu nầy, đi một vòng là gặp nhau hết, nói gì đi quanh quẩn năm này tháng nọ. Một đêm gần Tết, tự dưng Tuyết nổi hứng thay áo dài mới xanh lè quê một cục, nhứt quyết đòi tôi chở đi chơi. Tôi thấy Tuyết vui nên cũng chiều ý. Tôi chạy lòng vòng lạng quạng. Bỗng Tuyết đòi đi nhà thờ gần cầu Cái Cá. Nhà của Ánh ngay dưới dốc cầu. Tôi bấn quá, mà từ chối thì sợ em buồn. Tết nhứt rồi, ai nỡ làm vậy. Nhưng lỡ Ánh bắt gặp, chạy ra níu áo rồi mới tính sao đây? “Di nhân nan! Di nhân nan!” Gần tới cầu tôi nảy ra sáng kiến (nhờ ơn trên?) Tôi khóa ga xăng, giả bộ xe lên dốc không nổi. Tôi biểu Tuyết xuống và đi bộ qua cầu vô nhà thờ trước chờ tôi. Chùi bu-di xong xe sẽ vọt ngon lành như trước, tôi qua sau. Tôi rất ghét nói dóc. Nhưng nói dóc với Tuyết tôi không thấy lương tâm bị cắn rứt một chút nào hết. Làm như thể…

Tuyết bỏ gia đình đi hoang năm mười sáu tuổi. Tuyết cùng một tuổi với tôi. Gia đình Tuyết ở Gò Công. Tôi không rõ lý do ra đi của nàng, hay nàng đã kể rồi mà tôi không nhớ. Tôi cũng chẳng để ý. Ôm được Tuyết, vật lộn với Tuyết trên bờ cỏ đối với tôi là quá đủ. Nếu có ai dọa sao chổi xẹt xuống làm tan băng hà ở Bắc cực, nước sẽ dâng lên cao ba thước khắp địa cầu, tôi cũng coi như pha. Chỉ cần bụi cỏ đen và đôi vú trần của nàng, kỳ dư tôi chẳng ăn nhập gì với quả đất quay nhanh hay chậm. Tôi là một vệ tinh vô danh tiểu tốt quay chung quanh ngực và mông nàng, quay điên cuồng và hạnh phúc. Cho đến ngày nổ tung trên trục quay, hay đến lúc tôi lạc quỹ đạo đâm sầm vào hành tinh mẹ và cả hai đều bốc cháy tan tành, trả lại bụi sao cho ngân hà, cho nguyên thủy, cho khai thiên lập địa, không có âm, không có dương, không có tôi, không có nàng, không có đam mê, không có dâm luyến, tôi với nàng chỉ là một. (Bởi duyên cớ nào khiến ta thành hai?).

Khi trước tôi ở nhà má tôi, gần rạp hát. Mùa hè năm đó tôi dời đô về nhà ba tôi ở dốc Cầu Lộ cho dễ bề hành hiệp. Nhà ba tôi là tiệm mộc nên giường chõng tha hồ. Đi chơi khuya về thấy mùng giăng sẵn, giở lên không thấy ai là cứ chun vô ngủ. Tối tối tôi đi đón Tuyết về. Có lúc trời nóng gặp ba tôi còn ngồi ngoài hàng ba phơi bụng hút ống vố, nàng khẽ cúi đầu:

– Dạ, chào bác.

Ba tôi cười khì khì đồng lõa, hỏi vớ vẩn:

– Tiết đó hả? Lóng rày bán khá không cháu?

– Dạ khá.

Cháu khá mà bác coi bộ thằng Kiệt nó hơi xanh.

– Dạ… Tuyết ấp úng.

Tôi đỡ lời:

– Tuyết có cho tui uống cam-sô-đa hột gà hoài đó chớ.

Tuyết quay lại la tôi:

– Đồ quỉ!

Một bận tờ mờ sáng chúng tôi còn mê mệt ôm nhau ngủ thì ba tôi lay dậy:

– Mau mau! Vọt! Má mầy tới!

Tôi còn đang lính quýnh, ba tôi kéo Tuyết chạy ra nhà sau, giấu nàng trong cầu tiêu. Tôi giả bộ ngủ tiếp. Má tôi (có lẽ ai mét) ập vào kinh lý. Bà giở mùng thấy thằng quý tử say ngủ chèo queo một mình nên yên bụng ra về. Tôi ra cầu tiêu kiếm Tuyết. Sau hồi chới với chúng tôi ôm nhau cười ngất. Nàng hỏi:

– Sao má anh khó quá vậy?

Tôi vớt vát:

– Chắc bả canh ông già chớ đâu phải rình anh.

– Vậy mà làm em cũng hết hồn.

Ba tôi trấn an:

– Ôi! Hơi sức nào mà lo! Bề gì đã có tao đứng mũi chịu sào. Cùng lắm là bả bắt thằng Kiệt về nhà dưới ngủ, không cho ngủ ở nhà tao nữa.

– Ý! Đâu có được.

Tôi phản đối tức khắc. Nhưng cũng may, mọi việc vẫn cứ tiếp diễn như trước, đêm đêm tôi đi đón Tuyết về. Đêm nào tôi ngủ quên thì Tuyết tự động ngồi xe xích lô về. Tuổi mười tám sao hăng quá sức, đêm nào cũng như đêm nấy. Tôi thấy đời tôi quá đầy đủ, không dư không thiếu một chỗ nào hết. Đôi khi quá hăng say, tôi đã được một anh thợ của ba tôi lưu ý:

– Thầy Sáu ác quá! Cái đi-quăng bữa nay giao cho người ta mà thầy làm sao ố hết trọi, báo hại tui phải cạo sơn lại.

Rồi anh chỉ mấy vết vân vân trên mặt gỗ sơn làm tôi cũng hơi quê, nhưng cũng hãnh diện ngầm, sự hãnh diện ích kỷ của con thú đực.

Một đêm, xảy ra chuyện “trục trặc” với Lộc, anh tôi. Tuyết giận, lẵng lặng bỏ về.

Buổi trưa tôi xuống quán gặp Tuyết đang ngồi ăn cơm với chị Tư và Liên. Chị Tư mời lơi:

– Cậu Kiệt ăn cơm.

Được lời như cởi tấm lòng, tôi kéo ghế xáp vô bàn ăn liền. Để kiểm điểm, tôi gọi thêm một dĩa phá lấu. Tôi gắp một miếng ngon bỏ vô chén của Tuyết. Tuyết cũng gắp lại cho tôi một miếng và cười rúc rích. nàng cười là coi như tôi đã được tha thứ. Như vậy là huề. Tôi được thể kể thêm chuyện tiếu lâm cho mọi người cười cho vui bữa.

Ăn xong Tuyết kéo tôi ra bàn gần bờ sông ngồi hóng mát. Tuyết đi thẳng vào chuyện đêm qua:

– Sao hồi hôm anh làm kỳ vậy? Em mắc cở muốn chết.

Mặt Tuyết đỏ gấc, cả vành tai cũng đỏ.

– Em thương anh mà sao anh làm kỳ vậy?

Tôi sượng trân, không biết trả lời sao. Tôi ấp úng:

– Anh cũng thấy kỳ thiệt… Nhưng chuyện xảy ra quá bất ngờ, anh đâu có muốn như vậy. Em giận anh lắm hả?

Nàng ngẫm nghĩ một hồi rồi lắc đầu. Tôi cảm động nắm lấy tay nàng. Nàng liếc tôi mỉm cười:

– Thôi bỏ qua chuyện đó. Mà anh đừng có làm vậy nữa nghen. Em thương anh chớ đâu có thương anh Lộc , bộ anh không biết sao?

– Anh biết chớ…. Thôi anh xin lỗi em.

Tôi nói tôi biết chớ thiệt ra tôi chẳng biết khỉ mẹ gì hết. Tôi là thằng ngốc tử. Cho đến bây giờ, khi tổng kết tình hình quốc tế, tình hình quốc nội và tâm lý ái tình đời mình, tôi cũng chẳng biết là tôi có yêu ai không nữa. Tôi đam mê, nhiều lúc muốn tự vận thì có. Yêu? Còn phải hỏi lại. Biểu tôi định nghĩa tình yêu tôi cũng bí luôn.

Sau lúc con thuyền tròng trành, tôi và Tuyết trở lại khắng khít nhau như trước. Như không có chuyện gì xảy ra. Tôi lấy thêm một quyết định sáng suốt: Nếu thằng cha anh tôi còn dở trò lạng quạng là tôi sẽ quyết liệt mời hắn đi chỗ khác chơi. Bằng võ lực nếu cần. “Ối thôi tôi mời cậu đi ra cho lẹ, nếu còn ở đây ắt sanh tử với tôi!” Hắn cũng nằm lòng câu hát đó.

Sau nhà tôi là một sàn nước, trên có để mấy cái lu. Thợ thuyền thường mặc quần xà lỏn tắm lộ thiên trên sàn nếu làm biếng tắm sông. Lần nào Tuyết về với tôi cũng quá nửa đêm, lối xóm ngủ hết. Tuyết tắm lộ thiên. Tôi có cái thú đứng ngắm Tuyết tắm. Thân thể Tuyết trắng muốt, ngực Tuyết no tròn, đứng sững đẹp tuyệt. Đã bao lần tôi ngã chết trên đó. Mà rủi có chết luôn tôi cũng không hối tiếc. Canh khuya dế kêu rỉ rả. Khi nàng xối nước ào một cái thì lũ dế êm tiếng. Khi nàng kì cọ thì tiếng dế lại trỗi lên. Có nhạc, có mỹ nhân, nghê thường là đó. Nếu Tuyết biết ăn nói văn chương và biết khảy đờn, tôi sẽ ngờ nàng là hồ ly tinh. Ôi con hồ ly yêu dấu. Tiếng em kỳ cọ trên thân ngà nghe sao mà dâm tuyệt!

Tôi khổ sở nhứt là lúc mỗi tháng Tuyết treo cờ đỏ hưu chiến mấy ngày. Vào thời kỳ này đàn bà hay quạu cọ mà tôi còn quạu hơn Tuyết. Tôi đứng ngồi không yên như bị táo bón, nhăn nhăn nhó nhó như khỉ ăn ớt. Khi nàng hạ cờ xuống là tôi mừng quýnh như con nít má đi chợ về. Nàng lại có dịp la tôi: “Đồ quỉ, làm gì dữ vậy?” Nàng treo cờ, tôi khổ sở. Nhưng nàng không treo cờ, lại là một nỗi bận tâm khác. Một lần nàng nói nhỏ với tôi:

– Sao tháng này em trễ quá, có hơn hai tuần rồi. Lỡ em cấn rồi làm sao hả anh?

Đã không lo, trái lại tôi còn thấy vui:

– Cấn rồi thì mang bầu.

– Mang bầu kỳ chết.

– Mang bầu thỉ đẻ chớ kỳ gì.

– Đẻ rồi làm sao?

– Đẻ rồi thì nuôi chớ làm sao.

– Anh nầy nói nghe dễ ợt. Lấy cái gì mà nuôi đây chớ?

Tôi đặt tay lên vú nàng:

– Thì lấy cái nầy…

Nàng hất tay tôi ra:

– Đồ quỉ!

Thấy tôi cười khì khì nàng cũng tủm tỉm cười theo, hai má đỏ rực.

Tuần sau, một đêm tôi thiếp ngủ, khi giựt mình không thấy Tuyết bên cạnh, tôi hơi lo sao đêm nay nàng không về. Trưa hôm sau xuống quán thấy có một mình chị Tư. Tôi hỏi Tuyết đâu.

– Tuyết nó đang nằm trong quán

Tôi chui vào quán thấy Tuyết nằm co quắp. Tôi đỡ Tuyết dậy hỏi:

– Em bịnh hả?

Tuyết xanh ẻo thều thào:

– Em mệt.

Chị Tư nói thêm:

– Tuyết nó bị thuốc hành nên mệt.

Cách đây mấy bữa tôi nghe chị Tư bàn lén với Tuyết về vụ đó. Tôi nắm vai Tuyết lắc lắc:

– Em phá thai phải không?

Tuyết cúi đầu không nói. Cơn giận đột nhiên bốc dậy trong tôi bừng bừng. Tôi xáng Tuyết một bạt tai ngã chúi vô góc quán rồi đứng dậy. Tuyết gục đầu, nước dãi nàng chảy ra ở miệng. Biểu diễn xong màn tạc-dăng nổi giận, tôi nhảy lên vespa rồ ga phóng thẳng. Chạy lòng vòng một hồi rồi trực chỉ ngã ba Cần Thơ. Chui vô một cái nhà sàn gọi bia ra uống. Bà chủ quán còn trẻ. Mặc quần áo xốc xếch, một tay bồng nách thằng con lem luốc, một tay bào nước đá. Tôi vụt hối hận chua xót. Tôi bỏ chai bia rồi phóng xe trở lại quán chị Tư. Nghe tiếng xe đậu lại, Tuyết lồm cồm bò dậy ra đứng vịn ở cửa quán. Mắt nàng đỏ hoe. Tóc tai bù xù. Tôi ăn năn quá đỗi. Tôi chỉ muốn chạy thẳng ra bờ sông và nhảy ùm xuống dòng nước đục (không phải để tự vận). Tôi muốn lội băng qua con sông lớn, tới cù lao An Thành bên kia. Tôi leo lên đó trốn hết mọi người, ẩn dật ở cù lao, biến thành con xà niên hay con dã nhơn gì đó. Cho không còn ai nhận ra tôi, cho Tuyết không còn bao giờ nhận ra tôi, gã bạch diện thư sinh sau cái bộ mặt lông lá. Môi Tuyết khô queo, tay run rẩy. Trời nắng chang chang. Hai đứa ngó nhau rưng rưng nước mắt.

Rồi mùa hè qua. Nắng hết vàng rực. Phượng vỹ hết đỏ. Dế hết còn gáy ở sàn nước. Tuyết hết còn khỏa thân tắm lộ thiên. Và tôi cũng bị đuổi ra khỏi nghê thường. Hai đứa vẫn còn khắng khít, nhưng nàng ở lại quán, còn tôi lên Sài Gòn bước vào đại học. Sau khi đậu tú tài, tôi thi rớt liên miên. Thi công chánh: rớt. Thi trường điện: rớt! Thi sư phạm: rớt! Thi quân y: đậu. Và đậu hạng nhứt, ngành nha khoa. Ba tôi vốn ghét nghề “nhổ răng và thiến heo” của đám hành nghề dạo trong xóm nên ông chửi tôi tàn canh gió lạnh vì tôi thi đậu ngành nhổ răng. Ông nói:

– Tao với má mầy gia tài còn có mấy cái răng ăn cháo bộ mầy tính học về nhổ luôn cho hết hả? Rồi bà con đau bụng đẻ, rước mầy tới mầy nhổ răng cho chết luôn hay sao? Mầy học cái nghề gì mà ác ôn quá vậy?

Tôi nản quá nên bỏ ngành quân nha. Tôi lêu bêu vào năm đầu đại học khoa học. Tôi lạc lõng mất hướng. Tôi chỉ mong cuối tuần để vọt về Vĩnh Long. Có lúc kẹt xe, tôi về tới thành phố thì trời đã tối mò. Tôi ghé nhà Ánh trước vì gần bến xe. Nhà nàng ngủ sớm (ông già làm thầy giáo). Một tay gõ cửa mà tay kia tôi còn lận theo khúc bánh mì thịt chưa kịp ăn. Chị nàng ra mở cửa la lên:

– Ánh ơi! thằng Kiệt nó về.

Ánh chạy ra mừng rỡ. Tôi ghé vào nói chuyện láp dáp một chút rồi vọt, hẹn bữa sau trở lại. Tôi kêu xe lôi đi thẳng xuống quán. Trên đường tôi tạt ngang báo cho ba tôi biết tối nay tôi ghé ngủ nhà để ổng cho đem mùng ra tối về có mà giăng. Thấy tôi về Tuyết cũng mừng lắm. Lại một tô hủ tiếu “đầu trọc”, một ly cam-xô-đa hột gà. Và tôi lại chết thiếp trên ngực hồ ly, bằng lòng, hạnh phúc. Có dạo bận học quá, cả tháng không về được, tôi nhận được thư Tuyết. Nàng viết: “… Anh biết hông, mỗi bữa chiều em bắc ghế ra ngồi trước quán ngó ra đường thấy người ta đi qua đi lại, em nhớ anh thấy mồ. Chừng nào anh học thuộc bài hết rồi thì anh mau mau về đây cho em thả mãn…”.

Trong thơ nàng kèm theo một tấm hình sau lưng có viết mấy chữ: “Em xin tặng anh một đá hoa hồng để làm kỳ nhiểm. Tuyết.”

Kỳ nhiễm? Hay kỷ niệm? Tôi đoán lờ mờ. Chữ nghĩa không làm tôi bận tâm, nhưng khi nhìn tôi đâm lo. Thường thì mấy cô nữ sinh cầm nhánh bông hay đóa hoa để làm duyên khi chụp hình. Đàng nầy Tuyết cầm hẳn chậu bông đưa thẳng ra một bên, phía trên có cụm hoa hồng bằng nhựa màu. Tôi chỉ sợ nàng mỏi tay buông ra bất tử thì đổ nợ. Thà nàng giả bộ leo lên máy bay ló đầu ra chụp hình như anh tôi mà coi bộ còn khá hơn. Chớ cầm chậu bông kiểu này là kiểu chết con người ta. Bữa nọ thằng bạn lục bóp tôi, lôi ra tấm hình Tuyết, ngắm xong, đọc xong, nó bèn ngửa mặt lên trời cười hô hố, chảy cả nước mắt nước mũi. Tôi quê quá nên từ đó giấu biệt hình nàng.

Trở lại việc học vấn của tôi. Trong cái rủi mà còn có cái may. Một bữa nọ, nhờ phất phơ trong Chợ lớn tôi gặp một thằng bạn cũ khá thân. Nó kéo tôi về nhà ở đường Da Bà Bầu tán dóc. Khi mở hộc tủ kiếm cây viết, nó chợt à một tiếng rồi lôi ra một xấp giấy đưa cho tôi. Đó là đơn xin du học Canada. Nó nói tao quá tuổi rồi xin không được, mầy nhỏ hơn tao hai tuổi, đậu hai tú tài hạng bình nên xin có hi vọng lắm. Tôi nhắm mắt điền đơn, nạp đại rồi quên bẵng. Ba tháng sau, đùng một cái tôi được mời khám sức khỏe, làm thủ tục xuất dương: tôi đã được chọn. Tôi cầm tấm giấy mời chới với. Có bao giờ tôi nghĩ tới hay mơ ước chuyện xuất dương. Nhà tôi đủ ăn, ba má tôi dốt nát. Tôi là một thứ cao bồi hương thôn. Dù tôi có bận quần jean’s cỡi bò đi chăng nữa, là cũng để chà lết ở miệt vườn. Thế giới của tôi có cù lao An Thành, có cây đa Cửa Hữu, có cái miễu Bà, có cầu Cái Cá, có bến xe đò. Và có cái quán nước của chị Tư Tùng. Và trong quán nước có Tuyết, dĩ nhiên. Tôi không muốn đi đâu hết.

Tấn thối lưỡng nan. Ông anh thứ ba (không phải Lộc) của tôi biết vậy nên đặc cách cho một lâu la của anh dắt tôi đi làm hết mọi giấy tờ. Thành thử tôi kẹt cứng. Tôi chẳng biết gì về Canada hết ráo, từ nguồn gốc cho tới ngôn ngữ. Má tôi hỏi: “Nghe anh Ba mầy nói mầy sắp đi Cá Bá Đại há? Nghe nói ở đó ngập nước quanh năm, mầy qua bên đó mần chi vậy?” Tôi bí. Phải chi bà hỏi ở chợ Vĩnh Long có mấy cái quán cóc, quán nào bán cơm quán nào bán nước, quán nào có mấy cô, tên gì, mấy tuổi… Tôi bảo đảm sẽ trả lời rót rót, đúng đến chín chục phần trăm.

Nhưng rồi mọi việc cứ tuần tự diễn tiến, theo một trật tự bất kham. Bánh xe du học cứ lăn tới và kéo tôi ra cái cứ địa “cao bồi hương thôn”, mặc tình cho tôi trì kéo lại. Còn ba tháng nữa sẽ xuất dương, rồi hai tháng, rồi một tháng, rồi nửa tháng. Rồi chỉ còn một tuần lễ. Tuyết có theo dõi tình hình quốc nội do Lộc báo cáo nên nàng cũng khăn gói lên Sài Gòn để gặp tôi, vì tuần chót tôi kẹt luôn ở thủ đô để lo giấy tờ, thủ tục, thông hành, hối đoái v.v… Một tối, nàng hẹn gặp tôi trước rạp Khải Hoàn, không phải để coi hát, mà là để giã biệt. Đúng hẹn, tôi dắt Tuyết qua chợ Thái Bình ngang rạp hát. Nàng đi guốc mộc xanh, bận quần sa-teng trắng, áo xá xị màu hường lợt. Lần đầu tiên tôi để ý nàng vẽ mắt đen, tô son lợt và đeo bông tòn teng. Coi cũng hấp dẫn lắm. Nhưng tôi thích Tuyết tắm truồng xối nước ở sàn nhà hơn. Tuy nhiên tôi cũng khen nàng một câu lấy lòng.

Tôi đề nghị nàng kiếm gì ăn cái đã, vì lúc đó đã hơn mười giờ đêm mà tôi chưa ăn gì từ chiều. Nàng đồng ý. Tôi hỏi nàng muốn ăn gì, nàng đáp tùy ý anh, em không đói. Không có hủ tiếu đầu trọc, tôi đề nghị nàng ăn mì ở một cái xe đẩy trong chợ. Xe cẩn kiếng đủ màu kể lại sự tích Tam Quốc có Quan Công mặt đỏ, sau nồi xúp nghi ngút là một xì thẫu bụng phệ, không trọc đầu nhưng tôi tin tưởng. Tôi kêu một tô mì đặc biệt có mì và hoành thánh trộn lẫn. Còn nàng, một chai xá xị Con Nai. Bụng đói nên tôi cúi gằm đầu ăn một mách gần hết mới ngửng lên gợi chuyện:

– Em lên đây hồi nảo?

– Hồi chiều hôm qua.

– Lên đây em ở đâu?

– Ở đậu nhà bà dì con Liên trong chợ Bàn Cờ. Còn anh, bữa nào thì đi Da… Da… Cá Đại, hay cái gì Da Da đó?

– Bữa nay thứ ba. Còn đúng một tuần nữa thì anh đi. Đi Gia Nã Đại.

– Cái gì Gia?

– Gia Nã Đại.

– Ờ, vậy hả? Gia Nã Đại! Cái tên gì kỳ thấy mồ, nói muốn trẹo bản họng. Nghe nói bên đó đất thấp nước ngập dữ lắm phải hông?

Không biết ai đồn cắc cớ như vậy. Tuyết cũng hỏi một câu y chang như má tôi. Tôi giải thích: Em đừng có lộn Gia Nã Đại với xứ Hòa Lan. Nàng càng mù tịt nên tôi lảng sang chuyện khác.

Em có tính ở lại Sài Gòn để đưa anh lên máy bay luôn không?

– Ý, đâu có được! Chị Tư bị cúm hổm rày nằm liệt địa. Quán chỉ có mình con Liên coi, bê búi lắm. Sáng mai em phải về. Hơn nữa…

Nàng ngập ngừng:

– … Hơn nữa gia đình anh, em chỉ biết có ba anh và anh Lộc. Má anh lại khó nữa, khi không em nhào vô đưa anh đi coi kỳ chết.

Thiệt ra nếu nàng đòi đưa tôi ra tới tận phi trường mới là đổ nợ. Vì hôm đó sẽ có Ánh tiễn tôi, chương trình đã in như vậy rồi, cáo phó đâu có kịp nữa. Tôi dò dẫm:

– Em về dưới rồi tính làm cái gì ăn?

– Thì bán quán chớ làm cái gì?

– Bộ em tính bán quán hoài sao?

– Không bán quán chớ anh biểu em làm cái gì bây giờ?

Tôi ỡm ờ:

– Thì chờ anh học thành tài về nước cưới em.

Nàng ngó tôi hoài nghi:

– Anh đừng có nói giả ngộ. Bản mặt anh mà cưới em.

Tôi kênh kênh:

– Thiệt chớ! Em mà dám chờ thì anh cũng dám cưới cho mà coi.

Nàng nghiêm mặt (ít khi tôi thấy nàng nghiêm như vậy) làm thằng nhỏ hơi teo:

– Hồi thở giờ em có biểu anh cưới em lúc nào đâu mà bữa nay anh phát thinh nói kỳ cục vậy?

Mắt nàng hoe đỏ. Tôi sợ nàng khóc bất tử nên gạt ngang:

– Em không tin thì thôi anh không nói nữa.

– Nàng ngó tôi ngần ngừ:

– Mà em hỏi thiệt, anh có thương em hông?

– Có nói em cũng không tin nên anh không nói.

Nàng nài nỉ:

– Hồi nào tới giờ em đâu có hỏi, bữa nay em mới hỏi thiệt anh chớ có thương em hông đó?

– Thương chớ, thương đứt ruột.

Thấy nàng chưa chịu tin, tôi đưa một ngón tay lên thề:

– Đứa nào nói láo cho ông Táo đội nồi cơm.

– Anh thiệt là ba xạo!

Nàng cười, tôi cũng cười theo. Nàng cười là tôi đỡ lo. Nàng cười là tôi đã được tha thứ, chấp nhận. Tôi nắm tay nàng ngó trân trân:

– Bữa nay em đẹp lắm… Anh muốn ngủ với em một đêm chót.

Nàng ngần ngừ:

Bộ anh tính đem em về ngủ nhà anh hả?

– Anh tá túc nhà anh Ba. Má anh cũng ngủ ở đó… Anh về nhà em được không?

Ý, nhà dì con Liên em đâu có quen. Hơn nữa nhà có chút xíu, dì ngủ trên gác còn em ngủ bộ vạt ở dưới với mấy nhỏ. Anh tới đó làm quỉ đâu có được.

Chợt ngó lên trời tôi đề nghị:

– Hôm nay có trăng lưỡi liềm, hay anh chở em dạo một vòng ra Bình Điền, ở đó có cây cối…

Nàng gạt ngang:

– Ở dưới mình khác, ở đây khác. Anh làm bậy bạ lính bắt là hết có đi Gia Cái Đại luôn đó. Anh ẩu tả, bữa đó ở Cầu Bắc về anh thiệt thành quỉ… Em mà níu anh không kịp là anh lọt tuốt xuống mương rồi!

Nàng cười rúc rích. Lời Tuyết nói vô tình càng kích thích tôi mãnh liệt. Tôi nhớ rõ lắm, tôi nhớ rõ hết, tôi nhớ đóa hoa thầm kín của nàng lần đầu tiên dưới bàn tay tôi mân mê, sục sạo, tôi nhớ bụi cỏ đen, tôi nhớ ánh trăng mát mẻ trên thân dưới lồ lộ của nàng. Tôi thèm muốn điên cuồng, tôi thèm thuồng muốn chết. Tôi cúi đầu tiu nghỉu, như những lần Tuyết treo cờ đỏ hưu chiến. Nàng ngó tôi một hồi coi bộ không êm. Nàng kêu tính tiền, trả tiền rồi nói:

– Thôi mình về anh, khuya rồi.

Thấy tôi cứ ngồi đực mặt ra đó, nàng nắm tay tôi kéo đi, nói nhỏ:

– Thì anh về với em, về Bàn Cờ.

Tôi riu ríu theo nàng. Về tới đầu xóm, nàng biểu tôi dừng xe lại, tắt máy, rồi dắt xe theo nàng. Đi quanh co một hồi tới một căn nhà lợp tôn nàng ra dấu là đã tới. Tôi dựng xe, theo nàng đi vòng cửa sau mở khóa vào nhà. Bên trong chỉ có một bóng đèn nhỏ thắp tù mù. Bốn phía vắng lặng. Nàng chỉ lên gác, đưa một ngón tay lên môi ra dấu cho tôi giữ im lặng.

Tôi tuột giày ra. Nàng nắm tay tôi dắt vào nhà tắm nhỏ hẹp, bên trong kê một cái lu nước và một cái khạp thấp. Nàng khép cửa lại tối om, tôi không thấy gì hết. Tôi nghe tiếng sột soạt. Tôi cũng trút bỏ quần áo theo nàng. Tôi mở hờ cửa cho ánh sáng đỏ lọt vào. Ánh sáng đỏ trên da lụa càng tăng thêm kích thích, tôi muốn cắn lên đó. Tôi mở rộng cửa phòng tắm cho ánh sáng tù mù vào đầy. Tôi hạnh phúc muốn phát điên. Tôi sắp nổ tung như một bóng đèn quá cường độ. Tư thế bất tiện mà tuyệt vời. Ngực nàng rung rinh, đôi bông tai nàng lắc lư, đôi mắt nàng khép hờ mở nửa cánh thiên đường cho tôi lọt vào (và lạy trời cho tôi đừng lọt ra nữa). Trong trận mưa dục tình tôi hôn nàng khắp mình mẩy (tôi chưa hề hôn nàng như vậy). Hai đứa ôm riết, không muốn rời, không nỡ rời, không chịu rời. Tuyết! Tuyết! Tuyết!

Buổi chiều hôm sau đứng một mình ở bao lơn, tôi chợt nhận thức Tuyết đã lọt khỏi tầm tay tôi biệt mù. Nàng đang ở đâu đó bên bờ Tiền Giang có gió mát, trăng thanh, hay đang nằm dật dựa trong quán. Nàng đang chặt dừa, xay rau má xôn xao giữa đám khói tỏa mịt mù của sườn nướng. Tôi chợt lo sợ vu vơ. Tôi lo sẽ không bao giờ còn gặp lại nàng nữa.

Nhà anh tôi ở đường Hùng Vương, cạnh đường rầy xe lửa. Bên kia đường là dãy bàng cao, rất cao, lá lớn xào xạc. Buổi chiều sắp hết, trời chạng vạng. Cơn mưa chiều vội vã đến, rồi vội vã đi. Gió không có hướng nhất định, lay lắc lá bàng, nước rơi lộp độp. Tôi chợt sợ hãi, ruột quặn thắt. Bên tôi không có Tuyết, không có Ánh. Mai mốt đây không có người tình quán nước, không có người yêu nữ sinh, chắc tôi không sống nổi (tôi nghĩ vậy). Trong cơn bàng hoàng, đầu tôi chợt lởn vởn bài thơ tôi muốn viết tặng người yêu và người tình:

Tôi đã khóc như thành đô đã khóc

Mưa chiều nay đánh đắm ngõ đi về

Dãy bàng cao u đọng chút sầu tê

Và rỏ lệ như lòng tôi đã khóc

 

Tôi sẽ chết như hoàng hôn đã tắt

Mây bay đi không cuốn được u hoài

Chớm đêm về mưa gió sẽ chia tay

Cho lá nhớ mưa buồn dâng ướt mắt…

Rồi tôi đi du học. Những năm lang thang ở xứ người, tôi đã yêu những cô gái khác, ôm ấp những bộ ngực khác, mân mê những bụi cỏ sắc màu khác, chết giấc bên cạnh những hồ ly khác. Tôi quên bẵng Tuyết. Có lúc tôi yêu đời, có lúc tôi muốn tự vận. Nhưng may mắn tôi còn sống sót về nước sống giai đoạn bi thương của xứ sở – cùng những hồ ly khác nữa của quê hương, giữa cái chết và cái sống dằng co mỗi giờ mỗi phút.

Ngày về, một nửa những người khi trước đưa tiễn tôi lên đường đã ra đón tôi. Có ba tôi, có má tôi, có Ánh, có Lộc .v.v.. Dĩ nhiên không có Tuyết. Mọi người kéo về nhà anh Ba tôi ăn mừng. Tôi mệt quá lăn ra ngủ một giấc, mơ thấy những chuyện trên trời dưới đất. Bữa chiều, tôi đang đứng bên đường rầy xe lửa, chợt ba tôi tới bên cạnh tôi hỏi:

– Ờ Kiệt, mầy còn nhớ con nhỏ Tiết không Kiệt?

Tôi giựt mình:

– Nhớ chớ ba. Tui nhớ chớ. Bộ nó còn bán quán hả?

Ba tôi lắc đầu:

– Nó đã đi lấy chồng.

Tim tôi chợt nhói. Ba tôi nói tiếp:

– Tội nghiệp! Con nhỏ đó có lòng lắm. Nó ghé thăm tao hoài và bận nào nó cũng hỏi thăm mầy.

Hai năm trước, lúc đi lấy chồng nó có lợi nhà mình lựa mua cái tủ ba buồng chở về Tân Bình. Chồng nó có tuổi, góa vợ, buôn bán coi mòi cũng khá. Năm rồi nó mang bầu nhưng rủi ro có chửa ngoài tử cung. Khi hay được đem vô nhà thương thì trễ quá cứu không kịp…

Mình mẩy tôi vụt lạnh ngắt, xây xẩm. Tôi băng qua bên kia đường Hùng Vương, đi dọc hết dãy bàng cao rồi chui vào một quán nhỏ. Bên ly bia tôi ngồi khóc lặng lẽ. Tôi muốn dằn cơn khóc mà nước mắt cứ vọt ra. Tay bưng mặt, tay ôm bụng, tôi tưởng chừng như ruột gan mình đang đứt ra từng đoạn một. Tôi giận tôi, tôi giận đời sống, tôi giận đủ thứ. Sao đành để Tuyết nhận chịu bất công như vậy? Trong lúc nàng đi lấy chồng đàng hoàng (không phải với thằng giỏi tài ba xạo như tôi), muốn làm ăn đàng hoàng, muốn có con đàng hoàng thì nàng lại lăn đùng ra chết. Chết tức tửi. Dãy bàng cao còn đó, bài thơ học trò tôi tính tặng nàng hãy còn đó, dù chẳng bao giờ nàng đọc, có đọc cũng chẳng bao giờ nàng thích:

Đốt hoàng hôn vỡ thành theo khói thuốc

Ai dày vò mà khói thuốc cong queo

Gió cuốn vội vàng mây phải bay theo

Và tôi gục ngã như hoàng hôn giẫy chết

Nhưng không phải tôi, mà là “nàng đã gục ngã như hoàng hôn giẫy chết”. Tôi thương Tuyết bạc phước của tôi, tôi nghĩ tới những người con gái bất hạnh. Không bao giờ tôi còn được cái thú viết vớ va vớ vẩn để tặng nàng như thuở còn là học trò nữa. Tuyết ơi là Tuyết ơi!

Thôi nhé em về yên Xóm Cỏ

Sự đời đã trải cuộc yêu đương

Nhớ nhau vẫy bút làm mưa gió

Cho nắm xương tàn được nở hương

 

Nụ cười tre trúc

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Chén rượu tha hương, trời! đắng lắm
Trăm hờn nghìn giận suốt mùa đông
Chiều qua ngồi ngắm hoàng hôn xuống
Nhớ chị làm sao nhớ lạ lùng

Mỗi năm tôi đều chép một hai đoạn Xuân Tha Hương của Nguyễn Bính để gởi về cho chị Trúc ở Vĩnh Long. Không biết Nguyễn Bính có may mắn hơn tôi hay không, riêng tôi, tôi không bao giờ được chị Trúc trả lời. Chị Trúc của tôi không có máu văn nghệ văn gừng gì hết. Chị có trái tim nhân hậu, nhưng tôi không biết chị tìm gì trong cuộc đời này. Tình yêu? Tuyệt đối? Vui chơi? Trật lất hết. Chị Trúc rất hiền lành và chơn chất, đâu có lẩm cẩm đi tìm một cái gì siêu việt. Chị nấu cơm kho cá, chị khâu và thêu thùa, đặc biệt chị làm bánh rất ngon. Tết đến chị làm bánh lu bù. Còn tôi thì ở phương xa.

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Ôi chị một em em một chị
Trời làm xa cách mấy con sông

Mấy con sông? Sông Cái Cá, sông Cổ Chiên, sông Long Hồ, sông Thiềng Ðức, sông Cầu Lộ, sông Cầu Lầu, sông Ðịnh Tường, sông Cửu Long, sông Tiền Giang… Càng xa chị Trúc tôi càng lãng mạn, tôi càng rên rỉ, nhứt là lúc gần Tết.

Tết đến cho em thêm một tuổi
Thế nào em cũng phải thành công
Em không khóc nữa không than nữa
Ðây một bài thơ hận cuối cùng

Mà nào tôi có hận gì ai. Thiệt lãng xẹt! Vậy mà năm nào tôi cũng lăn ra nằm vạ với chị Trúc. Và dĩ nhiên chị không bao giờ trả lời trả vốn cho cái lãng mạn nửa mùa của tôi. Riêng tôi, tôi cũng chẳng phiền hà gì về sự im lặng của chị. Thành ra Tết nào cũng vậy. Tết này chưa chắc em về được. Mà em về được hay không về được gì thì chị Trúc vẫn đốt lò nướng bánh và chăm chỉ thêu thùa. Chị rất khéo tay, trong Xóm Cái Cá ai cũng đã từng thưởng thức tài nghệ của chị.
Nãy giờ chắc ai nấy đều thắc mắc. Chị Trúc tài như vậy, còn sắc thì sao? ”” Ðẹp!” Ôi, chị Trúc của tôi đẹp lắm. Ðường nét xấp xỉ Thẩm Thúy Hằng. Cũng mũi thẳng mắt to, môi dưới mời mọc và nhứt là trắng tươi, trắng rất trắng. Ngực vừa phải, eo thon, mông tròn trĩnh, thích mặc áo dài trắng học trò. Mỗi lần lượn ngang Xóm Rạp Hát của tôi, bọn con trai ùa ra ngắm nghía, chắc lưỡi ”Người Ðẹp Bình Dương”, không ai thấy mình có đủ tiêu chuẩn để chinh phục một mỹ nhân như vậy. Phần tôi, tôi cũng chỉ còn biết dậm cẳng kêu trời. Tết đến cho em thêm một tuổi, thế nào em cũng phải thành công. Thành công? Thành công cái gì? Ở tuổi dậy thì, sự thành công có nghĩa là thành công trong tình yêu. Và tôi đã thành công! Không, không, không phải như quý bạn tưởng đâu. Tôi đâu có tham vọng chinh phục Người Ðẹp Bình Dương. Tôi bắt bồ với Ánh, em nàng. Tuy Ánh tài sắc không bằng chị, nhưng dung nhan này cũng làm rung rinh bao trái tim ở Cầu Cái Cá, Xóm Lò Tường, Xóm Rạp Hát, trong đó có tôi. Nhờ thằng bạn học cùng lớp là em bà con của Ánh, tôi lọt vào nằm vùng ở nhà chị Trúc. Không biết lẽ gì, chị Trúc lại ưng bụng tôi nên chị lén mở tập ảnh gỡ vài tấm ảnh của Ánh tặng tôi cho thỏa tình mơ ước – và bỏ bóp lấy le với bạn bè.

Chị ơi Tết đến em mua rượu
Em uống cho say đến não nùng
Uống say cười vỡ ba gian gác
Ném cái chung tình xuống đáy sông

Tết năm đó, tôi viết cho chị Trúc như vậy. Lúc đó tôi với Ánh chưa tỏ tình gì hết, và tôi cũng chưa biết uống bia. Vậy mà tôi vẫn cứ cười sập gác trọ ầm ầm và liệng gà-mên xuống sông Ðịnh Tường ào ào. Tôi du học Mỹ Tho và yêu Hoa xóm Bến Ðò. Tôi không khổ sở vì yêu đương, nhưng cũng rên với chị Trúc cho có lệ. Tôi còn muốn tỉ tê hơn nữa. Rượu say nhớ chị hồi con gái, thương chị từ khi chị lấy chồng. Nhưng chị Trúc đâu có ưng ai mà lấy với bỏ. Chị tiếp tục cặm cụi làm bánh và cũng chẳng buồn khỉ móc gì hết. Nhiều lúc ngó chị, tôi cũng rung rung trái tim. Nhưng người rung rinh trái tim hơn hết là Lộc, anh tôi. Chàng là kép độc trên sân khấu học trò của cả tỉnh Vĩnh Long nên có nhiều ưu điểm để lọt vào mắt người đẹp. Bởi vậy cho nên Ánh lo lắng. Ánh lo rủi Lộc rước chị Trúc về làm vợ thì tôi với Ánh kẹt cứng. Anh ơi nếu mộng không thành thì sao? Non cao đất rộng biết đâu mà tìm? Thành thử khi Lộc ghé chiếc Vespa vào nhà chị Trúc thì Ánh và tôi tìm đủ mọi cách để đẩy chàng ra – không xì bánh xe là may. Ðể an ủi chàng, Ánh mang tập ảnh ra cho chàng xem. Chàng lựa những tấm hình mỹ miều mơ mộng nhứt của chị Trúc và lén gỡ dắt bóp lấy le. Người ta bận bịu mọi thứ, riêng tôi tôi trấn an Ánh ”Lộc cưới chị Trúc thì Lộc cứ cưới, còn anh cưới em thì anh cứ cưới, đã chết ai”. Ánh la kỳ chết!
Nhưng Lộc không phải là người duy nhất mê chị Trúc. Trăm vạn người mê. Nhưng đi hỏi cưới chính thức lúc đó thì chỉ có một người: Phước. Phước lớn tuổi hơn tôi nhưng học cùng lứa với tôi. Phước âm thầm yêu chị Trúc lâu lắm, khi nàng theo học lợp nữ công gia chánh. Thuở đó, cuối năm học đều có diễn tuồng. Lộc đẹp trai được đóng vai Ngô Quyền, Phước xấu trai đóng vai tướng Tàu – từ chết tới bị thương khi màn sập. Phước có tài diễu và diễu rất có duyên. Mỗi lần Phước kể chuyện vui là tôi ngã lăn ra cười chết bỏ. Người sao mà có duyên dữ vậy! Nhưng than ôi, ý kiến của chị Trúc lại hoàn toàn trái ngược. Về Phước, chị phê bình người gì mà mặt dài như mặt ngựa, chuyên làm hề cho thiên hạ, chưa nói đã cười. Dù biết hay không lời phê bình bất lợi một trăm phần trăm đó, Phước vẫn thừa thắng xông lên và xúi má mình chính thức đến nhà ở Cầu Cái Cá hỏi chị Trúc về làm vợ. Vâng em trẻ dại em đâu dám, thôi để người ta được kén chồng. Nhưng chị Trúc không kén chồng. Chị không từ chối hẳn lời cầu hôn của Phước, chị dùng kế hoãn binh. Lúc đó Phước được học bổng du học Mỹ hai năm, nhưng Phước nói nếu chị Trúc nhận lời cầu hôn thì Phước sẽ ở lại quê hương để cưới chị – sợ ra đi thiên hạ sẽ thừa cơ cưởm mất cái bàn thờ của mình. Chị nói Phước hãy du học trước đi, lúc về rồi hẵn tính sau. Phước xin đính hôn trước khi lên đường nhưng chị từ chối. Và Phước ôm mối mộng tình lớn lao lên đường du học.
Ôm bao hy vọng lúc ra đi!
Trong thời gian đó có nhiều người tới dạm hỏi chị về làm vợ, trong số đó có Tất. Tất là đại úy, tướng người cao lớn, tuy không đẹp trai nhưng rất bền chí, dù đã bị chị Trúc từ chối hai lần cầu hôn. Và chị cũng không nhận lời ai hết – chẳng phải là để thủy chung với Phước. Chị tiếp tục thêu thùa nướng bánh, và bọn con trai Xóm Rạp Hát tiếp tục chắc lưỡi trầm trồ Người Ðẹp Bình Dương và cô em bé nhỏ xinh xinh – trong số đó vắng mặt tôi. Bởi lẽ tôi đã lên đường du học Canada. Em ơi em ở lại nhà, vườn dâu em đốn mẹ già em nuôi. Ánh ở lại nhà đeo chưn má tôi rất kỹ. Ðáp lại má tôi cũng thủy chung với Ánh hết dạ hết lòng.
Còn tôi thì trúng tủ thơ Nguyễn Bính. Năm nào, khi Tết đến ở Canada tôi cũng lăn ra dẫy đành đạch nằm vạ với chị Trúc: Tết này chưa chắc em về được. Em về không được là cái chắc. Con đường Québec – Vĩnh Long nào đâu có ngắn như con đường lục tỉnh Sài Gòn – Vĩnh Long, sáng đi chiều về. Càng chắc chắn về không được tôi càng làm dữ – với mọi da đỏ địa phương.

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Gạo nếp nơi đây sao trắng quá
Mỗi ngày phiên chợ một thêm đông
Cột nhà hàng xóm lên câu đối
Em đọc tương tư giữa giấy hồng

Ở Canada những năm 60 mà tôi đã bày bán gạo nếp, nước mắm, bánh tét và dán biển đỏ ở cột nhà hàng xóm tùm lum. Thây kệ, sư phụ biểu sao thì tôi làm vậy. Trời Québec càng xuống tuyết tôi càng la chói lói. Áo rét ai đan mà ngóng đợi? Còn vài hôm nữa hết mùa đông.
Tôi lạc quan quá trớn. Mùa đông ở nơi đây dài bất tận, hết làm sao nổi mà hết. Ánh không biết đan áo, còn chị Trúc thì lo nướng bánh kẹp. Thằng em chỉ có từ chết tới bị thương. Nằm vạ ở Québec đã đời tôi đáp tàu thủy sang Paris nghỉ hè và kết tình với Diane, người em Xóm Học. Hết mùa hè tôi chia tay với Diane bước chân xuống đò trở về Xứ Tuyết. Lênh đênh trên mặt biển, nhớ Diane quá cỡ, tôi khóc lóc (và một lần nữa) lại lăn ra nằm vạ với chị Trúc.
Chị cho em chị chiếc khăn thêu

Ý chị thương em khóc đã nhiều
Khóc chị giờ đây mình lại khóc
Cho mình khi tắt một tình yêu
Ðêm nào tôi cũng la cà ngất ngư ở quầy rượu.
Ồ say thương nhớ vô cùng!
Rượu hay lệ ướt khăn hồng chị cho?

Trong lúc tôi muốn thắt họng trên mặt biển thì ở nhà chị Trúc ra sao? Chị Trúc vẫn mạnh giỏi và vẫn tiếp tục từ hôn. Từ hôn trở thành một phản xạ tự nhiên của chị. Nhưng oan nghiệt thay! Lần này trầm trọng hơn. Chị từ hôn Lộc? Không phải. Chị từ hôn Tất? Không phải. Chị từ hôn Hồ Chí Minh? Không phải. Chị từ hôn một nhà tu? Không phải. Chị từ hôn quốc trưởng? Không phải. Nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ đó. Chị Trúc, một lần nữa, lại từ hôn. Và nạn nhân là Phước, sau khi du học ở Mỹ hồi hương.

Ôm bao hy vọng lúc ra đi
Chuốc lấy buồn thương lúc trở về
Lòng mỗi lần đi lòng bão táp
Mỗi lần là một cuộc phân ly

Chị Trúc từ hôn và Phước lâm trọng bịnh. Bịnh tương tư. Tóc rụng một nửa phần đen, nửa phần còn lại bạc lưa thưa. Ða mang chi nữa tình mây nước. Ðể mặc sương sa bạc mái đầu. Má Phước phải đưa Phước vào chùa tịnh dưỡng cho nguôi ngoai mối tình oan nghiệt.

Hoa đào tưởng bóng đào xưa,
Thuyền sang bến nọ dòng mờ khói vơi.
Hoa dương vàng nhạt sầu người,
Ta về uống nước sông khuây khỏa lòng.
Con chim mùa nọ chưa chồng,
Cũng bay rời rã trong dòng xuân thu.

Mặc dù không phải chị Trúc từ hôn Phước để đi lấy chồng, nhưng tôi cũng e rằng chị Trúc đã tạo nghiệp chẳng lành. Mấy tháng sau, được tin Phước lâm bịnh ngặt nghèo, chị hối hận có nhờ Lộc đi thăm Phước. Lộc đến nơi được một ni cô cho biết Phước đã rời chùa. Rồi từ đó những nay biệt luôn tung tích. Lộc về nói lại, chị Trúc bưng mặt khóc ngất.

Thì thôi tóc ấy phù vân,
Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương,
Thì thôi mù phố xe đường,
Thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi.

Rồi Xuân tiếp nối Xuân, Tết tiếp nối Tết, tôi tiếp tục rên rỉ với chị Trúc Tết này chưa chắc em về được. Cho tới một mùa Xuân nọ, một lần nữa, lần thứ ba, đại úy Tất lại đến gõ cửa xin cưới chị về làm vợ. Nhờ bà mai trong gia đình nói khéo, ba má chị bằng lòng, phần chị Trúc có lẽ ngó lại tuổi Xuân mình nên cũng gật đầu. Thế là đám con trai ở Xóm Rạp Hát của tôi đều rút khăn mu-xoa ra mà lau lệ. Chạnh nhớ thuở nào ở xóm này, tôi ra ngồi ở đống cây trước nhà ngóng Ánh đạp xe chở Người Ðẹp Bình Dương về ngang ngõ, hương đượm ba ngày hương chửa tan.
Lần nọ có lẽ tôi ngó kỹ quá nên Ánh luống cuống đâm xe vào một con chó lớn đang chạy băng qua đường bất kể đèn xanh đèn đỏ. Bị đụng vào đầu đau điếng, con chó la oẳng một tiếng lớn (là cái cẳng!) chạy lộn trở lại, còn hai Kiều thì cũng té ngửa xuống đường chổng gộng. Tôi vội vã chạy tới đỡ hai nàng lên một cách rất nịnh đầm? Không! Tôi chỉ biết nhăn hàm răng hô ống điếu của mình ra mà cười. Hai Kiều thẹn đỏ mặt. Hai nàng lật đật dựng chiếc xe đạp lên, thay tài xế rồi đạp thẳng một mách về nhà.
Ánh giận lắm, mét với chị Trúc là ”thằng nhỏ vô duyên!” Ðó là thời kỳ tôi chưa lọt được vào sào huyệt của hai Kiều và chưa nằm vạ với chị Trúc.
Ðã có yêu nhau là đến thế,
Ðừng về Chiêm quốc nhé Huyền Trân.
Bọn con trai ở Xóm Rạp Hát đều nhất tề năn nỉ chị Trúc một mực như vậy mà người đẹp vẫn bước lên kiệu hoa đành đoạn. Huyền Trân thì trao thân cho vua Chiêm còn chị Trúc trao thân cho ai? Than ôi, than ôi và than ôi! Chị Trúc đã trao thân lầm tướng cướp.

Cũng là thôi cũng đã đành,
Sang ngang lỡ bước riêng mình chị sao?
Tuổi son nhạt thắm phai đào,
Ðầy thuyền hận có biết bao nhiêu người.
Em đừng khóc nữa em ơi,
Dẫu sao thì sự đã rồi nghe em.

Sau khi cưới hỏi đủ lễ nghi, chị Trúc theo chồng lên Sài Gòn sống chung ở Xóm Vườn Chuối. Khi chị có bầu, Tất bắt đầu hắt hủi chị và bỏ nhà đi suốt đêm. Lúc đó mới vỡ lẽ ra là Tất đã có vợ lớn cư ngụ tại Chợ Lớn. Một buổi chiều Tất chê cơm chua canh mặn, mắng mỏ chị, chị cãi lại, hắn xô chị ra ngoài đường rồi khóa cửa lại bỏ đi mất. Một thân một mình trên đất khách, chị Trúc chỉ còn biết ra ngồi bên lề đường đô thành bụi bặm mà khóc sướt mướt. Lối xóm thấy tội nghiệp đem chị về nhà mình an ủi và cho tá túc. Sự thể càng lúc càng trầm trọng nên má phải lên Sài Gòn rước chị về Vĩnh Long chăm sóc. Vậy mà đâu có êm. Tất lại đuổi theo về tận Vĩnh Long quát mắng, đòi ăn như giặc, rồi lại chê cơm chua canh mặn, vỗ bàn đập ghế, đánh chó mắng kèo. Thấy ai nấy nín thinh nên hắn làm tới. Có lần hắn nói với Ánh: “Phải chi mà vợ tôi được lanh lợi như cô Tám…” Ánh trả đũa liền tức khắc: ”Anh có phước lớn mới cưới được chị tôi, gặp tôi, tôi đã tống cổ anh ra ngoài đường từ khuya”. Hắn nín thinh xò câm. Ma nhát bắt mặt người có khác. Tuy giận hắn, nhưng chính một tay Ánh đã nuôi nấng đứa con đầu lòng của Tất, vì sau khi sinh nở thì chị Trúc ngã bịnh li bì. Vậy mà lần nào Tất về Vĩnh Long cũng có một màn đòi ăn nằng nặc như con nít đòi bú, như giặc!

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Tết này ô thế mà vui chán
Những một mình em uống rượu hồng
Rượu say nhớ chị hồi con gái
Thương chị từ khi chị lấy chồng

Ở Canada, mỗi lần Tết đến, lạnh teo bu-gi, tôi lại tiếp tục lăn ra nằm vạ với chị Trúc, mà nào tôi đâu có hay biết gì về kiếp hồng nhan bạc mạng của chị. Cũng may mọi người đều giấu biệt tin tức bất lợi cho đệ tử Nguyễn Bính. Nếu không có lẽ tôi đã đáp máy bay về hành thích bạo chúa, đại úy dâm tặc, và ra hầu tòa một cách hiên ngang. Sang Tần tráng sĩ Kinh Kha chết, Máu đỏ trôi sông Dịch Thủy về. Ta hề là tráng sĩ. Ta tráng sĩ là hề! Tiếc thay trời đã không cho tôi dịp may so gươm với đại úy Tất và cứu chị Trúc của tôi đang bị con quỷ râu xanh uy hiếp. Chị thà coi như là hạt bụi, em thà coi như hơi rượu cay. Nếu biết thế, tôi đã đêm đêm mài kiếm dưới trăng, hâm bầu máu nóng, dọn đường về nước. May thay tôi không biết gì hết và tiếp tục lãng mạn. Rời Diane, trở về Québec, tôi gặp Louise và trở thành người tình của nàng. Nàng bèo bọt quá em lăn lóc, Chấp nối nhau hoài cũng uổng công. Một trăm con gái đời nay ấy. Ðừng nói ân tình với thủy chung!
Tết này chưa chắc em về được. Tuy nói vậy nhưng tôi đã trở về. Về quê hương. Về Việt Nam. Về Vĩnh Long. Tôi cưới Ánh – đám con trai Xóm Rạp Hát thêm một lần nữa, lại rút khăn mu-xoa ra mà lau lệ. Ðừng về Chiêm Quốc nhé Huyền Trân, Ta viết thư này gửi cố nhân. Năm mới tháng Giêng mồng một Tết, còn nguyên vẹn cả một mùa xuân. Bẵng đi một dạo tôi không còn viết thơ Xuân cho chị Trúc nữa. Chị có hai con rồi ba con. Và tiếp tục không hạnh phúc. Một lần chúng tôi về, tôi nằm đưa võng kẽo kẹt trong căn nhà bên Cầu Cái Cá, chị kéo Ánh về nhà kế bên tâm sự. ” Mầy có phước hơn tao. Tao không biết hạnh phúc và sung sướng là gì hết. Mỗi chiều tao lo cho thằng chả ăn. Thằng chả ăn no, dọn dẹp xong thằng chả leo lên bụng tao. Như gà đạp mái. Xong lăn ra ngủ ngáy phì phò. Sáng thức dậy đòi cà phê bánh mì như giặc…”
Trong khi đó cuộc chiến tranh chó má ở quê hương ta vẫn tiếp diễn, từ những năm 60 sang những năm 70. Tôi đi lính và Tất lên lon Thiếu tá, phục vụ ở Bộ Quốc Phòng. Ánh có hai con thì chị Trúc đã được năm con. Ra đường thiếp hãy còn son, Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng. Chị Trúc vẫn còn tươi tắn, đẹp đẽ, dù bất hạnh.
Tết này chưa chắc em về được. Em về không được là cái chắc, vì năm đó là Tết Mậu Thân 68. Tôi kẹt ở Hàng Xanh, chị Trúc kẹt ở Vĩnh Long. Và Việt cộng bắn chết một nhân vật mà cả tỉnh Vĩnh Long đều yêu mến: Chín Khùng. Bởi lẽ Chín Khùng không hiểu gì về cuộc chiến tranh tương tàn giữa phe ta và phe bên kia hết. Chín Khùng bỏ ra ngoài tai tiếng hô cảnh cáo ”Ðứng lại!” và rốt cuộc bị cán binh lạ tỉnh lạ người bắn chết. Dứt Tết Mậu Thân, qua năm 69 tôi xung vào quân đội rồi được biệt phái về dân sự. Tôi có gặp Tất một vài lần và thầm tiếc cho chị Trúc. Nhưng mọi sự đều quá muộn màng. Em đi theo đuổi tơ duyên, Dò mãi lòng sông sắm mãi thuyền. Cho đến một hôm em mới nhớ: ”Lòng người…” chị Trúc nhớ hay quên? Hỏi là hỏi chơi vậy thôi chớ chị Trúc có bao giờ cầm bút lên trả lời tôi – thằng em lãng mạn lẩm cẩm.
Cuộc chiến khốc liệt tiếp diễn dai dẳng và kết cuộc là miền Bắc nuốt trọn miền Nam năm 1975. Giải Phóng? Ðó cũng là một cách nói, một cách diễn dịch lịch sử. Ðiều trước mắt là mọi quân nhân, công chức Ngụy đều phải đi học tập. Tôi, Ánh và hai con may mắn không kẹt lại. Tất, bấy giờ đã lên lon trung tá, còn kẹt lại và học tập rất xa, tận ngoài Bắc Việt. Chị Trúc lên đường khăn gói thăm nuôi từ Nam ra Bắc và được chồng trách là nuôi ăn thiếu thốn, không đúng tiêu chuẩn. Chị Trúc chỉ còn biết giấu mặt âm thầm quẹt nước mắt.
Từ cái ngày tang thương năm 75 đó, tôi không được tin tức trực tiếp gì về chị Trúc. Chị chết, chị sống, chị hạnh phúc, chị khổ đau, tôi không biết gì hết. Dù rằng mỗi năm tôi vẫn cặm cụi viết cho chị.

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Cầu mong cho chị vui như Tết
Tóc chị bền xanh má dậy hồng

Cho tới một Tết nọ, có người về thăm quê hương trở qua và mô tả nhan sắc hiện thời của chị Trúc. Ánh vội vàng gởi tiền về cho chị trồng răng. Chị biên thơ cám ơn, không xin gì thêm. Ngày qua ngày, và cuối cùng trung tá Tất trở về và đòi bán nhà để ăn uống tiêu pha. Chị Trúc khóc lóc, năm đứa con của chị phản đối kịch liệt ba nó mới chịu buông tha. Rồi Tất nộp đơn xin ra đi với diện HO. Lúc bấy giờ tôi và Ánh đang ở Pháp và được thư chị Trúc cầu cứu: ”Em gởi cho chị bốn cây để chị lo giấy xuất cảnh cho cả gia đình”. Dĩ nhiên Ánh từ chối vì chúng tôi không có tiền, mặt khác chúng tôi lại sợ Tất làm áp lực chị Trúc để lường gạt. Ngoài ra, lo sợ cho sự dốt nát của chị, ”to eat, to drink” không biết, Ánh khuyên chị chớ nên ra đi. Ðược thư Ánh, chị Trúc lặng thinh cho tới ngày chị lên đường sang Mỹ. Chúng tôi được tin chị tới Mỹ qua lá thư đứa con trai của chị cám ơn nhờ Ánh khuyến dụ mà bây giờ má nó, nó, và em gái nó được tha hồ uống sữa và Coca Cola – có hình kèm theo. Ðược thư Ánh giận lắm, gởi trả lại khổ chủ và dặn chị Trúc phải biết dạy con. Chị Trúc, như bao giờ, chẳng trả lời trả vốn gì hết.
Ðúng mùng một Tết nọ, chị Trúc viết thơ cho Ánh biết là chồng chị đã đứng ra lãnh hết tiền trợ cấp của chánh phủ Hoa Kỳ, xua chị và hai con ra đường mặc kệ. Nhờ người chỉ dẫn chị đã nộp đơn xin ly dị với Tất. Chị đòi chết. Chị kêu cứu. Chúng tôi biết đại khái chị ở vùng Philadelphia, nhưng không có một địa chỉ chính xác nào hết. Thơ gởi về địa chỉ cũ bị trả lại. Ánh báo động cho người anh thứ Năm -trung tá ra đi với diện HO- cư ngụ ở Cali tiếp tay tìm kiếm. Chị Trúc vẫn biệt vô âm tín. Xứ Mỹ minh mông, chim trời cá nước biết đâu mà tìm. Tôi và Ánh vô cùng lo lắng. Nhưng có lo lắng cách mấy cũng đành bó tay mà thôi. Tôi tưởng tượng chị Trúc lang thang trong gió lạnh mà lòng mình như dao cắt. Tôi mở địa đồ nước Mỹ ra tìm kiếm. Philadelphia nằm gần New York, mùa đông rét buốt biết chừng nào. Mà biết chị Trúc có còn ở đó hay không? Chiếu chăn phủ lạnh y xiêm, Y xiêm còn đó cánh chim biệt mù.
Ánh và tôi tiếp tục hồi hộp cho chị Trúc. Cho tới một hôm tin tức từ quê nhà nhắn qua cô cháu gái của Ánh ở Paris cho biết chị Trúc đã trở về Việt Nam và ở lại luôn bên đó – cũng ngôi nhà cũ bên dòng sông Cái Cá êm đềm. Chúng tôi mừng húm, thở phào nhẹ nhõm. Ðứa con trai của chị cũng về theo, cưới người xứ ta rồi dắt vợ trở qua Mỹ sinh sống.
Riêng tôi bây giờ, cơ hội lãng mạn đã trở lại. Mỗi độ Xuân về, như Xuân năm nay, tôi lại được dịp lăn ra nằm vạ với chị Trúc:

Tết này chưa chắc em về được
Em gởi về đây một tấm lòng
Tết này ô thế mà vui chán
Những một mình em uống rượu hồng
Chắc chị đời nào quên nhắc nhủ
Xa nhà rượu uống có say không?

Ðược thư tôi, chị Trúc lần mò xuống gian bếp nhỏ lợp lá còn đọng khói, kéo chiếc ghế nhỏ xục xịch, ngồi vào chiếc bàn ăn nhỏ, vặn nhỏ ngọn đèn dầu. Lần đầu tiên và cũng là lần duy nhứt trong đời, chị Trúc rưng rưng viết cho tôi mấy câu bằng mực tím tràn đầy thương mến:

Vườn nhà Tết đến hoa còn nở
Chị gửi cho em một cánh hồng
Với lá thư này là tất cả
Những lời tâm sự một đêm đông
Chị về ở lại vườn dâu cũ
Buồn cũng như khi chị lấy chồng

(*) Thơ trong bài này mượn của Nguyễn Bính, Phạm Thiên Thư, Thâm Tâm



Em Vịt Vàng Nhỏ Của Tôi Ơi

Má ơi con vịt chết chìm

Con thò tay vớt nó con cá lìm kìm rỉa tay

Ca dao

…Lép kép! Lép kép! Con vịt con thò chiếc mỏ vàng nhỏ xinh xắn rỉa mấy hột cơm tôi vừa mớm ra cho nó ở miệng. Nó ngước lên nuốt mấy hột cơm, chiếc cổ nhỏ xíu ngửng lên trời ngửa ra sau, xong nó giương đôi mắt khù khờ ngó tôi kêu lép kép chờ đợi. Tôi đưa vịt con cạ cạ lông nhung mịn của nó lên má mình, lòng rạt rào sung sướng, thương quá là thương! Tôi sáu tuổi, con vịt con vừa nở được năm ngày. Nó đưa chiếc mỏ rỉa trong vành tai tôi nhột nhột khiến tôi rụt đầu ngoẻo cổ qua một bên. Vậy mà đã ghê! Vịt con thủ thỉ chuyện trò với tôi, lép kép! lép kép!… Chỉ có một mình tôi hiểu được em tôi muốn nói gì.

Tôi mở tay ra. Con vịt nhỏ nằm gọn lỏn trong hai bàn tay tôi, ngoan ngoãn, lép kép! lép kép! Toàn thân con vịt màu vàng, lông tơ mịn màng non nớt thơm tho, mỏ và chân hơi ửng màu cam, trên mỏ có chấm hai lỗ thở nhỏ xíu, mắt tròn vo đen lay láy, ngây thơ ngờ nghệch. Lép kép! Lép kép! Tôi lại mớm cho nó mấy hột cơm. Tôi dặn nó kêu nho nhỏ, sợ má nó nghe được chạy tới đòi lại. Má nó là con vịt xiêm mái cồ đã đẻ nhiều lứa, giữ con thiệt hay nhưng cũng rất dữ tợn, ba tôi gọi con vịt mẹ này là con vịt Mẫu Hậu. Có lần tôi bắt con nó để giỡn chơi bị nó bay đáp lên đầu vừa quào vừa mổ chảy máu, tôi la khóc chói lói và cũng kể từ đó tôi sợ nó lắm.

Vì vậy lần này tôi lén bắt con vịt vàng nhỏ trốn ra góc hè, ngồi dựa vách lá chỗ khuất để được tha hồ mà tưng tiu trửng rỡn với nó. Mà nói cho ngay, con vịt vàng này là của tôi chớ không phải là con ruột của con Mẫu Hậu. Cách đây đâu chừng ba tuần lễ, má tôi biểu tôi ra đồng lùa vịt. Tình cờ tôi lượm được một trứng của con vịt mái nào đó đẻ rớt. Tôi đem về lấy mực làm dấu rồi lén bỏ vô ổ cho con Mẫu Hậu ấp chung với mấy trứng khác cùng chạng. Vịt xiêm biết ấp trứng, còn vịt ta thì không biết. Chừng nở ra mấy con vịt kia đều cùng một họ Xiêm lớn con màu xám có hai chấm vàng trên cánh, chỉ có trứng vịt làm dấu của tôi là nở ra con vịt nhỏ nhứt vàng lườm vô cùng xinh xắn. Nhưng con Mẫu Hậu không kỳ thị chủng tộc một chút nào, con nào cũng là con của nó hết, tôi rớ tới con vịt vàng là bị nó xòe cánh mổ liền. Còn giống vịt cũng ngộ lắm, khi nở ra là theo riết người mẹ mà nó ngó thấy trước tiên lúc mở mắt. Bởi vậy nên mới có cái cảnh mẹ gà con vịt chắt chiu, khi lũ vịt con chạy ùa xuống nước bơi lội thì mẹ gà chỉ còn nước đứng trên bờ gọi khan cả tiếng… rồi rút khăn mù-xoa ra mà lau lệ.

Trước khi xảy ra vụ Nhựt đảo chánh Pháp ở Đông Dương và phong trào Việt Minh nổi dậy, gia đình tôi sống tại châu thành Bạc Liêu, ba và anh Hai tôi chung sức tạo dựng được một trại mộc nhỏ. Khi giặc giã tràn tới, gió bụi nổi lên tơi bời, anh Hai và anh Ba tôi theo kháng chiến chống Tây, còn ba tôi thì đóng tam bản chở gia đình đi tản cư. Sau hơn một năm lang bạt kỳ hồ, muỗi cắn điả đeo, kẻ đau gan người mang bệnh thủng, chúng tôi chịu đời không thấu nên hồi cư.

Về thành, trại mộc đã mất, ba tôi bèn biệt kinh kỳ tấp về Xóm Mới ở ngoại ô Bạc Liêu làm lại cuộc đời. Chúng tôi ở nhà mướn, ba tôi cất một trại mộc mới nhỏ hơn, cùng với anh Hai và chú Chín câm điếc của tôi bào đục, tự lực cánh sinh. Còn má tôi thì nuôi thêm gà vịt đắp đổi. Má tôi vốn người quê mùa miệt Cờ Đỏ nên cũng ham nuôi heo nuôi gà nuôi vịt lắm. Tôi cũng ham không kém vì lần nào có một lứa gà hay vịt nở, má tôi đều cho tôi tự ý lựa chọn một con làm bạn riêng và tha hồ cho tôi tưng tiu chăm sóc nó. Vì vậy, khi trứng bắt đầu khẻ mỏ, tôi cứ túc trực canh chừng bên ổ, mặc tình cho mấy con mạt gà (một loại giống như bồ mắc) từ gà mẹ hay từ ổ bay ra chun vô áo mà cắn, ngứa ngáy gãi sướt cả da. Tôi gan lì ở lại giúp cho gà con và vịt con khẻ mỏ gấp gấp, chun ra khỏi vỏ mau mau. Mỗi bận một con nở ra là mỗi bận tôi reo mừng thú vị hết sức.

Cùng lứa với con Mẫu Hậu là con vịt xiêm đực, hỗn danh Đại Bàng, tên này cũng do ba tôi đặt. Con Đại Bàng mắc chứng cuồng dâm nên vịt xiêm, vịt ta, vịt lớn hay vịt nhỏ gì đều cũng bị nó đạp mái ráo trọi. Cả gà ngỗng cũng bị nó hiếp dâm luôn. Gà mái bị đã đành, gà trống cũng bị như thường. Gặp nhằm gà nòi đá độ, anh chàng bị phang cho mấy cựa đổ máu dạt ra, mà rồi cũng không tởn. Ngay cả con heo thiến má tôi nuôi trong chuồng cũng bị Đại Bàng đáp đại lên lưng mổ cắn trì kéo lỗ tai heo và vặn vẹo cái đuôi vịt, không biết ý gì. Bận khác, bà chủ nhà của tôi ra ngồi ở bãi cỏ khuất mà giải thủy, tưởng đã yên chí. Dè đâu Đại Bàng nằm vùng ở đó tự lúc nào, bèn đưa mỏ cứng ướm thử cái bàn ngồi của bà chủ một phát. Bà la chói lói và chạy vô mắng vốn má tôi: bà bị con vịt phải gió của nhà tôi nó rỉa. Ba tôi che miệng cười khúc khích nói nhỏ với anh Hai tôi: «Gặp tao, tao cũng rỉa nữa… huống hồ là con vịt!»

Mãi về sau này, dung rủi lần nọ khi đã tàn cuộc truy hoan trên mương lộ trước nhà, Đại bàng còn hứng chí vỗ cánh phùng xòe bản Hành Dâm Khúc mà quên thu hồi báu kiếm. Xảy đâu có chàng cá lóc lội ngang nhác thấy tưởng là mồi bở, trồi lên đớp mất. Thế là… tàn đời bạo chúa! Nhưng Bạo chúa không chịu băng hà cho nên mới chết dân lành. Vì khi bị dâm hành mà đạp mái không được, Đại Bàng nổi điên vỗ cánh bay lên ngọn cây rượt theo mấy con quạ và chim tu hú mà cắn mà mổ. Rồi một chiều mưa gió nọ, Đại Bàng đã lướt gió tung mây vĩnh viễn ra đi, vịt cồ nhất khứ bất phục phản (hay là Bạo chúa đã xuống tóc đi tu?). Kể từ đó thanh bình mới thực sự được vãn hồi cho gà vịt heo ngỗng (và bà chủ nhà) trong Xóm Mới hiền hòa của tôi.

Nhưng đối với bà chủ nhà, tôi chỉ nể mà không ghét. Ghét là tôi ghét cái cậu em trai của bà chủ. Cậu này là bợm nhậu mút mùa, chó vàng chó vện gì mập mập mà lảng vảng trước mắt cậu là kể như tới số. Cậu đi tới đâu chó trong xóm hùa ra sủa vang rân tới đó. Thỉnh thoảng thiếu mồi, cậu lại ghé qua chuồng gà chuồng vịt của nhà tôi mà dòm dèm. Tuần trước cậu lại ghé nhà tôi mượn đỡ con gà, nói là để đưa ông Táo về trời trong dịp cuối năm, Tết nhứt tới rồi. Về mặt lý thuyết, tôi chẳng có gì để chống đối. Nhưng trên thực tế, ác thay cậu lại nhè chọn con gà giò mà má tôi đã cho tôi chọn bạn từ hồi mới nở, tôi chăm sóc rất kỹ, cứ ôm ấp hoài và cho ăn thêm nên nó mập bự hơn mấy con khác cùng bầy. Như vậy mới đổ nợ. Khi cậu chỉ tay chọn con gà ruột của mình, mặt tôi vụt xanh dờn bí xị và mếu khóc. Má tôi ôm tôi vào lòng và năn nỉ cậu chọn con gà khác mà cậu nhứt định không nghe, đã vậy còn lên mặt giận hăm he đòi đuổi nhà. Khi cậu thò tay ẵm con gà giò của mình, tôi lăn ra khóc sướt mướt. Má tôi cũng sụt sịt và hết sức dỗ dành tôi. Má tôi hứa khi vịt nở, má tôi sẽ đền cho tôi con khác. Tuy vậy, tôi cũng tỉ tê cả buổi trời.

Rồi buổi chiều hôm đó, tôi lén má ra sau hè nhà bà chủ lượm nắm lông tàn của con gà ruột của mình, đoạn giấu đem qua ruộng phía bên kia mương lộ mà chôn cất gần giếng nước. Bên bờ giếng, tôi giành một khoảng đất nhỏ để chôn cất mấy con vật đã cùng tôi bầu bạn một thời: chim sáo, cá lia thia, dế than, trâu đất, cu cườm… Tôi không chơi đá cá đá dế. Cá và dế của mấy thằng lỏi trong xóm cho đá với nhau tới lúc trầy vi tróc vẩy, sứt càng gãy gọng ngất ngư hết mới chịu quăng ra. Tôi lượm về rán lấy nước muối và đất sét chập chộ cho tỉnh hồn. Mấy thương binh gượng sống ngắc ngoải thêm được ít bữa mới chịu nhắm mắt lìa đời. Tôi khóc lóc và đem đi chôn ở nghĩa địa riêng của mình bên kia bờ giếng.

Mà khi tôi khóc, mấy thằng lỏi trong xóm bèn xúm lại kêu ngạo tôi. Hồi đó, lúc khóc chắc là tôi xấu lắm. Lúc năm sáu tuổi, răng tôi bị xiết ăn đen xì rụng sát nướu, chỉ còn trơ lại hai cái răng chó ở hàm trên, cũng đã bị ăn khuyết mòn xung quanh. Hết răng thì móm, dĩ nhiên. Vì vậy, khi tôi nhăn nướu đen xiết ra khóc, tụi lỏi xúm lại nhạo tôi, «bà già móm tóm lưỡi câu, ông già râu câu cá chốt», hoặc ác hơn «sún răng bắt cầu chía ỏ» (xin đừng nó lái mà chết cái duyên của thằng nhỏ).

Sau khi cạy mô đất nẻ và vùi chôn nắm lông tàn bên dưới, tôi lại ngồi bẹp một bên mà thút thít ngậm ngùi chứa chan lệ đẫm. Sắm sanh nếp tử sa châu, vùi nông một nấm mặc dù cỏ hoa, trải bao thỏ lặn ác tà… Tỉ tê như vậy không biết bao lâu. Tới khi nghe tiếng má kiếm và kêu tên mình từ phía bên kia mương lộ «Kiệt ơi! Kiệt à!» tôi mới giựt mình ngơ ngác. Tôi quẹt nước mắt đứng dậy đi trở ra mương lộ, rồi leo qua chiếc cầu khỉ trở về nhà.

Trời gần Tết, gió hiu hiu lạnh…

***

Hai bữa sau ổ vịt xiêm nở ra được mười một con, trong đó có Em Vịt Vàng Nhỏ của tôi. Đối với tấm lòng thơ ấu của tôi, vịt vàng là đứa con rơi, mồ côi mồ cút, con Mẫu Hậu là má nuôi của nó, còn tôi là anh ruột của nó. Vịt vàng em tôi đã tới kịp thời xoa dịu lòng đau khổ của anh mình và lấp được chỗ trống trải trong con tim ấu thời do con gà bạn thân vừa chết đi để lại. Nhưng vịt vàng còn quá nhỏ, chưa truyền được hơi ấm như những lần tôi luồn tay dưới bụng con gà giò ngày xưa mà ôm vào lòng yêu ấp. Tuy nhiên, tiếng thủ thỉ lép kép! lép kép! ngây thơ của nó cũng chở được vào tâm hồn đứa nhỏ sáu tuổi biết bao là hạnh phúc tuyệt vời!

Vịt vàng lại đưa chiếc mỏ chút xíu rỉa mấy hột cơm giữa hàm răng sún của tôi. Bỗng trên thinh không Ầm!!! một tiếng long trời lở đất, tôi giựt bắn người hết hồn, con vịt vàng cũng la chét lên một tiếng thất kinh. Ầm!!! Ầm!!! hai tiếng nổ long trời khác tiếp theo liền, trên đầu đạn bay véo véo. Tôi còn đang chới với thì vịt vàng đã sút khỏi tay tôi rớt xuống lăn cù rồi đứng dậy chét! chét! chét! gọi má thất thanh, bỏ chạy. Con Mẫu Hậu nghe con kêu cứu cũng lên tiếng đáp ứng và từ xa chạy tới. Vịt vàng mừng quá nhào vô quấn lấy cẳng má mình ẩn núp. Cảnh tượng trước mắt gợi lại trong trí tôi cái Tết năm ngoái trên đường tản cư, khi má tôi dừng mái chèo lại trên dòng sông Vĩnh Phước để cứu vớt ba mẹ con người đàn bà chạy giặc sắp chết đuối, xung quanh đạn lửa bừng bừng, người trúng đạn té xuống sông lòi ruột. Má tôi đã đưa tay kéo đứa nhỏ gái cho đeo cột chèo để má nó trồi lên ôm đứa con trai độ hai tuổi lội qua bên kia sông an toàn. Và đứa nhỏ gái cũng đã lên tiếng gọi má nó thất thanh như con vịt vàng nhỏ của tôi giờ đây vậy. Cũng một giọng cuống cuồng, cũng một điệu thảng thốt, rát ruột. Cho tới khi má tôi trả đứa nhỏ gái lại cho má nó bên kia bờ sông và người đàn bà bồng hai đứa con lẩn khuất trong đám người chạy giặc hỗn loạn tôi mới nghe nó kêu khóc. Chỉ mới năm ngoái thôi nên hình ảnh còn rất rõ rệt.

Thấy con Mẫu Hậu cất tiếng gọi bầy con lại và xù lông bảo vệ, mồng trên đầu và trên mặt đỏ ké dữ tợn, tôi không dám nhào vô mượn đứa em ruột của mình trở lại. Ầm! Ầm! Ầm! Ầm !… Tiếng cà nông thụt từ bót «Hội Đồng Điều» cách nhà tôi khoảng một trăm thước tiếp tục rền rĩ xé trời.

Sở dĩ bót mang tên như vậy là vì ngôi nhà cao cẳng của ông Hội Đồng Điều bị người Pháp trưng dụng và cất thêm lô cốt xung quanh để làm đồn bót chận đường Việt Minh. Tôi ngó theo hướng đạn đang bay về miệt Trà Kha, thấy mấy ngọn cau miệt đó gẫy gục, khói bốc lên ngùn ngụt. Miệt Trà Kha cây cối um tùm và rạch sình chằng chịt, du kích quân thường ẩn núp trong đó, chờ đêm tối kéo ra đánh đồn phá bót rồi lại rút về đó dưỡng quân. Thỉnh thoảng Tây kéo lính, công voa và thiết giáp vô Trà Kha ruồng bố. Chiều qua đã có chạm súng đụng độ và xe cứu thương hụ còi chạy ngang nhà tôi, nghe nói lính ở thành bị lọt phục kích chết nhiều. Có lẽ vì vậy mà giờ đây Tây thụt cà nông vô đó trả thù. Hoặc không chừng pháo kích trước để chuẩn bị hành quân càn quét. Xe díp cứ xẹt tới xẹt lui ngang Xóm Mới tôi từ sáng tới giờ. Nhiều khi mấy ổng còn kéo về tận xóm tôi và núp sau mấy cái mả đá bắn phá và liệng lựu đạn qua bót Hội Đồng Điều. Lính trong đồn xả súng liên thanh và mọt chê tưới sượi vào xóm tôi, nhà nào nhà nấy đều bị lủng đạn, cháy vách bể ngói lung tung! Bởi vậy nhà nào cũng có đào hầm trú ẩn ngay bên trong, nhà tôi cũng vậy.

Khi có chạm súng, ai nấy đều sợ mất vía nên tự động nhào hết xuống hầm. Chỉ trừ có chú Chín tôi vì điếc không sợ súng nên cứ đứng sổng lưng tự nhiên mà coi đạn bay đỏ trời và còn phát âm dễu dễu! dễu dễu! mấy tiếng trầm trồ thán phục. Can không nổi! Lúc nào bắn rát quá, kèo lá trên nóc nhà gẫy tuôn hết xuống ào ào, má tôi niệm Phật lia lịa, còn chị Tư tôi thì đội cái thau nhôm trên đầu, răng cỏ đánh bò cạp lốc cốc và đái luôn trong quần hồi nào không hay. Còn tôi thì cứ đau bụng mắc ỉa thúc tới, cẳng chưn lạnh ngắt, miệng mỏ khô queo.

Cuộc pháo kích còn đang tiếp diễn đinh tai nhức óc thì ba tôi từ trong trại mộc bước ra sân ngó lên trời chưởi đổng :

– Đ.m! Năm nào cũng vậy, hễ Tết nhứt tới là có sanh giặc. Thiệt tình! Hổng có năm nào bà con được yên ổn ăn Tết một lần thử coi.

Đoạn day qua thấy tôi đang đứng xớ rớ ở xó hè, ba tôi lên tiếng :

– Thôi mầy với thằng Lộc sửa soạn tao dắt đi chợ Tết. Bữa nay hăm chín, chiều nay là hết họp chợ rồi. Đi cho kịp trưa nay mua chút đỉnh đồ với thịt heo ba rọi về tao kho để dành Tết ăn.

Tôi nghe nói mừng lắm. Thế nào cũng có thèo lèo cứt chuột, hột dưa, tôm khô củ kiệu, mứt dừa, mứt bí. Hơn nữa, gì chớ ba tôi mà kho thịt heo với cá bống kèo kiểu Bạc Liêu là số dách. Cá ông chỉ rửa sơ, không cạo nhớt, rồi để cá sống nhăn nguyên con như vậy mà đổ vô nước sôi đậy nắp lại, cá bóng còn nhảy soi sói trong nồi lụp bụp. Chập sau, ông giở nắp ra vớt cho tới khi hết bọt rồi mới rót nước mắm ngon vào mà nêm nếm. Khi chín, con cá mềm sùi và còn nguyên chất ngọt. Phần bụng và đầu nhẩn nhẩn để cho người lớn, tôi thì hẩu xực cái đuôi. Còn kho thịt, ba tôi lựa mua thịt heo ba rọi có mỡ nhiều, cắt cục vuông thiệt lớn, lấy cọng lát buộc chéo ngang. Xong ông đốt lửa riu riu, kho thiệt lạt và kho thiệt nhiều bận lửa. Chừng đem ra ăn, mỡ đã rệu, chỉ cần mó đũa vào là mỡ phao ra, đưa vào miệng là chỉ có nuốt cái hương vị béo bùi, thả bánh tét vào mà nhâm nhi là hết xẩy. Ăn từ mùng một tới mùng ba vẫn không biết ngán, vì càng nhiều lửa, thịt càng mềm mỡ càng rệu. Hễ tới Tết là ba tôi giành để chính tay mình kho thịt. Má tôi kho ông chê nạc nhiều, thịt cứng và mặn. Má tôi thì làm những món khác như hủ qua hầm, gà rô ti, vịt cà ri, bánh tét, cải món, dưa cải, dưa giá… cũng ly kỳ lắm. Hồi nhỏ tôi ăn cái gì cũng thấy ngon và sướng ran, khoái tỉ. Nhà nghèo nên cũng ít khi được ăn nhiều món như trong dịp Tết. Quần áo má tôi xỏ kim may lấy cho tôi và Lộc – không biết bà học may ở đâu. Bận vô, bâu vè bẹt ra, túi thẳng hai cái hai bên coi cũng le lói như ai.

Gần trưa, khi tôi và Lộc theo ba đi ngang qua bót Hội Đồng Điều, đã thấy lính ta lính Tây lính Thổ láo nháo đứng trước bót nhậu nhẹt, ăn uống, hút thuốc, chửi thề, cười giỡn rậm rật. Sáu bảy chiếc cam nhông nhà binh đã đậu sẵn ở đó, vài chiếc khác từ Bạc Liêu chạy ra cũng đang từ từ tấp vô xếp hàng thành công-voa. Một anh lính quăng cho tôi và Lộc mấy cục kẹo. Hai đứa lượm bỏ túi.

Ra tới thành phố, ba tôi ghé vào một tiệm Chà Và bán vải để mua cho má tôi cái khăn. Nhận tiền thối xong, Lộc cầm gói khăn, ba tôi nắm tay hai đứa băng qua lộ để vô chợ nhà lồng mua thịt. Tới bên kia đường, ba tôi đứng lại để kiểm tiền thối khi nãy nhưng vì vội vàng chưa kịp đếm, thấy có tờ giấy hai chục đồng rách mướp, rõ là tiền heo gạo khó xài, ba tôi dắt hai đứa băng trở lại đường bước vô tiệm Chà Và đổi lại tờ khác. Xong xuôi trở ra cửa tính băng qua bên kia đường lần nữa để thực sự bước vô chợ. Vừa dợm bước thì…

Ì ì ì ì!! I ì ì!…

Một tiếng nổ vang rền chát chúa từ chợ nhà lồng dội ra ran cả ngực, đồng thời lửa vàng cam chóa lòa lóe lên. Lựu đạn! Một trái lựu đạn vừa được kháng chiến liệng vào chợ nhà lồng để khủng bố – đây cũng không phải là lần đầu. Ba cha con tôi kinh hãi thối lui. Cảnh vật như chết đứng im lìm trong một hai giây ngắn ngủi. Rồi vụt bừng sống trở lại với tiếng rên thét la khóc vang dậy trong nhà lồng chợ. Sau đó là tiếng chân chạy rần rật, người lớp lớp từ trong chợ túa ra, kẻ lành lặn, người đẫm máu, lính tráng giữ trật tự ùa tới chen lấn cực kỳ hỗn loạn, rào chợ được kéo lại, người trong không thể thoát ra người ngoài không thể ào vô, còi xe cứu thương đâu đó rú lên cuống quít.

Gần nửa giờ sau cuộc tản thương mới được cho phép. Người khiêng ra lớp chết, lớp bị thương nặng, lớp bị thương nhẹ, máu me kinh hồn, ruột gan lòng thòng, rên la khóc kể ghê rợn nhầy nhụa tanh tưởi. Máu! Máu! Đầy những máu! Máu tùm lum, máu khắp nơi. Trong đám tản thương, tôi bỗng thấy thằng Lý bám trên một bà già khiêng trên băng ca mình ướt đẫm máu me nằm bất tỉnh nhân sự, nó vừa khóc vừa lải nhải «Ngoại ơi là ngoại! Ngoại ơi ngoại! Hu hu hu». Thằng Lý là con riêng của bà chủ nhà, tuổi chừng mười ba mười bốn, đã trốn vô bưng từ mấy tháng nay. Sau này ba tôi nói lại, tôi mới biết là chính thằng Lý đã lãnh lựu đạn đem về thành liệng vô nhà lồng chợ rồi giả bộ khóc lóc đeo theo bà già xấu số nọ để qua mặt lính kiểm soát mà trốn khỏi vòng vây. Thiệt hết cỡ nói! Vậy mà tôi đâu có dè.

Khi cuộc tản thương đã chấm dứt và rào chợ được mở ra, ba tôi biểu Lộc dẫn tôi về nhà trước, còn ổng thì qua chợ nhà lồng để mua sắm đồ ăn Tết – ổng nói bây giờ người ta bỏ chạy hết rồi, chắc là thịt thà, trái cây, dưa hấu, kẹo mứt phải bán rẻ! Cũng lý luận y chang như hồi tản cư tới Vĩnh Phước vào cuối năm ngoái, bà con đang họp chợ Tết thì Tây Thổ nổ súng lốp bốp, mạnh ai nấy chạy bỏ chợ lộ thiên còn ba tôi thì trái lại vác gươm nhảy lên khỏi ghe tam bản chạy xấn ngược ra chợ để mua thịt heo bán rẻ, làm cho má tôi phải neo ghe chờ sợ xanh máu mặt. Thiệt là ông già lựu đạn mút mùa!

Lộc và tôi về tới nửa đường thì gặp má tôi đang tất tả chạy cẳng không từ đàng xa trờ tới – bà nghe nói có lựu đạn quăng ở chợ Tết rất nhiều người chết nên sợ thất thanh hồn vía đi kiếm chồng kiếm con. Vừa ngó thấy hai đứa tôi bà đã hoảng vía hào hển la lên :

– Chèn ơi!… còn ba tụi bây đâu ?… bộ ổng… bộ ổng bị trúng lựu đạn… lựu đạn… chở vô nhà thương… chở đi… chở đi nhà thương rồi hả?…

Bà nói không ra hơi, tiếng còn tiếng mất. Lộc lên tiếng :

– Hổng có. Ba hổng có sao hết. Ổng đương đi chợ…

– Chèn ơi! (má tôi ôm cứng hai đứa con mình bật khóc)… hai đứa tụi bây hổng có sao hả? (bà mếu máo)… nam mô a di đà Phật! Trời Phật phù hộ con tui! (bà sịt mũi)… còn cái ông già mắc dịch bộ chưa tởn lựu đạn hay sao mà còn ở đó đi chợ đi búa.

Má tôi vội vã dắt tụi tôi về nhà. Ngang qua bót thấy lính tráng rần rật bắt đầu leo lên xe nhà binh bây giờ đã có hơn cả chục chiếc, một chiếc xe díp từ trong bót phóng vèo ra chạy ngược về tỉnh. Hồi sau khá lâu mới thấy ba tôi đi xe lôi về, chở theo nào dưa hấu, cam bưởi, kẹo mứt, trà bánh… tay xách một đùm thịt heo ba rọi bự tổ chảng. Má tôi la ổng. Ông nói mua rẻ mạt còn ức hiếp gì nữa mà la. Lộc và tôi phụ ôm đồ vô nhà, trong bụng tuy còn sợ nhưng cũng khoái chí tử. Má tôi xuống bếp nổi lửa hâm đồ ăn dọn mâm cúng để rước ông bà cuối năm về ăn Tết. Bà biểu Lộc và tôi đi lùa gà lùa vịt về nhốt lại sớm sớm. Tết nhứt tới rồi để mất hổng nên. Lộc ra mé sau, tôi đi vòng ra mé trước.

***

Trước nhà tôi có cái mương nhỏ lưa thưa cỏ lát mọc và bèo nổi. Kế mương là bờ đất cỏ dại, giáp ranh đường lộ lởm chởm đá xanh loang lở. Một bờ đất khác tiếp nối dốc xuống mương lộ rộng chừng ba thước có cầu khỉ bắt ngang, bên kia là ruộng lúa với giếng đào chứa nước mưa ngọt và cái nghĩa địa của tôi nằm cạnh bờ giếng. Tôi bước ra trước nhà ngó thấy cách đó không xa con Mẫu Hậu đang dắt bầy con kiếm ăn ở mương nước, lũ vịt con vừa kêu lép kép vừa chìa mỏ rỉa vào bèo nổi, con vịt vàng nhỏ của tôi tách rời với hai con vịt xám khác, cách vịt mẹ đâu chừng một thước. Tôi đi về phía đó tính lùa vịt về chuồng ở sau nhà nhốt lại.

Chợt từ phía bót Hội Đồng Điều vọng lại tiếng động cơ ồn ào, mỗi lúc một lớn hơn, mỗi lúc một gần hơn. Có lẽ đoàn công-voa đang bắt đầu chuyển dịch. Rồi từ phía xa, một chiếc xe heo nọc trờ tới, mỗi lúc một rõ dần, chiếc xe bọc thép mở đường có gắn súng lớn xung quanh, mũi xe đeo ống dây cáp sắt để trục xe sa lầy, hai bánh trước chạy bằng cao su thường, hai bánh sau chạy trên xích sắt, khi di chuyển dây xích nghiến nát đá đường chát chúa điếc tai, mặt đất rung rinh chấn động. Khi xe thiết giáp dẫn đầu còn cách bầy vịt độ năm thước, bỗng dưng con Mẫu Hậu ngửng đầu lên rồi chợt giựt mình nhảy phóc ra khỏi mương vọt chạy băng qua phía bên kia lộ, dắt theo tám con vịt xám nhỏ – tôi không kịp phản ứng gì hết. Vịt mẹ dừng lại bên kia đường cất tiếng kêu réo đám con còn kẹt lại ở mương nhỏ bên này.

Vừa khi đó chiếc xe bọc thép mở đường cũng đúng nhịp trờ tơí lướt qua mặt tôi, trực chỉ Trà Kha, xích sắt rần rật lay chuyển mặt đất dưới chưn chỗ tôi đang đứng. Chiếc xe cam nhông chở lính đầu tiên từ từ tiến tới, chậm rãi nối đuôi theo xe thiết giáp. Từ từ, từ từ… Bên kia đường vịt mẹ vẫn tiếp tục gọi con, giọng kêu hoảng hốt, lo lắng. Ba con vịt nhỏ còn kẹt lại vụt nhảy lên mương, vọt băng qua phía bên kia đường, tôi dang tay ra cản ngăn không được. Chiếc cam nhông trờ tới… Hai con vịt xám lẹ chưn chun tọt dưới lườn xe biến mất, con vịt vàng nhỏ của tôi cũng vọt theo, tôi cũng vọt theo. Bỗng em tôi vấp bánh sau của xe cam nhông dội lại, tôi cũng dội lại, đuôi xe kình càng lướt qua sát rạt bên mũi, mấy người lính lê dương râu ria xồm xàm ngồi trên xe chồm ra la ó vang rân và khoát tay đuổi tôi trở lộn vô bờ lề. Chiếc xe cam nhông thứ hai từ từ tiến tới, động cơ rù rì, bí mật, lạnh lùng, vô giác. Từ từ, từ từ… bánh xe cao su từ từ lăn tới…

Con Mẫu Hậu vẫn tiếp tục gọi con thảng thốt. Hai con vịt xám nhỏ đã qua được bên kia đường an toàn và nhập bầy. Chỉ còn lại bên nầy đường có mỗi con vịt vàng nhỏ của tôi đang chạy lăng xăng cuống cuồng và tôi cũng đang cuống cuồng rượt theo. Tôi cúi xuống chụp nó mấy lần, nhưng chụp hụt. Má nó lại cất tiếng réo gọi. Con vịt vàng ngửng cổ nghe ngóng rồi lại vọt phóng trở ra giữa lộ thần tốc. Chiếc xe cam nhông thứ hai lăn tới áng khuất, cụm lông vàng mịn không còn ngó thấy đâu nữa, tôi chỉ kịp nghe một tiếng «Chét» thảm thương bên tai, thôi rồi! chết em tôi rồi, tôi ngã quỵ xuống lề đường, đầu gối đập lên đá cục mà không cảm thấy đau đớn gì hết!… Chết em tôi rồi! Nhúm lông vàng dính trên bánh xe sau ghép đôi cuốn theo đoàn lính lăn đi, để lại vết máu đỏ tươi bằng bàn tay thấm ướt trên mặt lộ. Mình mẩy tôi vụt lạnh ngắt, chết em tôi rồi! Tôi hét lên một tiếng thất thanh ngã lật ra sau té trên bờ cỏ, nước mắt vọt ra xối xả, ruột gan nát ngướu như xác vịt con bấy nhậy giữa đường, tim gan rạn nứt bể vụn… Hết rồi! Thôi hết rồi! Chẳng còn gì nữa em vịt vàng nhỏ của tôi! Vĩnh biệt! Vĩnh biệt! Em ơi vĩnh biệt!

Tôi nằm lăn lộn dẫy dụa trên bờ cỏ, cổ họng thắt gút tắc nghẽn, không bật khóc được thành tiếng, chỉ còn biết hả miệng để kịp lấy hơi thở và để cho tiếng nấc tràn ra ngoài, trời đất xung quanh nhạt nhòe, cổ họng ngất ngất muốn bể tét. Mặt đất dưới lưng tôi tiếp tục chấn động dưới lốp cao su ghép đôi của đoàn xe cam nhông mười bánh rầm rộ, tiếng động cơ vẫn tiếp tục xầm xì dửng dưng lướt qua xịt phun xuống mặt đường mùi xăng khét nghẹt trộn lẫn bụi đường và khói xám xanh mù mịt. Rù rù rù rù rù… chiếc thứ ba… rù tù rù… chiếc thứ tư… rù rù rù rù… chiếc thứ năm rồi chiếc thứ sáu… Mỗi lần xe lướt qua tôi lại nghe vang động trong đầu tiếng «chét» tuyệt mạng của em tôi. Rù rù rù rù… Chét! Rù rù rù rù chét!… Tôi úp hai bàn tay nhỏ của mình lên lỗ tai lăn người ngóc dậy, đầu gối quì trên lề cỏ, ngước đầu ngó ra giữa lộ.

Trên mặt đường không còn phân biệt được dấu máu và vết lông vàng của em tôi nữa. Hết rồi! Em tôi đã hoàn toàn biến mất trên thế gian này. Đoàn xe tiếp tục lăn qua chậm chạp, từ từ, nhưng tiếng động cơ phát ra xầm xì không đè át được tiếng «chét! chét!» thảm thương nhỏ nhít của em tôi còn đang chấn động từng chập trong cùng tận ruột gan mình. Tôi gẫy quặp người tới trước, hai tay cấu lấy bụi cỏ lông gà ghịt kéo để cố dằn tiếng nấc đang cướp mất hơi thở mình… Bụi cỏ trốc gốc, tôi lại té ngửa ra sau, một chân lọt xuống mương nước, tôi nấc tiếp liền mấy tiếng bứt ngang hô hấp, miệng không thể nào khép lại được nữa, tôi nhăn hàm răng xiết ăn ngó trời, lệ tuôn đầm đìa lai láng, trời mây trên cao tan loãng thành vũng nước mắt không còn hình thù gì nữa, tất cả mờ run mịt mùng, lung linh nhòe nhoẹt. Hết rồi! Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! Em đã chết bỏ tôi thiệt rồi!…

Khi nghe tiếng xích sắt chát chúa của chiếc xe thiết giáp bọc hậu cuối cùng chấn động trên mặt đất, tôi biết là đoàn công-voa đã đi qua hết. Tôi ủ rũ bò dậy quì gối ngó ra mặt đường. Chẳng còn gì nữa dấu vết em vịt vàng nhỏ của tôi, chẳng còn dấu lông vàng, chẳng còn vết máu đỏ. Em của tôi đã vỗ đôi cánh nhỏ bay về trời mất tích! Tôi òa khóc thành tiếng… Tôi quặp người ghịt lấy bụi cỏ bật khóc ngất ngất, khóc ồ ạt, khóc quằn quại, khóc vật vã. Nếu rủi thời má tôi ngã ra chết lúc đó, có lẽ tôi cũng khóc nhiều đến như vậy là cùng. Tấm lòng thơ dại tan nát! Con tim ấu thời đã dập bể trên mặt lộ đá xanh lởm chởm! Hết rồi! Em ơi, hết rồi! Em đã bỏ tôi thiệt rồi! Tôi hét lên «trời ơi!» một tiếng xé ruột rồi rũ người nghiêng qua một bên, từ từ sụm trên mặt cỏ còn nồng nặc mùi xăng khói…

Tôi nằm co quắp bên lề đường, tay bấu lấy bờ cỏ khóc la thảm thiết như vậy không biết bao lâu. Như mê sảng. Tôi muốn mình mê sảng. Khi gặp chuyện quá dữ dằn, tôi ước rằng đó là một cơn ác mộng, một cơn mơ dữ. Tôi cắn vào đầu lưỡi. Tôi không nằm mơ. Tôi tỉnh táo. Không phải chiêm bao. Chuyện thiệt. Rõ ràng chuyện thiệt. Em vịt vàng nhỏ của tôi đã chết thiệt rồi! Em vịt vàng nhỏ của tôi không còn ở trên dương thế này nữa! Tiếng khóc quằn quại của tôi bật tràn ra cổ họng như thác lũ, rồi mòn mỏi theo đường suối đi nhỏ dần, dợn uốn nao nao và từ từ dịu tắt.

Tôi ngồi dậy hỉ mũi chùi xuống cỏ. Tôi đưa sống tay dụi lên đôi mắt ướt nhẹp và thở dài đứng dậy. Đầu gối chợt buốt nhói muốn té sụm. Tôi cúi xuống phủi mấy vụn đá nhỏ còn dính trên đầu gối, da rách sướt chảy máu rát nhức. Tôi bước cà nhắc xiểng niểng ra lộ đá lượm xác em tôi đem qua bên kia bờ giếng chôn cất. Nhưng trên mặt đường những vụn thịt, những vụn lông vàng non dại, những vụn đất đá trộn lẫn li chi không còn phân biệt được gì nữa hết. Tôi mếu máo bước trở vô lề đường lượm miếng giấy nhựt trình sười rách dính phất phơ trên ngọn cỏ. Tôi phủi sạch rồi bẻ một nhánh cây bình bát mọc ven mương lộ tước hết lá. Tôi trở ra lộ ngồi chồm hổm cạy gỡ những mảnh vụn mà tôi nghĩ là của em tôi còn để lại trên cõi đời này, đùa vào miếng giấy nhựt trình gói thành gói nhỏ. Tôi đi ra mương lộ, dợm bước lên cầu khỉ để qua bên kia bờ giếng.

Dưới mương lộ, con Mẫu Hậu thản nhiên tiếp tục dẫn đàn con mười đứa còn lại tung tăng trên mặt nước rỉa rói quanh đám cỏ lác và bèo dại kiếm ăn. Đám vịt con xám buông tiếng kêu lép kép! lép kép! Tim tôi vụt se thắt. Tôi ngồi thụp xuống đầu cầu khỉ, ôm cứng gói nhựt trình nhỏ vào lòng và bật khóc trở lại sướt mướt. Lòng đau đớn quá đỗi. Nước mắt nước mũi ràn rụa. Tôi không oán hận gì hết. Chỉ thấy đau đớn. Quá đỗi đau đớn. Tôi thương quá chừng em vịt vàng nhỏ của tôi. Bây giờ nó đã chết rồi. Em tôi đã chết rồi. Tôi không oán hận chiến tranh. Ở tuổi thơ đó lòng tôi không biết oán hận. Tôi không oán hận chiếc xe cam nhông đã nghiến nát em vịt vàng nhỏ của tôi. Tôi không oán hận người tài xế đã lái chiếc cam nhông cán em tôi bấy nhậy. Tôi không oán hận đoàn lính Lê Dương ngồi trên chiếc cam nhông đó. Dù sao chiếc cam nhông cũng đã đi mất, đoàn công-voa cũng đã đi mất, người tài xế cũng đã đi mất, đoàn lính Lê Dương cũng đã đi mất. Có thể tối nay khi trở về có người đã chết, đúng vào đêm giao thừa. Tôi hít nhẹ tủi thân, tấm tức. Và bật khóc trở lại lần nữa, lần nữa…

Dù thâm tâm mình không mảy may thù oán, trong đầu óc non nót của tôi bỗng phựt lên cơn giận dữ – cơn giận dữ dính liền với cái chết, nỗi tang thương và sự khổ đau. Tôi giận con vịt Mẫu Hậu! Trong đầu óc khờ khạo của mình, tôi nghĩ tại vì nó đã ngốc nghếch cất tiếng réo gọi con mình cho nên em vịt vàng nhỏ của tôi mới băng qua đường cho xe cán chết thảm. Tôi lượm cục đất ở đầu cầu nhắm con vịt mẹ liệng tới. Cơn giận bay ra nửa chừng mãn hơi rớt ùm xuống nước. Con Mẫu Hậu giựt mình thốt kêu mấy tiếng rồi dắt đàn con lội đi nơi khác. Bỏ lại tôi ngồi chong ngóc một mình ở đầu cầu khỉ tiếp tục khóc thút thít, khóc nghẹn ngào, khóc lẻ loi…

«Kiệt ơi! Kiệt à! Kiệt!», tiếng má tôi từ hiên nhà bên kia đường vọng qua. Má tôi kêu tôi về lạy mâm cơm cúng để rước ông bà về cùng gia đình chúng tôi chung vui ba ngày Tết. Đầu xóm ai đó đốt pháo đợi giao thừa, mừng Tết đến. Cái Tết thiêng liêng háo hức trong huyết quản mọi người. Cái Tết ấu thời nhỏ theo giọt lệ hồng của tôi sùi sụt. Nào ai có biết trong ruột gan đứa nhỏ sáu tuổi, một nửa cái Tết thơ ấu đó đã nát vụn theo con vịt vàng nhỏ em tôi giờ đây nằm trong gói giấy nhựt trình tôi đang ôm cứng trên bụng bên bờ mương nước mặn. Và một nửa cái Tết kia đã theo nhúm lông tàn của con gà bạn tôi mà vùi dập tự bao giờ bên kia bờ giếng nước ngọt, khi những nụ mai vàng theo gió Xuân mướt xanh vừa chớm nhú.

Một cái Tết thơ ấu đã nát vụn và vùi dập bên hai dòng nước mặn ngọt trong xóm nhỏ của tôi tự bao giờ…

***

Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! Từ ngày em bị chiếc xe nhà binh mười bánh và chiếc xe tăng nghiến nát, cuộc chiến tranh không ngừng tiếp diễn khốc liệt ở quê hương hai anh em mình, đằng đẵng ba chục năm không hề ngừng nghỉ. Cuốn chìm phăng phăng trong dòng lửa sắt bất cưỡng, tôi may mắn và tình cờ còn sống sót. Và từ Xóm Mới ấm áp phương Đông mình, tôi dạt trôi tới phương trời Tây lạnh lẽo xa lạ.

Nơi tôi ở bây giờ, ngoại ô Paris, không có mai vàng. Chỉ có anh đào trổ một màu hường phơn phớt lợt mọc trên dốc đồi thoai thoải bên những cội lệ liễu xõa tóc dịu dàng.

năm nay đào lại nở!

Phải, năm nào mà đào lại chẳng nở. Đào lại nở, tôi lại nhớ em tôi, em vịt vàng nhỏ xinh xắn tội nghiệp. Mỗi năm, khi vừa chớm đông, từng bầy vịt hoang và ngỗng trời từ Bắc Âu vỗ cánh bay ngang Paris, rồi di chuyển về miền Nam để trốn lạnh, sang đến tận Châu Phi.

Khi ngó lên trùng trùng chấm đen lướt qua cao vút trên đầu, lần nào tôi cũng tự hỏi không biết có em vịt vàng nhỏ của tôi trong bầy chim hoang đó hay không, và lần nào tôi cũng thầm lo ngại không biết em tôi có được đủ ấm như một thuở xa xưa nào khi Tết gần đến, tôi đã từng ôm em úm trong lòng để mớm cơm cho em ăn và chuyện trò cùng em thủ thỉ. Nhưng tôi lại tự nhủ chắc là em không có mặt trong bầy vịt đang bay trên cao tít, bởi lẽ quê hương của em, quê hương của tôi, quê hương của anh em mình không phải ở đây. Tôi hình dung giờ này chắc em đang tung tăng bơi lội trong một vùng nước mặn ấm áp quanh năm trước mương lộ của nhà tụi mình ở Xóm Mới, miệt Hậu Giang phù sa mặn mòi, đồng ruộng phì nhiêu quấn quít sông ngòi đặc ngừ tôm cá.

Và em đang thò chiếc mỏ vàng xinh xắn rỉa vào đám bèo nổi kiếm ăn, buông tiếng kêu lép kép nhỏ nhít. Em đang gọi tôi cùng đến để chia sớt nỗi vui mừng rất trẻ con của em.

Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! Cũng như mọi sinh vật trên đời, em đã từng có một tuổi nhỏ thơ dại và một trái tim thơ dại ẩn chứa trong lớp lông tơ vàng mịn êm đềm. Trái tim thơ dại đó đã truyền vào con tim ấu thời của tôi biết bao là thương mến, muôn ngàn thương mến, biết bao là cảm xúc, vô vàn cảm xúc, biết bao là hoan lạc, vô vàn hoan lạc, và cũng biết bao là đau đớn, đau đớn tưởng chừng có thể xé đứt ruột gan mình mà ngã ra chết được. Em đã cho tôi con tim thơ dại, tôi đã cho em tuổi ấu thời. Dù vẫn còn phưởng phất ở Xóm Mới mỗi độ Xuân về, con tim thơ dại và tuổi ấu thơ đó đã có lần vỗ cánh thơ ngây bay tìm mùa Xuân trong trắng ở một vùng trời tuyệt nhiên không nhuốm một dấu vết hận thù. Rồi đã vĩnh viễn cư ngụ lại muôn đời luôn tại đó.

Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi

Em vỗ cánh nhỏ bay về trời

Em tha trong mỏ em vàng nhỏ

Tấm lòng thơ nhỏ của riêng tôi

Và năm nay đào lại nở! Giờ đây trên một cụm mây xa thiệt xa, tôi hình dung một đứa nhỏ sún răng đang ôm em vịt vàng nhỏ của mình trong lòng và hai anh em đang bồi hồi ngó xuống trần gian nhìn ngắm thiên hạ nổ pháo rộn ràng mừng đón Ông Bà và Nàng Xuân về ăn Tết…

Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi

Má ơi con vịt chết chìm

Con thò tay vớt nó con cá lìm kìm rỉa tay

Ca dao

…Lép kép! Lép kép! Con vịt con thò chiếc mỏ vàng nhỏ xinh xắn rỉa mấy hột cơm tôi vừa mớm ra cho nó ở miệng. Nó ngước lên nuốt mấy hột cơm, chiếc cổ nhỏ xíu ngửng lên trời ngửa ra sau, xong nó giương đôi mắt khù khờ ngó tôi kêu lép kép chờ đợi. Tôi đưa vịt con cạ cạ lông nhung mịn của nó lên má mình, lòng rạt rào sung sướng, thương quá là thương! Tôi sáu tuổi, con vịt con vừa nở được năm ngày. Nó đưa chiếc mỏ rỉa trong vành tai tôi nhột nhột khiến tôi rụt đầu ngoẻo cổ qua một bên. Vậy mà đã ghê! Vịt con thủ thỉ chuyện trò với tôi, lép kép! lép kép!… Chỉ có một mình tôi hiểu được em tôi muốn nói gì.

Tôi mở tay ra. Con vịt nhỏ nằm gọn lỏn trong hai bàn tay tôi, ngoan ngoãn, lép kép! lép kép! Toàn thân con vịt màu vàng, lông tơ mịn màng non nớt thơm tho, mỏ và chân hơi ửng màu cam, trên mỏ có chấm hai lỗ thở nhỏ xíu, mắt tròn vo đen lay láy, ngây thơ ngờ nghệch. Lép kép! Lép kép! Tôi lại mớm cho nó mấy hột cơm. Tôi dặn nó kêu nho nhỏ, sợ má nó nghe được chạy tới đòi lại. Má nó là con vịt xiêm mái cồ đã đẻ nhiều lứa, giữ con thiệt hay nhưng cũng rất dữ tợn, ba tôi gọi con vịt mẹ này là con vịt Mẫu Hậu. Có lần tôi bắt con nó để giỡn chơi bị nó bay đáp lên đầu vừa quào vừa mổ chảy máu, tôi la khóc chói lói và cũng kể từ đó tôi sợ nó lắm.

Vì vậy lần này tôi lén bắt con vịt vàng nhỏ trốn ra góc hè, ngồi dựa vách lá chỗ khuất để được tha hồ mà tưng tiu trửng rỡn với nó. Mà nói cho ngay, con vịt vàng này là của tôi chớ không phải là con ruột của con Mẫu Hậu. Cách đây đâu chừng ba tuần lễ, má tôi biểu tôi ra đồng lùa vịt. Tình cờ tôi lượm được một trứng của con vịt mái nào đó đẻ rớt. Tôi đem về lấy mực làm dấu rồi lén bỏ vô ổ cho con Mẫu Hậu ấp chung với mấy trứng khác cùng chạng. Vịt xiêm biết ấp trứng, còn vịt ta thì không biết. Chừng nở ra mấy con vịt kia đều cùng một họ Xiêm lớn con màu xám có hai chấm vàng trên cánh, chỉ có trứng vịt làm dấu của tôi là nở ra con vịt nhỏ nhứt vàng lườm vô cùng xinh xắn. Nhưng con Mẫu Hậu không kỳ thị chủng tộc một chút nào, con nào cũng là con của nó hết, tôi rớ tới con vịt vàng là bị nó xòe cánh mổ liền. Còn giống vịt cũng ngộ lắm, khi nở ra là theo riết người mẹ mà nó ngó thấy trước tiên lúc mở mắt. Bởi vậy nên mới có cái cảnh mẹ gà con vịt chắt chiu, khi lũ vịt con chạy ùa xuống nước bơi lội thì mẹ gà chỉ còn nước đứng trên bờ gọi khan cả tiếng… rồi rút khăn mù-xoa ra mà lau lệ.

Trước khi xảy ra vụ Nhựt đảo chánh Pháp ở Đông Dương và phong trào Việt Minh nổi dậy, gia đình tôi sống tại châu thành Bạc Liêu, ba và anh Hai tôi chung sức tạo dựng được một trại mộc nhỏ. Khi giặc giã tràn tới, gió bụi nổi lên tơi bời, anh Hai và anh Ba tôi theo kháng chiến chống Tây, còn ba tôi thì đóng tam bản chở gia đình đi tản cư. Sau hơn một năm lang bạt kỳ hồ, muỗi cắn điả đeo, kẻ đau gan người mang bệnh thủng, chúng tôi chịu đời không thấu nên hồi cư.

Về thành, trại mộc đã mất, ba tôi bèn biệt kinh kỳ tấp về Xóm Mới ở ngoại ô Bạc Liêu làm lại cuộc đời. Chúng tôi ở nhà mướn, ba tôi cất một trại mộc mới nhỏ hơn, cùng với anh Hai và chú Chín câm điếc của tôi bào đục, tự lực cánh sinh. Còn má tôi thì nuôi thêm gà vịt đắp đổi. Má tôi vốn người quê mùa miệt Cờ Đỏ nên cũng ham nuôi heo nuôi gà nuôi vịt lắm. Tôi cũng ham không kém vì lần nào có một lứa gà hay vịt nở, má tôi đều cho tôi tự ý lựa chọn một con làm bạn riêng và tha hồ cho tôi tưng tiu chăm sóc nó. Vì vậy, khi trứng bắt đầu khẻ mỏ, tôi cứ túc trực canh chừng bên ổ, mặc tình cho mấy con mạt gà (một loại giống như bồ mắc) từ gà mẹ hay từ ổ bay ra chun vô áo mà cắn, ngứa ngáy gãi sướt cả da. Tôi gan lì ở lại giúp cho gà con và vịt con khẻ mỏ gấp gấp, chun ra khỏi vỏ mau mau. Mỗi bận một con nở ra là mỗi bận tôi reo mừng thú vị hết sức.

Cùng lứa với con Mẫu Hậu là con vịt xiêm đực, hỗn danh Đại Bàng, tên này cũng do ba tôi đặt. Con Đại Bàng mắc chứng cuồng dâm nên vịt xiêm, vịt ta, vịt lớn hay vịt nhỏ gì đều cũng bị nó đạp mái ráo trọi. Cả gà ngỗng cũng bị nó hiếp dâm luôn. Gà mái bị đã đành, gà trống cũng bị như thường. Gặp nhằm gà nòi đá độ, anh chàng bị phang cho mấy cựa đổ máu dạt ra, mà rồi cũng không tởn. Ngay cả con heo thiến má tôi nuôi trong chuồng cũng bị Đại Bàng đáp đại lên lưng mổ cắn trì kéo lỗ tai heo và vặn vẹo cái đuôi vịt, không biết ý gì. Bận khác, bà chủ nhà của tôi ra ngồi ở bãi cỏ khuất mà giải thủy, tưởng đã yên chí. Dè đâu Đại Bàng nằm vùng ở đó tự lúc nào, bèn đưa mỏ cứng ướm thử cái bàn ngồi của bà chủ một phát. Bà la chói lói và chạy vô mắng vốn má tôi: bà bị con vịt phải gió của nhà tôi nó rỉa. Ba tôi che miệng cười khúc khích nói nhỏ với anh Hai tôi: «Gặp tao, tao cũng rỉa nữa… huống hồ là con vịt!»

Mãi về sau này, dung rủi lần nọ khi đã tàn cuộc truy hoan trên mương lộ trước nhà, Đại bàng còn hứng chí vỗ cánh phùng xòe bản Hành Dâm Khúc mà quên thu hồi báu kiếm. Xảy đâu có chàng cá lóc lội ngang nhác thấy tưởng là mồi bở, trồi lên đớp mất. Thế là… tàn đời bạo chúa! Nhưng Bạo chúa không chịu băng hà cho nên mới chết dân lành. Vì khi bị dâm hành mà đạp mái không được, Đại Bàng nổi điên vỗ cánh bay lên ngọn cây rượt theo mấy con quạ và chim tu hú mà cắn mà mổ. Rồi một chiều mưa gió nọ, Đại Bàng đã lướt gió tung mây vĩnh viễn ra đi, vịt cồ nhất khứ bất phục phản (hay là Bạo chúa đã xuống tóc đi tu?). Kể từ đó thanh bình mới thực sự được vãn hồi cho gà vịt heo ngỗng (và bà chủ nhà) trong Xóm Mới hiền hòa của tôi.

Nhưng đối với bà chủ nhà, tôi chỉ nể mà không ghét. Ghét là tôi ghét cái cậu em trai của bà chủ. Cậu này là bợm nhậu mút mùa, chó vàng chó vện gì mập mập mà lảng vảng trước mắt cậu là kể như tới số. Cậu đi tới đâu chó trong xóm hùa ra sủa vang rân tới đó. Thỉnh thoảng thiếu mồi, cậu lại ghé qua chuồng gà chuồng vịt của nhà tôi mà dòm dèm. Tuần trước cậu lại ghé nhà tôi mượn đỡ con gà, nói là để đưa ông Táo về trời trong dịp cuối năm, Tết nhứt tới rồi. Về mặt lý thuyết, tôi chẳng có gì để chống đối. Nhưng trên thực tế, ác thay cậu lại nhè chọn con gà giò mà má tôi đã cho tôi chọn bạn từ hồi mới nở, tôi chăm sóc rất kỹ, cứ ôm ấp hoài và cho ăn thêm nên nó mập bự hơn mấy con khác cùng bầy. Như vậy mới đổ nợ. Khi cậu chỉ tay chọn con gà ruột của mình, mặt tôi vụt xanh dờn bí xị và mếu khóc. Má tôi ôm tôi vào lòng và năn nỉ cậu chọn con gà khác mà cậu nhứt định không nghe, đã vậy còn lên mặt giận hăm he đòi đuổi nhà. Khi cậu thò tay ẵm con gà giò của mình, tôi lăn ra khóc sướt mướt. Má tôi cũng sụt sịt và hết sức dỗ dành tôi. Má tôi hứa khi vịt nở, má tôi sẽ đền cho tôi con khác. Tuy vậy, tôi cũng tỉ tê cả buổi trời.

Rồi buổi chiều hôm đó, tôi lén má ra sau hè nhà bà chủ lượm nắm lông tàn của con gà ruột của mình, đoạn giấu đem qua ruộng phía bên kia mương lộ mà chôn cất gần giếng nước. Bên bờ giếng, tôi giành một khoảng đất nhỏ để chôn cất mấy con vật đã cùng tôi bầu bạn một thời: chim sáo, cá lia thia, dế than, trâu đất, cu cườm… Tôi không chơi đá cá đá dế. Cá và dế của mấy thằng lỏi trong xóm cho đá với nhau tới lúc trầy vi tróc vẩy, sứt càng gãy gọng ngất ngư hết mới chịu quăng ra. Tôi lượm về rán lấy nước muối và đất sét chập chộ cho tỉnh hồn. Mấy thương binh gượng sống ngắc ngoải thêm được ít bữa mới chịu nhắm mắt lìa đời. Tôi khóc lóc và đem đi chôn ở nghĩa địa riêng của mình bên kia bờ giếng.

Mà khi tôi khóc, mấy thằng lỏi trong xóm bèn xúm lại kêu ngạo tôi. Hồi đó, lúc khóc chắc là tôi xấu lắm. Lúc năm sáu tuổi, răng tôi bị xiết ăn đen xì rụng sát nướu, chỉ còn trơ lại hai cái răng chó ở hàm trên, cũng đã bị ăn khuyết mòn xung quanh. Hết răng thì móm, dĩ nhiên. Vì vậy, khi tôi nhăn nướu đen xiết ra khóc, tụi lỏi xúm lại nhạo tôi, «bà già móm tóm lưỡi câu, ông già râu câu cá chốt», hoặc ác hơn «sún răng bắt cầu chía ỏ» (xin đừng nó lái mà chết cái duyên của thằng nhỏ).

Sau khi cạy mô đất nẻ và vùi chôn nắm lông tàn bên dưới, tôi lại ngồi bẹp một bên mà thút thít ngậm ngùi chứa chan lệ đẫm. Sắm sanh nếp tử sa châu, vùi nông một nấm mặc dù cỏ hoa, trải bao thỏ lặn ác tà… Tỉ tê như vậy không biết bao lâu. Tới khi nghe tiếng má kiếm và kêu tên mình từ phía bên kia mương lộ «Kiệt ơi! Kiệt à!» tôi mới giựt mình ngơ ngác. Tôi quẹt nước mắt đứng dậy đi trở ra mương lộ, rồi leo qua chiếc cầu khỉ trở về nhà.

Trời gần Tết, gió hiu hiu lạnh…

***

Hai bữa sau ổ vịt xiêm nở ra được mười một con, trong đó có Em Vịt Vàng Nhỏ của tôi. Đối với tấm lòng thơ ấu của tôi, vịt vàng là đứa con rơi, mồ côi mồ cút, con Mẫu Hậu là má nuôi của nó, còn tôi là anh ruột của nó. Vịt vàng em tôi đã tới kịp thời xoa dịu lòng đau khổ của anh mình và lấp được chỗ trống trải trong con tim ấu thời do con gà bạn thân vừa chết đi để lại. Nhưng vịt vàng còn quá nhỏ, chưa truyền được hơi ấm như những lần tôi luồn tay dưới bụng con gà giò ngày xưa mà ôm vào lòng yêu ấp. Tuy nhiên, tiếng thủ thỉ lép kép! lép kép! ngây thơ của nó cũng chở được vào tâm hồn đứa nhỏ sáu tuổi biết bao là hạnh phúc tuyệt vời!

Vịt vàng lại đưa chiếc mỏ chút xíu rỉa mấy hột cơm giữa hàm răng sún của tôi. Bỗng trên thinh không Ầm!!! một tiếng long trời lở đất, tôi giựt bắn người hết hồn, con vịt vàng cũng la chét lên một tiếng thất kinh. Ầm!!! Ầm!!! hai tiếng nổ long trời khác tiếp theo liền, trên đầu đạn bay véo véo. Tôi còn đang chới với thì vịt vàng đã sút khỏi tay tôi rớt xuống lăn cù rồi đứng dậy chét! chét! chét! gọi má thất thanh, bỏ chạy. Con Mẫu Hậu nghe con kêu cứu cũng lên tiếng đáp ứng và từ xa chạy tới. Vịt vàng mừng quá nhào vô quấn lấy cẳng má mình ẩn núp. Cảnh tượng trước mắt gợi lại trong trí tôi cái Tết năm ngoái trên đường tản cư, khi má tôi dừng mái chèo lại trên dòng sông Vĩnh Phước để cứu vớt ba mẹ con người đàn bà chạy giặc sắp chết đuối, xung quanh đạn lửa bừng bừng, người trúng đạn té xuống sông lòi ruột. Má tôi đã đưa tay kéo đứa nhỏ gái cho đeo cột chèo để má nó trồi lên ôm đứa con trai độ hai tuổi lội qua bên kia sông an toàn. Và đứa nhỏ gái cũng đã lên tiếng gọi má nó thất thanh như con vịt vàng nhỏ của tôi giờ đây vậy. Cũng một giọng cuống cuồng, cũng một điệu thảng thốt, rát ruột. Cho tới khi má tôi trả đứa nhỏ gái lại cho má nó bên kia bờ sông và người đàn bà bồng hai đứa con lẩn khuất trong đám người chạy giặc hỗn loạn tôi mới nghe nó kêu khóc. Chỉ mới năm ngoái thôi nên hình ảnh còn rất rõ rệt.

Thấy con Mẫu Hậu cất tiếng gọi bầy con lại và xù lông bảo vệ, mồng trên đầu và trên mặt đỏ ké dữ tợn, tôi không dám nhào vô mượn đứa em ruột của mình trở lại. Ầm! Ầm! Ầm! Ầm !… Tiếng cà nông thụt từ bót «Hội Đồng Điều» cách nhà tôi khoảng một trăm thước tiếp tục rền rĩ xé trời.

Sở dĩ bót mang tên như vậy là vì ngôi nhà cao cẳng của ông Hội Đồng Điều bị người Pháp trưng dụng và cất thêm lô cốt xung quanh để làm đồn bót chận đường Việt Minh. Tôi ngó theo hướng đạn đang bay về miệt Trà Kha, thấy mấy ngọn cau miệt đó gẫy gục, khói bốc lên ngùn ngụt. Miệt Trà Kha cây cối um tùm và rạch sình chằng chịt, du kích quân thường ẩn núp trong đó, chờ đêm tối kéo ra đánh đồn phá bót rồi lại rút về đó dưỡng quân. Thỉnh thoảng Tây kéo lính, công voa và thiết giáp vô Trà Kha ruồng bố. Chiều qua đã có chạm súng đụng độ và xe cứu thương hụ còi chạy ngang nhà tôi, nghe nói lính ở thành bị lọt phục kích chết nhiều. Có lẽ vì vậy mà giờ đây Tây thụt cà nông vô đó trả thù. Hoặc không chừng pháo kích trước để chuẩn bị hành quân càn quét. Xe díp cứ xẹt tới xẹt lui ngang Xóm Mới tôi từ sáng tới giờ. Nhiều khi mấy ổng còn kéo về tận xóm tôi và núp sau mấy cái mả đá bắn phá và liệng lựu đạn qua bót Hội Đồng Điều. Lính trong đồn xả súng liên thanh và mọt chê tưới sượi vào xóm tôi, nhà nào nhà nấy đều bị lủng đạn, cháy vách bể ngói lung tung! Bởi vậy nhà nào cũng có đào hầm trú ẩn ngay bên trong, nhà tôi cũng vậy.

Khi có chạm súng, ai nấy đều sợ mất vía nên tự động nhào hết xuống hầm. Chỉ trừ có chú Chín tôi vì điếc không sợ súng nên cứ đứng sổng lưng tự nhiên mà coi đạn bay đỏ trời và còn phát âm dễu dễu! dễu dễu! mấy tiếng trầm trồ thán phục. Can không nổi! Lúc nào bắn rát quá, kèo lá trên nóc nhà gẫy tuôn hết xuống ào ào, má tôi niệm Phật lia lịa, còn chị Tư tôi thì đội cái thau nhôm trên đầu, răng cỏ đánh bò cạp lốc cốc và đái luôn trong quần hồi nào không hay. Còn tôi thì cứ đau bụng mắc ỉa thúc tới, cẳng chưn lạnh ngắt, miệng mỏ khô queo.

Cuộc pháo kích còn đang tiếp diễn đinh tai nhức óc thì ba tôi từ trong trại mộc bước ra sân ngó lên trời chưởi đổng :

– Đ.m! Năm nào cũng vậy, hễ Tết nhứt tới là có sanh giặc. Thiệt tình! Hổng có năm nào bà con được yên ổn ăn Tết một lần thử coi.

Đoạn day qua thấy tôi đang đứng xớ rớ ở xó hè, ba tôi lên tiếng :

– Thôi mầy với thằng Lộc sửa soạn tao dắt đi chợ Tết. Bữa nay hăm chín, chiều nay là hết họp chợ rồi. Đi cho kịp trưa nay mua chút đỉnh đồ với thịt heo ba rọi về tao kho để dành Tết ăn.

Tôi nghe nói mừng lắm. Thế nào cũng có thèo lèo cứt chuột, hột dưa, tôm khô củ kiệu, mứt dừa, mứt bí. Hơn nữa, gì chớ ba tôi mà kho thịt heo với cá bống kèo kiểu Bạc Liêu là số dách. Cá ông chỉ rửa sơ, không cạo nhớt, rồi để cá sống nhăn nguyên con như vậy mà đổ vô nước sôi đậy nắp lại, cá bóng còn nhảy soi sói trong nồi lụp bụp. Chập sau, ông giở nắp ra vớt cho tới khi hết bọt rồi mới rót nước mắm ngon vào mà nêm nếm. Khi chín, con cá mềm sùi và còn nguyên chất ngọt. Phần bụng và đầu nhẩn nhẩn để cho người lớn, tôi thì hẩu xực cái đuôi. Còn kho thịt, ba tôi lựa mua thịt heo ba rọi có mỡ nhiều, cắt cục vuông thiệt lớn, lấy cọng lát buộc chéo ngang. Xong ông đốt lửa riu riu, kho thiệt lạt và kho thiệt nhiều bận lửa. Chừng đem ra ăn, mỡ đã rệu, chỉ cần mó đũa vào là mỡ phao ra, đưa vào miệng là chỉ có nuốt cái hương vị béo bùi, thả bánh tét vào mà nhâm nhi là hết xẩy. Ăn từ mùng một tới mùng ba vẫn không biết ngán, vì càng nhiều lửa, thịt càng mềm mỡ càng rệu. Hễ tới Tết là ba tôi giành để chính tay mình kho thịt. Má tôi kho ông chê nạc nhiều, thịt cứng và mặn. Má tôi thì làm những món khác như hủ qua hầm, gà rô ti, vịt cà ri, bánh tét, cải món, dưa cải, dưa giá… cũng ly kỳ lắm. Hồi nhỏ tôi ăn cái gì cũng thấy ngon và sướng ran, khoái tỉ. Nhà nghèo nên cũng ít khi được ăn nhiều món như trong dịp Tết. Quần áo má tôi xỏ kim may lấy cho tôi và Lộc – không biết bà học may ở đâu. Bận vô, bâu vè bẹt ra, túi thẳng hai cái hai bên coi cũng le lói như ai.

Gần trưa, khi tôi và Lộc theo ba đi ngang qua bót Hội Đồng Điều, đã thấy lính ta lính Tây lính Thổ láo nháo đứng trước bót nhậu nhẹt, ăn uống, hút thuốc, chửi thề, cười giỡn rậm rật. Sáu bảy chiếc cam nhông nhà binh đã đậu sẵn ở đó, vài chiếc khác từ Bạc Liêu chạy ra cũng đang từ từ tấp vô xếp hàng thành công-voa. Một anh lính quăng cho tôi và Lộc mấy cục kẹo. Hai đứa lượm bỏ túi.

Ra tới thành phố, ba tôi ghé vào một tiệm Chà Và bán vải để mua cho má tôi cái khăn. Nhận tiền thối xong, Lộc cầm gói khăn, ba tôi nắm tay hai đứa băng qua lộ để vô chợ nhà lồng mua thịt. Tới bên kia đường, ba tôi đứng lại để kiểm tiền thối khi nãy nhưng vì vội vàng chưa kịp đếm, thấy có tờ giấy hai chục đồng rách mướp, rõ là tiền heo gạo khó xài, ba tôi dắt hai đứa băng trở lại đường bước vô tiệm Chà Và đổi lại tờ khác. Xong xuôi trở ra cửa tính băng qua bên kia đường lần nữa để thực sự bước vô chợ. Vừa dợm bước thì…

Ì ì ì ì!! I ì ì!…

Một tiếng nổ vang rền chát chúa từ chợ nhà lồng dội ra ran cả ngực, đồng thời lửa vàng cam chóa lòa lóe lên. Lựu đạn! Một trái lựu đạn vừa được kháng chiến liệng vào chợ nhà lồng để khủng bố – đây cũng không phải là lần đầu. Ba cha con tôi kinh hãi thối lui. Cảnh vật như chết đứng im lìm trong một hai giây ngắn ngủi. Rồi vụt bừng sống trở lại với tiếng rên thét la khóc vang dậy trong nhà lồng chợ. Sau đó là tiếng chân chạy rần rật, người lớp lớp từ trong chợ túa ra, kẻ lành lặn, người đẫm máu, lính tráng giữ trật tự ùa tới chen lấn cực kỳ hỗn loạn, rào chợ được kéo lại, người trong không thể thoát ra người ngoài không thể ào vô, còi xe cứu thương đâu đó rú lên cuống quít.

Gần nửa giờ sau cuộc tản thương mới được cho phép. Người khiêng ra lớp chết, lớp bị thương nặng, lớp bị thương nhẹ, máu me kinh hồn, ruột gan lòng thòng, rên la khóc kể ghê rợn nhầy nhụa tanh tưởi. Máu! Máu! Đầy những máu! Máu tùm lum, máu khắp nơi. Trong đám tản thương, tôi bỗng thấy thằng Lý bám trên một bà già khiêng trên băng ca mình ướt đẫm máu me nằm bất tỉnh nhân sự, nó vừa khóc vừa lải nhải «Ngoại ơi là ngoại! Ngoại ơi ngoại! Hu hu hu». Thằng Lý là con riêng của bà chủ nhà, tuổi chừng mười ba mười bốn, đã trốn vô bưng từ mấy tháng nay. Sau này ba tôi nói lại, tôi mới biết là chính thằng Lý đã lãnh lựu đạn đem về thành liệng vô nhà lồng chợ rồi giả bộ khóc lóc đeo theo bà già xấu số nọ để qua mặt lính kiểm soát mà trốn khỏi vòng vây. Thiệt hết cỡ nói! Vậy mà tôi đâu có dè.

Khi cuộc tản thương đã chấm dứt và rào chợ được mở ra, ba tôi biểu Lộc dẫn tôi về nhà trước, còn ổng thì qua chợ nhà lồng để mua sắm đồ ăn Tết – ổng nói bây giờ người ta bỏ chạy hết rồi, chắc là thịt thà, trái cây, dưa hấu, kẹo mứt phải bán rẻ! Cũng lý luận y chang như hồi tản cư tới Vĩnh Phước vào cuối năm ngoái, bà con đang họp chợ Tết thì Tây Thổ nổ súng lốp bốp, mạnh ai nấy chạy bỏ chợ lộ thiên còn ba tôi thì trái lại vác gươm nhảy lên khỏi ghe tam bản chạy xấn ngược ra chợ để mua thịt heo bán rẻ, làm cho má tôi phải neo ghe chờ sợ xanh máu mặt. Thiệt là ông già lựu đạn mút mùa!

Lộc và tôi về tới nửa đường thì gặp má tôi đang tất tả chạy cẳng không từ đàng xa trờ tới – bà nghe nói có lựu đạn quăng ở chợ Tết rất nhiều người chết nên sợ thất thanh hồn vía đi kiếm chồng kiếm con. Vừa ngó thấy hai đứa tôi bà đã hoảng vía hào hển la lên :

– Chèn ơi!… còn ba tụi bây đâu ?… bộ ổng… bộ ổng bị trúng lựu đạn… lựu đạn… chở vô nhà thương… chở đi… chở đi nhà thương rồi hả?…

Bà nói không ra hơi, tiếng còn tiếng mất. Lộc lên tiếng :

– Hổng có. Ba hổng có sao hết. Ổng đương đi chợ…

– Chèn ơi! (má tôi ôm cứng hai đứa con mình bật khóc)… hai đứa tụi bây hổng có sao hả? (bà mếu máo)… nam mô a di đà Phật! Trời Phật phù hộ con tui! (bà sịt mũi)… còn cái ông già mắc dịch bộ chưa tởn lựu đạn hay sao mà còn ở đó đi chợ đi búa.

Má tôi vội vã dắt tụi tôi về nhà. Ngang qua bót thấy lính tráng rần rật bắt đầu leo lên xe nhà binh bây giờ đã có hơn cả chục chiếc, một chiếc xe díp từ trong bót phóng vèo ra chạy ngược về tỉnh. Hồi sau khá lâu mới thấy ba tôi đi xe lôi về, chở theo nào dưa hấu, cam bưởi, kẹo mứt, trà bánh… tay xách một đùm thịt heo ba rọi bự tổ chảng. Má tôi la ổng. Ông nói mua rẻ mạt còn ức hiếp gì nữa mà la. Lộc và tôi phụ ôm đồ vô nhà, trong bụng tuy còn sợ nhưng cũng khoái chí tử. Má tôi xuống bếp nổi lửa hâm đồ ăn dọn mâm cúng để rước ông bà cuối năm về ăn Tết. Bà biểu Lộc và tôi đi lùa gà lùa vịt về nhốt lại sớm sớm. Tết nhứt tới rồi để mất hổng nên. Lộc ra mé sau, tôi đi vòng ra mé trước.

***

Trước nhà tôi có cái mương nhỏ lưa thưa cỏ lát mọc và bèo nổi. Kế mương là bờ đất cỏ dại, giáp ranh đường lộ lởm chởm đá xanh loang lở. Một bờ đất khác tiếp nối dốc xuống mương lộ rộng chừng ba thước có cầu khỉ bắt ngang, bên kia là ruộng lúa với giếng đào chứa nước mưa ngọt và cái nghĩa địa của tôi nằm cạnh bờ giếng. Tôi bước ra trước nhà ngó thấy cách đó không xa con Mẫu Hậu đang dắt bầy con kiếm ăn ở mương nước, lũ vịt con vừa kêu lép kép vừa chìa mỏ rỉa vào bèo nổi, con vịt vàng nhỏ của tôi tách rời với hai con vịt xám khác, cách vịt mẹ đâu chừng một thước. Tôi đi về phía đó tính lùa vịt về chuồng ở sau nhà nhốt lại.

Chợt từ phía bót Hội Đồng Điều vọng lại tiếng động cơ ồn ào, mỗi lúc một lớn hơn, mỗi lúc một gần hơn. Có lẽ đoàn công-voa đang bắt đầu chuyển dịch. Rồi từ phía xa, một chiếc xe heo nọc trờ tới, mỗi lúc một rõ dần, chiếc xe bọc thép mở đường có gắn súng lớn xung quanh, mũi xe đeo ống dây cáp sắt để trục xe sa lầy, hai bánh trước chạy bằng cao su thường, hai bánh sau chạy trên xích sắt, khi di chuyển dây xích nghiến nát đá đường chát chúa điếc tai, mặt đất rung rinh chấn động. Khi xe thiết giáp dẫn đầu còn cách bầy vịt độ năm thước, bỗng dưng con Mẫu Hậu ngửng đầu lên rồi chợt giựt mình nhảy phóc ra khỏi mương vọt chạy băng qua phía bên kia lộ, dắt theo tám con vịt xám nhỏ – tôi không kịp phản ứng gì hết. Vịt mẹ dừng lại bên kia đường cất tiếng kêu réo đám con còn kẹt lại ở mương nhỏ bên này.

Vừa khi đó chiếc xe bọc thép mở đường cũng đúng nhịp trờ tơí lướt qua mặt tôi, trực chỉ Trà Kha, xích sắt rần rật lay chuyển mặt đất dưới chưn chỗ tôi đang đứng. Chiếc xe cam nhông chở lính đầu tiên từ từ tiến tới, chậm rãi nối đuôi theo xe thiết giáp. Từ từ, từ từ… Bên kia đường vịt mẹ vẫn tiếp tục gọi con, giọng kêu hoảng hốt, lo lắng. Ba con vịt nhỏ còn kẹt lại vụt nhảy lên mương, vọt băng qua phía bên kia đường, tôi dang tay ra cản ngăn không được. Chiếc cam nhông trờ tới… Hai con vịt xám lẹ chưn chun tọt dưới lườn xe biến mất, con vịt vàng nhỏ của tôi cũng vọt theo, tôi cũng vọt theo. Bỗng em tôi vấp bánh sau của xe cam nhông dội lại, tôi cũng dội lại, đuôi xe kình càng lướt qua sát rạt bên mũi, mấy người lính lê dương râu ria xồm xàm ngồi trên xe chồm ra la ó vang rân và khoát tay đuổi tôi trở lộn vô bờ lề. Chiếc xe cam nhông thứ hai từ từ tiến tới, động cơ rù rì, bí mật, lạnh lùng, vô giác. Từ từ, từ từ… bánh xe cao su từ từ lăn tới…

Con Mẫu Hậu vẫn tiếp tục gọi con thảng thốt. Hai con vịt xám nhỏ đã qua được bên kia đường an toàn và nhập bầy. Chỉ còn lại bên nầy đường có mỗi con vịt vàng nhỏ của tôi đang chạy lăng xăng cuống cuồng và tôi cũng đang cuống cuồng rượt theo. Tôi cúi xuống chụp nó mấy lần, nhưng chụp hụt. Má nó lại cất tiếng réo gọi. Con vịt vàng ngửng cổ nghe ngóng rồi lại vọt phóng trở ra giữa lộ thần tốc. Chiếc xe cam nhông thứ hai lăn tới áng khuất, cụm lông vàng mịn không còn ngó thấy đâu nữa, tôi chỉ kịp nghe một tiếng «Chét» thảm thương bên tai, thôi rồi! chết em tôi rồi, tôi ngã quỵ xuống lề đường, đầu gối đập lên đá cục mà không cảm thấy đau đớn gì hết!… Chết em tôi rồi! Nhúm lông vàng dính trên bánh xe sau ghép đôi cuốn theo đoàn lính lăn đi, để lại vết máu đỏ tươi bằng bàn tay thấm ướt trên mặt lộ. Mình mẩy tôi vụt lạnh ngắt, chết em tôi rồi! Tôi hét lên một tiếng thất thanh ngã lật ra sau té trên bờ cỏ, nước mắt vọt ra xối xả, ruột gan nát ngướu như xác vịt con bấy nhậy giữa đường, tim gan rạn nứt bể vụn… Hết rồi! Thôi hết rồi! Chẳng còn gì nữa em vịt vàng nhỏ của tôi! Vĩnh biệt! Vĩnh biệt! Em ơi vĩnh biệt!

Tôi nằm lăn lộn dẫy dụa trên bờ cỏ, cổ họng thắt gút tắc nghẽn, không bật khóc được thành tiếng, chỉ còn biết hả miệng để kịp lấy hơi thở và để cho tiếng nấc tràn ra ngoài, trời đất xung quanh nhạt nhòe, cổ họng ngất ngất muốn bể tét. Mặt đất dưới lưng tôi tiếp tục chấn động dưới lốp cao su ghép đôi của đoàn xe cam nhông mười bánh rầm rộ, tiếng động cơ vẫn tiếp tục xầm xì dửng dưng lướt qua xịt phun xuống mặt đường mùi xăng khét nghẹt trộn lẫn bụi đường và khói xám xanh mù mịt. Rù rù rù rù rù… chiếc thứ ba… rù tù rù… chiếc thứ tư… rù rù rù rù… chiếc thứ năm rồi chiếc thứ sáu… Mỗi lần xe lướt qua tôi lại nghe vang động trong đầu tiếng «chét» tuyệt mạng của em tôi. Rù rù rù rù… Chét! Rù rù rù rù chét!… Tôi úp hai bàn tay nhỏ của mình lên lỗ tai lăn người ngóc dậy, đầu gối quì trên lề cỏ, ngước đầu ngó ra giữa lộ.

Trên mặt đường không còn phân biệt được dấu máu và vết lông vàng của em tôi nữa. Hết rồi! Em tôi đã hoàn toàn biến mất trên thế gian này. Đoàn xe tiếp tục lăn qua chậm chạp, từ từ, nhưng tiếng động cơ phát ra xầm xì không đè át được tiếng «chét! chét!» thảm thương nhỏ nhít của em tôi còn đang chấn động từng chập trong cùng tận ruột gan mình. Tôi gẫy quặp người tới trước, hai tay cấu lấy bụi cỏ lông gà ghịt kéo để cố dằn tiếng nấc đang cướp mất hơi thở mình… Bụi cỏ trốc gốc, tôi lại té ngửa ra sau, một chân lọt xuống mương nước, tôi nấc tiếp liền mấy tiếng bứt ngang hô hấp, miệng không thể nào khép lại được nữa, tôi nhăn hàm răng xiết ăn ngó trời, lệ tuôn đầm đìa lai láng, trời mây trên cao tan loãng thành vũng nước mắt không còn hình thù gì nữa, tất cả mờ run mịt mùng, lung linh nhòe nhoẹt. Hết rồi! Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! Em đã chết bỏ tôi thiệt rồi!…

Khi nghe tiếng xích sắt chát chúa của chiếc xe thiết giáp bọc hậu cuối cùng chấn động trên mặt đất, tôi biết là đoàn công-voa đã đi qua hết. Tôi ủ rũ bò dậy quì gối ngó ra mặt đường. Chẳng còn gì nữa dấu vết em vịt vàng nhỏ của tôi, chẳng còn dấu lông vàng, chẳng còn vết máu đỏ. Em của tôi đã vỗ đôi cánh nhỏ bay về trời mất tích! Tôi òa khóc thành tiếng… Tôi quặp người ghịt lấy bụi cỏ bật khóc ngất ngất, khóc ồ ạt, khóc quằn quại, khóc vật vã. Nếu rủi thời má tôi ngã ra chết lúc đó, có lẽ tôi cũng khóc nhiều đến như vậy là cùng. Tấm lòng thơ dại tan nát! Con tim ấu thời đã dập bể trên mặt lộ đá xanh lởm chởm! Hết rồi! Em ơi, hết rồi! Em đã bỏ tôi thiệt rồi! Tôi hét lên «trời ơi!» một tiếng xé ruột rồi rũ người nghiêng qua một bên, từ từ sụm trên mặt cỏ còn nồng nặc mùi xăng khói…

Tôi nằm co quắp bên lề đường, tay bấu lấy bờ cỏ khóc la thảm thiết như vậy không biết bao lâu. Như mê sảng. Tôi muốn mình mê sảng. Khi gặp chuyện quá dữ dằn, tôi ước rằng đó là một cơn ác mộng, một cơn mơ dữ. Tôi cắn vào đầu lưỡi. Tôi không nằm mơ. Tôi tỉnh táo. Không phải chiêm bao. Chuyện thiệt. Rõ ràng chuyện thiệt. Em vịt vàng nhỏ của tôi đã chết thiệt rồi! Em vịt vàng nhỏ của tôi không còn ở trên dương thế này nữa! Tiếng khóc quằn quại của tôi bật tràn ra cổ họng như thác lũ, rồi mòn mỏi theo đường suối đi nhỏ dần, dợn uốn nao nao và từ từ dịu tắt.

Tôi ngồi dậy hỉ mũi chùi xuống cỏ. Tôi đưa sống tay dụi lên đôi mắt ướt nhẹp và thở dài đứng dậy. Đầu gối chợt buốt nhói muốn té sụm. Tôi cúi xuống phủi mấy vụn đá nhỏ còn dính trên đầu gối, da rách sướt chảy máu rát nhức. Tôi bước cà nhắc xiểng niểng ra lộ đá lượm xác em tôi đem qua bên kia bờ giếng chôn cất. Nhưng trên mặt đường những vụn thịt, những vụn lông vàng non dại, những vụn đất đá trộn lẫn li chi không còn phân biệt được gì nữa hết. Tôi mếu máo bước trở vô lề đường lượm miếng giấy nhựt trình sười rách dính phất phơ trên ngọn cỏ. Tôi phủi sạch rồi bẻ một nhánh cây bình bát mọc ven mương lộ tước hết lá. Tôi trở ra lộ ngồi chồm hổm cạy gỡ những mảnh vụn mà tôi nghĩ là của em tôi còn để lại trên cõi đời này, đùa vào miếng giấy nhựt trình gói thành gói nhỏ. Tôi đi ra mương lộ, dợm bước lên cầu khỉ để qua bên kia bờ giếng.

Dưới mương lộ, con Mẫu Hậu thản nhiên tiếp tục dẫn đàn con mười đứa còn lại tung tăng trên mặt nước rỉa rói quanh đám cỏ lác và bèo dại kiếm ăn. Đám vịt con xám buông tiếng kêu lép kép! lép kép! Tim tôi vụt se thắt. Tôi ngồi thụp xuống đầu cầu khỉ, ôm cứng gói nhựt trình nhỏ vào lòng và bật khóc trở lại sướt mướt. Lòng đau đớn quá đỗi. Nước mắt nước mũi ràn rụa. Tôi không oán hận gì hết. Chỉ thấy đau đớn. Quá đỗi đau đớn. Tôi thương quá chừng em vịt vàng nhỏ của tôi. Bây giờ nó đã chết rồi. Em tôi đã chết rồi. Tôi không oán hận chiến tranh. Ở tuổi thơ đó lòng tôi không biết oán hận. Tôi không oán hận chiếc xe cam nhông đã nghiến nát em vịt vàng nhỏ của tôi. Tôi không oán hận người tài xế đã lái chiếc cam nhông cán em tôi bấy nhậy. Tôi không oán hận đoàn lính Lê Dương ngồi trên chiếc cam nhông đó. Dù sao chiếc cam nhông cũng đã đi mất, đoàn công-voa cũng đã đi mất, người tài xế cũng đã đi mất, đoàn lính Lê Dương cũng đã đi mất. Có thể tối nay khi trở về có người đã chết, đúng vào đêm giao thừa. Tôi hít nhẹ tủi thân, tấm tức. Và bật khóc trở lại lần nữa, lần nữa…

Dù thâm tâm mình không mảy may thù oán, trong đầu óc non nót của tôi bỗng phựt lên cơn giận dữ – cơn giận dữ dính liền với cái chết, nỗi tang thương và sự khổ đau. Tôi giận con vịt Mẫu Hậu! Trong đầu óc khờ khạo của mình, tôi nghĩ tại vì nó đã ngốc nghếch cất tiếng réo gọi con mình cho nên em vịt vàng nhỏ của tôi mới băng qua đường cho xe cán chết thảm. Tôi lượm cục đất ở đầu cầu nhắm con vịt mẹ liệng tới. Cơn giận bay ra nửa chừng mãn hơi rớt ùm xuống nước. Con Mẫu Hậu giựt mình thốt kêu mấy tiếng rồi dắt đàn con lội đi nơi khác. Bỏ lại tôi ngồi chong ngóc một mình ở đầu cầu khỉ tiếp tục khóc thút thít, khóc nghẹn ngào, khóc lẻ loi…

«Kiệt ơi! Kiệt à! Kiệt!», tiếng má tôi từ hiên nhà bên kia đường vọng qua. Má tôi kêu tôi về lạy mâm cơm cúng để rước ông bà về cùng gia đình chúng tôi chung vui ba ngày Tết. Đầu xóm ai đó đốt pháo đợi giao thừa, mừng Tết đến. Cái Tết thiêng liêng háo hức trong huyết quản mọi người. Cái Tết ấu thời nhỏ theo giọt lệ hồng của tôi sùi sụt. Nào ai có biết trong ruột gan đứa nhỏ sáu tuổi, một nửa cái Tết thơ ấu đó đã nát vụn theo con vịt vàng nhỏ em tôi giờ đây nằm trong gói giấy nhựt trình tôi đang ôm cứng trên bụng bên bờ mương nước mặn. Và một nửa cái Tết kia đã theo nhúm lông tàn của con gà bạn tôi mà vùi dập tự bao giờ bên kia bờ giếng nước ngọt, khi những nụ mai vàng theo gió Xuân mướt xanh vừa chớm nhú.

Một cái Tết thơ ấu đã nát vụn và vùi dập bên hai dòng nước mặn ngọt trong xóm nhỏ của tôi tự bao giờ…

***

Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! Từ ngày em bị chiếc xe nhà binh mười bánh và chiếc xe tăng nghiến nát, cuộc chiến tranh không ngừng tiếp diễn khốc liệt ở quê hương hai anh em mình, đằng đẵng ba chục năm không hề ngừng nghỉ. Cuốn chìm phăng phăng trong dòng lửa sắt bất cưỡng, tôi may mắn và tình cờ còn sống sót. Và từ Xóm Mới ấm áp phương Đông mình, tôi dạt trôi tới phương trời Tây lạnh lẽo xa lạ.

Nơi tôi ở bây giờ, ngoại ô Paris, không có mai vàng. Chỉ có anh đào trổ một màu hường phơn phớt lợt mọc trên dốc đồi thoai thoải bên những cội lệ liễu xõa tóc dịu dàng.

năm nay đào lại nở!

Phải, năm nào mà đào lại chẳng nở. Đào lại nở, tôi lại nhớ em tôi, em vịt vàng nhỏ xinh xắn tội nghiệp. Mỗi năm, khi vừa chớm đông, từng bầy vịt hoang và ngỗng trời từ Bắc Âu vỗ cánh bay ngang Paris, rồi di chuyển về miền Nam để trốn lạnh, sang đến tận Châu Phi.

Khi ngó lên trùng trùng chấm đen lướt qua cao vút trên đầu, lần nào tôi cũng tự hỏi không biết có em vịt vàng nhỏ của tôi trong bầy chim hoang đó hay không, và lần nào tôi cũng thầm lo ngại không biết em tôi có được đủ ấm như một thuở xa xưa nào khi Tết gần đến, tôi đã từng ôm em úm trong lòng để mớm cơm cho em ăn và chuyện trò cùng em thủ thỉ. Nhưng tôi lại tự nhủ chắc là em không có mặt trong bầy vịt đang bay trên cao tít, bởi lẽ quê hương của em, quê hương của tôi, quê hương của anh em mình không phải ở đây. Tôi hình dung giờ này chắc em đang tung tăng bơi lội trong một vùng nước mặn ấm áp quanh năm trước mương lộ của nhà tụi mình ở Xóm Mới, miệt Hậu Giang phù sa mặn mòi, đồng ruộng phì nhiêu quấn quít sông ngòi đặc ngừ tôm cá.

Và em đang thò chiếc mỏ vàng xinh xắn rỉa vào đám bèo nổi kiếm ăn, buông tiếng kêu lép kép nhỏ nhít. Em đang gọi tôi cùng đến để chia sớt nỗi vui mừng rất trẻ con của em.

Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! Cũng như mọi sinh vật trên đời, em đã từng có một tuổi nhỏ thơ dại và một trái tim thơ dại ẩn chứa trong lớp lông tơ vàng mịn êm đềm. Trái tim thơ dại đó đã truyền vào con tim ấu thời của tôi biết bao là thương mến, muôn ngàn thương mến, biết bao là cảm xúc, vô vàn cảm xúc, biết bao là hoan lạc, vô vàn hoan lạc, và cũng biết bao là đau đớn, đau đớn tưởng chừng có thể xé đứt ruột gan mình mà ngã ra chết được. Em đã cho tôi con tim thơ dại, tôi đã cho em tuổi ấu thời. Dù vẫn còn phưởng phất ở Xóm Mới mỗi độ Xuân về, con tim thơ dại và tuổi ấu thơ đó đã có lần vỗ cánh thơ ngây bay tìm mùa Xuân trong trắng ở một vùng trời tuyệt nhiên không nhuốm một dấu vết hận thù. Rồi đã vĩnh viễn cư ngụ lại muôn đời luôn tại đó.

Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi

Em vỗ cánh nhỏ bay về trời

Em tha trong mỏ em vàng nhỏ

Tấm lòng thơ nhỏ của riêng tôi

Và năm nay đào lại nở! Giờ đây trên một cụm mây xa thiệt xa, tôi hình dung một đứa nhỏ sún răng đang ôm em vịt vàng nhỏ của mình trong lòng và hai anh em đang bồi hồi ngó xuống trần gian nhìn ngắm thiên hạ nổ pháo rộn ràng mừng đón Ông Bà và Nàng Xuân về ăn Tết…

***

Em điên xõa tóc

Giờ này chắc người con gái tóc dài hãy còn thao thức. Cũng như tôi. Cũng như đêm qua, cũng như đêm kia, và biết bao đêm nữa. Trước khi nổi điên, người ta thường mất ngủ một thời gian dài. Có lần tôi đã mất ngủ cả năm nhưng không nổi điên. Lần này tôi mất ngủ ngót tám tháng, và tôi nổi điên. Nàng cũng vậy, nhưng không biết đã mất ngủ bao lâu. Ðiên? Làm sao biết mình điên? Chỉ biết chúng tôi đang bị giữ trong bệnh viện tâm lý cùng nhiều người khác, nhưng trong đám tương đối tôi và nàng trẻ nhất. Sao chúng tôi nổi điên quá sớm ? Và nàng còn sớm hơn tôi nữa. Nàng đẹp, phải công nhận nàng đẹp. Nhưng đâu phải là một lý do để nổi điên!

Hôm đầu tiên nhập viện, ngồi trong phòng ngó ra thấy nàng mặc một cái robe trắng thấp thoáng ngoài hành lang tôi tưởng nàng là nữ trợ tá. Nàng đi qua nhanh, tôi trông theo mắt bị thu hút kỳ lạ bởi mái tóc dài ẻo lả trên lưng, xuống tận dây nịt. Mái tóc gội rửa sạch sẽ xõa ra mềm mại, màu nâu thẫm, trong ánh sáng mờ tưởng như mái tóc đen dài của một cô gái đông phương nào đó. Áo nàng màu trắng ngà phùng ra ở cườm tay, ở thắt lưng và bên dưới gối, trùm lên đôi ủng da cao mầu đen, nịt da cũng màu đen. Cả người nàng toát ra nét thanh lịch và tha thướt theo từng bước đi, đuôi tóc phấp phới. Nàng lên phòng trực phát thuốc ở đầu hành lang, chập sau quay trở lại, đi ngang phòng tôi, tới cuối hành lang rồi mở cửa căn phòng ngó xéo với phòng tôi bước vào khép cửa lại. Nàng không biết có tôi đang ngó và đang bị mái tóc nàng mê hoặc. Tôi có ý chờ khi trở ra nàng sẽ ghé vào phòng tôi, mang cho tôi mấy viên thuốc ngủ cùng ly nước lạnh và vỗ về tôi uống. Tôi khép hờ cửa và chờ nghe tiếng bước chân. Khi cúi xuống tóc nàng xòa lên mặt tôi, thơm tho ngầy ngật – tôi tưởng tượng. Nụ cười của nữ trợ tá chan chứa thông cảm bao dung như tôi thường thấy. Trong tình trạng hiện tại, người tôi không còn một chút phấn đấu nào, như một bình điện hết hơi, tôi bỏ cuộc. Bốn bức tường bệnh viện ngăn cách tôi khỏi sự công phá từ bên ngoài. Cửa sổ có thanh sắt và kiếng mũ dầy, tôi không thể nào đập vỡ và lao ra không trung bất thần được. Thế giới của tôi bây giờ có nàng và những người điên khác. Kiên nhẫn, một chút nữa nàng sẽ ghé vào. Vách phòng sơn trắng, giường trải nệm trắng, một bàn nhỏ, một ghế nhỏ, một tủ nhỏ cũng sơn trắng ở đầu nằm. Trong tủ có hai bộ quần áo, một bàn chải đánh răng, một cây lược, một cục xà bông thơm, một cuốn sách hình Mickey và một tập vở học trò tôi dùng để chép thơ còn độ một nửa tập giấy trắng. Tự nhiên tôi thèm viết, viết gì cũng được, miễn được cầm bút và ngúy ngoáy trên trang giấy trắng. Hồi còn học sinh, tôi hay viết nhựt ký. Tôi dở tập đến hết phần thơ chép và cầm bút đặt lên trang giấy đầu còn lại. :

Bệnh viện Paul Brousse, ngày… «  Có hai điều tôi sợ nhứt trên đời là bệnh tật và cô đơn. Mà rồi bây giờ tôi cô đơn và bệnh tật. Hôm nay là ngày đầu tiên tôi ở nhà thương điên – mỹ từ : bệnh viện tâm lý. Tôi không muốn vào đây nhưng Ánh nói nằm nhà mãi tình trạnh càng trầm trọng thêm và nàng khóc lóc. Tôi đành nghe theo. Chỉ sợ một khi vào đây, tôi sẽ không trở ra được nữa. Mỗi ngày tôi sẽ một điên thêm, người ta sẽ chuyển tôi hết bệnh viện này đến bệnh viện khác, sẽ chung chạ với những người càng lúc càng điên nặng hơn. Tôi đã từng chứng kiến người điên bị nhốt. Hồi học trung học, một anh chàng si tình phát điên bị nhốt trong phòng có song sắt hắn ta miệng nói làm xàm không ngớt và leo trèo lòng vòng như con khỉ thấy phát chóng mặt. Một bận khác đi thăm con nhỏ cháu tôi ở nhà thương Chợ Quán. Nó bị nhốt chung với rất nhiều người điên, nhà giam giống như chuồng nhốt súc vật ở sở thú. Mùi hôi hám nhớp nhúa hực ra tanh thúi không thể tả. Nó đứng vịn song sắt khóc ròng và đòi về, nó nói đã hết điên rồi. Bỗng có một mụ dơ dáy quần áo rách bươm tới nắm tóc nó kéo đi và tru tréo sao nó giết con mụ ta. Nó dẫy dụa gỡ ra không được. Tôi bắt nôn mửa phải lùi ra xa, để mà nó một mình đứng lại gần chuồng cũng không biết làm gì hơn.

Nhắc tới sực nhớ gia đình tôi có lẽ có dòng máu điên. Má tôi, anh tôi, chị tôi, cháu tôi, bây giờ tới tôi. Lúc đẻ ra chị tôi, má tôi bị bệnh rồi phát điên. Một bận đi xuồng trên kinh Cờ Ðỏ, má tôi bỗng nổi cơn tính nhận chìm xuồng cho chết hết bốn mẹ con, may có ba tôi ngăn lại. Bà bỏ chạy lên bờ, ba tôi rượt theo lấy ba cây roi mây chập lại đánh má tôi đổ máu rồi nắm tóc lôi xuống xuồng. Nhắc tới, má tôi còn oán hận ba tôi sao ở ác. Sau đó bỗng một hôm có một bà sư quảy bộc thuốc đi ngang nhà mùi hương xông ngào ngạt. Bà bổ cho má tôi một thang thuốc, má tôi uống vào hết điên luôn. Kế đến chị tôi hồi đẻ đứa con thứ ba phát bịnh tưởng chết, và cuồng trí gần cả năm. Tới phiên con nhỏ cháu tôi, hồi đẻ khó khăn, bị mụ vườn nắm cổ lôi ra, đầu nó mềm nhũn như trái chuối chín mùi bị vập. Lớn lên nó cứ ba trợn, tới mùa nắng là rượt theo trai và nổi khùng. Còn anh tôi không điên ra mặt, nhưng có chứng cuồng dâm. Khi dâm hành thì bất kể đẹp xấu, mẻ càng gãy gọng, sứt mũi sún răng, hôi hám nhớp nhúa, bao nhiên đứa ở ông ta quơ tuốt, nhiều lúc bốc hốt luôn cả con em họ hàng, bất chấp tai tiếng loạn luân. Có lần bị con nhỏ ở thưa tội hiếp dâm, anh chàng bị nhốt, vừa chạy chọt được thả về ghé nhà tôi lại bóp vú con nhỏ ở của tôi, tới nhà chị dâu tôi lại rờ đít con nhỏ ở đằng đó. Máu cuồng dâm một khi đã bốc lên là mờ cả hai con mắt… »

Có tiếng gõ cửa. Nàng đã tới! Tôi giật thót vội vàng xếp tập lại. Lên tiếng : cứ vào! Người nữ y tá bước vào, mặc áo blouse trắng, chào tôi và mỉm cười dịu dàng. Không phải nàng tóc dài, tôi thất vọng, nhưng cũng chào lại. Cô ta hỏi thăm tình trạng tôi qua loa, đoạn đưa cho tôi hai viên thuốc an thần và pha cho tôi hai chục giọt thuốc ngủ màu hồng. Canh chừng cho tôi uống xong, cô ta chúc tôi ngủ ngon và quay gót. Chờ cho người nữ y tá trở về phòng trực, tôi nhè nhẹ hé cửa ngó qua bên kia. Phòng nàng đóng im ỉm. Nàng có ở trong đó? Hay đã ra về? Về đâu? Giờ này đâu phải là giờ thăm thân nhân. Không có chút ánh sáng nào lọt ra ngoài. Tôi khép cửa lại, tắt đèn, lên giường nằm chờ thuốc ngủ ngấm và giấc ngủ an thần kéo về dập tắt ngọn lửa trong trí tôi. Màn cửa sổ chỉ kéo che một nửa, bên nửa kia còn ngó thấy nền trời và sao lung linh như một tín hiệu. Trời mới vào xuân, trong sáng êm ả. Ðôi khi anh muốn tin ngoài đời chỉ có trời sao là đáng kể, mà bên những vì sao lấp lánh đôi mắt em, đến ngày cuối …* Tôi chợt nhớ tới Ánh và tội nghiệp nàng. Sáng nay nàng khăn gói đưa tôi nhập viện. Ngồi ở phòng đợi làm thủ tục, nàng nắm tay tôi mà khóc, nước mắt ròng ròng. Nàng an ủi tôi – lẽ ra nàng cần được an ủi mới phải. Nàng căn dặn tôi đừng bỏ trốn, nàng sợ lắm.

Tôi chỉ ngồi thừ ra đó, như một động cơ hết nhiên liệu. Người ta có thể đổ nhiên liệu vào và đẩy tiếp sức, nhưng tình trạng này không thể kéo dài vĩnh viễn được. Tới một lúc nào đó động cơ phải tự nó bắt điện nổ máy và di chuyển lấy một mình. Bằng không nó sẽ nằm ì ra đó chịu cho rỉ sét gậm mòn tới lúc bị phế thải ra nghĩa địa, mưa gió đục phá cho đến khi hoàn toàn tan rã thành đống bụi nâu đỏ và trái đất thu hồi trở lại. Thủ tục xong Ánh sắp về, tôi bịn rịn. Nàng về thật rồi. Tôi hốt hoảng và hối hận sao đã chịu vào đây. Tôi không biết ai hết. Tôi sẽ leo chạy bên trong chấn song sắt như con khỉ thất tình? Hay bị giựt tóc như trong chuồng súc vật? Thân thể tôi tỏa nhiệt dồn dập rồi vụt lạnh ngắt. Hệ thống điều hòa tự động của cơ thể rối loạn, mở đóng vô trật tự. Miệng tôi khô đắng, sắp bốc cháy. Ruột thắt lại, người muốn gẫy quặp làm hai, như con múa rối bị đứt chỉ. Tôi xách cái túi nhỏ lẽo đẽo theo người dẫn đường lên lầu ba, phòng giành cho tôi nằm ở đó. Buổi trưa tôi nằm lì trong phòng, bỏ ăn. Tôi hối hận, ăn năn, giận mình. Trời nắng rực rỡ. Tôi kéo màn kín mít. Ðâu phải để ngủ. Làm sao ngủ được. Ðêm nào cũng mở mắt trừn trừng. Uống rượu tiêu sầu họa hoằn lắm cũng chỉ ngất ngư được một chút từ hai tới ba giờ sáng rồi thức trắng dờ luôn. Cho tới lúc mặt trời mọc và tiếng huyên náo lớn dần dưới đường đem trở về một ngày mới với nỗi sợ hãi rất cũ, bất di bất dịch, những đương cự với khó khăn của đời sống hằng ngày. Một câu hỏi duy nhất : làm sao tìm được việc làm. Một bế tắc duy nhất : làm sao tìm được việc làm. Làm như người ta sống ở đời chỉ duy nhất để làm viêc. Thiệt là chó má!

Buổi chiều hai nữ y tá vào phòng dỗ dành tôi đi ăn cơm. Cực chẳng đã tôi phải nghe theo. Tôi để nguyên quần áo xốc xếch, không buồn rửa mặt, bước vào phòng ăn có đâu hơn hai chục người – hay nhiều hơn nữa không biết. Trước mặt tôi là người đàn ông có hai răng trước ở hàm trên bị gãy. Cạnh tôi là một anh chàng tóc quăn dài có râu quai hàm. Tôi không biết ai hết. Tôi không nói với ai một câu. Không ai hỏi tôi một câu. Tôi không thấy có ai khác da vàng như tôi. Tôi cầm muỗng nhúng vào dĩa xúp. Khi múc lên tay tôi chợt rung bắn. Tôi kinh hãi đặt muỗng trở lại dĩa. Tôi đổi tay trái. Cũng lẩy bẩy như thường. Chắc tôi sẽ không bao giờ ra khỏi nơi này. Người ta sẽ chuyển tôi tới một nhà thương dành cho những người điên run rẩy như tôi. Tôi muốn chảy nước mắt. Tôi lén xé bánh mì chấm vào dĩa xúp rồi cúi xuống thật gần đút vào miệng khô đắng. Mẩu bánh mì vướng ngang cổ thắt gút. Tôi đâu quen ai ở chốn này. Tôi muốn kêu Ánh cầu cứu. Giấc ngủ đầu tiên ở bệnh viện đen ngòm như chén chí-bà-phủ. Không nhớ gì hết. Nó đến hồi nào? Như hòn đá quá nặng vụt chìm, không kịp ngó. Tôi mở mắt, dần dần định trí, nhớ ra mình đang ở đâu. Lần đầu tiên tôi không bị ám ảnh bởi việc mua báo, chúi mũi vào những trang rao vặt và viết đơn xin việc. Lần thứ năm trăm, bảy trăm, cứ mãi một câu kết : « Veuillez agreér, Monsieur, l’assurance… ». Ngủ nướng không được, tôi đứng dậy bước tới cửa sổ kéo màn. Trời đã thực sự vào xuân, nắng rạng rỡ tưởng như Tết. Tôi nhớ tô hủ tiếu hồi nhỏ chỉ dịp Tết mới được ăn, trên có miếng tôm chiên và lát gan khô, xịt tàu vị yểu « Hai Con Chuột »! vô, tôi gục đầu húp tới giọt nước lèo cuối cùng. Sướng hết sức! Ai đã đuổi tôi ra khỏi thiên đường? Sự tinh ranh, suy nghĩ, tìm hiểu, muốn diễn giải, cắt nghĩa. Hành động nào cũng tự nó đầy đủ, như vậy chưa đủ sao? Vẫn luôn luôn chạy kiếm một cái gì bên ngoài, phía sau để biện minh chứng đúng. Khi chứng đúng được hành động của mình, người ta dám trở thành bạo ngược, tàn sát không gớm tay : Tần Thủy Hoàng, Hitler, Staline, Dalatôla, Pol Pot, Việt Nam Xã Hội!

Ăn hủ tiếu là ăn hủ tiếu. Hết. Sống là sống. Hết. Không gì có thể giải thích được gì hết. Giải thích là sa vào mê cung. Rời khỏi mê cung này là chỉ để dấn mình vào mê cung khác. Tôi ở trong mê cung, giờ này phút này.

Tôi làm những vệ sinh thông thường, như hồi đi lính. Khi trở về tôi thấy phòng nàng vẫn đóng kín. Tôi ra ngồi ở ghế bành gần cửa sổ xem tiếp quyển Mickey. Hay xem lại, vì tôi đã xem tới xem lui nhiều lần mà không hiểu gì hết. Tôi mất khả năng chú ý. Ðọc câu này nghĩ câu khác, đọc câu khác nghĩ tới chuyện hoàn toàn không ăn nhập gì, cứ thế, quanh quẩn trở lại những ám ảnh như đĩa đói hút cứng trong óc, nhức nhối. Khác với đọc, khi viết, ý nghĩ bắt buộc phải tập trung, diễn dịch theo một thứ tự tương đối nào đó. Cả chục năm nay tôi bỏ viết. Tôi không đủ đam mê. Tôi không viết để chứng minh. Tôi viết khi cảm thấy có nhu cầu. Nếu không viết mà sống vẫn hạnh phúc, tôi sẽ không bao giờ viết, vì tôi khi đó đang ở trong trạng thái quân bình. Nếu viết, tôi sẽ đánh mất quân bình. Khi viết, tôi như người lên đồng, lúc cười lúc khóc, vật vã, hành xác. Tôi lật nhựt ký bỏ dở nửa chừng hồi hôm viết tiếp :

Paul Brousse, ngày…

« Ðêm qua nàng đã không tới. Nàng, người con gái tóc dài đã đánh lạc hướng nỗi ám ảnh của tôi – để tôi lại sa vào một ám ảnh khác? Tóc nàng không làm cho tôi nhớ liễu, lệ liễu ( nàng liễu rũ còn vì cơn gió dập, hay vì hoa đã lỡ làng duyên), mà tóc nàng làm tôi nhớ tàng cây vú sữa vào buổi trưa nắng, có tiếng chó sủa. Lá vú sữa mặt xanh mặt đỏ, trái trương bóng như vú căng bên trong có sữa trắng, cả vòm cây tỏa ra hơi mát, tôi thường leo lên đó, đâu phải để hái trái. Tôi tới thăm chị em nàng, nàng có lông tơ trên cánh tay, mày rậm (dục tình ?), chị nàng tóc dài trắng trẻo, tôi không biết mình yêu ai, cũng chẳng bao giờ dám tỏ tình. Kiến vàng con lớn cắn nhức nhối. Thiềng Ðức. Cầu sắt ván gỗ đã long, đường đá lởm chởm. Tôi vừa thắng xe đạp, chị nàng ngó ra kêu thốt : « Kìa em!… Ai đã đặt tên cho trái cây đó là « vú sữa »? Thiệt quá tài tình! »

Dưới nội cỏ bệnh viện hoa vàng rực chói mắt. Không phải hoa mai. Từng cụm nhiều nhánh từ dưới đất chỉa lên sai oằn bông vàng chi chít. Không thấy lá, hực hỡ chóa lòa. Từng bầy chim sà xuống, loại chim đuôi ngắn ngủn không phải chim sẻ, không phải chim sáo, cúi đầu mổ lia lịa, chạy lúp xúp trong cỏ, không thấy chưn, tưởng như loài chim đồ chơi cơ động, lăn trên hai bánh lẩn khuất, chạy tới chạy lui ngộ nghĩnh. Tôi thèm chạy trên cỏ. Lần nào ngó chim chạy trên bãi cỏ nắng tôi cũng thấy mình ngu. Trời ơi! Sao hạnh phúc dễ ợt như vậy mà tôi không với tới! Bao nhiêu lần tôi đến ngồi trong vườn Luxembourg suốt mùa xuân suốt mùa hè để chỉ nghĩ đến chuyện thất nghiệp. Kìa xem con chim bồ câu đang tắm rửa rỉa lông và kêu rù rù bên ống nước lủng có tia nước xịt ra nhỏ rức, nó đâu có phải làm đơn xin việc kèm theo phiếu lý lịch có dán hình thắt cà vạt hẳn hòi như tôi. Nọ xem con chim sẻ con đang chạy theo chim mẹ cánh xòe ra, mép vàng chưa mắt dấu, hả miệng chờ mồi, và mẹ nó hết sức kiên nhẫn tận tụy. Tình thương của trời đất. Ðời sống sờ sờ như vậy mà tôi tự ý ngoảnh mặt làm ngơ, giam mình trong ngục tù do mình dựng ra và do mình cai quản…

Buổi chiều, vẫn cảnh phòng ăn quen thuộc ồn ào. Nhưng ồn ào hơn hôm qua vì có một lão mới nhập viện, ngồi ở đầu bàn ăn phát thanh ra rả không ngớt. Bạ gì nói đó không đầu không đuôi, bất chấp luận lý, bất chấp mọi người chung quanh. Nói để nói, vậy thôi. Lúc đầu tôi bực lắm, nhưng sau này tôi thấy vui vui, rồi ngẫm lại lối nói của ông ta coi vậy mà còn ít điên khùng hơn lối nói của bọn cuồng tín, chủ thuyết, giáo điều giáo lý, rập khuôn lải nhải nói hoài một thứ, bất chấp thực tại, bất chấp đời sống. Ít ra lối nói của ông già điên này không biết người và hợp lý hơn so với cái phi lý vì muốn quá sức hợp lý, độc quyền hợp lý, nghe một hồi muốn… đi ỉa cho nhẹ bớt. Vậy mà con người vẫn hãnh diện vì mình biết nói, biết suy nghĩ, cotigo ergo sum, tôi suy nghĩ vậy tôi có, thay vì tôi có rồi tôi mới suy nghĩ. Mẹ rượt ! Tôi không suy nghĩ vẫn có như thường, không tin thử lấy kim nhọn châm vào đít triết gia đang say ngủ thì biết.

Trước mặt tôi và cạnh tôi vẫn anh chàng sún răng và gã râu quai nón. Hôm nay tay tôi hết run, không hiểu vì sao. Tôi nghe tiếng cười the thé khàn khàn của người đàn bà ở phía trước, không biết của ai, rồi tiếng muỗng thép rơi xoảng ở phía sau lưng, góc trái. Tôi quay lại ngó : Nàng ! Phải, nàng ngồi đó, tóc vẫn dài, áo vẫn trắng, khuôn mặt trẻ, buồn, mắt kẽ xanh phớt, đang cắn môi dưới, bối rối, chiếc muỗng kim khí nằm dưới chân. Nàng ngồi bàn nhỏ ở góc, một mình. Hiện diện của người con gái thanh lịch trong phòng ăn ồn ào điên khùng này thật là không phải chỗ, không lẽ nàng cũng… Gã quai nón lắc vai tôi biểu đưa cho hắn lọ tiêu. Tôi cầm muỗng đưa lên miệng húp, máy móc. Không yên bụng tôi quay ngó lại. Người nữ y tá đang cố gắng đút muỗng xúp cho nàng ăn, nàng lắc đầu, các ngón tay thon vò xé mẩu bánh mì. Tôi lo âu, người nữ y tá năn nỉ, nàng hả miệng. Tôi bớt lo âu, trở lại dĩa xúp của mình, nhủ thầm nên nghĩ đây là tô hủ tiếu hồi còn nhỏ của mày đó, ăn đi. Dĩa xúp được dọn đi, tôi quay ngó lại, nàng không còn ở đó. Dĩa thịt dọn tiếp ra, tôi đói bụng tiếp tục ăn, không thấy ngon gì hết, thỉnh thoảng liếc ngược trở lại. Lòng buồn bã.

Bữa cơm chiều chấm dứt. Tôi không ăn tráng miệng, cầm hai trái táo đem về phòng để nhâm nhi lúc cổ họng khô đắng. Phòng nàng còn mở hờ không thắp sáng, ngoại trừ ánh điện mờ từ ngoài hành lang hắt vào. Tôi tò mò ghé mắt nhìn. Phòng nàng cũng giống như phòng tôi, cũng chiếc giường nệm trắng và ở cuối giường nàng đang ngồi xõa tóc. Lưng quay ra cửa, nàng ngồi ở ghế bất động. Tôi hồi hộp và bồi hồi thương xót. Nàng làm gì ở đây? Chẳng lẽ nàng cũng điên như tôi. Tôi ba chục năm chiến tranh, bạn bè lớp chết lớp cụt tay cụt chưn, bà con tứ tán, bây giờ tôi thất nghiệp đã đành. Nhưng còn nàng? Tóc nàng quá yêu kiều thướt tha như một hạnh phúc nắm chặt khi luồn tay vào mái tóc ấy và nói yêu em. Nỡ nào điên sao? Trong trí tôi lúc đó chỉ những người tâm địa xấu xa, mặt mũi xấu xa mới đáng điên. Còn nàng, tôi không tưởng nổi. Tôi không dám bước vào. Tôi không dám gọi. Tôi thò tay đặt trên giường nàng trái táo, như lén lút, rồi vội vã trở về phòng mình đóng cửa lại, tim đập mạnh. Tôi trèo lên giường bật đèn. Tôi giở tập thơ chép tay nhẩm đọc các bài mình đã ưa thích. Sự rung động đã chết ngấm trong lòng. Tôi dửng dưng. Sự bất hạnh cũng là điều may mắn. Ðôi khi tôi thèm được làm hòn đá vô tri mà trời đất đã bỏ quên trên một dốc núi hết sức tầm thường, không ai hay biết. Không có trí nhớ, không có dĩ vãng, không có tương lai. Chỉ nằm đó, vậy thôi, quá đủ, không cần chứng minh, chứng minh nào cũng thừa thãi, sai bét. Thú vật đâu có ngu như tôi. Ðâu có con chó nào làm thơ, đâu có con chim nào đặt nhạc, đâu có con dế nào viết văn. Toàn những thứ bày đặt mà con người rất lấy làm hãnh diện, cũng như đã hãnh diện về cái tài biến chế, đẻ ra tôn giáo, chính trị, triết lý của mình. Triết lý, nhứt là triết lý tây phương, mới đi được một nửa hành trình từ có đến không. Chưa ai đi được – hình như vậy – nửa đường còn lại từ không đến có, cho trọn cuộc hành trình. Dừng lại nửa đường, đứng trước hư vô, họ kinh hoàng và đâm ra bạo động – để vớt vát ? Nào ai biết « không có gì đáng sợ bằng sự sợ hãi »!

Tôi lật đến phần nhựt ký viết tiếp : Ðêm…

« Ðã thực sự có một cuộc chiến tranh ở Việt Nam hay sao? Nó là cái gì và bây giờ nó ở đâu ?Chẳng lẽ nó là thằng điên đang nằm bệnh viện giờ đây. Hay là tên tù đang dang nắng xới mìn trên núi đá ? Hay là gã bộ đội trẻ hồi hộp mang con búp bê bằng nhựa hồng sần sùi, có đôi môi đỏ choét in lệch ở chợ trời Sài Gòn về cho đứa em gái nhỏ ngoài Hà Nội để làm quà quí kỷ niệm ngày « giải phóng » miền Nam? Tôi không hiểu nổi. Tôi từ chối mọi giải thích, mọi logique, mọi biện chứng, mọi nhu cầu lịch sử. Chỉ có sự xuẩn ngốc. Tôi không thấy thương xứ sở. Tôi chỉ thấy giận dữ. Tôi giận Việt Nam. Cái xứ gì thật là chó chết! Hãnh diện?Hãnh diện cái mẹ gì? Ðừng tìm đâu xa ai là thủ phạm. Chúng ta là nạn nhân của chính cá tính dân tộc mình. Chúng ta là đao phủ của chính chúng ta. Vậy mà cứ vỗ ngực cho rằng ở cùng Ðông Nam Á mình ngon lành nhứt, mình khôn nhứt, mình oai hùng nhứt. Việt Nam số một! Tiểu xảo, khôn vặt, tào lao, nhảm nhí – nhảm nhí chết người! Tôi giận quá. Tôi giận tôi. Sao hồi đi lính ở Việt Nam tôi không chết quách đi cho xong việc. Nghĩa địa tôi phải là một rãnh mương, bờ đê đất sét hay vàm bãi phù sa nào đó. Tôi làm cái khỉ mốc gì ở đây? Không ai cần tôi có mặt trong cái bệnh viện khốn kiếp này. Tôi trúng đạn đại liên nát ngực, ngã lật trên bờ ruộng chết tốt, không kịp hối tiếc, chẳng hơn sao?

Qua thư nhà, tôi thấy mình còn tốt phước hơn nhiều người. Như anh tôi, như bạn bè tôi đang học tập cải tạo, có thằng đã chết. Vậy mà tôi không thấy sướng khi ở đây. Ðịa ngục tôi trốn được. Nhưng còn cái địa ngục tôi mang kè kè trong đầu, tôi biết lẩn trốn ở đâu. Mỗi chúng ta mang sẵn thiên đàng địa ngục trong tâm tưởng.

Chính bác sĩ tâm lý của tôi, ông Cazas, đã khuyên tôi nên vào đây tịnh dưỡng. Phải rứt tôi ra khỏi cuộc sống hàng ngày. Tôi đã tới phòng mạch ông ngồi lì, không chịu về, muốn rã luôn tại đó, mệt mỏi cực độ. Lúc chẩn bịnh, ông có yêu cầu tôi nắn tuợng. Tôi nắn một người hai mặt ba chưn. Một chưn đứng trên sợi chỉ căng, một mặt hướng về quá khứ sau lưng một mặt hướng về tương lai phía trước, mặt nào cũng nhắm tít mắt, bốn tay đưa thẳng như người mộng du, hai chưn bước về hai phía đối nghịch, lơ lửng trong khoảng trống. Tôi mộng du, quên sống trong hiện tại, dù rằng không thể sống cách nào khác hơn được là sống trong hiện tại. Dĩ vãng tương lai cũng nằm trong hiện tại. Không có thời gian nào khác hơn là thời gian hiện tại.

Bận khác tôi nặn cho ông một con trâu nước. Ông yêu cầu tôi giải thích. Tôi nói đó là hiện thân của tôi, con trâu nước. Tôi muốn trầm mình trong nước, vùi bùn thảnh thơi, không ai ăn thịt tôi, tôi cũng chẳng ăn thịt ai. Con trâu nước không đẹp đẽ cũng chẳng có ích gì cho ai, nhưng cũng chẳng phải ích kỷ. Nó sống, vậy thôi. Con vật nào sinh ra cũng để sống, vậy thôi. Chẳng phải từ đâu đến, đến đây để làm gì, rồi đi về đâu. Ðó là những câu hỏi dựng đứng, bày đặt, lẩm cẩm. Tôi đã nhiều phen đặt những câu hỏi cà chớn như vậy, cũng như đã nhiều phen nổi loạn chống lại Thượng đế vì thấy ông ta quyền hành quá sức. Tạo ra một Thượng đế, phong cho chức tước quyền nắng…rồi chống lại, tuyên chiến. Như hiệp sĩ Ðông Ki-Xốt đánh lộn với cái quạt gió, hay Lucky Luke đấu súng với cái bóng của mình. Hào hứng tới phát khóc được… »

Sáng hôm sau khi ở nhà tắm đánh răng trở về, tôi thấy phòng nàng mở cửa. Nàng ngồi trên giường chải tóc, vẫn mái tóc bồng ẻo lả đó. Áo nàng xanh da trời màu thẫm cũng loại vải mềm mại như áo trắng hôm trước, chân nàng cũng trần trắng phớt hồng, bàn tay dịu dàng gỡ lược. Tôi cúi đầu chào, nàng chào lại. Tôi gạ chuyện hỏi chiều qua nàng không ăn có thấy đói không, nàng lắc đầu. Quả táo cắn dở đang còn để trên bàn. Tôi rủ nàng lên phòng ăn sáng. Nàng dụ dự rồi đồng ý. Tôi mặc áo sơ mi sọc, quần jeans, xỏ đôi giày rồi bước qua gọi nàng.

Nàng uống sô-cô-la sữa, không ăn. Tôi rót cho tôi một tô cà phê lớn và trét bơ lên bánh mì nướng. Tôi bảo từ ngày vào đây tôi có triệu chứng lên cân, mặc quần đã thấy chật. Tôi được biết nàng tên Evelyne và nàng vào bệnh viện đã được ba tháng nay. Trước đó nàng là nữ y tá cho một bệnh viện dành cho người già. Vì mới quen nên tôi không tò mò hỏi duyên cớ nào xui nàng vào đây. Nàng cũng không hỏi tôi vì sao phát điên. Nàng hay cắn môi, môi nàng màu hồng đều đặn, không dầy không mỏng. Nàng không có vẻ gì bất bình thường, ngoại trừ đôi mắt như xa vắng, nhìn nhưng không chú ý, có đó mà như không có đó. Gương mặt sầu muộn man mác, thương nhớ đâu đâu. Nếu không điên, có lẽ tôi đã tán tỉnh nàng. Dung nhan nàng trùng hợp với mẫu người con gái mà tôi ưa thích. Ăn xong, chúng tôi về phòng chờ bác sĩ đến khám bệnh cho thuốc.

Sau bữa cơm trưa thằng râu quai hàm rủ tôi trốn ra phồ chơi – hắn tên Christian. Ðã hơn tuần nay tôi giam mình trong bệnh viện, hết ăn tới nằm, hết nằm tới ngồi, hết ngồi tới ăn, tôi cũng tù chân. Trời nắng đẹp, tôi đồng ý leo rào với hắn. Hai đứa lẻn ra cửa nhỏ, cuốc bộ ra đường cái đón xe buýt ra Paris. Ngồi trên xe buýt, tôi chỉ sợ nhân viên bệnh viện đón cùng xe lên thình lình và nắm cổ hai thằng điên lôi về. Chúng tôi an toàn đi vào thành phố, hai đứa rà rà xuống khu Opéra. Trở lại cái náo nhiệt của Paris, tôi thấy vui vui nhưng trong lòng cũng lo sợ vu vơ. Không biết lính cảnh sát có tới hỏi giấy bất tử. Tôi muốn đi xi-nê nhưng không có tiền. Christian dắt tôi vào một tiệm sách, hắn tìm mua một cuốn sách nói về phân-tâm-học. Hắn là thầy giáo ở một khu hẻo lánh dưới tỉnh. Hắn nói ở đó buồn quá, có mỗi một cô giáo độc nhứt lại đổi đi nơi khác. Hắn phát khùng, không biết có phải tại thất tình cô nọ.

Vào tiệm sách, hắn lựa ba quyển nói về tâm lý, hỏi ý kiến tôi nên mua quyển nào. Có một quyển tôi đã đọc nên tôi xúi hắn mua quyển đó, hai quyển kia in chữ nhỏ và có vẻ lập thuyết nên tôi không thích. Thuyết nào cũng chứa sẵn mầm loạn trong nó. Thuyết càng lớn, loạn càng lớn. Hắn chọn một trong hai quyển kia mang ra quày hàng. Khi cô hàng sắp tính tiền, hắn đổi ý ôm quyển sách trở vào, lại hỏi ý kiến tôi. Tôi không đổi ý. Hắn lại ôm quyển khác ra quày rồi lộn trở vào đứng xớ rớ với ba quyển sách trên tay. Tôi không muốn mất thì giờ nên xui hắn mua mẹ nó ba quyển luôn cho được việc. Hắn không chịu. Sau cùng hắn cầm quyển sách tôi chọn ra quầy trả tiền. Xong hai đứa đi lòng vòng một hồi rồi đón xe buýt về bệnh viện. Trên xe hắn lại càu nhàu và tỏ ý hối hận vì đã mua quyển sách mà hắn không thích. Tôi xì nẹt la chưa chắc mày đã biết mày thích gì nữa. Hắn đòi xuống xe đi trở lại Paris đổi sách. Tôi dọa cô bán sách sẽ kêu cảnh sát vì thấy mày dị hụ quá, hắn mới thôi. Hắn tiu nghỉu nhưng cứ cục cựa trên băng xe hoài không yên. Tôi chỉ mong chuyến búyt tới chỗ phứt cho rồi.

Buổi tối, khi ăn cơm Christian lại đem đề tài cuốn sách hồi chiều ra thảo luận. Hắn công kích làm như thể tôi là tác giả cuốn đó. Nghe lý luận của hắn tôi nghĩ bụng thằng cha này không thể nào đàn bà thích nổi, chắc chắn sẽ ở giá tới già. Tôi nổi sùng định gây thì may quá hắn đổi đề tài qua chuyện dĩa bay, một chương mà hắn cho rằng mình nắm giữ được nhiều tài liệu xác thực, chứng cớ đàng hoàng. Hắn tin rằng người ở hành tinh khác sẽ đáp dĩa bayxuống quả đất này và mang tới một trật tự mới. Hắn sẽ theo đoàn người ngoại địa kia bay lên không gian, nơi từ đó hắn đã đap xuống địa cầu này. Hắn nói say sưa rồi hỏi tôi tin dĩa bay có thật không. Tôi nói tôi không biết, có điều chắc chắn là ngoài thế giới loài người, còn có hằng hà sa số thế giới khác nữa. Vả lại tôi chỉ mong cho bọn Nga bọn Mỹ bay tuốt lên hết không gian để lại quả đất già nua này cho tôi, tôi sẽ mừng biết mấy.

Sau bữa cơm tối Christian rủ tôi ở lại coi truyền hình, tôi chán nản trở về phòng nằm ngó ra cửa sổ thấy trăng mọc. Lòng tôi dịu xuống. Tôi chợt có một ý nghĩ rất đằm thắm về nàng, gần như tội nghiệp. Phòng Christian khít phòng tôi và ngang phòng nàng. Hắn nói từ ngày vào bệnh viện hơn tháng nay, hắn không thấy ai tới thăm nàng hết. Có hôm hắn nghe tiếng khóc la trong phòng nàng và hắn kêu cứu nhân viên trực. Người ta đến đem nàng đi hai ngày sau mới mang trở lại. Nàng xanh xao. Duy có điều là lúc nào nàng cũng ăn mặc đẹp đẽ và mái tóc gội rửa sạch sẽ óng chuốt. Hắn có gợi chuyện với nàng nhưng thấy không hạp – có gì đâu ngạc nhiên ? Tôi châm điếu thuốc và ngồi dậy viết nhựt ký.

Ðêm…

« Có lẽ giờ này Ánh đang loay quay dưới bếp, trong tiệm ăn ; mùi xào nấu khét nghẹt, khói tỏa mù mịt. Giờ này khách bắt đầu đông dần, cho tới khuya. Tiệm anh Thận ở đường Saints Pères lúc nào cũng đông vì anh biết chìu khách và tử tế với nhân viên, tuy thỉnh thoảng anh có bốc hốt ấu tả. Ánh than phiền nhưng tôi an ủi là đàn ông nào mà chẳng vậy. Tới khuya nàng lò dò về, len lén tắm rửa sơ sài rồi chui lên giường, mùi củ hành còn dính trong tóc. Có lần tôi than thở em có mùi củ hành, nàng phản đối hôm nay em chỉ xắt tỏi chớ không có xắt hành. Với tôi thì mùi nào cũng khó mà ôm vào lòng ngủ cho được. Tôi vốn đã mất ngủ, đang lúc thất nghiệp. Thế nhưng tôi vẫn ước ao khi nào có đủ tiền ta sẽ rước Kiều ra khỏi lầu xanh. Khi trước ở Việt Nam nàng làm nhà băng, qua bên Tây nàng làm nhà hàng, đâu cũng là nhà cả !

Một dạo tôi xuống đón nàng buổi tối, e nàng thân gái dậm trường. Ðêm nọ dưới métro trạm Odéon tôi đứng lại xem một bọn bốn đứa da đen đánh trống hòa nhịp với nhau. Nghe tiếng trống dội tôi tưởng chừng như ai đang đập lên da thịt mình ( con trâu nước ?). Ðã nhiều lần như vậy và lần nào tôi cũng chảy nước mắt. Con trâu nước đang dãy dụa dưới làn nước đục trên lưng còn dính cứng những mũi giáo nhọn, máu tuôn lênh láng. Con trâu nước trồi lên mặt nước, miệng hả lớn lấy hơi thở, tôi hụp xuống lẩn trốn, con trâu nước trồi lên, tôi hụp xuống, con trâu nước mang giáo nhọn, tôi dãy dụa dưới làn nước đục…Tôi vụt khóc sướt mướt và vội vã chạy ra khỏi métro, chạy băng qua đại lộ Saint Germain, chui vào mấy con đường nhỏ ở chợ Buci, rồi lẩn trốn dưới cổng lớn của trường Y khoa gần tiệm anh Thận. Tôi ẩn núp để khóc cho thỏa thích, làm như khóc là điểu xấu hổ phải dấu che. Tôi khóc rất lâu, tưởng chừng đứt mất hơi thở. Con trâu nước tuôn máu lênh láng, tôi khóc lênh láng. Khi dịu bớt, tôi đi đón Ánh. Ra về, trong toa xe, bất thần tôi lại tủi thân bật khóc. Ánh ôm tôi vỗ về, hành khách trong xe ái ngại. Từ đêm đó, tôi không đi đón nàng nữa.

Chúng tôi thuê một căn nhà hai phòng ở lầu bốn một cao ốc cũ kỹ đường Pyrénées, quận hai mươi Paris. Hai đứa nhỏ ngủ chung một phòng trên giường hai tầng, trong phòng lúc nào cũng ngổn ngang thùng giấy đựng quần áo, như sắp sửa chạy giặc. Tôi và Ánh ở phòng ngoài có ghế dài để ban ngày tiếp khách, ban đêm kéo ra làm giường ngủ, ăn cũng ở đó, xem truyền hình cũng ở đó, hội hè cũng ở đó. Không có hệ thống sưởi, chúng tôi mua một lò sưởi điện xài đỡ. Hôm nào lạnh quá, cha con ngồi co ro bên lò điện tìm hơi ấm. Suốt mùa đông Ánh đi làm việc, hai đứa nhỏ đi học, tôi nằm nhà trùm chăn kín mít cho đỡ lạnh, chỉ chừa một lỗ đủ để thở. Hôm nào có họp chợ lộ thiên, lúc tan chợ tôi lò dò đi lượm mấy trái cam úng người ta quăng bỏ đem về vạt xén phần tư, nhâm nhi phần còn lại có mùi vị bất định cho đỡ thèm. Có bữa cơn động kinh bất chợt kéo về bứt cắn cân não, tôi chỏng lưng giựt tóc la hét một mình trong căn buồng mông quạnh, đầu vùi dưới gối cho không ai nghe thấu. Thất nghiệp, không tiền, không biết đi đâu, không có bận rộn gì khác ngoài viết đơn xin việc. Cố gắng ngủ, không được, mặt như phù thủng, vàng vọt, tóc trĩnh ướt. Khi nghe tiếng chân Ánh về trên cầu thang, tôi cố gắng ngồi dậy cho nàng đỡ âu lo. Nàng về tôi mừng lắm, cũng thấy bớt sợ trong cảnh cô đơn.

Hết đông tới xuân, hết xuân tới hè, vẫn thất nghiệp dài dài. Ðứa con trai nhỏ theo trường đi cắm trại miền biển, còn lại tôi và đứa con gái, cha con mỗi ngày ngồi ngó nhau chờ má về. Nó học ở trường biết thổi sáo chút đỉnh, mấy bản ru em. Tôi mượn được cây lục huyền cầm, gảy lăng tăng. Mùa hè hai cha con tính xuống métro song tấu kiếm chút cháo của hành khách xui ngược. Nhưng sợ má bắt gặp bất tử nên thôi. Tôi nghĩ nếu một mai tôi chết, khi viết hồi ký, con gái tôi chắc sẽ bắt đầu như sau : « Ba tôi là một người hết sức buồn rầu… ». Thấy tôi lừ đừ cả ngày, nó tự động lấy giấy bìa nặn hình cái chén rồi vẽ bông hoa lên đó tiêu khiển. Tôi cũng xé hình màu ở các tạp chí dán lăng nhăng thành những cảnh trí khác để giải khuây. Chán tôi mua rượu về uống. Say chán tôi tỉnh dậy ngán ngẩm còn bao nhiêu rượu đem vào cầu tiêu đổ bỏ rồi giựt nước cho trôi đi. Mùa hè các xí nghiệp đóng cửa hay chỉ hoạt động tà tà, không ai thâu dụng người. Lại chờ nữa.

Có hôm đứng ngó mình trong kiếng tôi ngỡ thấy một thằng điên. Tóc tai rũ rượi, mắt nổi gân đỏ, da mặt vàng ẻo. Tôi chợt hối hận ăn năn vô cùng. Ðâu dễ gì tôi xuất hiện trên trái đất này dưới lốt một con người. Phải bao nhiêu vạn kiếp, bao nhiêu cơ duyên. Sao tôi không nhiệt thành sống cuộc sống đó. Người ta sinh ra đâu phải để hạnh phúc hay để đau khổ. Người ta sinh ra để sống, và sống hàm chứa hạnh phúc lẫn đau khổ. Phải chấp nhận. Nên chấp nhận. Cũng không có cách nào khác. Tự tử để chứng minh mình có tự do thì tự do đó quả thật khốn nạn, hẩm hiu và kiêu căng xuẩn ngốc. Nhiều lần cầm mười viên thuốc ngủ trong lòng bàn tay, tôi do dự. Kiếp người, hành trình từ sống tới chết chỉ một chiều. Không thể đi từ chết trở lại sống. Ðó là lý do duy nhất khiến tôi bỏ các viên thuốc ngủ trở lại ống. Sống không hân hoan là một tật nguyền do chính mình tạo lấy, hoàn cảnh bên ngoài chỉ là một cái cớ. Nếu biết sống vẫn luôn luôn có một chút mặt trời đâu đó… »

Trước cổng bệnh viện là thành phố Villejuif. Thành phố này, đối với tôi, gồm hai khối nhà cửa xúm xít. Khối bên trái gồm nhiều cửa tiệm buôn bán, một hiệu cà phê, nhiều tiệm ăn, quán nước, tiệm giặt ủi, trường học và đặc biệt là một tiệm sách tôi thường ghé vào coi cọp tạp chí lăng nhăng. Khối bên phải gồm chợ nhà lồng có nhiều sạp bày bán quần áo, hàng xén, bánh trái, bông hoa vệ đường…trong những ngày họp chợ, một siêu thị và một quán nước trang bị các máy tiêu khiển, banh điện, banh bàn…bọn trẻ thường tụ họp ở đó. Ngày nào tôi cũng đi lòng vòng quanh hai khối nhà cửa đó, thét rồi thuộc lòng hết vị trí. Cũng chẳng biết đi đâu hơn. Ðối với tôi, thành phố chỉ có vậy. Xa hơn, nhà cửa thưa thớt, cũ kỹ, đi vô đó sợ lạc.

Trời bước vào mùa xuân với những ngày nắng càng lúc càng tươi tốt, rạng rỡ. Tôi đánh một vòng qua khỏi hiệu cà phê đến tiệm sách. Tôi giật mình vì từ xa đã thấy nàng đứng đó, trước cửa tiệm sách, trong nắng vàng, tóc lùa gió xuân bay phất phới, hình ảnh thật tươi mát, hạnh phúc. Nàng mặc quần jean bó sát, áo sơ mi màu hồn nhạt như chim hạc xòe cánh hồng, tay cầm ví nhỏ, trông như một cô gái đang chờ tình nhân, mắt nàng chóa nắng nheo nheo. Nàng có vẻ không để ý gì đến quang cảnh chung quanh. Nàng có đó nhưng cũng đồng thời không có đó. Tôi đến gần, nàng không hay biết. Tôi gọi nhỏ :

Evelyne !

Nàng giật mình nhìn tôi bối rối, tay chân lúng túng như muốn che giấu điều gì. Tôi có cảm tưởng đã bắt gặp quả tang nàng đang…đứng phơi nắng. Tôi cố gắng mỉm cười cho nàng yên tâm. Tôi ngó trời nói bâng quơ :

Bữa nay trời đẹp thiệt ! Cô đi mua sách hả ?

Nàng ấp úng :

Không… không…

Cô đang chờ một người bạn chăng ?

Nàng lắp bắp :

Không… Tôi không chờ ai hết. Cũng chẳng có ai chờ tôi.

Nàng bối rối khiến tôi cũng bối rối. Tôi đề nghị :

Hay là…chúng mình cùng vào đây xem sách coi có gì thú vị chăng.

Nàng ngần ngừ, tôi đẩy cửa tiệm sách, nàng liếc nhanh tôi rồi bước vào. Chúng tôi đứng trước sạp chưng bày các tạp chí và sách hình, dở xem lăng nhăng hết tập này đến tập khác. Tôi hỏi nàng muốn mua gì không, nàng lắc đầu. Sau đó tôi chọn cho nàng một cuốn Mickey mới xuất bản, bảo nàng giữ lấy xem trước, khi xong tôi sẽ xem sau. Rời tiệm sách, tôi đề nghị nàng đi tới một khoảng vườn nhỏ trồng bông gần đó ngồi phơi nắng chơi, hôm nay trời quá đẹp. Trong vườn bông tulipes màu vàng, màu đỏ, màu vàng sọc đỏ nở rực rỡ, hồn nhiên. Con chim sẻ mới biết bay vỗ cánh cất mình la đà tại chỗ rồi rớt xuống, rất ngộ nghĩnh. Nàng nhìn thú vị, như đứa nhỏ đang khám phá đời sống. Tôi ngắt một cọng cỏ vò nát trên đầu ngón tay rồi đưa cho nàng ngửi. Mũi nàng hỉnh hỉnh, có vẻ chăm chú. Tôi kể sơ lược lý do đã khiến tôi vào bệnh viện. Cái tên Việt Nam đối với nàng như một địa danh đến từ một hành tinh xa lạ. Nàng hoàn toàn không biết những gì đã xảy ra ở đó trong mấy chục năm qua. Càng may cho nàng. Biết chi vô ích. Nếu thế giới cũng quên được Việt Nam như nàng thì dân Việt sẽ đỡ khổ biết mấy !

Khi nói về nàng, Evelyne lại tỏ ra lúng túng, hốt hoảng. Nàng nói nàng rối trí vì lý do gia đình. Tôi hỏi :

–    Chồng cô đâu sao không thấy tới thăm.

–    Không, tôi còn độc thân.

–    Ủa, chớ còn chuyện rắc rối gia đình..

–    Gia đình đây là gia đình ba má, tôi sống với ba má và người chị sanh đôi duy nhứt là Isabelle. Cách đây hai năm, lúc tôi được mười tám tuổi gia đình bắt đầu xào xáo. Má tôi ghen…

Nàng ngập ngừng. Tôi yên lặng. Nàng tiếp :

–    Má tôi ghen với chị tôi. Lúc đầu bà nghi ngờ, rồi sau đó bà quả quyết là ba tôi đã ngủ với chị tôi. Ba tôi chửi má tôi, nói là bà ghen riết hóa điên, từ ngày lấy nhau bà đã luôn luôn hành hạ ông vì cái chứng ghen quá trớn của bà. Ngày nào cũng cãi vả rồi đi tới xô xát.

Mắt nàng mở lớn, sợ sệt. Tôi hỏi :

–    Sao hai chị em không ra ở riêng ?

–    Chúng tôi không có phương tiện. Hơn nữa ba tôi cũng không muốn. Một hôm trong phòng khách ba người lại cãi nhau. Má tôi buông lời tục tằn, ba tôi giận dữ đánh bà bạt tai, bà ré khóc la hét. Isabelle cũng khóc. Tôi trong buồng bước ra cầm lưỡi dao cạo trên tay dọa sẽ cắt gân máu nếu mọi người tiếp tục. Không ai nghe tôi. Tôi cứa dao cạo lên cổ tay, máu vọt ra lênh láng và ngã xỉu…

Mặt nàng nhợt nhạt. Tôi hoảng hốt nắm vai nàng lay tỉnh. Tôi gọi nàng :

– Evelyne ! Hết rồi ! Chuyện đó hết rồi ! Chúng ta đang ngồi trong vườn. Nhớ đi ! Nhớ đi ! Chúng ta đang ngồi trong vườn hoa.

Tôi hối hận vì vô tình đã đánh thức hoài niệm thương động của người con gái xõa tóc. Tôi nắm tay nàng vỗ về, tay nàng lạnh ngắt. Nàng bình tâm lại. Nàng mở nút tay áo đưa tôi xem, cố tay trái nàng còn ba dấu cắt, một dấu dài ở giữa, hai dấu ngắn hai bên. Tôi bồi hồi thương xót, tôi vuốt ve vết cắt, cài tay áo nàng lại và bảo nàng hãy về buồng ngủ nghỉ ngơi. Nàng đứng dậy, quyển Mickey rơi xuống đất. Tôi cúi xuống nhặt và ngắt cho nàng một hoa tulipe đỏ. Ðể tạ lỗi. Sau lưng chúng tôi, chim trong vườn vẫn kêu ríu rít. Buổi cơm tối không có mặt nàng.

Paul Brousse, tối…

 

« …Tôi vẫn còn ân hận và áy náy cho Evelyne. Tôi đoán lờ mờ câu chuyện của nàng còn nhiều uẩn khúc. Mà phanh phui nhắc nhở để làm gì ? Trí nhớ khốn kiếp ! Người ta cần có trí nhớ để tiếp tục, nhưng cần phải lãng quên để sống. Trí nhớ, không biết đó là diễm phúc hay là nỗi bất hạnh của vạn vật, của con người. Sự tiến hóa đã sáng chế ra trí nhớ, chôn kín trong tế bào, không thể rứt ra được nữa. Có lần tôi đã viết cho một người đàn bà ở Bình Dương : « Vùi chôn trí nhớ đầu ghềnh, hồn nhiên hạnh phúc lênh đênh cũng gần », không biết nàng có cảm nhận điều tôi muốn nói ?

Vì không quên được nên tôi chưa thích ứng được với cuộc sống nơi đây. Dù giận quê hương, Việt Nam vẫn còn đeo kín trong tâm tưởng. Gỡ ra bật máu, đau nhức như vết thương chưa lành. Ở đây, tôi phải thay đổi đời sống, làm những công việc khác, chấp nhận những luật lệ khác, chia sẻ sự khủng hoảng kinh tế của Pháp – và của thế giới – như mọi người. Sau thời gian thất nghiệp, tôi sẵn sàng làm bất cứ công việc gì, hay ít ra tôi tưởng vậy. Tôi tính đi bưng cơm và rửa chén ở tiệm ăn, nhưng Ánh cản tôi, vì nàng biết tính ý tôi. Tôi nhận đứng bán hàng trong một tiệm điện tử. Từ nhỏ tới lớn tôi nào biết buôn bán là gì. Tôi vốn ghét thương lượng, mặc cả, kiếm lời. Trưa nào tôi cũng xuống hầm gặm khúc bánh mì cạnh cầu tiêu. Một tháng sau tôi đổi việc làm.

Tôi nhận làm thư ký cho tiệm chạp phô của một người đồng hương. Công việc ghi chép sổ sách kế toán, ngân hàng, kiểm điểm thanh toán hoá đơn và các công việc lắt nhắt tạp nhạp khác, kể cả ôm mấy bó củ hành, vịt quay, lạp xưởng ra ngoài nhà bưu điện làm thủ tục để gửi đi. Tôi có triệu chứng sa sút trầm trọng, ban đêm trao tráo, ban ngày ngủ gật, lờ đờ. Ngồi trong cầu tiêu tôi mê thiếp. Tôi làm việc với tâm trạng thất nghiệp, làm chưa đúng nghề của mình. Tôi bám níu nghề cũ, như thể tôi sinh ra để chỉ làm nghề đó, tâm trí vọng chấp. Mỗi tối, khi về Ánh thường gãi đầu tôi trong đêm khuya để dỗ tôi ngủ. Nàng thường ứa nước mắt chép miệng « tụi mình đâu có làm gì ác ! » Mỗi sáng tôi sợ hãi nhỏm dậy sau một đêm chập chờn ( như mấy trăm đêm đã qua), xỏ quần áo xốc xếch, xuống bếp pha ly cà phê lớn. Tôi lò dò bước xuống đường khi Ánh còn mệt ngủ vì làm đêm, về muộn.

Tiệp chạp phô nằm ở khu Maubert. Khi tới gần tiệm, tôi sợ hãi, bước chậm lại muốn thối lui. Ngày nào cũng mùi nước mắm, xì dầu, hành hẹ, rau cỏ úng, ba khía, chả giò, cà ri, vân vân…Tôi đầy cứng cả phổi. Sách nào cũng anh chàng chà-và giữ quán đốt nhang Ấn Ðộ, vặn nhạc Ấn Ðộ, hát theo tiếng Ấn Ðộ, ngoáy ngoáy cái bụng kiểu Ấn Ðộ, quần áo ít khi thay đổi, hôi rình. Bước vào quán đã dội ngược. Rồi tiếng tru tréo của bà chủ, tiếng xỉa xói của đám con bà chủ, tiếng nạt nộ hách xược của ông chủ. Ngồi trong văn phòng ( ! ) nhỏ xíu trong kẹt quán, tôi thường trải qua những giây phút kinh hoàng đột khởi trong tâm lý. Tôi sẽ trở thành lão thư ký già cạo giấy chết dần chết mòn giữa mùi cà ri sực nức này ? Không thấy lối thoát. Những lúc đó tôi thường nhìn bức tranh Quan Âm lộng kíếng treo trước mặt, tôi nhớ tới má tôi thường dắt tôi đi chùa hồi nhỏ, và tôi niệm Phật. Không phải vì tin tưởng, mà giống người sắp chết đuối níu phao, phao gì cũng được. Tôi thấy cắn rứt vì mình không tin tưởng Trời Phật một cách thành thực, bất vụ lợi. Tôi kêu gọi Trời Phật khi bị hiểm nguy, mong mỏi điều đó có thể lợi ích cho tôi. Nếu không có lợi cho tôi gì hết, khó có thể tôi tin lâu dài được. Nếu Chúa Trời không có thiên đàng, có lẽ tín đồ sẽ chỉ còn lại loe ngoe mấy mống. Hơn nữa, nghe đâu ở cõi Cực lạc không có người nữ nên tôi chẳng tha thiết gì cho lắm. Vả lại, tôi rất sợ « vĩnh viễn », bất cứ gì vĩnh viễn. Vui sướng vĩnh viễn! Hoan lạc vĩnh viễn (như thượng mã phong?) Hạnh phúc vĩnh viễn! Nghe qua phát ớn. Vĩnh viễn là một cái chết tuyệt đối. Mà sự hoàn hảo cũng là một thứ vĩnh viễn, một tình trạng bất khả đổi thay. Nếu Thượng đế hoàn hảo thì thật đáng tội nghiệp. Ông đã chết cứng khi mới xuất hiện, chết tuyệt đối, chết tại chỗ, không thể tiến lên, không thể tụt xuống.

Tiệm chạp phô cách nhà thờ Notre Dame độ hơn trăm thước. Chỉ cần băng qua cây cầu đá bắt ngang sông Seine là tới. Tiệm không có lò sưỡi nên mùa đông buổi trưa nào tôi cũng ôm khúc bánh mì chui vào nhà thờ tìm hơi ấm để ngủ gật. Trong nhà thờ có những vỉ sắt, hơi nóng từ bên dưới hắt lên. Ngồi đó đỡ khổ lắm. Những lúc ấy tôi thấy nhà thờ thật cần thiết. Tôi nằm co trên ghế, không buồn ăn. Có khi người trong nhà thờ gọi tôi ngồi dậy, không cho nằm, sợ làm mất vẻ tôn nghiêm của thánh đường. Có lúc vào tới thì đã thấy hai ba anh chàng clochards chiếm mất chỗ tốt, tôi đành ngồi lùi phía sau không đủ ấm. Mùa đông năm đó sao lạnh kỳ lạ! Thỉnh thoảng tôi thắp một ngọn nến cắm trên giàn sắt dưới chân Thánh Thérèse. Sau ngày 28.4, tôi theo một cô bạn vào nhà thờ Notre Dame, cô bảo tôi Thánh Thérèse linh hiển lắm, tôi nên cầu nguyện cho vợ con còn kẹt bên đó. Tôi thắp nến nguyện cầu. Ðộ tuần sau, Ánh từ bên đảo Guam điện thoại sang cho biết đã trốn đi được hết sức tình cờ tại Tân cảng với hai con, ngày 29 tháng tư – ngày hôm sau Sài Gòn …, năm 75. Khi nghe sự tích Thánh Thérèse, được biết Bà vốn là một kiều nữ bỏ đi tu, tôi cành thấy gần gũi với Bà hơn, có lẽ vì Bà có mang nhiều chất người trong lốt Thánh. Cảnh tượng ngủ gật trong nhà thờ còn ràng ràng trong trí. Ngày nào ra khỏi bệnh viện, nơi này, tôi sẽ lại sa chân vào cái tiệm chạp phô, ngửi lại mùi cà ri và nghe lại nhạc Ấn Ðộ, chắc chẳng sớm thì chầy tôi sẽ trở lại đây và sẽ lại đi vòng vòng trong khu phố Villejuif. Có cách nào khác hơn không ?… »

Sáng hôm nay Evelyne trở lại phòng ăn với chiếc áo trắng hôm đầu tôi thoáng thấy nàng ngoài hành lang. Nàng có vẻ tỉnh táo, nhưng vẫn xa vắng. Tôi mừng cho nàng nhưng cũng không muốn quấy rầy. Tôi chỉ chào hỏi qua loa, không dám gợi chuyện. Nàng cầm trên tay quyển Mickey, thỉnh thoảng lật xem, mỉm cười ( hình như mỉm cười ). Trong khi đó quyển Mickey tôi mang theo khi nhập viện giờ đây tôi đọc đã theo dõi được câu chuyện, bắt đầu tập trung được sự chú ý chút đỉnh.

Ăn sáng xong, anh chàng sún răng rủ tôi đi dạo chợ vì hôm nay có họp chợ lộ thiên. Hãy còn sớm, chúng tôi đánh vài vòng. Chuyện vãn, được biết hắn bị vợ bỏ theo người đàn ông khác. Ba tháng sau nàng trở về, hắn tha thứ hết. Nàng dụ dỗ lấy hết tiền của hắn rồi trốn đi biệt tích. Hắn chán đời uống thuốc tự tử. Chở vào nhà thương người ta phải cạy miệng để bơm ruột. Vì vậy hắn bị gãy hết hai răng trên. Hắn nói chắc sẽ không dại dột tự tử hay nghe đàn bà nữa đâu. Khi ghé chợ, chúng tôi dừng lại trước sạp bán sôn quần áo. Tôi chọn mua một quần jean đã bạc màu, nhưng hãy con tốt, rẻ rề. Hắn lựa mua hai cái quần lót. Khi người bán hàng quay lưng, hắn lén chọt một cái khác nhét vào bọc. Tôi sợ có người bắt gặp tri hô lên và tôi bị vạ lây, hai đứa sẽ bị dắt trở lại nhà thương điên nhốt kỹ, nhốt dài hạn. Vì vậy, rời khỏi sạp, tôi tìm cách thoái thác đi riêng, để hắn tự do hành nghề đạo chích một mình. Tôi đoán chừng hắn bị vợ bỏ chắc cũng có lý do gì đó.

Tôi ghé tiệm cà phê và gọi chai bia. Ðã lâu lắm tôi không uống rượu vì chẳng thấy thú vị. Muốn trốn thực tại, sau cơn say tỉnh dậy các khó khăn vẫn còn nguyên vẹn, và càng thêm ngao ngán, mệt mỏi. Hôm nay uống bia thấy ngon. Ở quầy vài khách quen đi chợ về ghé qua uống rượu đấu hót. Tôi không có cảm giác xa lạ. Mọi vật hình như đã trở lại trật tự và vị trí phải chỗ của nó trong trí tôi. Xe cộ chạy xì xầm ngoài đường, tự nhiên hết sức. Ánh nắng lọt qua mặt kiếng lớn ở quán, trải lên quầy, tràn lên cánh tay tôi. Trong đường nắng đi, vân vi khói thuốc xanh xám và chút bụi mờ, mỗi hạt bụi là cả một vũ trụ. Tôi chợt cảm nhận khoảnh khắc này sẽ không bao giờ có nữa. Khoảnh khắc nào cũng độc nhứt. Ngày này, tháng này, giờ này, khắc này, tôi đứng đây, ở quầy rượu này sẽ không bao giờ tái diễn. Tôi có cảm tưởng sẽ ra đi và sẽ không bao giờ trở lại trái đất này nữa. Tôi xúc động rớm nước mắt. Tôi chợt cảm thương khoảnh khắc độc nhứt này vô cùng. Nhưng tôi không muốn giữ nó lại. Khoảnh khắc nào cũng như nhau, độc nhứt. Và cũng vì độc nhứt nên khác nhau.

Sau buổi trưa, tôi về phòng ngủ thiu thiu, chợt có tiếng gõ cửa. Evelyne ! Nàng nói hôm nay có buổi tập vẽ ở phòng ăn, ai muốn tham dự cũng được. Tôi không có dụng cụ. Nàng bảo trên đó có sẵn hết. Tôi theo nàng lên phòng ăn. Hướng dẫn viên là một người đàn bà có nụ cười hiền hậu đầy thông cảm. Tôi ngồi đối diện với Evelyne. Tôi pha sơn trên mấy khối màu nước như thuở còn đi học. Nhớ hồi nhỏ tôi ưa vẽ hình Zorro, Tarzan và những nhân vật tôi ưa thích. Tôi gạch ô vuông và gò gẫm bắt chước vẽ cho giống trong sách hình. thiệt thú vị hết sức. Lớn lên tôi chạy theo gái và mất thói quen đó. Giờ này trong nhà thương điên tôi khám phá lại. Tôi không vẽ anh hùng đeo dao giắt súng. Tôi vẽ một cành tre có se sẽ đậu và trên tấm khác, một con chim hạc có đầu mỏ đen, cánh màu hồng và đôi chân dài khẳng khiu.

Evelyne nhúng cọ trong những vũng màu tôi pha và nàng vẽ những ô vuông đầy kín khác màu, ô này nằm chồng tréo lên ô kia, như một bức tranh trừu tượng. Nàng khoe với tôi và hớn hở ra mặt. Tôi khen đẹp lắm, nàng đắc ý hỏi tôi :

–    Thiệt hả anh ? Thiệt hả ? Từ thuở giờ em đâu có biết vẽ hình.

Tôi để ý thấy nàng đã đổi cách xưng hô với tôi. Tôi cầm tranh nàng lên ngắm nghía gật gù ra vẻ người thưởng ngoạn sành điệu. Nàng mừng rỡ như con nít. Tôi cảm động. Làm cho người đàn bà hạnh phúc bao giờ tôi cũng cảm động, như nhìn thấy con chim chạy tíu tít trong nắng. Nàng lại nhúng cọ vẽ những tảng tròn nhiều màu. Nàng nói đó là những bong bóng và mặt trời. Tôi lại gật gù thưởng thức. Mắt nàng rực vui và lần đầu tiên tôi thấy nàng thực sự có mặt, không còn xa vắng, lãng đãng. Bà hướng dẫn cũng khen nàng và tôi vẽ đẹp. Bà lấy đinh gút treo tranh của chúng tôi lên tấm bảng bằng gỗ mốp trong phòng ăn cho mấy người điên khác trong bệnh viện cùng thưởng thức. Tan buổi vẽ, tôi rủ Evelyne đi dạo. Nàng nói muốn về phòng xem tiếp quyển Mickey. Tôi một mình đánh hai vòng rồi về phòng mình viết nhựt ký.

Ngày… tháng tư…

« Hôm nay là sinh nhựt của tôi. Ngày tôi chào đời cách đây hơn ba mươi năm. Tôi được đẻ ra. Tôi ăn. Tôi uống. Tôi bài tiết. Tôi lớn lên. Thật vậy sao ? Tôi. Tôi ? Ðã có lần, trong lúc nổi loạn chống lại Thượng đế tôi những tưởng đã nêu lên được trọng tâm của vấn đề : « Tôi đâu đòi hỏi sinh ra làm người. Tôi đâu chọn lựa làm người Việt Nam. Khi tạo ra tôi, Thượng đế đâu có hỏi ý kiến tôi. » Thiệt cũng khổ tâm cho Thượng đế. Trước khi tạo tôi ra, biết tôi ở đâu mà ông ta hỏi ? Tôi thường đặt ra vô số những vấn đề ngụy tạo như vậy. Trong lúc tâm thần bất ổn, thấy cục đá nằm bên lề đường tôi cũng thắc mắc :  « Tại sao cục đá nằm đây ? Tại sao cục đá phải là cục đá ? Tại sao cục đá ù lì, câm nín ? Cục đá có tự do lựa chọn ? Yếu tính của cục đá này là gì ? » Nhưng đừng tưởng tôi xì- nẹt tại cục đá này nằm đây mà không nằm chỗ khác. Sẽ không có một « chỗ khác » nào thỏa mãn được câu hỏi tôi đặt ra đâu. Thượng đế có mang cục đá này về Thiên đàng chưa chắc tôi đã vừa ý. Ðiểm then chốt tôi muốn đặt ra là ý nghĩa của cục đá. Tôi muốn cái gì cũng phải có ý nghĩa. Ý nghĩa theo cảm quan của tôi, dĩ nhiên. Vì có như vậy tôi mới chấp nhận. Tôi chỉ có thể chấp nhận tôi. Thiệt hết sức logique. Hết sức hợp lý. Tôi đã tìm ra được triết lý của cái lỗ rún. Ngó lỗ rún của mình mà lý luận. Mê lắm. Tôi bắt buộc đời phải có ý nghĩa với cảm quan của tôi. Không có thì tôi đi tìm. Tôi vác gói dấn thân vào con đường siêu hình. Tìm không ra tôi xì-nẹt, tôi nổi giận với Thượng đế và tuyên bố cuộc đời phi lý. Cuộc đời trở thành vô nghĩa vì tôi muốn gán cho nó một ý nghĩa mà vốn nó không có. Cuộc đời không ý nghĩa cũng chẳng vô nghĩa. Cuộc đời vốn nó Như Vậy Ðó. Ý nghĩa chỉ là chữ nói do con người ý niệm và đặt ra. Tôi muốn con cá phải có cánh bay như chim. Cá không có cánh, tôi nổi giận. Nhưng rủi thời mọi con cá đều vỗ cánh bay đầy trời như chim chắc chắn tôi sẽ lại nổi giận và đặt một câu hỏi then chốt khác, chẳng hạn : tại sao cá chẳng phải là cá, mà chim chẳng phải là chim ? Cuộc sống không phải để sống. Cuộc sống chỉ là một cái cớ cho tôi đặt câu hỏi. Tôi muốn dùng trí thông minh để giải quyết đời sống. Thiệt lẩm cẩm! Một mình nó, trí thông minh không giải quyết được gì hết. Nó tạo ra vấn đề nhiều hơn là giải quyết.

Ngày sinh nhựt! Tôi là thằng nhỏ đã sinh ra trong ngày đó, tháng đó, năm đó, bây giờ trở thành tôi nằm trong bệnh viện ? Thằng nhỏ là cái bào thai ba tháng lớn lên trong bụng mẹ ? Bào thai là cái trứng của má tôi được khai nở bởi con tinh trùng của ba tôi, một nửa sinh lý của cha, một nửa sinh lý của mẹ. Ðó là tôi, bắt đầu từ sự giao hợp ?

Không! Tôi không hề được sinh ra. Tôi( ?) đã có sẵn trong vũ trụ từ đời đời kiếp kiếp. Sinh ra, chỉ là một cách nói, một dấu mốc trong thời gian. Thời gian do biến dịch mà có. Không có biến dịch, không thể có thời gian. Không biến dịch không có cách gì biết được thời gian. Không biến dịch, chết tuyệt đối. Không có cái gì sinh ra cái gì được hết. Chỉ có một dòng biến dịch vô thủy vô chung. Vũ trụ chớp tắt không ngừng như một ánh đèn. Chớp, có đó. Tắt, biến mất. Chớp, có đó. Vũ trụ khoảnh khắc trước không sinh ra vũ trụ khoảnh khắc sau. Vũ trụ bao giờ cũng xuất hiện mới mẻ, từng khoảnh khắc. Khoảnh khắc nào cũng độc nhứt. Ðộc nhứt nào cũng mới mẻ. Vũ trụ, một chuỗi toàn là độc nhứt, toàn là mới mẻ, vô thủy vô chung. Nói độc nhứt, không phải độc nhứt. Nói mới mẻ không phải mới mẻ. Không có hệ thống chuẩn, không thể so sánh. Ai so sánh ? So sánh với gì ? Ðứng đâu mà so sánh ? Làm sao biết ? Biết vậy, chắc không ? Khi sai đúng đã mất hết ý nghĩa, chỉ còn im lặng mà cảm thức. Không phải ta cảm thức.

Tôi ngày hôm nay không phải là tôi ngày hôm qua trở thành. Tôi lúc nào cũng mới trong vũ trụ lúc nào cũng mới. Nói tôi nhưng không phải là tôi. Tôi ? Giới hạn của tôi ở chỗ nào. Chỗ nào là tôi, chỗ nào không phải là tôi ? Tôi tiềm tàng trong vũ trụ từ vạn kiếp. Tôi lãng đãng trong bụi sao, trong khí trời, trong hạt muối, trong ngọn cỏ, trong ánh sáng, trong sức nóng, trong con tép, trong vỏ cua, trong thịt chim, trong nanh khủng long, trong tiết mùa, trong tốc độ của trăng sao, trong lăn lóc của trái đất. Không chỗ nào là tôi. Không chỗ nào không phải là tôi.

Rượu nằm trong ly không phải là tôi. Uống rượu vào bụng, rượu trở thành tôi, bài tiết ra ngoài, rượu không phải tôi. Cuống rún nối liền tôi với vũ trụ là đường ống vô hình bắt ráp mũi tôi vào không khí, không khí dính liền với trái đất, trái đất với thái dương hệ, thái dương hệ với ngân hà, ngân hà với vũ trụ. Chỉ cần đường ống tắt nghẽn, một phút, hai phút. Óc não chết ngắt. Sự kiêu hãnh của trí tuệ chấm dứt. Không có ranh giới minh định giữa cái tôi và cái không phải tôi. Tôi mật thiết với vũ trụ như ngón tay với thân thể. Không có sự trao đổi thường xuyên, không có sự giao thoa vô khởi vô tận, sẽ không gì có thể có được. Tất cả đều có cùng lúc, hoặc không có gì có thể có được cả.

Hôm nay là sinh nhựt của tôi. Và cũng không phải là sinh nhựt của tôi… »

Buổi tối hôm đó trời mưa. Lâu lắm tôi mới được nghe trời đất gầm gừ, chớp xẹt và tiếng sét xé trời. Tôi không có nhu cầu cầm viết. Tôi lên phòng coi truyền hình. Máy đen trắng, hình ảnh hưởng răng cưa, nhún nhẩy, âm thanh tiếng mất tiếng còn. Ít khi tôi hiểu hết chuyện gì xảy ra trên màn ảnh nhỏ. Tôi lên đó, có mặt mọi người cho đỡ buồn. Vô tuồng đâu được nửa giờ tôi chợt nghe có tiếng dép lẹp xẹp bước vào phòng hát và giọng cười the thé khàn đục : nàng đã tới ! Nàng là một người đàn bà son phấn lòe loẹt, mặc áo ngủ dài mỏng, để ửng lộ cái xì líp đen và cái xú chen – đen bên trong – có khi màu đỏ, có khi không có xú chen – tóc chải cột đuôi phía sau, tai đeo vòng lớn, móng tay móng chân sơn đỏ choét. Nàng ôm trên tay một hộp kẹo thiếc, đi coi hát lần nào cũng vậy, cười nói tự nhiên như ở nhà, nhai kẹo rôm rốp. Tôi cũng được chẫn bần một cục kẹo the, bỏ vào miệng ngậm đỡ đắng.

Tối đó chiếu tuồng cao bồi có Gary Cooper, mọi người say mê theo dõi. Nàng ồn ào quá nên nhiều người « suỵt, suỵt ». Nàng cũng suỵt suỵt lại rồi cười ăng ắc coi như pha. Cái máy cà chớn lại nhẩy hình. Bình thường như vậy, giữ im lặng coi cũng đã khó hiểu rồi. Ðằng này nàng lại đệm theo tiếng nút kẹo lách chách, thỉnh thoảng phụ đề một câu rồi chêm vô một tràng cười. Khán giả bất mãn phản đối. Thể theo nguyện vọng của đồng bào, nàng ra cuối phòng hát ngồi với một cô bạn để tha hồ đấu hót. Tôi chẳng tha thiết gì với cái truyền hình nhẩy cỡn kia nên cũng lò dò theo ngồi bên cạnh nàng tán gẫu chơi, coi bộ vui hơn. Tôi tò mò hỏi nàng :

–    Coi mầy vui vẻ như vầy mà chui vào nhà thương điên thiệt cũng lạ.

Nàng bĩu môi :

–    Tại mầy không thấy tao hồi lúc mới vào cách đây hai tháng đó chớ. Lúc đó tao cú rũ như con gà mắc toi. Bây giờ mới đỡ đỡ, chịu diện trở lại, chịu liếc tình với đàn ông.

Nàng lại cười ăng ắc rồi đưa tay bụm miệng. Tôi lại hỏi tiếp :

–    Ở ngoài đời mày làm gì ?

–    Tao làm nghề đứng đường.

Nàng đáp tỉnh bơ, không do dự. Thấy mặt tôi ngớ ngẩn thộn ra, nàng nói :

–    Bộ mày tưởng đĩ không biết điên hả ?

Máu đàn ông nổi dậy, tôi phản ứng :

–    Biết chớ ! Hồi đó tao quen một con nhỏ khá xinh cũng làm đĩ. Khuya nào bà chủ cũng kêu dậy đi khách ba bốn lần. Tối nào nó cũng ngủ sật sừ, mơ màng chiêm bao thấy mình bị kéo đầu dậy đi khách, ban đầu nó chỉ ba trợn, thét rồi nó khùng thiệt phải chở vô nhà thương.

Nàng cướp lời :

–    Trường hợp tao không phải vậy. Tao bị thằng đĩ đực của tao bỏ rơi. Nó đánh tao, lột tiền đi khách của tao chạy theo con đĩ khác. Thiệt chó đẻ! Tao thương nó quá nên mới phát điên.

Nàng gãi đùi, móng tay dài kêu sột soạt, lách cách. Thấy tôi không có ý kiến, nàng la :

–    Bộ mầy tưởng đĩ không biết yêu hả ?

Tôi chống chế :

–    Tao đâu có nói vậy. Tao cũng đã có yêu đĩ nên biết sơ sơ…

– Ðàn ông tụi bây xạo lắm. Chỉ có đàn bà mới biết yêu, đàn ông tụi bây đâu biết yêu, tụi bây chỉ khoái chơi đàn bà, chơi cho đã. Không phải vậy sao ?

Khi không bị bà xẹt bất tử, tôi lúng túng. Biết mình không thể cãi lý với nàng được nên tôi cười cầu tài rồi xin nàng cục kẹo khác. Nàng cũng phá lên cười. Tôi để yên cho nàng đấu hót với cô bạn bên cạnh, trong bụng thấy vui vui. Phim kết thúc, thằng ăn cướp mặt rằn bị bắn chết. Ngoài đời, thằng đĩ đực của nàng giờ này chắc vẫn còn sống nhăn.

Dù sao với em bé đứng đường này, khán giả còn có thể theo dõi diễn tiến trên màn ảnh được, chứ nếu để ông già nói xàm lọt vào phòng hát là vô phương. Ông ta chiếm đài phát thanh độc diễn cho tới lúc khán giả ra về hết và hai nam y tá tới xốc nách dẫn độ đương sự ra về tận phòng khóa lại, còn nghe tiếng phân trần chói lọi vọng ra. Tôi không biết ông ta có bao giờ ngủ, và khi ngủ có còn nói làm xàm ? Cái máy hát có thể hết pin, còn ông này coi bộ không thể nào hết điện được, và cái nút tắt ai đã tháo gỡ đâu mất.

Một bữa trưa đi ngoài hành lang, tôi chợt nghe có tiếng kêu giựt ngược :

– Mông-xừ Lê! Mông-xừ Lê!

Tôi ngần ngừ vì nhận ra tiếng gọi của đài phát thanh. Tiếng gọi càng khẩn thiết :

–    Mông-xừ Lê! Xin ông hãy giúp tôi! Xin ông vui lòng ghé lại.

Tôi không nỡ lòng đi thẳng nên quay lại bước vào phòng phát thanh. Ông ta ngồi trên ghế, mặt nhăn nhúm coi bộ mệt mỏi, nhưng tiếng nói vẫn sang sảng :

–    Tôi đứng không nổi, xin ông vui lòng mở tủ lấy hộ tôi cái áo.

Tôi mở tủ, tủ trống trơn chẳng thấy áo đâu. Ông nói :

–    Ông xách cái túi trong tủ ra, tôi chỉ cho.

Tôi lôi cái túi du lịch Air France lớn màu xanh đặt lên bàn. Ông bảo tôi mở khóa kéo lôi ra từng món. Tôi làm theo. Mỗi món được lôi ra, ông kể tôi nghe lý lịch của nó, mua hồi nào, ở đâu, tại sao mua , mặc cả với người bán hàng ra sao, cửa hàng có cái gì đặc biệt, vân vân. Hết cái cạo râu đến bàn chải áo đến cái quần, hết cái quần đến cái dâu nịt, nghe một hồi tôi choáng váng muốn xỉu. Hết dây nịch đến cái áo xanh, tôi mừng quá tưởng đã hoàn tất nhiệm vụ, nhưng ông bảo không phải, ông muốn cái áo kẻ ô. Tôi sốt ruột trút hết túi đồ lên giường, bới tìm. Không thấy cái áo kẻ ô nào hết. Tôi bực dọc :

–    Không có cái áo kẻ ô trong nầy.

Ông nói hết sức tự nhiên :

-Vậy hả ? Chắc vợ tôi đem về giặt rồi. Vậy xin ông vui lòng xếp đồ lại vào túi hộ tôi, tôi chỉ cho ông xếp.

Chương trình phát thanh tiếp tục. Tôi cáu sườn nhét đại đồ vào túi, bỏ vô tủ đóng lại. Tôi dợm bước ra, ông níu cánh tay tôi cứng ngắc, đôi mắt nài nỉ. Tôi sắp xiêu lòng. Nhưng tôi lấy can đảm gỡ bàn tay ông và bước nhanh ra cửa, còn nghe tiếng gọi giựt ngược sau lưng :

–    Mông-xừ Lê! Mông-xừ Lê! Xin ông vui lòng…

Tôi bỏ chạy xuống cầu thang. Ði khỏi tiệm cà phê, vòng ra tiệm sách. Hy vọng bắt gặp con chim hồng đứng xòe cánh phơi nắng. Không gặp ai, tôi bước vào tiệm sách, cũng không gặp ai. Tôi giở một tờ tạp chí, làm bộ lật ngó rồi xếp lại đặt trả lên kệ, bước ra khỏi tiệm. Trời nắng nóng, xanh biếc. Tôi bỏ ý định đánh vòng. Tôi đi dọc theo con đường dẫn vào khu nhà cửa lưa thưa mà tôi vẫn sợ vào đó đi lạc. Xe cộ thỉnh thoảng vụt qua, tiếng máy ô tô rú ga xé màng nhĩ. Tôi lững thững vô chủ đích. Bỗng từ xa tôi ngỡ thay mái tóc dài xõa trên lưng tựa băng gỗ vệ đường. Không lẽ nàng ? Tôi đi sát ven tường để không bị khám phá. Tới gần. Ðúng là Evelyne, không còn ngờ gì nữa.

Nàng mặc áo sơ mi trắng tinh tay dài có kết ren ở cổ tay, quần jeans, giầy trắng hở đế thấp, vai đeo túi nhỏ màu thuốc lá buộc dây thòng đến trước bụng. Mỗi lần xe vụt qua, gió cuốn tóc nàng phất phơ. Nàng có vẻ không quan ngại đến bụi bặm hay mùi xăng nhớt. Chuyến buýt xịch đổ, hành khách xuống xe. Nàng vẫn ngồi bất động. Xe rời trạm. Nàng không chờ xe đi Paris. Nàng đợi ai chăng ? Lần nào bắt gặp nàng tôi cũng có cảm tưởng nàng đang đón đợi tình nhân. Tôi đến đứng sau băng gỗ vỗ nhẹ lên vai nàng. Evelyne giật bắn người. Ngó lại thấy tôi, nàng bớt sợ mỉm cười. Nàng hỏi :

– Kìa anh ? Ði đâu đó ? Anh làm em hết hồn!

Cách xưng hô của nàng khiến tôi bạo dạn :

– Anh xuống tiệm sách không thấy em, nên đi lang thang, tình cờ tới đây.

Nàng đứng dậy phủi đít, gậm nhấm đầu móng tay ? Xe vụt qua, tóc xòa lên mặt. Tay vén hất. Tóc điên gọi nắng. Cây trồng ven đường bị mé nhánh lúc tàn đông bây giờ nhú lá non , xanh như ngọc. Như tóc mai nhung mượt trên hai màng tang thả xuống nhu mì.

Cử chỉ cố hữu, tôi ngó trời :

– Bữa nay trời nóng, tưởng như mùa hè.

Nàng gật đầu, mắt liếc. Tôi ngó thấy tiệm tạp hóa, trước tủ có bày tủ cà rem trên vỉa hè.

–    Evelyne khát nước không ? Tới này anh mua cà rem ăn cho đỡ khát.

Nàng hớn hở, mắt sáng trưng. Nàng lựa cà rem mùi dâu, tôi mùi chanh. Hai đứa liếm láp như con nít, cười ngỏn ngoẻn. Tôi hỏi :

–    Em biết khu phố trước mặt không ?

–    Em không biết.

–    Vậy mình thử tới chơi cho biết.

Hai đứa nói chuyện vu vơ, bắt sang xi-nê :

–    Em có thích coi xi-nê không ?

Nàng đáp vội vàng :

–    Thích chớ ! Em thích lắm. Mà lâu rồi em không được coi xi-nê. Không có ai dắt em đi hết.

Mặt nàng thoáng buồn, tiu nghỉu. Tôi an ủi :

–    Nếu em thích thì hôm nào thuận tiện, mình trốn ra Paris coi xi-nê, anh sẽ dắt em…

–    Thiệt hả ? Anh nói thiệt hả ?

Mắt nàng lóng lánh. Tôi gật đầu :

–    Thiệt chớ ! Anh nói thiệt mà. Anh xin hứa với em.

Bàn về sở thích, nàng nói thích phim « Le Magicien d’Oz » và « Peau d’Âne ». Tôi hỏi nàng đã coi « Les Dimanches de Ville d’Avray » chưa, nàng nói chưa. Tôi nói phim thú vị lắm, chuyện kể một anh chàng đánh giặc về hơi khật khùng thường đến đón một cô gái nhỏ bị bỏ rơi ở trường học ngày cuối tuần. Cô gái tên Cybelle ( si belle ?). Một đêm lễ, anh khật khùng leo lên đỉnh tháp chuông gỡ con gà bằng đồng trên đó về cho cô gái để làm quà tặng. Người trong làng nghi ngờ anh ta bắt cóc cô gái và có tà ý. Anh ta bị bắn từ trên tháp chuông rớt xuống đất, chết tốt, không kịp trối trăn. Evelyne nói, miệng nàng thoang thoảng mùi dâu :

–    Phim gì buồn quá, em không chịu coi đâu. Anh dắt cho em coi phim « Thằng Người Gỗ Pinocchio » vậy mà hay hơn. Em chưa coi. Anh hứa nghe.

–    Ừ, anh xin hứa.

Hai đứa đi vào khu phố thưa thớt. Nhà cửa đen xì, đường sá hẹp té, không có bờ lề. Mỗi lần có xe tới, hai đứa nép sát vách tường, còn sợ bị xe chẹt. May mắn có một tiệm cà phê ở góc đường. Tôi và nàng chui vào tiệm, ngồi ở góc vắng. Tiệm cũng trống vắng, chẳng có ai, ngoài hai đứa điên. Evelyne nói còng khát nước. Tôi gọi cho nàng ly bạc hà pha nước lọc, tôi thích màu xanh lục của bạc hà, nó gợi tôi nhớ tuổi ấu thơ, không biết hồi nào, lúc nào. Tô hủ tiếu, ly bạc hà, và Tết và nắng trên những bức tường vôi cao, tôi chẳng đòi hỏi gì hơn. Tôi gọi cho mình ly bia. Tôi nghĩ thầm mùi bạc hà sẽ làm phai nhạt mùi dâu trên môi nàng.

Evelyne bỗng lên tiếng, mặt thoáng tái :

–    Em sợ !

Tôi nắm tay nàng ve vuốt :

–    Em sợ gì ? Ðâu có gì đáng sợ. Ðã có anh đây…

Tôi buông ra câu đó như một người hùng. Thật tình tôi chẳng biết làm cách nào bảo vệ nàng.

Nàng sợ gì tôi cũng không biết. Nàng nói :

–    Em sợ trở về nhà, nhà của em, ba em, má em…

Tôi an ủi nàng :

–    Em chớ quá sợ hãi, mọi chuyện rồi sẽ nguôi ngoai. Nhưng thiệt tình anh nghĩ tốt hơn hết là em nên bàn lại với ba em, để em và Isabelle ra ở riêng.

Mặt Evelyne nhợt nhạt :

–    Isabelle chết rồi!

Tôi bắn người như bị điện giật :

–    Sao ? Em nói sao ? Isabelle chết hồi nào ? Mới chết đây hả ?

Giọng nàng xa vắng :

–    Isabelle chết hồi bảy tuổi… Hôm trước em có cho anh biết rồi mà…

Trong đầu óc khật khùng của hai đứa, tôi không biết nàng lẫn lộn hay tôi lú lẫn. Tôi chỉ ờ ờ chiếu lệ, không dám vặn hỏi sợ đánh thức hoài niệm thương động còn mê ngủ chập chờn dưới mái tóc sợi nhỏ yêu kiều. Nàng cúi đầu, tóc xòa trên bàn tay tôi đang nắm tay nàng.

Khi Evelyne ngửng đầu lên, mắt nàng có ngấn lệ. Tôi bối rối yên lặng. Nàng nói tiếp :

–    Bữa đó ba em chở Isabelle đi chơi, hồi đó tụi em ở nhà quê. Ðường vắng, tới ngã tư bất thần có xe lớn phóng ra đâm vào xe ba em. Chị em chết ngay tại chỗ. Ba em thương Isabelle lắm. Ba em muốn phát điên sau tai nạn.

Nàng quẹt nước mắt. Tôi siết tay nàng, xúc động :

–    Kể từ đó ba em gọi em là Isabelle, còn má em thì tiếp tục gọi em là Evelyne, nhiều lúc em không biết em là Isabelle hay Evelyne nữa. Má em thường nhắc tới tai nạn và trách móc ba em. Má em sức khỏe yếu kém. Người gầy đét và đau yếu luôn.

Nàng đặt luôn bàn tay kia lên tay tôi níu siết như một bùa chú, một phao nổi :

–    Từ lâu ba má em ngủ riêng. Má em lại hay ghen tương.

Tôi buột miệng :

–    Má em ghen với…

Tôi ngưng lại kịp. Tôi mân mê lọn tóc xõa. Tôi cầm ly bạc hà đưa cho nàng.

–    Em uống đi, ngoan đi rồi mai mốt anh dắt đi coi xi-nê.

Mặt nàng bừng sáng trở lại :

–    Thiệt hả anh ? Anh hứa thiệt hả anh ? Ði coi « Thằng Người Gỗ » nghe anh. Phim đó hay lắm.

Evelyne, anh xin hứa. Nếu phải leo lên chóp nhà thờ gỡ cho em con gà bằng đồng đúc cho em vui anh cũng xin tự nguyện. Mỗi người chúng ta đều đáng được chia xẻ nụ cười. Nhứt là em. Nụ cười trong lành thơm mùi dâu chín sau làn tóc tơ giăng. Trời trưa xế. Tôi dắt nàng trở về bệnh viện. Hai đứa đi ngược lại con đường hồi nãy, không có bờ lề, người sát vào tường như kẻ trộm, tay nắm tay sợ lạc. Tới ngã quẹo ra đường lớn, hai đứa dừng lại ngó nhau, hai tay tôi nắm hai bàn tay nàng. Chợt tôi thèm muốn hôn nàng, tôi thèm hết sức. Hai đứa ngó nhau, trời nắng đã muộn, không dám làm gì hết, Evelyne, Isabelle, tôi cố gắng nhìn rõ, chợt nhớ lần hẹn đầu với người yêu đầu ở bờ sông chùa Vĩnh Tràng, nàng đó… không dám làm gì hết.

Tôi bước vào phòng mình. Người đàn bà nằm trên giường, mặt úp, tóc xõa, chăn đắp lên tới cổ. Hơi thở đều như tiếng động xa xa quen thuộc ban đêm. Tôi ngồi ở ghế bành ngó ra cửa sổ có miếng nhựa ngăn chận, chờ đợi. Nàng mệt ngủ. Phải để nàng ngủ. Tay chân cựa giật trong cơn mê, tội nghiệp. Tình yêu bền bỉ.

Khi giật mình thức dậy, Ánh ngạc nhiên hỏi anh về hồi nào. Em ở tiệm anh Thận ra mua mấy trái cam tới cho anh, chờ anh không được, em lên giường nằm, mệt quá ngủ quên. Sao, hôm nay anh thấy khỏe không ? Ờ, cũng khỏe, không có gì đáng lo. Anh còn ở trong này thì em còn lo. Em cứ lo anh hoài, anh đâu còn là con nít nữa. Ðáng lẽ anh lo cho em mới phải. Tôi mở tủ lấy cái quần jeans mua sôn hôm trước khoe với Ánh, như trúng mối ngon. Nàng dở ra ngắm nghía, thử khóa kéo, kêu lên, trời đất! Quần này là quần đàn bà, anh mua cho ai vậy. Tôi sượng trân. Tôi không biết nói dóc. Ánh xoa đầu tôi, mỉm cười thông cảm. Nàng gọt cam cho tôi ăn rồi kể chuyện hai đứa nhỏ ở nhà và tin tức Việt Nam qua thư gia đình vừa nhận được. Sau khi bàn cãi, nàng lấy giấy trắng ra cho tôi viết đơn xin bảo lãnh Lộc anh tôi đi học tập đã bốn năm rồi chưa được thả, luôn cả vợ và ba con của anh. Một đơn khác cho gia đình của một người anh khác nữa. Nực cười. Tự thân mình, tôi bảo lãnh còn chưa xong. Tôi biên lên bìa của hồ sơ đó ba chữ : « Hồng Ngượt Hải », tên của một hảo hán đã gồng mình đỡ tấm bửng đá cho anh hùng, những Võ Văn Thành Ðô, Lý Ngươn Bá, Ðơn Hùng Tín, La Thành… đang bị sụp bẫy bít kín thoát chạy ra khỏi hang động. Ðến khi đuối sức, Hồng Ngượt Hải bị bửng đá đè lún từ từ, rồi chôn luôn xuống đất. Chết ngay tại chỗ.

Từ hai tuần nay, mỗi sáng sau khi uống cà phê xong, tôi và gã sún răng xuống phòng tập thể dục. Làm những động tác căn bản của cơ thể, thở hít, đưa tay, dở chân, ưỡn ngực, ngồi xếp, giữ thăng bằng. Tôi ngỡ ngàng khám phá nhiều động tác tôi không còn làm được, hoặc làm rối rắm, bong trẹo, mất thăng bằng, té ngửa. Sau buổi tập tôi ra ngồi ở băng đá trên sân cỏ ngoài phòng tập, thở không khí thoáng mát. Trước mặt tôi cây trồng rải rác, cạnh băng đá là một thân cây có vỏ màu bạc trắng ngời ngời. Lá đã ra nhiều, từ xanh non ngã màu xanh lục thẫm.

Tôi có cảm tưởng cội cây vỏ màu bạc này không phải vừa mới có đây. Nó đã có từ vạn kiếp, cũng như tôi, bàng bạc đâu đó. Ngày nào cũng là sinh nhật. Tôi là nhánh cây, phần nối dài của thân cây màu bạc kia, vì lý do gì không rõ, khoảng khắc này ngồi đây, trên băng đá. Tôi chợt thấy vỏ cây lay động và di chuyển ngược về phía trên. Cả gốc cây sẽ đột ngột bỏ chạy và cất tiếng sủa như chó ? Tôi ghé mắt cố nhìn kỹ. Vỏ cây nhúc nhích. Tôi tò mò đưa tay gỡ vỏ cây. Con bọ bên dưới vụt thoát chạy lên ngọn cây biến mất, không kịp nhận ra. Khoảng thân cây bị lột vỏ để lộ màu nâu, trên nền nâu có một chấm trắng nhỏ, như bột phấn. Tôi thổi lên đó, chấm trắng chợt cựa quậy và dời chỗ. Ðó là con sâu nhỏ tí, thiệt bất ngờ và lạ lùng. Phải gọi chấp phấn là sinh vật. Phải gọi ? Tại sao phải gọi ? Nó đã có từ đời nào, đâu đợi tôi gọi mới có. Trước đó nó và cây chỉ là một, giờ tôi đặt nó tên « sâu nắng », cái tên như vết cắt, sự vật bị chia xẻ vô phương hàn gắn trong tâm thức. Ngôn ngữ như một thần chú, huyễn hoặc, dắt vào mê cung. Khởi đầu là một theo trật tự thiên nhiên của trời đất vào trật tự của mình cho dễ nhận dễ hiểu, con người phân biệt, chia cắt, đặt tên cho sự vật. Và cái trật tự dựa trên nhãn hiệu đó, chính nó là hỗn mang.

Tôi đi một vòng ra chợ vì hôm nay có họp chợ trời. Mọi người tới lui tấp nập hết sức bình thường. Mọi người trả tiền rồi bỏ vật mua vào túi xách hết sức bình thường. Tôi thèm muốn được bình thường như mọi người. Không đặt câu hỏi, không thắc mắc. Mùa xuân trở về hết sức bình thường. Trời nắng hết sức bình thường. Chim gọi ríu rít hết sức bình thường. Thêm một ngày trời đẹp, rất đẹp ! Bụng tôi thoắt quặn đau, càng lúc càng dồn thúc. Tôi vội vã trở về bệnh viện.

Ngồi trong cầu tống khứ xong, tôi thấy nhẹ người. Cơn đau đã qua. Tôi tận hưởng sự sung sướng tầm thường và tự nhiên đó. Dưới chân tôi có một tờ báo. Tôi cầm lên đọc, phát hiện bên dưới một quyển sách, trên bìa là hình một người đàn bà chụp phóng ảnh, đầu ngửa ra sau, đôi vú lớn nơ nơ. Tôi vứt tờ báo, nhặt quyển sách. Sách loại dâm dật, không biết ai bỏ quên. Bên trong toàn hình chụp những pha làm tình cụp lạc giữa đàn ông với đàn bà. Bộ phận be bét, trương cứng, tục tĩu. Sao lại tục tĩu ? Không! Bộ phận đực là bộ phận đực, bộ phận cái là bộ phận cái, bộ phận đực cái dính nhau là lẽ tự nhiên, hết sức tự nhiên, sự tục tĩu chỉ có trong đầu. Không có bộ phận nào tục tĩu, không có cách thế nào tục tĩu. Người đàn bà nằm sấp. Người đàn bà nằm nghiêng. Người đàn bà úp trên giường, lưng uốn cong, cả thân hình là một lượn sóng, đường nét trơn tru không sười gãy như nét phẩy của ngọn bút lông trong một phút xuất thần. Bộ phận tôi phản ứng. Lâu lắm tôi mới khám phá lại cảm giác bị kích dục, động tình, rạo rực, thèm dâm. Cửa sổ nhỏ bên trên hé mở thoáng mát, ánh sáng lọt vào. Bên ngoài bệnh viện trời đất bao la, nắng xuân đẹp đẽ, chim xuân ríu rít. Bên trong bệnh viện, giữa bốn vách nhà cầu, tên điên ngốc đang mắn mó bộ phận sinh dục, tìm lại gạch nối giữa mình và đời sống sinh vật. Từ lâu tôi quên mất mình có một thân thể, từ lâu tôi đã sống như một người không có thân thể. Cơn điên bắt đầu từ đó ? Tôi ứa nước mắt.

Tôi châm điếu thuốc nằm trên giường ngó ra cửa sổ kiếng nhựa nhả khói. Cảm giác uể oải dễ chịu. Màn vén hết hai bên. Năm nay mùa xuân sáng choang kỳ lạ. Tôi với tay lấy quyển nhựt ký đọc lại những trang mình đã viết. Như thể ai đã viết, không phải tôi. Tôi điên, tôi biết tôi điên, nhưng tôi không dè mình điên tới mức như vậy. Có lẽ tôi sẽ không bao giờ ra khỏi nơi nầy. Tôi vứt nhựt ký xuống sàn nhà, như vứt một con đĩa đói gớm ghiếc. Nằm lim dim một lát, tôi mở cửa định sang phòng Evelyne mượn lại quyển Mickey mua cho nàng hôm trước đọc chơi đỡ buồn. Cửa phòng nàng khép hờ, gõ cửa không ai trả lời, tôi đẩy nhẹ cửa bước vào. Evelyne ngồi bất động trên ghế ở đầu giường, lưng quay ra cửa, tóc nâu đen xõa trên vai áo trắng hôm đầu tôi ngó thấy. Tôi bước tới trước mặt nàng gọi nhỏ :

–    Evelyne !

Nàng ngước lên nhìn tôi, nét mặt bâng khuâng kỳ lạ, buồn bã khác hẳn mọi khi. Tôi lo lắng :

–    Evelyne, em làm sao vậy ?

Nàng cúi mặt rồi ngửng lên, nước mắt chực tràn. Nàng nói chỉ đủ nghe :

–    Em sắp rời khỏi nơi nầy. Người ta sẽ mang em tới một bệnh viện khác chiều mai.

Tôi choáng váng :

–    Sao ? Ðem em tới nơi khác chi vậy ?

–    Người ta nói ở đây không đủ phương tiện. Ở bệnh viện kia có chạy điện…

Tôi bủn rủn. Người ta sẽ tra hai cực điện lên màng tang Evelyne và phóng điện vào óc nàng, tóc nàng cháy khét nghẹt. Làm sao chịu nổi!

–    Người ta nói ở đó trị, em mới hết bệnh.

Nàng nhìn tôi, đôi mắt van lơn :

–    Anh! Em không muốn đi…

Nước mắt nàng rưng rưng lăn tròn xuống má. Nàng nhìn tôi chừng như tôi có thể bênh vực được cho nàng. Tôi thấy mình bất lực, phẫn uất và hèn nhát. Tôi đưa tay định vuốt tóc nàng. Nhưng tôi không biết nói lời gì để an ủi, vỗ về hoặc trấn an. Tôi dừng tay lại rồi vụt chạy ra khỏi phòng nàng như một tên hèn nhát. Tôi chạy ra ngoài bệnh viện. Buổi tối, không thấy Evelyne ở phòng ăn. Gã râu quai hàm nói hồi chiều có hai nữ y tá vào phòng nàng, rồi nàng theo hai người lên dãy nhà bên kia, có lẽ để gặp các bác sĩ trị liệu. Ăn xong tôi về phòng nằm nghe ngóng người ta đem Evelyne trở về. Chờ. Có tiếng động ngoài hành lang, không phải nàng, lại chờ. Khoảng mười giờ, người nữ y tá đem tới cho tôi hai viên thuốc an thần và pha những giọt thuốc ngủ màu hồng. Một giờ sau, giấc ngủ chụp xuống như đám mây đen nghịt.

Buổi sáng vừa tỉnh ngủ tôi vội vàng nhảy xuống giường mở cửa ngó sang bên kia. Phòng Evelyne mở toang. Người đàn bà da đen đang thay khăn trải nệm mới, trắng tinh. Phòng trống trơn. Tôi hỏi thăm, người đàn bà không biết gì hết. Buổi trưa, nghe tiếng động, tôi hé cửa ngó qua. Trước cửa phòng nàng, một người đàn bà già nua mặc áo ngủ, tóc tai bù xù, đang đứng xớ rớ. Bệnh nhân mới. Cổ tôi vụt đau thắt, sắp rạn nứt, tôi nghẹt thở, nước mắt cứ ứa ra, nóng hổi. Lẽ ra chiều nay người ta mới đem nàng đi. Tôi giận dữ, không biết giận ai. Ðau xót.

Tôi bỏ ăn cơm trưa. Tôi đánh vòng ra hiệu cà phê, ra tiệm sách rồi lang thang xuống con phố nhỏ, hẹp té, không có bờ lề. Tưởng có thể bất thần gặp lại nàng ở góc phố. Nàng đi lạc. Tôi đi lạc. Tôi sẽ dắt nàng đi trốn. Tôi quay trở về, chân mỏi, ngồi ở băng gỗ nàng ngồi bên trạm đó xe buýt hôm trước – nhưng nàng không đón xe buýt. Tiếng động cơ nổ ồn ào, chát chúa. Lại một ngày nắng nóng, trời xanh. Rời đường lớn, tôi trở lại khoảnh vườn nhỏ có hoa tulips vàng đỏ. Ghế đã nóng hâm hấp. Mùa xuân vẫn tiếp tục nắng tốt. Một con ong lẻ loi đang đánh vòng. Lá cây đã đổi màu đậm hơn. « …Ðôi khi anh muốn tin ngoài đời thơm phức những trái cây của Thượng đế. Mà bên những trái cây ngọt ngào đôi môi em, nguồn sữa mật khởi đầu… » *

Người ta đang tra điện lên màng tang Evelyne, tóc nàng cháy khét. Nàng dẫy dụa, miệng há hốc, mắt trắng dã, hai tay muốn giựt thoát khỏi dây trói bấu lấy cực điện đang bốc cháy trên màng tang giựt ra. Có thể vậy sao ? Tôi ôm đầu rứt tóc, không muốn chấp nhận. Không, Evelyne! Người ta sẽ không làm hư mái tóc xõa đẹp đẽ của em đâu. Một ngày nào đó gặp lại, anh sẽ vuốt tóc em, anh sẽ mua cho em quyển sách hình vẽ, anh sẽ mua cho em cây cà rem mùi dâu, anh sẽ mua cho em ly nước bạc hà màu xanh non thời thơ ấu. Em sẽ không bao giờ lớn thêm, anh sẽ không bao giờ trưởng thành, hai đứa mình không ai lớn lên hết. Và anh sẽ đưa em đi coi hát bóng, coi những tuồng thần thoại hoang đường. Em sẽ là Công Chúa Da Lừa xinh đẹp choàng lốt lông thú ẩn thân trong rừng, trốn chạy phụ vương đang muốn kết hôn với con gái của mình. Anh sẽ là Thằng Người Gỗ vụng về đi hết nhầm lẫn này đến nhầm lẫn khác. Cho đến bao giờ ?

Evelyne ơi! Ngày nào em rời khỏi bệnh viện, ngày nào anh rời khỏi bệnh viện, ngày nào anh và em hết khật khùng, anh hứa sẽ mua cho em cây cà rem và dắt em đi coi hát bóng. Sẽ không coi phim thằng khùng ăn cắp con gà đồng, mà sẽ coi phim Thằng Người Gỗ như em vòi vĩnh.

Evelyne! Ngày nào rời khỏi bệnh viện, anh xin hứa. Giờ này anh ngồi trên băng đá, nước mắt lưng tròng. Còn em ở đâu ? Em đã bớt điên hay có còn sống sót ?

***

“Em điên xõa tóc” là câu chuyện kể về cô gái tóc dài mà người đàn ông tình cờ gặp gỡ trong bênh viện tâm thần – nạn nhân của người cha loạn luân. Cô gái là thiên thần hay quỷ dữ, chưa có gì để biết được. Thiếu nữ chỉ là chất xúc tác, thực chất chính là câu chuyện của một người đàn ông luôn băn khoăn tự hỏi, tra xét về ý nghĩa cuộc sống, về thân phận con người trong cuộc đời nhưng không thể lý giải đến… phát điên. Chỉ vì: Chưa quên được quá khứ, luôn ám ảnh về cuộc chiến đã qua mà mình không tin là có thật, luôn ám ảnh về một quê hương rất nhiều yêu thương nhưng cũng đầy oán giận. Chưa hội nhập hiện tại, sống một cuộc đời vô vị, không có ý nghĩa ở xứ người. Luôn bị ám ảnh thất nghiệp. Mặc cảm “đời thừa”, không chu toàn với vợ con. Tìm việc, tìm việc… hai từ này bàng bạc từ đầu đến cuối tác phẩm. Nhưng khi có việc? Thì công việc ấy có phù hợp với chính năng lực mình không lại còn là một điều nhức nhối. Và thật trớ trêu, khi chính bản thân mình nơi xứ người tự lo chưa xong, thì lại phải gánh vác thêm trách nhiệm bảo lãnh những người thân ở Việt Nam. Vậy nơi nào là địa ngục, nơi nào là thiên đường? Nhân vật “tôi” không tin vào cuộc đời, hoàn toàn buông trôi cho số phận. Nhân vật chỉ chợt nhận ra sai lầm của mình khi bất ngờ nhìn những bước chân chim dẫm trên bãi cỏ vườn Luxembourg … Thiên nhiên… Chim chóc… Tình thương của trời đất… Trời ơi! Sao hạnh phúc dễ ợt như vậy mà ta không chịu hiểu… lại ngoảnh mặt làm ngơ… tự giam mình trong ngục tù? Và thực sự bị sốc khi ngó mình trong kiếng “ngỡ thấy một thằng điên”, và tự chất vấn “Đâu dễ gì tôi xuất hiện trên trái đất này dưới lốt một con người. Phải bao nhiêu vạn kiếp, bao nhiêu cơ duyên. Sao tôi không nhiệt thành sống cuộc sống đó. Người ta sinh ra đâu phải để hạnh phúc hay để đau khổ. Người ta sinh ra để sống, và sống hàm chứa hạnh phúc lẫn đau khổ. Phải chấp nhận.”

 

Người em Xóm Học

Hỡi người em xóm học

để sương thấm bờ đêm

đường anh đi

tràn ngập lệ em buồn

Cung Trầm Tưởng

Diane quấn quít. Tôi càng lúc càng khóc lớn. Mọi người trong quán quay lại ngó nhìn, ái ngại. Quán có tên đặc biệt là “Mì Dơ” nằm ở ga Lyon trong Paris đèn cũ. Ga Lyon đèn vàng, cầm tay em muốn khóc, nói chi cũng muộn màng… Diane đứng dậy rời khỏi ghế dài đang ngồi chung với Lộc chạy sang ngồi cạnh nắm vai tôi lắc lắc:

– Anh làm sao vậy?

Tôi tiếp tục khóc ngất. Diane rơm rớm nước mắt, đưa tôi cái khăn giấy ở bàn ăn, tôi lắc đầu. Diane đưa khăn chậm nước mắt cho tôi.

– Anh làm sao vậy?

Diane tiếp tục hỏi. Tôi nghẹn ngào đáp lời nàng giữa hai tiếng nấc:

– Tôi cô đơn… Tôi không hạnh phúc… Tôi cô đơn… Tôi muốn chết…

Diane ôm đầu tôi đặt lên vai nàng, tay vuốt tóc tôi:

– Anh nín đi, không thì tôi cũng khóc theo bây giờ.

Lộc xen vào:

– Thôi cứ để thây kệ cho nó khóc một hồi cho đã nư. Nó thèm khóc lâu lắm rồi mới khóc được như vậy.

Quả nhiên tôi tiếp tục tỉ tê và lải nhải một chập rồi cơn buồn khóc từ từ dịu xuống. Thỉnh thoảng tôi còn hít hít hơi lên tủi thân như đứa nhỏ sau trận đòn. Ông chủ quán người Tàu mang ra chai Mai Quế Lộ rót vào cái tách nhỏ đưa cho tôi, xuề xòa thông cảm:

– Tuổi chẻ nhiều lúc lổi cơn như dậy ló. Thôi mời cậu uống ly dượu lày dồi xẽ quên hết. Khóc lược là sướng lắm, ngộ piết mà!…

Tôi ực ly rượu cay xè mà hậu vị còn dịu ngọt trên lưỡi. Tôi uống cạn thêm ly nữa nhưng cô đơn vẫn còn đầy ắp trong tim. Tôi sợ mình lại sắp chảy nước mắt lai láng.

*

Có hai điều tôi sợ nhất trên đời là bệnh tật và cô đơn. Mỗi lần đến một thành phố lạ nào việc đầu tiên của tôi là đi tìm đàn bà – bất cứ người đàn bà nào cũng được. Không phải để giải quyết sinh lý. Tôi cần có sự hiện diện, mà sự hiện diện đó phải là của một người đàn bà. Không có nàng, tôi thấy đời sống trống rỗng, mênh mông, hoang vu dễ sợ. Tưởng có thể ngã ra chết được. Tôi ghiền đàn bà như ghiền ma túy. Tôi sẽ chết vì ma túy, không có gì ngạc nhiên. Trái ngược lại với bọn con trai vì yêu đương mà xao lãng đèn sách, khi có con gái bên cạnh tôi học càng được. Tôi vừa đánh đàn vừa học bài, thỉnh thoảng hôn lên má nàng một cái, vậy mà học tiến bộ ngó thấy. Không có nàng, tôi lăng xăng tìm kiếm, không học hành gì được hết. Tìm không ra, tôi tưởng phát khùng tới nơi.

Tôi đến Paris với tâm trạng khùng khùng đó vào đầu tháng Sáu, trời sắp đi vào mùa hè. Năm du học đầu tiên ở Canada, tôi sống như thầy tu, trong nhà trọ dành cho sinh viên đực rựa ở ngoại ô, tôi cũng có đi chơi với mấy cô nhưng chẳng đến đâu. Các cô tới tuổi ân ái thì chê tôi quá “lỏi”, với các cô nhỏ hơn thì tôi đụng nhằm cùng một vấn đề, nhưng đặt ngược lại. Tôi với không tới trời, chân không đạp đất, lửng lơ trong tù ngục dục tình. Tôi thèm nhớ thân thể Tuyết, người tình quán nước ở quê nhà. Tôi tương tư Ánh, người yêu học trò ở tỉnh lẻ. Mùa đông Québec thật khắc nghiệt, tôi lạnh cóng hai bàn chân, băng giá trong lòng, thèm yêu như thèm nắng nhiệt đới. Tôi viết đơn xin thôi học. Tôi bất cần tương lai, tôi chỉ cần đàn bà, và cần ngay bây giờ.

Lão giám đốc chương trình du học đánh máy cho tôi một lá thơ dài để an ủi. Các vị lãnh đạo tinh thần xúm lại nâng đỡ tinh thần tôi. Bạn bè dắt tôi đi chơi bời. Nhưng không có gì thay thế được sự hiện diện của người đàn bà trong đời tôi. Tôi lại nhớ ma túy. Nỗi nhớ nằm trong mạch máu và cứ tuần hoàn trở lại tim. Tôi ghiền. Ghiền quá nặng. Sau khi tôi xuất ngoại, anh tôi cũng được học bổng qua Paris học triết ở Sorbonne. Mùa hè, tôi được Công ty điện lực Pháp chấp thuận hồ sơ tu nghiệp có trợ cấp. Tôi được dịp sang thăm ông anh thân mến. Khi đặt chân vào Viện Institut Franco-Vietnamien ở số 269 đường Saint Jacques, tôi xúng xính trong cái áo mưa xám dài chấm gót. Lộc ngó tôi cười ngất, hắn bảo tôi giống “ông cha”. Khi tôi xổ tiếng Tây, Lộc lại cười ngạo vì cái ắc-xăng Québecois cổ lỗ sĩ của tôi. Còn tôi, ngược lại tôi thấy hắn mập ra và mặt thì phèn phẹt như Chệt. Tuy nhiên Lộc đã làm tròn bổn phận của một người anh thương em và một hướng dẫn viên tận tụy với thiên chức. Lộc dắt tôi đi coi tháp Eiffel (chụp hình), đến Notre Dame (chụp hình), rồi ghé thăm các em ở Châtelet (không có chụp hình). Vốn chưa quen cái màn bán người từng khúc, trả tiền tới đâu cho coi tới đó nên tôi chẳng thấy một chút gì hào hứng. Đã vậy em còn bắt tôi nằm ngửa, vì em sợ hư mái tóc mới đi tiệm gội chải và xịt keo.

Tuần lễ sau, nhân dịp hết năm học, Viện có tổ chức bùm. Tây có, Mít có, đầm có, rần rần. Hồi đó Mít nhảy đẹp hết xẩy, nổi tiếng ở Xóm Học (Quartier Latin). Đặc biệt có một cô đầm vóc người nhỏ nhắn thon gọn, mặt mũi xinh xắn, nhảy với Mít ăn khớp như đã có tập dượt với nhau từ trước. Cô ta nhảy với một anh đoạt giải “bi-bốp”, nhảy với một anh khác đoạt giải “cha-cha”. Cô ta quay hai vòng, đứng lại thật gọn gàng rồi quay một vòng ngược lại, chiếc váy màu xanh lục thẫm xòe ra thấy mê luôn. Dù đoạt giải nhưng không thấy cô ta nhoẻn miệng cười, chỉ nhếch mép lên một chút tượng trưng. Tài nghệ của tôi xoàng xỉnh nên đêm đó phần lớn tôi chỉ ngồi coi. Anh tôi thì tánh tình xuề xòa nên cuộc vui nào cũng nhảy xổ vào tham dự và ôm cô đầm nọ nhảy ra rít. Quá nửa đêm, tôi bị chứng bệnh cô đơn trở về hành hạ nên làm một loạt hết mấy chai bia rồi leo lên gác chui vào phòng đắp mền say ngủ.

Buổi sáng tôi thức dậy nghe có tiếng chim bồ câu đập cánh ngoài sân và nắng lọt vào giường ngủ. Rồi từ nhạc viện bên kia sân vọng sang tiếng dương cầm thánh thót, trong veo. Tôi nằm nướng tận hưởng hạnh phúc tình cờ đó. Mọi bận có anh tôi ngủ chung giường. Đêm qua Lộc đã đi hoang đâu mất. Đến trưa cũng không thấy về. Tôi thua buồn lấy giấy viết một trang dày đặc nói về cô đơn, đút vào túi áo. Buổi chiều tôi đang ngồi ở tiệm cà phê thì Lộc từ đâu mở cửa bước vào. Lộc trả tiền, lôi tôi ra khỏi quán để rồi lại đẩy tôi vào một cái quán khác bên kia đường Saint Jacques. Nàng đã ngồi sẵn đó, vẫn chiếc váy xếp màu lục đậm và chiếc sơ-mi màu tím nhạt.

– Đây Diane, đây là Kiệt, em tôi từ Canada qua chơi hè này.

Lộc giới thiệu, tôi bắt tay nàng, bàn tay nàng nhỏ nhắn, vừa vặn lọt trong lòng bàn tay tôi. Cũng nụ cười tượng trưng. Tóc nàng màu nâu ửng vàng óng ánh, một lọn tóc la đà trên trán, hai bên xòe ra úp lên má, trên tóc một băng vải chận giữ cũng màu tím nhạt. Mi nàng kẻ mực đen, cuối mày đường vẽ xếch lên thách thức. Nàng không thoa son, môi hồng thắm tự nhiên. Đường nét trên mặt nàng thanh tú, gẫy gọn. Một nốt ruồi đen chấm dưới mắt trái như một nốt nhạc buồn. Tôi nhìn nàng, linh cảm đời mình đang thay đổi. Tôi thẫn thờ ngồi xuống như thỏi sắt ngã xuống nam châm. Nàng gợi chuyện:

– Sao hồi hôm anh không mời tôi nhảy? Thấy anh cứ ngồi lì trên bực cửa sổ.

– Tôi có thói quen khi nhảy giở một lượt hai cẳng sợ té nên không dám mời ai.

Nàng che miệng cười, đuôi mắt cong vút:

– Tôi thấy anh nhảy “cha-cha” với cô gì mập mập coi cũng được lắm chớ.

– Vậy hả? Coi được sao mà Diane vẫn đoạt giải như thường, còn tôi đeo cửa sổ làm khán giả.

Lộc đỡ lời:

– Ôi thằng này nhà quê lắm em ơi! Nó nói tiếng Tây em hiểu được là khá lắm rồi. Mày uống cái gì không? Uống đi rồi tao dẫn xuống ga Lyon ăn mì dơ. Chắc ở Québec mày thèm mì xào kiểu Chệt?

*

Thấy tôi buồn, Lộc rót rượu cho tôi uống liên tiếp. Mọi người coi chuyện tôi khóc thét vừa qua như một tai nạn dọc đường. Có Diane ngồi bên cạnh, tôi thấy bớt trống trải và trong lòng cũng được ấm áp. Diane trở nên thân mật hơn, cười nói tự nhiên, không che miệng, tôi để ý nàng có cái răng gãy ở cuối đường môi bên phải. Diane gợi tôi hình ảnh Fantine trong Les Misérables. Tôi không khóc nữa, nhưng cũng dần dần say khướt. Lộc và Diane kè tôi lên taxi chở về khách sạn gần Port Royal. Bước lên cầu thang, tôi bắt đầu nôn mửa, tên chủ càu nhàu, Lộc dúi cho hắn tờ 10 quan, hắn nín. Lên cầu thang, tôi lại nôn mửa. Lại càu nhàu, lại 10 quan, lại hết càu nhàu và có lời cảm ơn.

Lộc về phòng mình. Diane ở lại chăm sóc tôi. Nàng dìu tôi tới chậu rửa mặt để tôi nôn mửa cho hết cơn. Miệng tôi chua đắng. Nàng hứng nước vào cái ly mủ cho tôi súc miệng. Nàng cởi áo cho tôi, đặt nằm lên giường, lấy khăn ướt đắp lên trán, hơi thở ấm của nàng tỏa ra trên mặt, thoang thoảng có mùi phấn thơm dịu ngọt. Chợt vói tay ôm nàng ghì xuống ngực mình cứng ngắc. Tôi lại lẩm bẩm:

– Tôi cô đơn… Tôi không hạnh phúc… Đừng bỏ tôi một mình… Tôi sợ cô đơn! Sợ lắm!…

Diane nằm im nhưng cũng thì thầm:

– Không được đâu anh.

Nước mắt tôi lại trào ra trên má. Như đứa nhỏ bị hắt hủi. Diane nói:

– Tôi đi với Lộc, đâu thể ở lại với anh được. Thôi đừng khóc nữa, tội lắm mà, anh!

Diane gỡ tay tôi đứng dậy, bước ra khỏi buồng, tắt đèn và khép nhẹ cửa lại. Nàng đã về với anh tôi. Nằm lẻ loi trong bóng tối, tôi cần đàn bà biết chừng nào! Tôi không nhận định tình cảm mình rõ rệt. Chỉ thấy cô đơn và thèm muốn. Cơn say chợt ùa tới lôi cuốn tôi, chìm sâu vào cơn mê đen hút, lãng quên, vực thẳm.

Tôi giật mình thức giấc, bàng hoàng, chấp chới. Bên ngoài cửa sổ trời còn tối đen mù mịt. Đầu nhức nhối. Vì rượu đêm qua, có lẽ. Nhiều lúc đang đi ngoài phố bỗng bị cô đơn chụp lấy, đầu tôi tưởng nứt rạn, tim đập dồn dập, trước mắt lan dần những vòng đen, tôi muốn ngã quị xỉu luôn tại chỗ. Cô đơn như một ung thư đục khoét cơ thể đau nhức. Cô đơn là một cảm giác trừu tượng, nhưng sự đau nhức rất là cụ thể. Tôi muốn có một cây đinh thật dài và thật lớn đóng phủng qua màng tang để thủ tiêu nó, thủ tiêu tôi. Một ngày nào đó chắc tôi phải chấp nhận chung sống với cô đơn, bằng không nó sẽ giết tôi chết mất. Tôi rửa mặt, súc miệng qua loa và uống thật nhiều nước ở vòi cho đả cơn khát. Với lấy chiếc áo mà Diane đã cẩn thận máng trên lưng ghế mặc trở lại vào người. Tìm được trong hộc tủ ở bàn một cây viết và mẩu giấy con, tôi viết nguệch ngoạc mấy chữ: “Tôi đi đây. Tôi sẽ leo lên tháp Eiffel để nhìn Paris cho rõ hơn”. Tôi bước ra khỏi phòng đút mẫu giấy vào buồng của Diane và Lộc. Xung quanh vắng lặng. Tôi xỏ giày vào chân, xuống cầu thang rồi đẩy cửa bước ra đường.

Không khí ban sáng lùa vào phổi mát mẻ. Xe cộ bắt đầu chuyển động trên đường phố như những con vật đen đúa, lầm lì, bí mật, xì xầm. Paris đang thức giấc. Nhưng Paris có khi nào ngủ bao giờ? Tôi không có một hướng đi nào rõ rệt. Không hẳn tôi muốn đi tới tháp Eiffel (để làm gì?). Dù có muốn, tôi cũng không biết đường nào để tới. Tôi di chuyển trong Paris bằng xe điện ngầm. Trồi lên mặt đất tôi lạc hướng. Tôi đổi lề đường mấy lần (để làm gì?). Tôi quẹo, rồi tôi lại quẹo nữa.

Mụt ung thư chợt cựa quậy. Tôi sợ hãi thảng thốt, sắp ngã xỉu. Tôi muốn chạy về khách sạn, đập cửa buồng và nắm lấy tay Diane năn nỉ (để làm gì?). Trong thành phố này mọi người chết hết rồi sao? Thân thể tôi rạn nứt. Bên lề đường, một hiệu cà phê thắp đèn sáng, vừa mở cửa. Tôi là người khách đầu tiên. Gã barman nhìn tôi lo ngại:

– Ông làm sao vậy? Sao xanh mướt?

Tôi khoát tay tỏ ý không sao. Rồi tôi gọi một ly nước suối lớn, ngồi uống lặng lẽ ở quầy. Rời quán, tôi lang thang vào một vườn cây (tên gì? ở đâu?). Tôi ngồi co ro trên băng gỗ chờ sáng.

Hình như tôi chập chờn được một giấc khá lâu. Nghe tiếng chim sẻ kêu ríu rít, tôi tỉnh ra, mở mắt. Mặt trời xuyên qua cành lá lấp lánh. Không khí ấm dần. Tôi vươn vai ngáp dài và rời khỏi vườn cây. Lại đi quanh co rồi lại lọt vào một con phố nhộn nhịp, đại lộ Saint Germain-des-Prés. Mọi người xuôi ngược rần rần, tất tả. Nhưng tôi có cảm giác đang lặng trôi lờ đờ trên một dòng nước câm nín, lạnh lẽo, và những bộ mặt lao xao quanh tôi là những bộ mặt chết trôi, khép kín, vô cảm giác. Và tôi cũng đang chết trôi. Paris là thành phố thơ mộng? Tôi chỉ thấy những khối nhà đen đúa, xám xịt, dính đầy cứt chim. Paris là thành phố vui nhộn? Tôi không thấy vui gì hết. Tôi chỉ thấy cô đơn, lạnh lẽo và tôi sắp rã mục. Tôi vịn vào một góc tường có gân đá lớn cho khỏi khụyu ngã. Muốn chết. Thèm chết. Không thể nào sống sót nổi.

Tôi trôi dật dờ trong thành phố Paris cho tới lúc sẫm tối. Sau cùng, quá mỏi mệt và hết còn biết đi đâu, tôi trở lại quán ở đường Saint Jacques. Mở cửa bước vào, tôi lại bắt gặp Diane ngồi đó với đôi mắt lớn kẻ xếch và chiếc áo màu tím nhạt như buổi hôm đầu. Diane reo lớn:

– Kiệt! Kiệt! Anh Kiệt kìa!

Lộc vùng đứng dậy chạy ra ôm lấy tôi. Diane cũng chạy theo. Lộc ríu rít:

– Mày đi đâu vậy? Làm tao lo muốn chết. Tao đã định đi cớ bót.

Diane níu lấy cánh tay tôi vuốt ve:

– Tụi này sợ anh leo lên tháp Eiffel nhảy xuống bất tử. Trước đó ở quán anh đã khóc ngất.

Diane rơm rớm nước mắt. Tôi xúc động mạnh. Thiệt tôi điên quá đi mất! Tôi được dìu ngồi xuống băng dài bọc nệm dựa tường. Lộc và Diane mỗi người kẹp một bên như sợ tôi vùng đứng dậy bỏ chạy bất thần. Tôi xin lỗi cả hai vì cơn bốc đồng của mình. Diane hỏi tôi có giận gì không, tôi nói tôi chỉ buồn bã quá thôi chứ tôi không giận gì ai hết. Diane ấn cằm tôi hướng về mặt nàng, nhìn thẳng vào mắt tôi một chặp rồi hỏi:

– Anh còn cô đơn không?

– Còn!

Tôi đáp gọn lỏn, không do dự. Diane cúi xuống nhìn mặt bàn. Tôi thấy tóc nàng đẹp mướt, muốn hôn lên đó. Tôi không mảy may nghĩ Lộc là một tình địch. Diane đứng dậy đến bên máy hát bỏ xu vào ấn nút. Người ca sĩ buông tiếng ca khàn đục “I found my dream… on Blueberry hills”. Nàng rất thích Louis Amstrong, mặt nàng lộ vẻ say sưa mê mẩn khi người ca sĩ da đen này cất tiếng. Người ca sĩ hát tiếp bản khác: “Hello! Darling… It’s Louis darling!…”, Diane cao hứng búng nhịp, tôi bị lôi cuốn cũng búng tay theo lóc chóc. Mọi người lại như quên hết phiền muộn. Lộc đứng dậy bước đến bàn chơi đánh banh điện. Tôi choàng tay qua vai Diane kéo xiết, lòng thấy ấm áp, mụt ung thư dịu đau. Chúng tôi lại kéo nhau đi ăn mì dơ. Ông Chệt nhận ra khách quen, cười toe toét thân mật:

– Xao pữa lay cậu hết puồng chưa?

Ăn xong chia tay. Lộc đi với Diane, tôi về Viện một mình, lại bắt đầu sợ hãi. Tôi mở mắt trao tráo nhìn bóng tối, thấy bóng cô đơn lù lù ngồi đợi. Tôi trằn trọc, lăn trở, dày vò, ngán ngẩm. Trong đêm đen mịt mù, từ phòng bên cạnh vẳng sang giọng ca buồn buồn thê thiết của Gilbert Bécaud… “Et maintenant… que vais-je faire?… Tu m’as laissé la terre entière, mais la terre sans toi, c’est petit!… Et maintenant… que vais-je faire?… Vers quel néant… glissera ma vie?…” Tôi ước có một cây đinh thật dài…

*

Buổi tối hôm sau, tôi ra quán ngồi ăn một mình. Nuốt cái xăng-uých không trôi. Tôi thả bộ xuống Saint Michel, lờ đờ không chủ hướng. Bỗng tôi thấy bên kia đường một dáng quen đi sát bên một vách tường đen lớn phản chiếu ánh sáng lờ mờ.

Tôi hét lên một tiếng thất thanh “Diane!”, rồi mừng rỡ chạy băng qua đường bất chấp xe cộ. Người con gái khựng lại, đúng là Diane. Nàng mặc váy xám và áo len đen tay dài khỏi khủy một chút. Diane cũng mừng rỡ thốt kêu “Anh Kiệt!” Hai đứa nắm tay nhau, tôi vô cùng sung sướng. Tôi hỏi:

– Lộc đâu? Sao bỏ em đi có một mình vậy?

– Ban nãy có mấy người bạn Lộc tới kéo đi chơi, em không thích nên để Lộc đi riêng với bạn bè. Còn anh sao? Hôm nay đỡ chưa? Đi đâu lang thang vậy?

– Thì cũng lang thang vậy thôi. Cùng lắm là nhảy xuống sông Seine… cho mát. Tình cờ gặp em đây, hay là chúng ta vào quán uống cà phê nghe nhạc chơi?

Diane ngẫm nghĩ hồi lâu, tôi sợ nàng từ chối. Nàng nói:

– Nếu anh thích nghe nhạc thì để em dẫn anh tới chỗ này, nghe nhạc jazz dễ thương lắm.

Tôi theo nàng đi quanh co trong Xóm Học, qua mấy con đường nhỏ tăm tối có clochards nằm ngủ lăn bên lề. Chúng tôi đẩy cửa bước vào một tiệm nhỏ ở đường Huchettes, bước theo những bậc thang đá gồ ghề dẫn xuống hầm. Hầm thắp đèn lù mù ấm cúng, có băng ghế đặt dựa sát theo vách đá. Rải rác trong hầm vài cặp tình nhân và đôi ba người khách lẻ loi. Tiếng nhạc blues tha thiết tỏa ra từ một máy hát đặt ở nơi nào không ngó thấy. Chúng tôi chọn một góc tối và gọi hai ly whisky. Tôi đốt chung cho hai đứa một điếu thuốc. Diane tựa đầu vào vai, tôi hôn lên mái tóc thèm muốn tự buổi đầu. Một hơi ma túy nồng nàn trong phổi sa mạc khô nứt. Diane hỏi:

– Anh sợ cô đơn lắm phải không?

– Sợ đến chết được. Nó là kẻ tử thù của anh. Anh lúc nào cũng cần có người đàn bà hiện diện trong đời sống, lúc nào cũng thèm khát yêu đương. Còn em, em có yêu Lộc không?

Diane cầm tay tôi đưa lên môi hít một hơi thuốc rồi nói chậm rãi:

– Yêu đương đâu phải dễ vậy anh. Em đang trải qua một cơn khủng hoảng. Cũng như anh, em rất khiếp sợ cô đơn. Thành thử hôm anh khóc ở quán em rất xúc động. Em hiểu lắm. Em đã có lần suýt tự tử vì cô đơn. Lúc thay áo cho anh ở khách sạn em có nhặt mảnh giấy ở trong túi anh. Em đọc nhiều lần càng thấy thấm thía điều anh viết, và càng thêm sợ anh leo lên Tour Eiffel nhảy xuống tự vận. Em có viết một trang đáp lại nhưng chưa đưa anh đọc.

– Có lẽ em chỉ có cảm tình với anh, một chút cảm tình gần với sự thương hại.

– Sao anh nói kỳ vậy? Em rất ghét sự thương hại. Em không chấp nhận sự thương hại của ai hết. Còn anh thì sao? Anh có… anh có… yêu em không?

Tim tôi chùn một nhịp. Tôi chưa biết phải trả lời sao thì Diane đã bá lấy cổ kéo mặt tôi xuống gần đặt môi nàng lên môi tôi ghì siết. Lưỡi nàng tìm kiếm sục sạo rất sâu trong miệng tôi, hương vị ngọt lẫn mùi thơm thuốc lá, lưỡi tôi cũng hưởng ứng quấn quít lưỡi nàng. Lần đầu tiên trong đời tôi thưởng thức nụ hôn tuyệt vời theo lối Pháp, từ một cô gái Pháp. Nụ french kiss dài bất tận… Nhạc blues vẫn dặt dìu tha thiết trong căn hầm ảo khói. Tôi sung sướng quá thể! Chúng tôi ôm nhau, tiếp tục hôn nhau da diết, không cần nói, không nói thêm gì ngoài những lời tình tự ngắn nhỏ thì thầm. Tôi luồn tay dưới áo len nàng, áo len có những thớ nhám, da thịt Diane mịn màng, sinh động, hô hấp, ấm áp, nồng nàn đốt cháy nỗi cô đơn đang khát máu tôi. Bàn tay tôi dò dẫm tìm ngực nàng. Trên trần gian này không ai có thể hạnh phúc hơn tôi lúc đó.

Chúng tôi trở về khách sạn gần nửa đêm. Tôi lấy một phòng cùng tầng với Lộc. Tối nay tôi không về ngủ Viện. Chìa khóa của Lộc không có trên giá treo, chắc Lộc đã về phòng rồi. Tôi và Diane rón rén lên lầu. Tới cửa phòng mình, tôi ôm Diane vào lòng, hôn lên tai nàng và nói nhỏ:

– Thôi em về với Lộc đi, và hãy ngủ cho ngon.

Diane xô tôi ra, nhìn tôi rưng rưng nước mắt:

– Bộ anh không hiểu gì hết sao? Anh đành bụng nào biểu em về ngủ với Lộc?

Sợ nàng òa khóc lớn, tôi mở cửa kéo nàng vào phòng mình. Hai đứa để nguyên quần áo ôm nhau lăn trên giường. Ánh đèn điện ngoài đường dọi vào cửa sổ hiu hắt. Tôi lần mò cởi quần áo Diane. Tôi đê mê bắt gặp lại người đàn bà nguồn sống muôn thuở đã vắng mặt trong đời tôi quá lâu. Tôi không dành một phút nào nhìn ngắm thân thể nàng. Hai đứa say sưa trong cuộc tình hừng hực. Rồi mệt ngủ.

Khi tỉnh giấc thấy Diane nằm trần truồng trong tay, tôi biết nàng đã lọt vào đời tôi kể từ đêm nay. Tôi vuốt ve vai nàng, lưng nàng và hôn nhẹ lên má nàng. Nàng cũng trở giấc. Tôi dành thời giờ nhiều hơn để thưởng thức thân thể nàng. Nàng ôm tôi âu yếm. Cơn dục tình lại kéo về đắm đuối, cuồng nhiệt, mê tơi. Sau cơn ân ái, Diane chợt khóc, vai run run, không biết vì buồn khổ hay hạnh phúc. Tôi không vặn hỏi, không muốn biết. Và tôi thiếp ngủ trở lại, không còn sợ hãi.

Lộc đón nhận sự thay đổi của Diane một cách can đảm và hào hiệp. Còn tôi thật vô tâm. Tôi nghĩ, như để tự bào chữa, dù sao con đường trở lại của Diane đã bế tắc. Ba đứa tôi vẫn gặp nhau, đi uống cà phê và đánh banh điện. Và nghe Louis Amstrong hát, dĩ nhiên. Đó là thú vui của Diane. Nàng có thể nhịn ăn để hưởng thú vui giản dị đó. Khi gò một đường banh, miệng nàng lệch méo qua một bên đầy vẻ chăm chú. Tôi tức cười, cũng thấy rộn rã vui lây. Paris biểu lộ dưới đường nét nên thơ cố hữu, với những khối nhà đen xám, mái lợp bằng đá bảng, cửa sổ rộng lớn mở ra bao lơn viền sắt đen uốn bẻ vân vi, và chim bồ câu vỗ cánh xập xòe trong nắng bay lên đậu. Người ngoài phố cũng trở nên thân mật với tôi hơn. Bằng thân trăn mềm, bằng ngực no nê, bằng tình ái điên rồ, Diane đã giải thoát tôi khỏi cô đơn đĩa đói và đem tôi về đoàn tụ với loài người. Nàng hòa giải tôi với đời sống. Tôi thay xiêm đổi áo, đính hôn với mùa hè, với nắng nóng, với mặt trời, với cỏ cây, với chim chóc.

Tôi đưa Diane về nhà một người bạn gái gần nhà thờ Pantin để nàng lấy quần áo gửi tạm nơi đó. Tôi đứng chờ nàng trong vườn cây. Ngó những người chơi chọi banh sắt nhi nhô cười giỡn lao xao, tôi bỗng thấy yêu đời vô kể, một cảm giác mà tôi tưởng chừng đã mất biệt luôn trong đời mình. Chặp sau Diane từ trong nắng đi tới. Con đường nắng lỗ chỗ, nàng cầm trong tay một cái va-li nhỏ. Nàng nói đây là tất cả gia tài của em. Tôi xúc động thương mến và rạt rào hạnh phúc. Tôi thấy đời sống sao mà dễ ợt, như một cái bánh ngọt. Tôi dẫn nàng đi trên hè phố với cái va-li nhỏ tòn ten trên tay như một cô dâu. Nàng ghé tiệm giày mua đôi hài nhẹ, loại ballerines, nàng nói hồi nhỏ nàng cũng có học vũ cổ điển, nhưng nhảy không hay vì mông hơi lớn, quay không gọn. Tôi vỗ đít nàng nói mông như vầy mới là tuyệt, rồi hai đứa phá lên cười. Nàng dừng lại trước tủ kiếng của hiệu bánh ngọt rất lâu, ngắm nghía thèm thuồng. Tôi định bước vào mua nhưng nàng hoảng hốt nắm tay tôi kéo đi. Nàng sợ dày thêm ở mông, có lẽ.

Bạn bè tập sự cùng khóa thấy tôi trở nên vui tính liến thoắng. Trong đám, tôi trẻ nhất. Cuối tuần có tổ chức cho các tập viên đi thăm dân cho biết sự tình ở nước Pháp. Một bận ghé thăm ngôi nhà thờ nổi tiếng ở Reims, tôi thắp một ngọn nến, quì gối làm dấu thánh giá. Cô hướng dẫn viên tò mò hỏi:

– Ông là người Công Giáo?

– Không, tôi là người Việt Nam.

Cô ta chỉnh lại câu hỏi cho chính xác hơn:

– Tôi muốn hỏi ông tôn thờ gì?

– Tôi tôn thờ đàn bà!

Ai nấy cười ngặt nghẽo. Cô ta cũng lắc đầu cười theo. Trên đường chúng tôi ghé Reims được đãi một chầu sâm-banh bản xứ, cả bọn tập sự chếnh choáng. Tôi và một anh Ba Tây, một Chí Lợi, một Mễ Tây Cơ rút ra đằng sau xe car hòa ca nhạc Nam Mỹ ầm ĩ. Vui như Tết.

Nhưng tôi thích đi chơi cuối tuần với Diane ở các khu rừng miệt ngoại ô Paris hơn. Trong rừng Chantilly, chúng tôi tìm một khoảng cỏ khuất vắng trải khăn nằm nói chuyện trời trăng mây nước. Diane sợ nhầu áo, tôi cởi áo cho nàng mặc. Diane tháo bỏ xú-chen, buộc hai vạt áo lại ở rún, không cài nút trên, để phơi đôi vú xinh xắn, tròn trĩnh, đầu vú ửng hồng. Tôi áp môi dìu nàng nằm xuống. Dục tình bừng bừng trên đầu lưỡi mềm ấm. Tôi muốn làm tình nhưng Diane đẩy tôi ra: “Không được đâu anh! Lỡ có người qua lại…” Tôi nhức nhối, nhăn nhó. Nàng mỉm cười lém lỉnh bảo trời có nắng, tôi chụp cho nàng vài tấm hình. Nàng chỗi dậy, nằm sấp, rồi nằm ngửa, tôi thu hình nàng với đôi vú tròn nõn nà, mời mọc. Không cầm lòng được, tôi vứt máy nhoài tới đè lên người nàng. tôi hôn mạnh, để lại vết bầm xanh nhỏ trên ngực, phía bên trái tim. Nàng mỉm cười ngó tôi âu yếm:

– Vết bầm này dấu vết riêng của anh đó. Suốt mùa hè sẽ không phai.

Câu nói của nàng lôi tôi về thực tế. Suốt mùa hè, phải. Nhưng hết mùa hè tôi với nàng sẽ ra sao? Tôi sẽ trở về Québec, bỏ Diane ở lại Paris. Chấm dứt! Hết? Tôi rùng mình. Để đuổi xua ý nghĩ đó, tôi ngỏ ý với Diane:

– Hết hè anh sẽ ở lại luôn với em, không về Canada nữa đâu.

Diane xô tôi ra nhỏm dậy, cài lại áo:

– Anh đừng nói đùa. Còn tương lai anh? Anh phải học xong đã rồi mới tính chuyện khác được. Anh ở lại đây rồi sẽ ra sao? Định làm gì để sống?

Tôi thoáng giận, tiu nghĩu. Có lẽ thấy tội nghiệp, nàng lại ôm tôi nằm xuống, hôn lên trán bảo anh đừng buồn, em nói vậy là vì anh đó. Hai đứa nằm nghiêng, tay chân quấn quýt, lưỡi tìm lưỡi ấm. Nàng hỏi:

– Anh yêu em nhiều không?

– Yêu nhiều lắm.

– Anh thề yêu em suốt đời đi.

Thấy câu nói có vẻ cải lương nên tôi ngần ngừ. Nàng thúc giục, tôi đáp:

– Anh nói vậy sợ nói láo.

– Nói láo cũng được, miễn là anh thành thật lúc nói.

Tôi ngượng miệng quá nên cứ nín thinh. Nàng rơm rớm nước mắt:

– Anh không nói thì em ở lại trong rừng này luôn, anh về một mình đi.

Rồi Diane phụng phịu quay mặt bên kia. Tôi đành vuốt tóc nàng và xuống vọng cổ:

– Anh thề yêu em suốt đời, chịu chưa?

Nàng quay lại cười khoái trá như con nít được quà. Thấy thương hết sức. Tôi lặp lại câu đó và cảm thấy mình thành thực. Tôi lại hôn nàng. Tôi đê mê nhìn ngắm thiên đường của mình rất lâu. Nàng rên khẽ.

Trời đã xế chiều. Chúng tôi ra đường đón xe quá giang về Paris. Vừa đặt chân vào buồng, tôi giựt áo nàng đứt tung nút. Tôi làm tình điên khùng, như thể hiếp dâm. Như buổi ban đầu. Như chưa quen biết sự trần truồng của người yêu. Nàng rên rỉ suốt cuộc tình. Hai đứa ngã ra chết giấc…

Thật vậy, tôi chưa hề biết thân thể Diane. Lần nào tôi cũng tò mò nghịch phá. Như hai con chó non tới mùa, rượt ngửi, giỡn hớt, chờn vờn. Rồi bốc đồng đắm đuối. Một buổi sáng muộn, chúng tôi thay quần áo định đi xuống phố ăn chút gì rồi chui vào xi-nê. Tôi chưa mang giày vội vì còn chờ Diane trang điểm xong. Nàng thay bộ tailleur xanh da trời vừa lấy từ tiệm giặt ủi về. Tóc nàng quấn băng xanh nhạt hợp màu với đôi bông tai tròn màu xanh biêng biếc. Nàng ngồi bên cửa sổ kẻ mắt, hát khe khẽ: “Je ne sais comment… comment briser tous ces barreaux?…” Hình ảnh ngây thơ mà trĩu nặng nữ tính, quyến rũ lạ lùng. Có lẽ linh tính điều gì, nàng chợt quay lại nhìn tôi, đôi mắt vừa kẻ xong sâu thẳm. Mặt nàng thoa nhẹ một lớp phấn mỏng liền lạc màu da, môi chưa tô son, đôi mắt thẳm sâu càng thêm hun hút gọi tình – hai vết chim bay trên nền mây trắng nhẹ hẫng. Tôi tiến đến gần nàng, hôn lên đôi mắt đó, rồi bàn tay từ gáy, từ cổ lần mò tìm xuống. Nàng linh cảm sự thèm muốn của tôi nên thì thầm: “Để em thay bộ đồ mới ra, kẻo anh làm nhầu hết…” Tôi vói tay khép màn cửa sổ. Hôm đó chúng tôi nằm mùi mẫn với nhau cả ngày, không bước ra ngoài một bước. Đến khuya hai đứa đều đói meo. Vừa than đói vừa cười rúc rích.

Chúng tôi từ Xóm Học dời gần về métro Pasteur. Lộc theo “xem” hai trẻ yêu nhau một cách rất hiền triết. Mùa hè đã tới thực sự, tháng Bảy Paris trời nóng chảy nhựa đường. Chúng tôi dắt nhau đi mua áo, Lộc một cái áo vàng chạy chỉ đen, tôi một cái áo có gân, màu đỏ, cổ lớn, còn Diane không mua gì hết. Tôi mua sôn được một cái áo khỉ mười quan và một cặp kính đen xếch năm quan, mang vào trông như dư đảng mafia. Diane để mặc kệ hai anh em đùa nghịch với nhau. Buổi chiều lại đi ăn mì dơ. Xong ra uống cà phê ở ga Lyon. Đang tán gẫu chợt Diane ngó ra ngoài cửa tiệm biến sắc. Nàng đứng dậy đi ra phía đó. Ở cửa, một anh da vàng và một cô da trắng mang bụng chửa. Diane nói chuyện với họ khá lâu. Tôi nghe loáng thoáng gã da vàng la lớn khi hai người sắp bỏ đi: “Tao sẽ giết nó!… Tao thề sẽ giết nó!” Diane trở lại bàn, mặt mũi càng nhợt nhạt. Tôi suốt ruột hỏi:

– Có việc gì vậy?

Nàng cúi mặt im lìm. Tôi hỏi tiếp:

– Em vừa nói chuyện với ai đó?

Im lặng. Chập sau nàng trả lời:

– Đó là bạn của Đức.

Lộc tò mò:

– Đức! Đức nào? Có phải Đức?…

Diane ôm hai tay lên trán gật đầu. Lộc nhìn tôi ái ngại, định nói gì đó, nhưng Diane đã lên tiếng trước:

– Đức là người đã chung sống với em. (Tôi choáng váng). Anh đã biết rồi, nhưng để em nói cho Kiệt rõ. Hồi em ở Corse lên Paris kiếm việc làm, em gặp Đức và Đức đã tận tình giúp đỡ em. Em sống với Đức hơn năm. Anh hiền lành bao nhiêu thì Đức hung hăng bấy nhiêu. Đức đã đánh em gãy răng, như anh thấy đó…

Nàng ôm mặt khóc. Tôi vừa tội nghiệp Diane, vừa ghen tức. Nàng nhìn tôi mắt còn ngấn lệ long lanh:

– Đức hiện giờ đang ở tù vì liên can tới một chuyện làm ăn lem nhem sao đó.

Tôi không buông tha:

– Em đụng Mít lựu đạn rồi chưa chán Mít sao?

Nàng thành thật:

– Anh làm sao hiểu được. Đã lỡ dính người Việt các anh rồi là không bỏ được nữa. Lẩn quẩn lại tìm một người Việt khác.

Tôi suýt buông ra một câu nói độc ác, nhưng giữ lại kịp. Tôi thương nàng nhưng lửa ghen phựt cháy ngùn ngụt trong lòng quá đỗi. Lộc nói mấy câu hòa giải, nhưng không thấy ai nghe nên thua buồn nín thinh. Chúng tôi lấy taxi ra về. Diane ngồi giữa. Lộc đưa Diane lên buồng. Tôi còn hậm hực chui vào một cái bar ở gần métro Pasteur uống whisky không chịu lên theo. Một lát Lộc trở lại ngồi uống rượu với tôi. Thấy mặt tôi vẫn hầm hầm, Lộc nói:

– Mày làm khổ tao rồi còn định làm khổ Diane nữa phải không?

– Tôi làm khổ anh?

Lộc chỉ mỉm cười, không vui. Tôi chợt thấy mình lố bịch. Nếu sự thành thực có thể khiến cho mình được người khác tha thứ! Tôi xấu hổ:

– Thiệt em quá vô tâm. Em như hồi nhỏ nắm râu con dế quay mòng mòng còn bắt nó vẫn phải gáy. Chắc anh phiền giận lắm. Em đã phản bội anh. Diane đã phản bội anh…

– Không! Diane không phản bội tao!

Lộc ngắt lời, không hề nói tới tôi. Lộc tiếp:

– Diane đã nói với tao là “chính anh đã tự ý xô em vào tay đứa em ruột của anh”. Sáng hôm sau mày viết mấy chữ bỏ đi, tao và Diane gây lộn. Diane đã la lên: “Kiệt biết đam mê! Kiệt biết yêu! Anh không biết đam mê! Anh không biết yêu!” Rồi Diane đã đóng ập cửa vào mặt tao.

Lộc nâng ly uống một hơi cạn:

– Phải tao không biết đam mê, nhưng chắc tao cũng biết yêu chớ. Có điều lúc đó tao thấy mày có thể tự tử, có thể quỵ chết tới nơi nên tao có biểu Diane theo săn sóc mày. Mày cần tình yêu, mày cần đàn bà. Mày! Thằng ngốc tử! Bây giờ mày định làm gì Diane đây? (Lộc thộp ngực áo tôi kéo tới).

Ít khi nào tôi thấy Lộc nổi giận. Nhưng đêm nay Lộc đã nổi giận xô ghế bỏ ra về. Tôi ngồi lại một mình với cơn bối rối. Tột cùng bối rối. Tôi ân hận. Lộc không sao, nhưng tôi chợt thấy thương Diane hết sức. Tôi trả tiền và xin đóa hoa hồng đỏ thẫm cắm trên chậu bông trên quầy đem theo. Tôi lên phòng mở cửa thấy Diane nằm nghiêng, vai trần lộ trên chăn thiếp ngủ, son phấn đã bôi nhạt nhưng mắt vẫn còn kẻ mực đen chưa rửa. Tôi quì bên cạnh giường nhìn nàng thật lâu. Tôi hôn lên vai nàng rồi đặt cành hoa hồng lên cánh tay trần của người yêu. Diane thốt giật cánh tay hất đóa hồng rơi xuống đất. Tôi giận dữ đứng dậy bước ra cửa. Khi đó Diane mở mắt thốt kêu: “Anh Kiệt!”. Nàng choàng dậy tung chăn, nàng trần truồng. Tôi mở cửa bước ra ngoài còn nghe tiếng nàng kêu thất thanh “Kiệt! Kiệt!” Tôi đóng ập cửa lại chạy vội vã xuống đường, không còn muốn nghe ai réo gọi. Tôi chạy trốn…

Tôi vụt nhớ đêm mướt xanh ngồi trên băng gỗ chờ sáng. Thoắt sợ hãi kinh hoàng. Tôi bỏ chạy cuống cuồng. Hồi lâu mệt lả, nằm lăn trên một băng đá vệ đường thở dốc. Ngọn đèn đường ngất cao trên đầu tỏa ánh sáng lù mù, phả từng đợt vàng mờ ảo chung quanh. Tôi cố gắng định thần. Trí óc tôi lú lẩn. Tôi yêu. Tôi sợ. Tôi mê. Tôi ghen. Tôi, tôi, tôi… Chiếc xe taxi chở thân lịm ngắt về Port Royal. Tôi ngã vật trên giường, đôi giày còn dính cẳng. Trần nhà trên cao chập chờn như cơn sóng nhồi, hạ thấp, lên cao, rồi hạ thật thấp, dìm tôi vào vực thẳm đen ngòm, không còn thấy gì nữa hết, không còn biết gì nữa hết. Tôi đã chết. Diane! Diane! Cứu anh với!…

Dậy!dậy!dậy đi! Mùa hè đưa tay nắng gõ lên cửa sổ. Tôi mở mắt rồi nhắm lại. Mặt trời phà hơi ấm vào phòng giục gọi. Dậy đi! Tôi châm điếu gitane nằm nướng trên giường nhả khói. Tôi rửa mặt rồi uể oải xuống ngồi ở hiệu cà phê bên kia đường, chỗ Lộc, Diane và tôi thường ra chơi banh điện nghe nhạc. Tôi bỏ xu vào máy bấm nút: “I found my dream!… on Blueberry hills…” Tôi nhớ Diane quá thể “When I found you… my dream comes true…” Ngoài đường từ xa đi lại một cô gái mặc áo sơ mi màu tím nhạt. Đúng là Diane! Nàng đi ngược về phía tôi hướng mắt. Tôi ngồi bất động. Nàng không nhìn thấy tôi. Nàng đi qua rồi tiếp tục đi thẳng về phía Viện. Có lẽ nàng lại đến cầu cứu Lộc. Tôi đứng dậy rời quán. Ra đến cửa, tôi dụ dự quay lại ngồi chỗ cũ, gọi thêm cốc cà phê, vặn lại đĩa hát cũ “… the moon so still… on Blueberry hills…” Chập sau, quả nhiên Lộc và Diane lọt vào tầm mắt tôi. Lộc mặc áo màu vàng chỉ đen, Diane mang đôi giày màu beige. Hai người múa máy tay chân như đang phân bua, không rõ điều gì. Có lẽ lại bàn tán về việc tôi mất tích. Tôi vẫn ngồi bất động. Sao không ai xô cửa bước vào kiếm tôi?

Cả hai đi khuất hồi lâu, tôi rời quán thả bộ lang thang xuống vườn Luxembourg. Đầu vườn là tượng tạc bầy ngựa dũng mãnh đóng rêu xanh từ hồ nước nhảy chồm ra theo vòi nước phun. Tượng thật đẹp. Bụi nước rơi trên mặt tôi mát mẻ. Đứng ngó một hồi lâu tưởng chừng con ngựa bờm đứng sắp nhảy vọt tới đạp lên mình. Tiếp tục đi dọc theo rặng cây, hết bãi cỏ dài, đến ngồi bên hồ nước giữa vườn. Trên bãi cỏ bầy chim câu, lũ se sẻ, và hai con quạ đen đang tranh nhau mấy mẩu bánh mì. Có con bồ câu nằm ngửa chổng cẳng phơi nắng thật thảnh thơi, hạnh phúc. Tôi tự nghĩ mình quá ngu. Cuối tháng bảy, dân Paris tản cư mất hết, bỏ thành phố lại cho du khách. Mấy thằng bạn tập sự chung với tôi cũng đã trở về nước hết hồi giữa tháng bảy, khi chấm dứt khóa. Tôi lượm hòn sỏi nhỏ ném xuống hồ.

Cả ngày hôm đó tôi bị giằng co giữa ý muốn đi luôn và trở về với Diane. Tôi lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm. Tôi khám phá Paris có rất nhiều tượng đồng và tượng đá mà vì bận rộn đâu đâu tôi không để ý. Tôi thật vô lý. Diane đâu biết tôi đến Paris mùa hè này để nàng lọt vào đời tôi mà chờ đợi? Mà chờ đợi hoài thì lấy thời giờ đâu để sống? Nhưng tôi vẫn nổi giận vì đã không được chờ đợi. Tôi quay ra giận tôi. Như con rắn tự mổ nhằm đuôi mình, tôi nhiễm độc. Tối hôm đó, tôi lại rã rời đôi chân mình ở Port Royal. Và để Diane ngủ một mình ở khách sạn thêm một đêm nữa.

Chiều hôm sau, nhớ Diane hết chịu nổi, tôi lò dò trở về với nàng. Tôi len lén leo lên lầu (tại sao phải len lén?) Nắm khóa cửa vặn nhẹ, cửa không khóa. Bước vào. Diane đang ngồi ở bàn gặm mẩu bánh mì với phô-mát. Nàng mừng rỡ vứt hết bánh mì lẫn phô-mátxuống sàn nhà, chạy ra ôm chầm lấy tôi, mếu máo không nói được lời nào. Tôi ngồi xuống ghế, đặt nàng ngồi trên đùi, vỗ vỗ lưng nàng như dỗ con nít. Diane quệt nước mắt ngó tôi rồi lại mếu máo khóc tiếp, trông vừa tội nghiệp vừa tức cười. Khi cơn khóc đã dịu, nàng hỏi:

– Sao khi không anh bỏ đi mất biệt vậy? Ngày hôm qua em và Lộc đi kiếm anh, em lội bộ lủng hết đôi giày rồi kia kìa.

Nàng lấy ngón tay chỉ đôi giày beige lăn lóc trên sàn, một chiếc thủng lỗ tròn ở mặt dưới. Nàng lại mếu máo:

– Cả ngày hôm nay em không dám đi đâu, sợ anh về bất tử không có em anh lại bỏ đi nữa. Nhịn ăn hai ngày đói quá em mới gặm đỡ bánh mì. Sao anh bỏ đi vậy, bộ giận em hả?

Tôi ngần ngừ:

– Tại em vứt bông hồng anh mang về tặng em.

Nàng trố mắt ngạc nhiên:

– Trời ơi! Nhánh bông hồng còn gai không mà anh đem đặt lên cánh tay trần của người ta! Em bị gai chích đau nên mới giựt mình rút tay lại, bông hồng mới rớt xuống đất đó chớ em đâu có vứt. Bông vẫn còn kia kìa.

Trên bàn, một ly nước trong lớn, bên trên nổi lêu bêu một bông hồng đỏ thẫm đã nở rộng.

Tôi hôn lên má nàng:

– Cho anh xin lỗi.

Tôi luồn tay dưới áo nàng mân mê. Nàng ngoáy đầu lại ngó vào mắt tôi, có vẻ ngờ vực:

– Anh đừng bỏ đi nữa nghen. Em sợ…

Hai đứa hôn nhau làm lành. Xí xóa hết. Như không có chuyện xảy ra. Diane tin thiệt là tôi yêu nàng suốt đời, có lẽ.

Năm đó mùa hè nóng hừng hực. Nhựa đường chảy, bước đi dính nhẹo dưới chân. Paris như lò lửa kín mít không ngớt có củi khô châm vào. Chúng tôi bàn nhau đi biển chơi, miệt Côte d’Azur chẳng hạn. Nhưng đào đâu ra tiền? Một hôm tôi vác máy ảnh lò dò xuống Công Ty Điện Lực, tình cờ gặp lão Giám Đốc ở hành lang. Ông vui vẻ bắt tay tôi hỏi:

– Ủa, anh chưa về Canada sao? Mang máy ảnh đi đâu đây?

Tôi ấp úng:

– Dạ… tôi định xem có ai ở đây muốn mua tôi bán lại, giá rẻ đặc biệt.

Ông ta cười:

– Anh cần tiền phải không?

Tôi ngay tình gật đầu. Ông ta ngẫm nghĩ một hồi rồi bảo tôi theo ông xuống lầu dưới. Đến phòng kế toán, ông bảo nhân viên làm thủ tục cho tôi lãnh thêm một tháng trợ cấp… gia hạn tập sự. Phát liền tiền mặt. Cash! Tôi bối rối nhưng cũng mừng rơn, đút tiền vào túi, siết tay ông giã từ vừa cám ơn rối rít. Ông vỗ vai tôi thân mật:

– Úi chà tuổi trẻ! Tôi thèm được như anh. Allez! Thôi đi chơi cho vui nghe!

Ra đến cửa tôi còn quay lại vẫy tay chào lia lịa và cười cầu tài một phát. Ông ta lắc đầu cười như để đáp lại cái bồng bột của tôi. Tôi và Diane đi tìm Lộc để thảo kế hoạch. Diane đề nghị cả ba kéo xuống Menton chơi một tuần, tôi tán thành, Lộc từ chối không chịu đi theo. Diane níu tay Lộc năn nỉ, nhằng nhằng. Hắn xiêu lòng, quyết định chung cuối cùng: xuống Nice chơi mười ngày. Đi cả ba. Tôi và Diane xuống trước ba hôm. Lộc xuống sau. Lấy vé khứ hồi trước cho chắc trở lại được Paris. Còn chút tiền dư bỏ vào vạt áo mưa khâu lại mặc vào người cho chắc ăn. Mất là đói cả đám.

Đứng trên xe lửa chạy xuyên nước Pháp từ Bắc xuống tới Địa trung hải, lần đầu tiên tôi khám phá quang cảnh thiên nhiên phong phú của đất nước này. Nào rừng, nào sông, nào núi đồi xanh mượt, nào ruộng lúa mì, đồng cỏ bát ngát, từng đàn bò nhơi gặm thảnh thơi, hoa dại vàng trắng xanh đỏ vươn cao chi chít trên nền cỏ xanh mát mắt màu lục non kéo dài. Tôi thấy yêu đời vô cùng. Tôi thấy yêu Diane hết sức. Hai đứa ôm nhau ngủ ngồi sật sừ. Sáng mở mắt ra đã tới Nice. Bước ra khỏi nhà ga, chúng tôi gặp một bà đề nghị cho mướn một căn phòng nhỏ cách đó không xa, trong Le Vieux Nice. Tôi bảo sẽ có thêm một người nữa. Bà nói sẽ cho mượn ghế bố nhỏ kê vào, chỉ trả thêm chút ít tượng trưng. Chúng tôi đồng ý theo bà về nhà trọ. Căn phòng trên gác, nhỏ nhắn, sáng lờ mờ, có cửa sổ lớn ngó ra mặt đường, tương đối tươm tất sạch sẽ. Sát tường kê một chiếc giường nệm nhỏ, ngủ hai người chớ nên lăn trở nhiều – tôi nghĩ bụng càng tốt. Diane ưng ý, tôi gật đầu, kể như xong.

Chúng ôi ngả lưng lên giường ngủ thiếp một giấc cho giãn gân cốt. Buổi trưa thay quần áo đi bộ xuống bãi. Trời xanh ngắt, nước trong vắt, có chỗ màu xanh thẫm như rong, có chỗ màu ngọc bích tươi thắm rất ngoạn mục. Tiếc là bãi chỉ toàn là đá vụn, đi đau chân, nằm đau lưng. Nhưng tôi bằng lòng lắm. Tôi kéo Diane nhảy ùm xuống nước. Từ ngày rời quê hương, lần đầu tiên tôi được tắm biển. Trời nóng nước ấm làm nhớ Vũng Tàu, những lần Lộc và tôi đèo vespa đi biển, ăn ở bãi, ngủ ở bãi, và chưa biết đàn bà. Trời có gió lớn, Baie des Anges, Bãi Thiên Thần, sóng nhồi rất thích. Tôi bị hai đợt sóng lớn vồ vập liên tiếp nhận chìm, không kịp thở, đất trời đảo lộn, uống mấy ngụm nước mặn chát ngất ngư. Nhân viên tiếp cứu ôm phao nổi nhào xuống định vớt gấp, nhưng may mắn tôi đã trồi lên được. Lên bờ nằm sải tay, thở phì phò. Diane hỏi tôi có sao không? Tôi lắc đầu. Nàng đốt cho tôi điếu thuốc và xoa dầu chống nắng lên khắp thân thể tôi. Tôi cũng xoa lại người nàng và lợi dụng bóp nắn chọc phá Diane. Nàng la tôi đừng nghịch. Nàng nằm sấp bên tôi, cúi xuống hôn:

– Em cám ơn anh. Từ ba năm nay em không được nghỉ hè. Anh không biết em sung sướng đến ngần nào!

Chúng tôi ăn hai bánh pan bania (một loại bánh mì tròn kẹp cá thu, trứng xắt lát, mắm, cà, ô-liu), uống nước máy ở vòi ngắn trên bãi, thấy hạnh phúc. Xế chiều, Diane bảo đi tắm nước ngọt công cộng trước khi về nhà trọ. Tôi nói cứ để nguyên như vậy cho da thịt thơm mùi biển. Chúng tôi nắm tay nhau đi dạo lòng vòng trong Le Vieux Nice. Phố cũ, nhà cửa không thẳng hàng, tường vách sơn nhiều màu sặc sỡ, ám khói, phảng phất vẻ nên thơ vui sống thuở xa xưa hiền hòa, thơ mộng, le bon vieux temps... Nhiều sạp hàng bán mì sợi xanh vàng đỏ, treo thịt khô, giò mặn, xúc xích ngổn ngang trông ngon lành khoái mắt muốn ăn. Sẫm tối đã mỏi chân, hai đứa dung dăng dung dẻ quay về nhà trọ.

Về đến buồng Diane lại ôm tôi hôn và cám ơn ngày nghỉ hè. Tôi ghì nàng trong tay, cơn dục tình lại dấy lên trong mạch máu. Căn gác tối lù mù, chúng tôi để nguyên cửa sổ mở. Da thịt Diane ăn nắng hâm hấp nóng và thơm mùi biển, như rong, mặn mòi. Muối đọng trên mắt, trên môi, trên tai, trên cổ, trên đầu vú, trên bụng, trên tóc, trên gò tình. Diane thì thầm những cảm giác thơm mặn tương tự trên da thịt tôi. Mặt trời và nước biển tăng độ nồng say cho cường dục. Chúng tôi làm tình trong bóng hoàng hôn chập choạng. Diane rên khẽ, rồi lớn dần, như nấc khóc, móng tay cào bấu thịt da tôi rướm máu. Chân tay hai đứa quấn quýt chằng chịt rối ben tưởng không thể nào tháo rời được nữa. Rên rỉ, năn nỉ, xô ra, quấn vào, cuồng nhiệt, mê tơi, cực điểm, chết ngất…

Con thú cái no tình ngủ say trên cánh tay thú đực. Tôi cũng lơ mơ đất trời hồi lâu. Cố gắng thở đều cho tim nhịp chậm lại. Bên ngoài khung cửa bây giờ đã tối đen chợt vọng lại tiếng tây ban cầm tha thiết, dìu dặt “ lá lá lá… la là là” điệu Jeux Interdits trong ấm tuyệt vời. Ai đánh đàn? Có tâm sự gì mà ngón đàn sao quá thiết tha buồn bã. Tôi xúc động, mình nổi da gà ran ran. Một nỗi lo âu không rõ mặt lấn chiếm trong hồn, tôi cúi xuống hôn mái tóc Diane như muốn ẩn nấp. Phải chăng mùa hè đang đi vào giai đoạn cuối? Bên khung cửa sổ khuất, lời tây ban cầm tự tình lặp đi lặp lại khúc Jeux Interdits hoài hoài, như không muốn dứt.

Ba ngày sau, Lộc xuống, mặc áo vàng chỉ đen. Tôi áo đỏ, Diane áo tím nhạt ra đón ở nhà ga. Lộc xem cũng hài lòng vì lần đầu tiên biết Nice. Chúng tôi băng qua đường, chui vào hiệu cà phê đối diện nhà ga. Suốt thời gian ở biển ba đứa thường la cà ở hiệu cà phê này vào buổi trưa. Ở đây đặc biệt có đặt juke-box trang bị màn ảnh màu và nhiều đĩa nhạc trẻ trung nên bọn choai choai thường tụ tập uống nước đấu láo ồn ào, nhộn nhịp. Một bài hát được nhiều người chiếu cố là “Faut rigoler”, khi ca Henri Salvador cười bò lăn cù dưới đất. Để thích ứng với ngân quỹ eo hẹp, chúng tôi biểu quyết chấp thuận một thực đơn khắc khổ: ngày đầu, mỗi đứa trưa một pan bania, chiều một pan bania. Ngày kế, trưa một pan bania, chiều một con gà rô-ti quay sẵn cho ba đứa. Rồi trở lại như ngày đầu, cứ thế tuần tự. Ngày nào có gà rô-ti, Lộc và tôi gặm kỹ tới nước chó chực xương ngó thấy cũng phải phát khóc. Diane thường ăn độn bánh mì, nhường hai cái đùi cho hai ông Tây vàng. Ghế bố xếp loại nhà binh bà chủ cho mượn được kê ra trong phòng bây giờ đã trở nên chật chội, chỉ dành để ngủ.

Tắm biển liên tiếp ba ngày đã đời, ngày thứ tư Lộc đề nghị đi Monaco chơi, tôi ô-kê. Diane không đi theo vì đã biết du cảnh nơi đây rồi. Chúng tôi giao tiền cho Diane mua gà quay chiều về ăn. Giã từ nàng, chúng tôi lấy xe lửa lên đường. Xe chạy qua những triền núi cao ngó xuống vách đá thẳng đứng cheo leo, những bụi cây xanh chìa bông đỏ rực rỡ trên nền nước thẫm biếc thật đẹp. Chúng tôi ghé dọc đường tắm biển, chụp hình, rồi lại lên đường viếng cảnh chụp hình (thú vui của Lộc). Cà rịch cà tang tới chạng vạng mới về đến nhà trọ. Một điều ngạc nhiên: Diane mặc cái robe mới sọc to bản sặc sỡ lên tới hơn đỉnh vú một chút, vai trần có một băng vải vắt ngang cho áo khỏi tuột. Trông nàng như sơn nữ miền thượng. Đôi vai trần rám nắng ngời bóng chạy xuôi xuống hai cánh tay trần tròn lẵn coi cũng hấp dẫn muốn sờ. Diane nói ngày mai là lễ rước cộ hoa nên nàng tự động may lấy cho mình một cái áo để mặc chơi ngày lễ. Về mặt lý thuyết nghe cũng lọt lỗ tai. Nhưng trên bình diện thực tế thì ôi thôi, nàng đã dùng tiền gà quay mà mua một khúc vải bán sôn và kim chỉ, rồi ngồi nhà cả ngày tự may lấy áo, say sưa bỏ cả ăn uống. Thế là con gà rô-ti đã chắp cánh bay mất: ô-voa! bái-bai! Phần đói bụng, phần tiếc con gà mấy khi mới có, tôi la Diane. Nàng phụng phịu rơm rớm nước mắt. Nàng nói nàng mặc áo mới cho tôi vui mà tôi nỡ nào la nàng. Tôi vẫn tiếp tục cự nự. Lộc can thiệp kéo tôi ra đầu phố mua ổ bánh mì không, xịt chút xì dầu hai đứa gặm.

Buổi tối, để làm lành, tôi gạ gẫm làm tình với nàng. Nàng chấp nhận thiện chí của tôi nhưng dặn nhỏ đừng gây tiếng động kẻo Lộc nghe được sinh lòng đau khổ. Nhưng rồi chính nàng đã thở hổn hển và rên rỉ bên tai nghe rõ mồn một, không biết có lọt ra bên ngoài. Trong đêm Lộc trở mình trên ghế bố sột soạt. Tôi thật quá vô tâm.

Ngày hôm sau chúng tôi tham dự đoàn người rước cộ hoa tưng bừng huyên náo. Các cô gái mỹ miều mặc áo trắng đẹp đẽ như áo cưới, đứng trên xe phủ đầy hoa, các cô cười tình và ném hoa xuống quần chúng, nhắm vào bọn con trai. Tôi chụp được một bông cẩm chướng. Lộc một bông hồng, đưa cho Diane. Confetti được tung ném tưng bừng, tóc Diane dính đầy. Trông nàng hớn hở hạnh phúc mà cảm động. Tối đến chúng tôi kéo nhau ra công viên lễ hội, có dàn nhạc công cộng, dân chúng bu quanh rần rần. Chúng tôi nhảy nhót tới tàn cuộc khuya lắc khuya lơ mới ra về, chân cẳng rã rời, còn nghe sau lưng mình sóng vỗ trên bãi đá vụn xào xạc…

Kể từ hôm đó, Diane không rời chiếc áo sọc nàng đã may lấy. Buổi tối nàng giặt áo trong chậu rửa mặt rồi treo lên phơi. Sáng khô lại mặc vào, trông nàng hí hửng, tíu tít. Thấy mông nàng cứ dêu dêu phía sau, tôi đặt cho nàng cái tên Việt mỹ miều là “Ngọc Ễnh”. Nàng phát âm theo kiểu Tây là “Nock Ễng” và lấy làm hãnh diện về cái tên do người tình đặt cho lắm. Những ngày ở Nice, đêm nào tiếng đàn tây ban cầm tự tình vẳng ra từ khung cửa khuất bên kia đường cũng lọt vào phòng chúng tôi nhắc nhở mùa hè đã muộn. Ngày cuối ở Nice, chúng tôi tắm biển đến xế chiều mới rời bãi. Trên đường về, Diane chợt nhớ chiếc khăn lông nàng bỏ quên. Tôi chạy trở lại kiếm, biệt tăm dấu vết. Có lẽ gió đã cuốn bay ra biển, xa thật xa, trôi mất. Không còn bao giờ tìm thấy nữa, chiếc khăn choàng đã bỏ quên trên bãi muộn Thiên Thần. Những con ruồi say nắng chiều nay rụng cánh nằm chết trên bàn tay ấm áp của mùa hè đang giã biệt. Trong đêm tối, tiếng tây ban cầm mất hút trong tiếng rập rình của toa xe lửa đen ngòm mang chúng tôi trở về Paris.

Tôi và Diane dọn trở lại Xóm Học, đường Soufflot, gần Panthéon. Tiền túi đã cạn. Diane đưa tôi cái áo da hoẳng của nàng bảo cầm thế xài đỡ. Tôi về Viện tìm Lộc. Hắn gạ bán được áo cho một cô sinh viên từ Sài Gòn mới qua, thích áo da hoẳng. Chúng tôi lại dắt nhau đi ăn mì dơ. Sau đó Diane tìm được một chân giữ két cho một tiệm cà-phê ở ngoại ô Paris. Mỗi buổi chiều tối, tôi ra đón nàng ở métro Saint Michel, gặp nhau ôm cứng, mừng ghê. Hai đứa dắt nhau đi dọc theo bờ sông Seine, mỗi đứa cầm trong tay một cái xăng-uýt, thơ mộng ra phết. Chúng tôi ngồi ở băng đá bờ sông ngó qua bên kia nhà thờ Notre Dame. Gió trên sông Seine thổi hiu hiu, đêm xuống mát lạnh. Tôi rùng mình: tháng chín, đã cuối mùa hè. Chắc tôi sẽ chết trong mùa đông ở Québec, như cành cây khô héo. Tuyết dầy lên một thước, không cần ai chôn tôi, thân thể đông cứng, mắt mở trừng trừng. Tôi choàng vai Diane xoa nắn. Tôi dạy nàng bài hát “Tiễn em” thơ Cung Trầm Tưởng, Phạm Duy phổ nhạc.

Lên xe tiễn em đi, chưa bao giờ buồn thế, trời mùa đông Paris, suốt đời làm chia ly…” Diane cố gắng phát âm tiếng Việt. Hát đi hát lại, nàng dần dần thuộc lòng. Tuy nhiên, có đoạn không được như ý: “Xao zơi zớt zùng… vai em uốc mầm, em ơi kót đi em! Kót đi em! Kót đi em…” Nghe đứt ruột, tiếng ca của mầm non Ngọc Ễnh! Tôi hôn nàng khuyến khích. Ngồi trên ghế đá mân mê nhau thú vị kỳ lạ hơn ở trong buồng. Nàng xúi tôi nên viết văn vì nghe Lộc nói tôi ưa viết lách, làm thơ. Tôi lấy viết bic vẽ lên năm đầu ngón tay mình năm chữ D.I.A.N.E. Nàng cũng vẽ lên năm đầu ngón tay nàng bốn chữ K.I.E.T. và một trái tim. Chúng tôi áp tay vào nhau cười rút rít. Chúng tôi nói chuyện rất lẩm cẩm, không hề nói về ngày chia tay sắp tới, hay hứa hẹn tương lai gì hết.

Cuối tuần nàng được ứng trước chút đỉnh tiền. Tôi dự định sẽ đi ăn một miếng sườn heo chiên đã thèm quá lâu. Nàng dắt tôi đi coi phim “Mystère de L’Araignée Verte”, một cây nhền nhện xanh dờn. Trong phim có nhiều bài ca hay hết chỗ chê. Nhứt là bài “Comme au premier jour” do Jacqueline Boyer hát. Vãn hát, còn chút tiền lẻ nàng mua cho hai đứa hai cây cà-rem sô-cô-la hạt dẻ, xong chui vào hiệu cà phê nghe Louis Amstrong ca giọng khàn, đánh banh điện một chút sạch trơn. Lúc đó tôi mới biết hết tiền. Ô-voa cái sườn heo, cũng như đã bái-bai con gà rô-ti ở biển. Tôi đói bụng quá nên cằn nhằn. Nàng nói tôi sao tối ngày chỉ nghĩ tới chuyện ăn. Tôi tức quá đứng lại hét lên giữa phố Saint Michel: “Phải! tôi ham ăn đó! Rồi ai làm gì tôi?” Người đi đường quay lại ngó. Nàng kéo tay tôi đi, tôi dùng dằng, xô nàng chúi nhủi. Nàng tựa vào tường khóc thút thít. Nàng nói:

– Em có chút tiền dắt anh đi chơi mà anh cũng không bằng lòng…

Tôi nắm tay Diane lôi đi, nàng trì lại. Tôi dọa đánh đòn, nàng mới chịu quẹt nước mắt theo tôi. Về tới khách sạn, tôi vẫn còn hầm hầm. Đèn trong hành lang vụt tắt tối đen. Diane đấm ngực tôi thùm thụp, thét khóc rồi ngã quị ở cầu thang. Tôi đỡ nàng dậy, hai đứa ngồi ở bực cầu thang, nàng vẫn sướt mướt, xung quanh tối thui. Tôi ôm đầu nàng hôn lên tóc, lòng hối hận vô cùng. Tôi lầm thầm xin lỗi, nàng vẫn còn thút thít. Tôi dìu nàng lên cầu thang. Nàng để nguyên quần áo chui lên giường. Tôi kéo chăn đắp cho nàng rồi ra cửa sổ ngồi hút thuốc. Đường phố bên dưới đã thưa người, thỉnh thoảng đôi cặp tình nhân qua lại. Họ có phải sắp xa nhau ngàn trùng như tôi và Diane? Nàng sẽ ra sao? Nàng sẽ chết vì quá yêu? Hay nàng sẽ trở lại với Đức, hoặc Lộc? Hay nàng sẽ rời bỏ Paris? Nàng sẽ làm gì để sống? Hay tôi sẽ rước nàng sang Canada khi học xong? Chỉ là những có thể và có thể. Nàng thở đều, có lẽ đã ngủ say. Sợ đánh thức nàng, tôi để nguyên quần áo nằm xuống sàn nhà cạnh chân giường.

Nửa khuya, tôi chợt cảm thấy nghẹt thở. Tỉnh ra thấy Diane đang nằm trên ngực tôi, lưng trần, da ấm mướt mịn. Tôi vuốt ve gáy nàng, nàng rù rù như con mèo hạnh phúc. Tôi kéo mặt nàng lên gần mặt tôi, nàng hôn tôi, đầu lưỡi đút sâu trong miệng sục sạo như đêm đầu ở hầm nghe nhạc blues. Tôi lần tay xuống mông nàng tròn trĩnh êm mượt như nhung. Tôi ấn mạnh cho hai phần nóng sốt được gần gũi. Tôi tự giải thoát bên dưới. Mềm ấm nhung ướt. Diane đã dính với tôi làm một, nàng rên khẽ “em yêu anh… chết em… thôi anh…” tôi ghì siết hai ngực dưới của nàng, nàng cử động trên thân thể người tình, mê sảng, nói nói…

Tôi đánh điện cho thằng bạn ở Canada; “Nếu còn muốn thấy mặt tao, gửi ngay 150 đô la”. Tôi nhận được tiền ba ngày sau, đủ để mua vé tàu thủy từ Le Havre trở về Québec trong tuần tới và sẽ nhập học trễ một tuần, cuối tháng Chín. Thấy tôi thích áo len đen có lông xoắn nàng mặc đêm hôn nhau lần đầu ở Xóm Học, Diane mặc áo đó luôn trong tuần lễ cuối. Nàng nói như vậy anh sẽ nhớ hơi em khi mặc áo ở Québec mùa đông tới. Tôi đè nàng xuống tụt quần lót để giữ làm ky niệm, nàng dẫy nẫy không chịu, nói “dơ” lắm. Nàng bù vào đó bằng cái Jupon tơ óng màu trắng ngà, bên dưới có kết ren. Tôi ngỏ ý xin nàng một lọn tóc nâu. Diane chỉnh là tóc nàng màu auburn chớ không phải màu nâu, cũng không phải màu vàng. Tuy nhiên nàng cũng chịu ngồi yên cho tôi lấy kéo cắt một lọn tóc. Nàng lấy sợi chỉ buộc lại, bỏ vào hộp kẹo mùi anis màu xanh bạc, kẹo đã ăn hết.

Ngẫm nghĩ một hồi, bỗng nhiên nàng tháo váy, cởi quần lót ra, tôi tưởng nàng đã đổi ý muốn tôi giữ mùi hương thầm kín của nàng. Nhưng không, nàng cầm kéo quay mặt vào tường lúi húi. Nàng cắt tặng tôi một cụm cỏ ở gò tình, cũng màu auburn nhưng nhạt hơn và xoắn tít như lông cừu. Nàng bảo tôi nhổ cho nàng sợi tóc, nàng buộc cụm cỏ, bỏ vào hộp thiếc đậy nắp lại. Tôi cảm động thấy thương nàng hết sức. Tôi cúi mặt hôn lên gò tình của nàng, còn nghe dư hương của mùa hè đã hết . Sao tôi không là con ruồi say nắng rụng cánh nằm chết ở bãi Thiên Thần? Chết đi! Mày chết đi!

Còn bốn ngày nữa tôi giã từ Paris, nàng xin nghỉ việc để ở nhà chơi với tôi. Ngày thôi việc nàng bảo tôi đừng đi đón vì nàng sẽ về muộn, hoặc sớm hơn không biết chừng, nhưng dặn tôi phải ở khách sạn chờ nàng suốt buổi chiều. Tôi ngoan ngoãn nghe theo, nằm trong buồng đọc báo lăng nhăng chờ đợi. Khoảng năm giờ cửa phòng sịt mở, Diane đã về! Nhưng không phải Diane tôi thấy thường ngày. Nàng rực rỡ, mê man. Tóc nàng chải phùng ra hai bên và phía sau thật xinh xắn. Mắt nàng sâu thẳm đa tình, môi nàng tô son màu cam nhạt như cong cớn mời hôn. Nàng rất đàn bà. Cả người nàng toát ra chất đàn bà. Thấy tôi dựa lưng trên giường ngó chết trân, nàng đến ngồi cạnh tôi hôn lên trán, người nàng thơm phức, nói hôm nay em đi tiệm chải tóc làm đẹp cho anh… yêu đó. Tôi chỉ muốn vật nàng xuống hôn lên đôi môi mời mọc đó và gặm nhấm mình mẩy thơm tho của nàng cho đã thèm, nhưng sợ làm hư mất dung nhan, nhoẹt nhòe son nhạt. Nàng bảo tôi tắm cho nàng, vì trong buồng chẳng có bồn tắm lẫn vòi nước phun. Tôi âu yếm cởi quần áo cho nàng, chưa bao giờ tôi nghiêm chỉnh như vậy. Tôi có cảm tưởng nếu làm mạnh tay nàng sẽ tan vỡ như pha lê, nhan sắc biến mất như mây khói, và tôi sẽ ăn năn một đời. Tôi yêu, tôi quý, tôi thương… không! phải nói là tôi cưng. Tôi cưng nàng. Tôi muốn chìu chuộng nàng đủ mọi thứ, nàng muốn gì tôi cũng cho hết, ngay cả hơi thở, ngay cả mạng sống của mình.

Tôi đưa tay cho nàng vịn bước lên đứng trên bidet, chậu rửa dành riêng cho đàn bà, biểu tượng sự tế nhị của nền văn minh rất Pháp. Một tay nàng che ngực, một tay nàng che gò tình, cử chỉ muôn đời của Vệ Nữ từ thuở hồng hoang nàng bước xuống trần, để cho bụi hồng vướng gót son, và đàn ông vì nàng mà mê mệt, họa sĩ vì nàng mà vẽ tranh, thi sĩ vì nàng mà làm thơ, văn sĩ vì nàng mà viết chuyện tình không bao giờ kết thúc nổi. Tôi hứng nước trong ly mủ ở chậu rửa mặt xối lên người nàng. Nàng rùng mình ngửa mặt ra sau, động tác gợi tình tuyệt vời của con thú cái. Tôi kỳ cọ cho nàng, nàng xuôi tay đón nhận sự mò mẫm vuốt ve mơn trớn. Hương nắng còn đọng trên da lụa, tay khua tưởng đánh thức mặt trời, dục lên sóng biển và điệu tây ban cầm sẽ phả ra từ khung cửa sổ khuất kín của nàng. Dấu cỏ mất còn đó. Dấu bầm trên vú trái còn đó. Lời thề yêu em suốt đời còn đó. Tôi nựng nịu gò tình. Hôn lên ẩm ướt. Yêu. Yêu. Diane rùng mình. Sợ nàng lạnh, tôi lấy khăn choàng lên ủ cho nàng. Anh cưng em, có thể vì em mà chết được, biết không Diane?

Tôi đặt nàng nằm sấp trên giường, không muốn làm hư mái tóc mới chải. Tôi lau khô nàng. Mặt nàng nghiêng về phía tôi, hai tay soài tới trước, một bên vú bị cấn vun ra, làn da dưới nách nhũn mềm quyến rũ. Vai trái nàng còn hằn vết dây vải áo ở biển, vệt trắng mờ không ăn nắng. Tôi hôn lên gáy nàng, môi lần xuống thung lũng giữa hai vai mềm nhô lên, thung lũng đổ thành lòng suối giữa hai bờ lưng nhỏ, lòng suối trũng sâu thành hồ khuyết dưới đồi mông. Lưỡi thả lênh đênh trên dòng suối đa tình…

Hơi thở nồng nàn chụp phả nắng ấm hơ sưởi đồi xuân, trên đỉnh đồi còn in dấu tam giác trắng tinh khuất nắng. Hai dốc đồi hun hút đổ xuống một khe thung lũng thẳm sâu, chân nàng khép hờ, cỏ óng vàng bắt đầu xuất hiện lơ thơ e dè dưới đáy lũng. Áp má dưới chân đồi, mắt thôi miên bởi bông hoa thầm kín. Lần trở lên đồi, môi hôn di chuyển ngược cuộc hành trình dọc theo lòng suối trở lại lòng vai, nơi vùng lông măng mịn màng tiếp nối tóc mai sợi nhỏ từ gáy thả xuống. Tôi nằm phủ lên người Diane, gối tì giữa hai đùi tươi chắc, hai tay luồn dưới nách vòng lên kìm giữ đôi vai thon nhỏ, môi áp lên gáy nàng, động tác tự nhiên của con thú đực cắn giữa da cổ thú cái khi làm tình. Nàng ưỡn đồi lên, bông hoa dưới lũng kín đón nhận trận mưa tình. “Thôi anh… chết em… đừng… đừng…” lời xô đẩy trở thành tiếng réo gọi mời mọc cuốn hút không thể kham hãm dừng lại gọi về. “Nữa… nữa đi… chết em…” đắm đuối mê ngất. Đất trời lãng đãng. Sao vỡ trong lòng ngân hà. Lũng yêu khơi dòng suối trắng, nơi đời sống bắt đầu…

Diane nằm tựa má lên ngực tôi, ngón tay mơn trớn đầu vú dịu dàng tinh nghịch. Tôi châm điếu thuốc mơ màng nhìn ra cửa sổ sau làn khói xanh uốn éo. Chỉ còn một tuần nữa là hết mùa hè, trời tối nhanh hơn mọi bận. Dân Paris đã dần dần hồi cư về thành phố của mình, tiếng động cơ xì xầm nhiều hơn mọi chiều. Tôi bỏ đi đành sao? Không lúc nào tôi và nàng nói về cuộc chia tay sắp tới. Không có gì để nói? Hay vì khiếp sợ? Chúng tôi không phải là cặp tình nhân đầu tiên bị chia cách, cũng không phải là cặp tình nhân cuối cùng. Nhưng vẫn khiếp sợ. Diane ru se sẽ điệu Tiễn Em “Hôn nhau phút này, chia tay tức thì, em ơi! khóc đi em… khóc đi em… khóc đi em…” Biết bao giờ còn được ngồi bên sông Seine dạy cho nàng hát? Có lẽ nàng đang nghe tim tôi đập mạnh.

Bỗng Diane ngồi dậy bật ngọn đèn vàng ở đầu nằm, bước xuống giường đến mở tủ lôi ra chiếc váy lót bằng lụa trắng mỏng có kết ren mặc vào che phần dưới, ngực nàng vẫn để trần. Đoạn nàng lấy đôi ballerines mua hôm ở Pantin xỏ vào chân buộc lại. Nàng nhón chân ướm thử, sửa lại cho vừa rồi bắt đầu đi mấy bước. Hai tay nàng vòng cao trên đỉnh đầu, những ngón tay cong uốn, nàng xoay vòng vòng trên đầu ngón chân. Nàng hát nho nhỏ: “Comme au premier jour, toujours toujours, le printemps refleurit, quand tu souris, et me donnes la joie…” Nàng xoay chiều này rồi xoay ngược trở lại, váy lụa mỏng xòe ra, mong manh sương khói, mắt nàng say sưa tha thiết đa tình “… Comme au premier jour, toujours toujours, nous irons tous les deux, heureux heureux …” thỉnh thoảng nàng dừng lại, nghiêng vòng tay sang phải rồi nghiêng sang trái, chân giở cao trong không khí, nhẹ nhàng để xuống, lụa trắng phơi phới, tưởng chừng một cơn gió lớn bất chợt thổi tới sẽ cuốn nàng bổng lên không trung bay mất. Anh sắp mất em rồi đó Diane ơi! Em có biết?

*

Nhưng chậm thế nào rồi cũng phải chia tay… Câu thơ ai đó đã viết. Tôi còn nợ khách sạn một tuần chưa trả. Tuy vậy tôi vẫn hỏi Diane có cần gì không? Nàng nói không, chỉ cần hai vé métro, một để ra về sau khi tiễn tôi ở sân ga, một để di chuyển sau đó (đi đâu?). Sau này, lúc nhập học ở Québec, thư Lộc cho biết khi bán được máy ảnh, Lộc trở lại tìm Diane ở đường Soufflot. Nàng đã rời khách sạn ngay bữa tôi giã từ Paris, còn gửi một va-li nhỏ hẹn trở lại lấy và thanh toán, nhưng đã ba hôm rồi không thấy bóng dáng. Lộc trả tiền khách sạn, nhận va-li về mở ra thấy một ít sách báo cũ, một ít quần áo chưa kịp giặt của tôi và Diane, và bức chân dung nàng vẽ tôi bằng bút chì hồi ở biển. Dấu Diane biệt mù.

Tôi lấy xe lửa từ ga Saint Lazare ra hải cảng Le Havre rồi từ đó lên tàu thủy vượt Đại Tây Dương về Québec, xứ tuyết. Tôi rời Paris vào xế trưa, mùa hè đã hết dù trời còn nóng hổi và nắng tươi tốt. Chúng tôi lấy taxi ra nhà ga. Lộc một bên, Diane một bên, tôi ngồi giữa như một tội nhân người ta đang áp tải đi lưu đầy. Lòng rã rời mệt mỏi. Xe băng qua sông Seine rồi chạy quanh co trong thành phố, vượt qua những bức tường nắng chói chang, những cửa sổ dài mở rộng, những bao lơn sắt đen vân vi, và chim bồ câu vỗ cánh xập xòe. Nghĩ thầm đây là lần cuối qua con phố này. Đây là lần cuối nhìn thấy Paris. Đành vậy sao? Xe ngừng, rồi vọt chạy, rồi lại ngừng, rồi lại vọt chạy. Từ xa, chóp màu xanh rêu của mái Opera đã thấy xuất hiện, tới gần, vượt qua rồi xa khuất. Xuống xe ở nhà ga, Lộc xách va-li lớn, tôi đeo túi da nhỏ đi theo mọi người, cái xác không hồn buông trôi dật dờ theo dòng người lũ ra từ bốn phía. Tôi khựng lại, rồi bị kéo đi, như đứa nhỏ trong ngày tựu trường.

“Ga Lyon đèn vàng, cầm tay em muốn khóc, nói chi cũng muộn màng…” Ga Saint Lazare cũng đèn vàng, nhưng tôi không khóc, Diane cũng không khóc. Tìm chỗ ngồi và chất hành lý xong, tôi trở xuống ga đứng cạnh Diane. Sực nhớ tôi bảo Lộc đưa cho nàng hai vé métro. Lộc không còn một cắc. Tôi đứng lớ ngớ bên nàng không nói gì, cũng không nắm tay, không hôn hít, không ôm ấp, cũng không dám ngó nhau, chỉ sợ… (sợ gì?). Tôi muốn bỏ chạy, chạy về Xóm Học. Và tất cả sẽ lại bắt đầu: khiêu vũ, yêu đương, đi biển, làm tình… rồi trở lại nhà ga, rồi tôi lại bỏ chạy… Trong người choáng váng uể oải. Chợt xe lửa hú còi. Tôi ôm Diane rồi buông lẹ ra, người nàng lạnh ngắt. Không dám bịn rịn. Đôi mắt nàng kẻ mực tàu đen mở to, nhìn trân trân khoảng trống, ráo hoảnh, không có nước mắt.

Tôi leo lên xe lửa, ra bên cửa sổ thò đầu ra. Tôi để ý bữa nay Diane mặc váy lục thẫm và áo tím nhạt như thuở ban đầu. Trên sân ga, Diane vội bước tới đưa tay cho tôi nắm. Một người đàn bà chợt đi ngang, Diane hụt tay lùi lại. Xe chuyển bánh, Diane bước theo, tôi nhoài người ra vói, không đụng tay Diane, nàng thoắt dừng lại, mặt tái nhợt, môi xám ngoẹt, rồi nàng lùi dần… lùi dần… Hình ảnh Diane với quần áo màu sắc ngày đầu nhỏ lại trên sân ga dài tít mù rồi chợt biến mất lúc xe lửa uốn mình qua một khúc quanh. Tôi hoảng hốt. Mất nàng thật rồi sao?

Tới Le Havre, tôi một mình xách va-li, đeo túi nhỏ leo cầu thang dẫn lên tàu. Tôi đứng trên boong tàu ngó dáo dác xuống đám người tiễn đưa láo nháo dưới bờ, tưởng chừng sẽ bắt gặp màu áo tím nhạt và đôi mắt kẻ đen xếch lên ở đuôi. Tôi gọi thì thầm Diane! Diane… Nhiều bàn tay vẫy dưới kia. Tàu xúp-lê một. Tôi chết điếng. Phóng nhìn xa hơn, tôi cũng không rõ Paris nằm ở hướng nào. Trước mặt? Hay bên phải? Bên trái? Tháp Eiffel không đủ cao cho tôi ngó thấy. Tàu xúp-lê hai. Tôi hoảng hốt đứng nhỏm dậy định quăng va-li, liệng túi da xuống biển và ù chạy xuống đất liền. Diane! Anh muốn ở lại với em! Thủy thủ đang rút cầu dẫn hành khách lên tàu. Hết! Xúp-lê ba, tàu từ từ rời bến. Hết thật rồi! Tôi ngồi bệt xuống va-li, ôm mặt khóc ngất, khóc ồ ạt. Tôi thấy mình hèn. Hai tay nắm thanh sắt tròn gục mặt trên lan can. Hồi lâu, bỗng có ai vỗ vai. Tôi ngó lên. Người sĩ quan hàng hải thấy tôi nước mắt ràn rụa, vội vàng xin lỗi và quay gót. Ruột tôi quặn thắt, đớn đau như bị vọp bẻ. Xin giã từ em! Xin giã từ xứ Pháp!

Tối hôm đó tôi nằm lì trong ca bin, nhớ Diane quá sức. Tôi nằm úp mặt thở trên cánh tay mình, hơi thở dội lại làm nhớ những lần tôi hô hấp trên người nàng, trên ngực, trên mông, trên gò tình… Nhớ chết được! Áo len đen nàng cho, tôi mặc dính trên người còn đầy hơi hướng, tưởng chừng nàng đang gối đầu dưới nách.

Tôi cố hình dung nàng đang làm gì giờ này ở Xóm Học. Nàng đang ngồi ở hiệu cà phê nghe nhạc, hay đang nằm khóc lặng lẽ một mình trong khách sạn? Nhớ nốt ruồi dưới mắt em như một nốt nhạc buồn. Đầu óc đặc cứng, tôi không nghĩ được gì khác hơn nữa. Tàu bắt đầu đi ra biển.

Phải mất sáu ngày sáu đêm liền mới vượt hết Đại Tây Dương. Tàu chạy vòng lên mạn Bắc Cực. Có hôm nhìn thấy những khối băng tảng khổng lồ trôi lờ đờ phía xa, có hôm gặp đàn cá voi phun nước giữa biển. Mọi người reo hò thích thú. Tôi như người đã chết, chẳng còn tha thiết gì nữa. Đêm nào tôi cũng la cà ở bar hoặc phòng khiêu vũ dành cho hành khách chơi khuya. Một đêm, hai đêm, rồi ba đêm, đêm nào tôi cũng say khướt. “Ồ say thương nhớ vô cùng, rượu hay lệ ướt khăn hồng chị cho…” Đêm thứ ba ngồi ở phòng khiêu vũ, tôi lại say khướt. Nhảy điệu gì tôi cũng nhớ Diane, nhảy slow tôi lại càng nhớ Diane ác hơn nữa. Tôi chết mất. Tôi mở cửa rời phòng khiêu vũ bước ra ngoài boong tàu, người loạng choạng. Trời sáng trăng, đằng xa tít ẩn hiện khối trắng đồ sộ của băng tảng. Tôi ra sau đuôi tàu ngó xuống biển sủi ùn ụt ở chân vịt, bọt nước trắng xóa kéo thành vệt dài khuất chìm ngoài xa tối. Tôi hết muốn sống. Tôi sẽ nhảy xuống đại dương.

Tôi gọi thầm tên Diane rồi choàng một chân qua lan can tàu. Một tiếng nước vỡ! Mặn cứng. Tôi chỉ nghe một tiếng nước vỡ chát chúa bên tai, rồi mặt biển khép kín lại, hòn sỏi chìm xuống đại dương, không ai biết, không còn ai nhắc nhở, không còn ai nói tới… Chợt một cơn gió băng giá từ Bắc Cực ào xuống. Tôi lạnh cóng rùng mình, cơn say loãng đi trong buốt giá. Tôi khựng lại. Diane! Anh còn muốn gặp em! Tôi rụt chân về. Trời lạnh buốt. Tôi chạy trở lại chui vào phòng khiêu vũ. Ngồi vào chỗ cũ, run cầm cập, tôi ực ly rượu còn sót lại trên bàn cho bớt lạnh. Dàn nhạc chơi những bản nhạc quen. Tôi ngỡ thấy Diane đang nhón người trên các đầu ngón chân khiêu vũ giữa sàn nhảy, nàng xoay vòng, váy lụa trắng xòe ra như giấc mơ chưa tan loãng. Nụ cười với chiếc răng gẫy tội nghiệp như Fantine. Ngực trần trắng muốt, cánh tay uốn éo trên đầu, những ngón tay mềm mại ẻo lả. Comme au premier jour, toujours toujours, je revois le matin où le destin t’a mise sur mon chemin… Ôi biết bao giờ! Mai kia mốt nọ một mình tôi đương cự với mùa đông tuyết phủ kín trời. Nụ cười Diane lùi khuất xa dần trong bóng tối. Và trong bóng tối con quái vật cô đơn đã lù lù ngồi đó đợi tôi tự bao giờ, như một kẻ thù thân mật. Người con gái ngồi bên cạnh bước ra sàn nhảy. Tôi ôm mặt khóc.

Cái rầu bất tận của Nguyễn Ngọc Tư

chiều chiều chim vịt kêu chiều

bâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau

Nắng Tiền giang mưa Hậu giang

Mưa kín chân mây nắng rộn ràng

Lòng mong nắng đến chờ mưa tới

Mưa nắng trong tôi nghĩa đá vàng

Tôi thả những dòng thơ này trên sóng nước phù sa sông Tiền sông Hậu từ cuối thế kỷ trước. Tới đầu thế kỷ sau tôi mới đón nhận được, qua văn chương, những trận nắng dữ tợn miệt Tiền giang và những cơn mưa hiền hậu miệt Hậu giang trên da thịt mình. Tập truyện ngắn Cánh đồng bất tận và quyển Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư đã ấm áp lọt vào vòng tay ân cần của tôi vào tháng sáu năm 2006, nhân dịp tôi về thăm quê hương. Thời gian đó ở miền Nam trời mưa hoài mưa hủy, mưa dai mưa dẳng, mưa dầm mưa dề, mưa không dứt hột. Mà mỗi khi mùa mưa tới, mỗi khi mưa xuống là tôi thèm yêu, thèm được thất tình, thèm được chết vì quá yêu một cô gái nào đó. (Mà sao không thể là Nguyễn Ngọc Tư, dù chưa một lần tạn mặt?)

Tôi đọc miên man Cánh đồng bất tận (CĐBT), gối kê đầu giường. Tôi mê mải đọc Nguyễn Ngọc Tư (NNT) trong những chuyến xe đò chở tôi xuôi ngược trên những con đường quê hương. Mưa Tiền giang nắng Hậu giang, Trời cao đất rộng chiếc diều băng. Cò bay thẳng cánh đo đồng ruộng, Chín cửa ra khơi mộng hải bằng. Những câu văn đậm tình sông nước, cuồn cuộn phù sa của Nguyễn Ngọc Tư làm nhớ bài thơ Tiền giang Hậu giang của tôi đã viết cách đây hơn mười năm. Nắng Hậu giang mưa Tiền giang, Nhìn nhau mà lệ rớt hai hàng… Dạt dào… xào xạc… bì bõm…

Tôi sinh đẻ tại Bạc liêu có biển nhãn lấn tràn minh mông, mút mắt. Thời đó, phong trào chống Pháp bắt đầu bộc phát. Tới năm 9 tuổi tôi theo gia đình lên định cư ở Vĩnh long sông nước tư bề, vào trung học. Từ miệt đồng ruộng phì nhiêu tôi dời lên miệt vườn hoa lá sum suê, um tùm bốn phía. Tôi được nuôi dưỡng bằng không khí thơm tho bùn đất và những dòng máu thắm đỏ phù sa, chằng chịt như sông ngòi quấn quít đồng bằng Cửu long. Chín con rồng biển đã cưu mang tôi từ lúc tôi mới tượng hình, có chút xíu, lớn chưa bằng đầu ngón tay.

Tư cũng chào đời tại Bạc liêu (Tạp văn NNT, trang 189), vùng đất có rừng bần lấp loáng sáng trăng những đêm rằm trong trẻo. Một năm sau “giải phóng” 75. Đến năm 4 tuổi thì Tư trôi giạt về Cà mau, để rồi quấn hết chưn tay mình mẫy của mình vào cuộc đất này như đôi tình nhân nguyện thề từ muôn vạn kiếp. Cỏ mọc bờ giếng cheo leo, Lâm chung có bậu hiểm nghèo có qua. Sinh ra từ đất Hậu giang, Tư vẫn cứ một dạ thủy chung với cuộc đất này. Từ rừng bần sáng trăng, Tư trôi giạt về tử thủ vùng đất ngập nước có rừng mắm khua động dưới từng nhịp chèo, từng mái dầm bơi xới dòng phù sa ngầu đục “Bạc liêu là xứ quê mùa, Dưới sông cá chốt trên bờ Tiều châu”. Xứ quê mùa thì sanh ra giọng nói quê mùa: “Bắt con cá gô bỏ dô gổ, nó nhảy gồ gồ gột gột” Hoặc “Gầu ghĩ gâu ghia ga gậm gạp. Gờ gâu gâu gụng gờ gún gún gung ghinh”. Tình cờ tôi và NNT đã ràng buộc nhau bởi đất đai, bởi sông ngòi, bởi cá tôm và cách nói của miền nước nôi sông Hậu hiền hòa từ hồi nào không biết. Có lẽ nhờ vậy mà tôi cảm nhận được tận tường hơn những gì tuôn chảy ra dưới ngòi bút của Tư chăng? Mưa Tiền giang nắng Hậu giang, Phù sa lớp lớp bón đồng bằng. Thương hồ kết nghĩa cùng châu thổ, Hò ớ tan hòa theo nước trăng…

Đọc hết CĐBT, tôi gặp lại cái tình bà con đậm đà của người Hậu giang, gặp lại cách cư xử ân cần tử tế, gặp lại lời nói cục mịch, gặp lại dòng sông con rạch ngầu đục, gặp lại tô mắm kho thơm phức, cọng bông súng dòn rụm, gặp lại cái không khí ôi sao mới là quen thuộc! Quen thuộc… nhưng mà buồn. Buồn vì những hoàn cảnh khắc nghiệt, éo le, ngang trái. Buồn vì những lỡ làng, cách biệt, hắt hủi. Buồn vì những đổi thay khiến cho con người nơi đây vơi bớt đi lòng tử tế, vơi bớt đi cái tính tình chơn chất và lòng tin cậy nguyên thủy. Cái buồn man mác dàn trải trên khắp các truyện kể. Buồn, nhưng vẫn tiếp tục đọc.

Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư cũng là những câu truyện kể –tôi chỉ còn nhớ loáng thoáng. Càng đọc tôi càng thấm nặng cái buồn. Rất buồn! Buồn muốn lâm bịnh. Và lại thêm ngột ngạt, ngao ngán. Cho tới lúc tôi đành bỏ dở nửa chừng. Buồn quá, chịu hết nổi. Tôi buông sách bỏ đi theo bạn bè nhậu nhẹt giải khuây, đi bia ôm, karaôkê, trà đình tửu quán. Rồi dần dà nguôi ngoai. Tôi lãng quên dần dần… Vai mang bầu rượu chiếc nem, Mãng say quên hết lời em dặn dò... Và rồi tôi cũng bỏ quên luôn quyển Tạp văn của Tư lại quê hương. Tư mà biết được chắc buồn. Buồn năm phút!

Rồi một năm qua, hai năm qua… Cho tới một bữa nọ có cô cháu tình cờ chợt quăng câu hỏi lớn lên không trung (rớt xuống u đầu!): “Sao chú là cây bút miền Nam mà chú không viết về cô Nguyễn Ngọc Tư, cũng là người miền Nam như chú?” Tôi thêm: “Hơn nữa Tư lại là người miệt Hậu giang, cũng như chú!” Ờ hả, sao kỳ vậy? Tôi biểu cô cháu tìm cho tôi các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư để tôi đọc lại. Biết đâu chừng sẽ có hứng viết một bài về NNT. Không phải một bài thuộc loại phê bình văn học (bỏ đi tám!) mà là một bài theo kiểu “điểm sách” nhằm giới thiệu ngòi bút và các truyện ngắn đặc sắc của NNT với bạn đọc. Người viết sẽ không lên tiếng thay cho tác giả mà sẽ để cho chính NNT trực tiếp nói lên cảm nghĩ của mình qua các trích đoạn rải rác trong các tác phẩm. Người viết tránh suy diễn ý nghĩ của tác giả, hầu bảo toàn sự trung thực của sáng tác, đọc và cảm nhận như thế nào thì cứ viết y chang như vậy, không thêm không bớt, cho nó giữ được cái “truyền thống” ăn ngay nói thiệt, cục mịch quê mùa “con cá gô nhảy gồ gồ gột gột” của miệt Hậu giang ta.

Lần này tôi có được trong tay 4 tác phẩm của NNT, tất cả đều do nhà xuât bản Trẻ Sài gòn ấn hành. Tôi sẽ tuần tự đọc theo thứ tự thời gian vào lúc tác phẩm xuất hiện lần đầu, hầu theo dõi diễn biến cách dựng truyện và bút pháp của NNT theo thời gian. Tuy nhiên, để quân bình việc trình bày, bài viết sẽ được chia làm hai phần:

Bài 1, Cái rầu bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, sẽ đề cập tới hai tác phẩm sau:

. Ngọn đèn không tắt (2000, in lần 4/ 85 trang)

. Cánh đồng bất tận (2005, in lần 5/ 213 trang)

Bài 2, Sông nước Hậu giang và Nguyễn Ngọc Tư , sẽ điểm hai tác phẩm còn lại:

. Giao thừa (2003, in lần 1/ 161 trang)

. Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư (2005, in lần 1/ 193 trang)

*

Nắng Tiền giang mưa Hậu giang

Sông Tiền Mỹ thuận đợi đò sang

Cần thơ sông Hậu sang đò nữa

Chở xuống Cà mau ngập chuyến hàng

Hãy lấy chuyến xe đò sớm nhứt về Cà mau thăm NNT khi trời còn mát mẻ. Về thăm Tư để coi Ngọn đèn không tắt của Tư nó có còn tiếp tục cháy nữa hay không, và nếu còn cháy thì coi coi nó sáng tới mức nào.

Trước khi giở tập truyện mỏng 85 trang này, tưởng cũng cần nhắc lại bối cảnh lịch sử cận đại của đất nước ta để đặt dấu mốc cho những cái nhìn cá biệt đến từ nhiều phía. Tôi thuộc thế hệ sanh ra trong những năm 40 nên lãnh trọn 30 năm chiến tranh đằng đẵng trên cái đất nước yêu dấu tang thương ngậm ngùi này…………. Để rồi hơn 10 năm sau, bắt buộc phải Đổi Mới, chạy theo kinh tế thị trường của khối tư bản ….. Chào đời sau “giải phóng”, tuy không trực tiếp nếm mùi chiến tranh, nhưng thế hệ của Tư cũng bắt buộc phải gánh chịu hậu quả tang thương đổ nát nặng nề trên khắp cùng đất nước mà cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ 20 đã để lại.

Ngọn đèn không tắt, tiêu đề cho toàn tập, cũng là tựa của bài viết đầu tiên khi người đọc bắt đầu bước vào thế giới chơn chất thiệt thà của Tư. Tại sao ngọn đèn không chịu tắt? Tại vì người ta muốn duy trì cho nó cháy hoài. Ngọn đèn đó là cái tinh thần khởi nghĩa khi xửa khi xưa, đã lâu lắm rồi, có lẽ từ hồi thời thuộc địa Tây. Nhưng muốn duy trì cho nó cứ tiếp tục cháy hoài thì hằng năm, tại cái Xóm Rạch nhỏ xíu này, xã tưng bừng dựng cờ đỏ chói và gởi thơ mời các cựu lão ông tới ủy ban để “nói chuyện khởi nghĩa

Ông Hai Tương trong xóm được mời tới đều đều để nói chuyện hằng năm vì ông đã tham gia khởi nghĩa và có thành tích lớn từ hồi nẵm. Vì nay ông đã già yếu nên Tươi, cô cháu nội nhỏ tuổi (học lớp chín) được đặc phái đi theo để chăm sóc ông nội mình.

Con Tươi ngồi chắt nước cơm ngoài sau bếp, than trong bụng: “Mấy chuyện đó kể muốn thuộc lòng rồi, bắt kể hoài, bộ mấy ổng hổng chán sao?” (trang 9). Nhưng có sao đâu! Cô gái nhỏ dù sanh sau đẻ muộn, nhưng vì đại cuộc, cũng đã cất tiếng trả bài sang sảng trước bà con ta để khơi lại ngọn lửa khởi nghĩa đang có mòi tàn lụn của ông cha mình – dù sao cũng là anh hùng cứu nước hay là bà già giết giặc hết trọi đó chớ giỡn chơi sao! “Cô gái nói lời của ba cô năm trước, nói lời của ông nội cô năm trước, năm trước nữa. Cô nói lời của lịch sử. Mà lịch sử là thứ không thay đổi” (trang 17) Quá đúng! Đúng hết sẩy. Cô gái đã chinh phục được cảm tình và sự chăm chú của ủy ban và bà con trong xóm có mặt tại bữa họp do xã tổ chức. “Nhưng trong lời cô có cái nhiệt tình tuổi trẻ, trong mắt cô có màu đen sẫm của vốc đất bãi bùn, và cô dựng xương thịt cho cuộc khởi nghĩa bằng nét mềm mại của người con gái nên câu chuyện của cô rất sâu sắc và thu hút người khác” (trang 17). Hoan hô! Hoan hô em nhỏ! Rồi đang “khởi nghĩa” nửa chừng, câu chuyện bỗng đâm hơi bắt sang chuyện thêu thùa áo gối của Thầy (cầm đầu khởi nghĩa) chung với bà nội mình hồi trưóc – chi tiết lạ lùng mà không một ai biết được. Nhưng may thay, cô gái nhỏ đã kịp thời lèo lái mọi người quay trở lại cái “tuồng ruột” của mình để giữ cho ngọn đèn khởi nghĩa đừng có đứt bóng bất tử. Cô kéo mọi người hướng trọn hết tâm can tới lời trăn trối của Thầy: “Thầy biểu mấy chú, à không mấy chú giữ đèn hải đăng cho nó đừng tắt. Và khi chiếc tàu chạy vào Xóm Rạch rồi, ngọn hải đăng vẫn cứ nhìn theo cháy hoài, cháy hoài, cháy hoài…” (trang 19). Dĩ nhiên cây hải đăng phải cháy hoài cháy hoài mới nuôi được ngọn lửa hy vọng trong lòng bà con Xóm Rạch. Vì hy vọng, từ xưa tới nay, vẫn nuôi cho người ta sống. Sống để mà tiếp tục… hy vọng. Và rồi đây sẽ có ngày hy vọng cũng mệt mỏi buông tay cho bà con trong xóm chết đuối trong chờ đợi mỏi mòn. Hay là khi ngọn hải đăng “khởi nghĩa” tắt rồi, bà con ở cái Xóm Rạch nhỏ nhít này sẽ lặng lẽ chết âm thầm trong bóng tối lịch sử.

Nhưng bánh xe lịch sử vẫn cứ ngon trớn lăn tới trên con đường một chiều, không một ai cản nổi. Một khi kinh tế khá lên rồi thì Cách mạng bắt đầu phân phát ân sủng cho những người “khởi nghĩa” có công lớn: cất nhắc cho làm chức lớn tương xứng với công lao của mình. Đúng theo cái đường lối mà một đàn anh lãnh đạo đã đề ra: “Mấy em theo mình cực khổ từ trước tới nay cũng đã mệt lắm rồi. Phải cho mấy em nó hưởng một chút!” Cũng bình thường thôi. Mà một khi có quyền rồi thì người ta muốn có tiền, thiệt nhiều tiền – cũng rất bình thường. Muốn có thiệt nhiều tiền thì người ta bèn tham những hoặc thâm lạm công quỹ – cũng rất bình thường. Đó là bối cảnh cho truyện Nỗi buồn rất lạ (tr 31): Ngày xưa Tư Đờ vốn là một tay du kích nổi tiếng lì. “Tụi Ngụy ngoài chợ Rạch Ráng nghe nói tên Tư Đờ là thiếu điều té đái” (tr 35). Nay thắng trận rồi, Tư Đờ được Cách mạng ghi ơn cử làm giám đốc công ty xuất nhập khẩu. “Không biết thế nào, công ty ông ta thâm hụt mấy tỉ mà ông thì ngày một giàu” (tr 36). Mấy tỉ đây là tỉ đồng Việt Nam chớ không phải là tỉ đô la Mẽo đâu nghen – đừng có nghèo mà ham! Đổ bể, Tư Đờ bị bắt và đi tù – rất bình thường? Nhân vật nhà báo xưng “tôi” về nói lại với ba mình vốn là đồng chí du kích đã từng sống chết với Tư Đờ cả chục năm hồi thời kháng chiến. “Biết bao nhiêu lần tụi giặc càn vô vùng căn cứ Xóm Xẻo, tụi tao đánh giạt hết. Tao nè, Tư Đấu (Đờ?) nè, bác Mười Mực của mầy nè… bây giờ đứa còn đứa chết” (tr 36). Bởi lẽ đó, khi nghe con mình nói là Tư Đờ đã xộ khám, ba nhứt định không tin, mặc dù thằng con cứ nhắc khéo: “Làm kinh tế mà ba, đâu liên quan gì tới chuyện đánh giặc. Sẩy chân là chuyện thường” (tr 36). “Cái thằng này! Mầy nói cái gì mà kỳ cục vậy mậy? Tao nghe không có lọt lỗ tai!”

Bởi lẽ đó, mặc cho ai có nói gì thì nói, ông già vẫn cứ một mực không chịu tin. “Bây nói vậy, chớ làm lớn ai cũng hư hết sao? Tao coi ti vi, coi tụi bây viết, hễ làm giám đốc là phải có bồ, phải tham lam tiền bạc, phải ăn chơi. Tao hổng chịu” (tr 37). Thằng con cắt nghĩa nữa, ông già vẫn cứ gạt ngang: “Nhưng tao muốn nghe thằng Tư Đờ nó nói, nói thẳng thắn, thật thà, nó phải nói với tao sao mà tới nông nỗi như vậy, nó phải trả lời bà con Xóm Xẻo, chỗ bà con cưu mang nó mười mấy năm trời” (tr 42). Ông già không hiểu nổi cái sự thể đồng chí anh hùng cứu nuớc Tư Đờ oanh liệt của ông ngày xưa mà giờ đây xộ khám à? Không hiểu cũng phải, vì bây giờ ông vẫn còn tiếp tục cày ruộng, gặt lúa, tiếp tục “đầu tắt mặt tối, mưa nắng dầu dãi, nghèo vẫn hoàn nghèo” (tr 40). Có lẽ vì không hiểu nổi nên ông già đành phải níu vào một cái lý do, một cái cớ nào đó để mà tự an ủi, cho dù là một cái cớ hết sức mơ hồ, một cái lý do hết sức vu vơ. “Làm lớn, cũng khổ tâm lắm… Câu cuối cùng ông buông xuống, nhẹ như một tiếng thở dài” (tr 42). Và khi câu này đã buông xuống rồi thì giữa ông già và thằng nhỏ, ai buồn hơn ai? “Khi chuyến tàu chạy tuyến Cái Nước xa rồi, sao tự nhiên tôi buồn, buồn quá! Nỗi buồn này nặng hơn, trong suốt và nhiều gai nhọn hơn nỗi buồn của ba tôi” (tr 42). Giữa ông già và thằng con, ai mới thiệt sự là người thất vọng, và thất vọng ê chề? Dù không chi li, nhưng bằng một cách khéo léo qua lối kể truyện, Tư vạch cho thấy tâm lý các nhân vật của mình một cách tài tình. Nỗi buồn của thằng con, một nỗi buồn nặng nề, trong suốt và nhiều gai nhọn.

Tuy nhiên, trong cái không khí thất vọng não nề và buồn hiu đó, Tư cũng cố gắng đẩy ngòi bút mình vào một niềm vui lớn: đợt xóm kéo điện về. Trang 39 nhắc lại cái ngày lịch sử đó: “Cái xóm nhỏ oai hùng, cái xóm nhỏ nghèo quê tôi hai mươi sáu năm sau giải phóng người ta thấy được ánh điện đầu tiên trong đời. Người già Xóm Xẻo uống trà quạu thức sáng đêm nhìn bóng đèn điện cho đã con mắt” (tr 39). “Đã” như vậy mà đã “đã” chưa? Chưa! “Cái ánh sáng làm cho người ta tự tin lên. Còn tụi con nít bị đánh quắn đít mà dỗ hoài vẫn không ngủ được, tụi nó tưởng còn ban ngày” (tr 39). Tuy khóc mà là khóc trong niềm vui, khóc trong niềm hoan lạc của cái Xóm Xẻo nhỏ nhít mà thân thiết cật ruột. Và nhứt là oai hùng! Cái chi tiết nhỏ nhoi ngộ nghĩnh mà hết sức tuyệt vời!

Tập truyện đầu tay NĐKT của NNT được viết bằng loại mực tím than còn thơm mùi học trò. Bút pháp có những cái vụng về dễ thương mà lúc càng viết nhiều về sau này, đôi khi người ta thầm tiếc hùi hụi cái chất “học trò” bây giờ đã mất đó. Như một trinh nữ ngồi buồn nhớ lại, và chắt lưỡi… “Hỏi anh anh nói học trò, Sao em lại thấy anh cỡi bò hôm qua?” Truyện kể còn lan man, lộn xộn, thiếu mạch lạc và chưa thành hình rõ rệt. Đại khái, vẫn còn “Ngổn ngang” như một cái tựa truyện của Tư (tr. 60) trong NĐKT.

Tuy nhiên, ở thời buổi đó, ở cái tuổi đó, Tư viết như vậy kể như cũng đã là “được” lắm rồi.

*

Nắng Hậu giang mưa Tiền giang

Bạc Liêu ghiền cốm dẹp Sóc Trăng

Chắc Băng cọp rống Đầm Dơi hú

Ai đâm Hà bá miệt Năm Căn ?

Đi vào thế giới của NNT, thỉnh thoảng chợt bắt gặp lại những địa danh tưởng chừng như đã mất tiêu trong cơn lốc lịch sử phừng phừng lửa sắt vừa qua : Đầm Chim, Đầm Dơi, Chắc Băng, Cạnh Đền, Gành Hào, Năm Căn, U Minh, Trèm Trẹm, Mút Cà Tha… Rồi những tên đất, những tên rạch, những vàm, những xẻo, những làng, những xóm… ôi thôi kể sao cho hết ! Đối với những người thuộc địa phương khác thì những cái tên đó vô cùng xa lạ, hờ hững. Nhưng đối với những người đã từng lội bùn và tắm nước đục Hậu giang thì nó thân thiết vô cùng. Tên sông tên đất vang dội trong lòng như tiếng vượn hú không nguôi trong cánh rừng già. Hay tiếng mái dầm chợt đập chát trên mặt nước sông trong buổi chiều sẩm tối. Như một tiếng nhắn nhủ, như một lời mời gọi: “Về thăm! Về thăm em đi anh!”

Hãy thả chiếc xuồng nhỏ ba lá bơi vào Cánh đồng bất tận của NNT. Sẽ bắt gặp những doi đất nhô xa, những rừng mắm um tùm, những rừng tràm đặc khít, đám mái dầm vươn cao, lùm ô rô gai góc, những đàn cá lội nhởn nhơ, những bầy vịt chạy ùn ùn trên ruộng đồng xa tắp. Những cánh đồng… những cánh đồng… và những cánh đồng… Những cánh đồng không tên, chỉ được ghi nhớ bằng một chi tiết nho nhỏ, một kỷ niệm lạ lùng còn giữ được từ nơi đó. Bằng không sẽ không có cách gì nhớ nổi. “Bây giờ, gió chướng non xập xòe trên khắp cánh đồng Bất Tận (tên này tôi tự dưng nghĩ ra)” (tr. 208). Bằng linh tính bén nhạy, bất thần Tư tìm ra được tên gọi cho cánh đồng minh mông mình đang đi qua: Cánh đồng bất tận. Bất tận như một nỗi buồn. Như một buổi chiều chạng vạng trời mưa lâm râm, ngồi ngó trời đất minh mông mà rầu rĩ một mình. Cánh đồng bất tận. Hay là “Cái rầu bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư ?

Mưa Hậu giang nắng Tiền giang

Nhiều đêm không ngủ dạ mơ màng

Nhớ người nhớ đất mùi quê cũ

Ôi nắng Tiền giang mưa Hậu giang!

Tập truyện Cánh đồng bất tận, 213 trang, chia làm 14 bài viết. Có 5 bài đã xuất hiện trong tập Giao thừa: Cái nhìn khắc khoải, Hiu hiu gió bấc, Cuối mùa nhan sắc, Nhớ sông, Dòng nhớ.

Bắt đầu CĐBT là một cuộc tìm kiếm trên khắp hang cùng ngõ hẹp của ông già Năm Nhỏ. Cất tiếng gọi lớn: “Cải ơi!” (tr.7). Ông Năm tìm kiếm lăng xăng đứa con gái của mình. “Lúc nhỏ Cải mười ba tuổi, một bữa mê chơi làm mất đôi trâu, sợ đòn, nó trốn nhà” (tr. 8). Rồi trong cuộc tìm kiếm vô vọng, một đêm nọ ông Năm chợt biến thành “Tên trộm đãng trí”: ông đi ăn trộm trâu của người khác. Bị bắt, nhân lúc được phỏng vấn trên đài, ông nhắn nhe cầu may với con gái mình: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè, nhà mình ở Cỏ Cháy đó, nhớ không? Về nhà đi con, tội má con vò võ có một mình. Con là trọng chớ đôi trâu có nhằm nhò gì… Về nghe con, ơi Cải...” Nhưng Cải có nghe được tiếng gọi tuyệt vọng của ba mình không? Cải có hồi tâm mà trở về với má mình không? “Về đi về đi, Cải ơi Cải!”

Gió đưa cây cải về trời, Rau răm ở lại chịu lời đắng cay. Sau khi “Cải ơi!” đã về trời rồi thì tiếp theo là truyện Thương quá rau răm (dĩ nhiên), với cái cù lao Mút Cà Tha xa lắc – người miền Nam có thói quen nói “mút chỉ cà tha” để diễn tả cái gì kéo dài quá mức hoặc xa mút tí tè. Trên cù lao có ông Tư Mốt rất là chí tình với cuộc đất Cà Tha. Nhưng vì đời sống quá khó khăn và nguy hiểm, mọi người dần dần bỏ cù lao mà ra đi hết. “Và họ từ giã cù lao. Ông Tư Mốt ờ ờ ra chiều thông cảm, vẻ mặt cố tỏ ra không buồn nhưng hàm râu xuôi xị. Họ ngoắc đò đi rồi chú còn đứng mãi trên bến, nghĩ giận đám trẻ cù lao đã được học hành nhưng chẳng đứa nào chịu quay về” (tr. 19) Cũng thường thôi. Một hiện tượng “bỏ cuộc đất” quê mùa mà ra đi đã xảy ra đều đều khắp mọi nơi, ra đi khi ánh sáng “văn minh” lấn tới.

Kịp thời Văn từ đâu trôi giạt về. Chàng thanh niên được đặc phái tới làm việc tại trạm xá cù lao. Ông Tư Mốt và cô nhỏ Nga tìm đủ hết mọi cách chìu chuộng người từ xứ lạ tới để cầm chưn. Nước ròng trong rạch chảy ra. Em chào anh đi học ở xa mới dìa. Nhưng rồi rốt cuộc Văn cũng im ẩn bỏ cú lao mà lẵng lặng ra đi, không một lời từ giã. Trong một thoáng chùng chình, ông Tư Mốt tự hỏi: “Bên ngoài cái đất Mút cà tha dường như đã có sự thay đổi lớn. Thí dụ như con cá, lá rau, hạt gao mến thương của người cù lao không ràng buộc được một con người (như đã từng rịt chân ông lại), thì cái bóng nhỏ nhoi của đứa con gái đang tuyệt vọng đứng ngóng chờ dưới bến không có ý nghĩa gì sao? Tuyệt không đáng gì à?” (tr. 25). Câu hỏi quăng xuống bến nước Mút cà tha chìm lĩm biệt tăm, không thấy ai lên tiếng trả lời. Như vậy thì chắc là tiêu tùng rồi nhỏ Nga ơi! “Anh đi em một ngó chừng, Ngó sông sông rộng ngó rừng rừng sâu”. Sao nỡ để rau răm ở lại cù lao một mình chịu lời cay đắng?

Sang truyện khác: Không ai biết ông tên gì. Ông làm nghề nuôi vịt chạy đồng. Ông lùa bầy vịt lên một cánh đồng vừa mới gặt xong. Khi bầy vịt đã ăn mót hết lúa gặt rơi rớt trên ruộng rồi thì ông lùa vịt tới một cánh đồng khác. Rồi cứ vậy… cứ vậy… Trong bầy vịt của ông có con vịt xiêm tên Cộc rất khôn và hiểu được ông nói gì. “Ông kêu: “Cộc, biểu!” Con Cộc chạy lại, vẫy nước và cọ đầu vào bắp đùi đen bóng của ông” (tr. 50).

Một buổi chiều muộn, chợt ngó thấy một người đàn bà mặt mày buồn so ngồi dưới bực cỏ đợi tàu, ông quạt chèo cho ghe ghé lại. “Ông biểu chị xuống ghe cho quá giang. Chị vẫn khóc: “Tui biết đi đâu mà quá giang bây giờ. Hay… làm ơn cho tui theo anh đêm nay nghen”. Ông suy nghĩ rất lâu và trả lời một câu nhỏ xíu…” (tr. 52). Tuy nhỏ xíu mà lại đổ nợ lớn. “Thùng thùng trống đánh ngũ liên, Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa”. “Đôi chân đàn bà dè dặt bỏ xuống đầu ghe, con Cộc cúi đầu không nói không rằng lùi lũi lại tính mổ một cái vô chân chị mừng chơi nhưng ông la: “Cộc! bị đòn nghe mậy!” (tr. 52).

Người đàn bà (cô Út) về tá túc, và phụ tiếp bếp núc trong căn nhà lá cũ mèm của ông – căn nhà mà năm ba tháng ông mới về một lần. Mái lá có bốc lên chút khói xanh um uốn éo cũng bớt lạnh lẽo và đỡ buồn. Rồi cảm tình qua lại giữa hai người có con Cộc làm chứng. Rồi thời gian qua… Rồi mùa lúa chín tới. Rồi bọn thợ gặt kéo về. Trong đám thợ gặt có tình nhơn cũ của cô Út. Và cô Út đành đoạn lìa bỏ căn nhà lá ơn nghĩa cũ mèm để đi theo tiếng gọi của lòng. Bỏ người đàn ông ở lại một mình buồn hiu như cũ. Với con Cộc khôn dàn trời, dĩ nhiên. Nhái kêu chiều xế dưới mương, Thiếp đà an phận còn thương nỗi chàng.

Ông ngồi lại, bồn chồn. Hồi lâu, ông nói như chỉ nói với mình: “Mai mốt mình đi nữa hen Cộc?” Con vịt cạp mắt cá ông, đi thì đi, tui đâu ngán!” (tr. 61). Rồi ông già ngó con Cộc, con Cộc ngó ông già, bốn mắt nhìn nhau chẳng nói một câu. Chợt có ngọn “gió lùa lao xao trên những tàu lá chuối. Tiếng lá khô vỡ giòn giống hệt bước chân ai vậy. Ông không nén được, mắc ngoái nhìn” (tr. 61). Rồi ánh flash lóe lên và đồng thời “rắc” một tiếng! Gã thợ chụp hình giải thích: “Và tôi đã chụp chân dung ông trong cái ngoái nhìn khắc khoải đó” (tr. 61).

Chỉ với một chi tiết nhỏ của cái nhìn có ngấn nước ở khóe mắt trên tấm ảnh mà Tư đã viết được một truyện ngắn độc đáo, Cái nhìn khắc khoải (tr. 49). Tuy khắc khoải nhưng có xen lẫn một chút diễu cợt nhẹ nhàng, một chút chọc phá duyên dáng. Cười, mà bùi ngùi. Tư làm nhớ tới cái sắc sảo và tinh tế của Võ Phiến. Nói thế, nhưng chưa ngòi bút nào đi xa hơn Võ Phiến trong công việc quan sát, mô tả và thưởng thức những tình tiết chi li trong đời sống thường nhật. Ngoài ra, giọng văn của VP và NNT thuộc hai miền khác nhau: một Bình Định, một Cà Mau. Tuy nhiên, cho dù đang còn ở trong cuộc đất Cà mau, giọng văn của Tư trong CĐBT đã pha lẫn những tiếng không thuộc miền đất Hậu giang. Một sự chuyển hướng? Cũng giống như mọi người đã lần lần bỏ cù lao Mút Cà Tha mà ra đi trong niềm tiếc nuối của ông Tư Mốt và nhỏ Nga? Bỏ đi. Như một định mạng khắc nghiệt, bỏ đi là một hành động nòng cốt xảy ra đều đều trong truyện của Tư. Bỏ nhà: Cải ơi! Bỏ cù lao: Thương quá rau răm. Bỏ người, bỏ vịt: Cái nhìn khắc khoải. Bỏ chồng: Một mối tình. Lại bỏ chồng và bỏ đi: Biển người mênh mông. Bỏ trốn: Một dòng xuôi mải miết. Bỏ ghe: Nhớ sông. Bỏ tùm lum, bỏ dài dài: Cánh đồng bất tận. Bỏ người yêu, bỏ bến: Duyên phận so le, Dòng nhớ. Chợt nhớ thơ Nguyễn Bính: “Bỏ thuyền bỏ bến bỏ dòng trong, Cô lái đò kia đi lấy chồng. Vắng bóng cô em từ dạo ấy, Để buồn cho những khách sang sông…” Dặn hờ: “Tư ơi Tư! Đừng có bỏ đi bất tử nghe Tư! Buồn lắm đó nghe! Buồn nát cả tâm can. Buồn như “rót lệ vào tim” (điệu này chắc tui chết!). Đừng có bỏ đi bất tử nghe Tư!”

Mưa Tiền giang nắng Hậu giang

Ngày đi binh lửa rưới điêu tàn

Ngày về Bình Thủy miền quê ngoại

Biết có hiền hòa như xưa chăng?

Bỏ đi. (Bỏ đi Tám?) Như đã nói, bỏ đi gần như là một ám ảnh ray rứt không thể nào thiếu vắng được trong truyện của NNT. Biển người mênh mông (tr. 99) cũng theo thông lệ đó mà thôi. Má bỏ đứa con rơi của mình (Phi) để theo ba. Phi sống với bà ngoại. Đang học nửa chừng, Phi thôi học, bỏ đi (lại bỏ đi!) theo đoàn hát. Khít vách Phi có ông già Sáu Đèo làm nghề bán vé số mới dọn về mướn một căn để ở. Lúc dọn làm mất hết mất thùng cạc tông đựng mùng mền quần áo nên ông Sáu chỉ còn vỏn vẹn có một bộ đồ duy nhứt dính da.

Một bữa trời trở chướng, ông Sáu nhức mình nhức mẫy nên nhờ Phi qua nhà cạo gió cho ông. Nhắc chuyện xưa, ông Sáu kể “hồi trẻ, ông sống toàn trên sông, ông có chiếc ghe, hai vợ chồng ông lang thang xứ này xứ nọ (…) nước ngược cắm sào đậu lại thổi cơm, bìm bịp kêu, nước bò lên bãi ông cho ghe ra bến. Cuộc sống nghèo vậy mà vui lắm” (tr. 108). Ông Sáu kêu vợ mình bằng “cổ”. Phi cạo mạnh, ông Sáu rên đau, Phi hỏi đau chỗ nào, ông trả lời: “Ừ, cái chỗ này, chú mày không làm qua hết đau được đâu. Ông già Sáu mếu máo chỉ về phía tim. “Cổ đi rồi. Sống khổ quá nên cổ bỏ qua. Cổ lên bờ, không từ giã gì hết, bữa đó đúng là qua bậy, qua nhậu xỉn quá trời, rồi cũng có cự cãi mấy câu, cảnh nhà không con nên sanh buồn bực trong lòng, qua có hơi nặng lời, cổ khóc. Lúc thức dậy thì cổ đã đi rồi” (tr. 109).

Kể từ lúc vợ lìa ghe lên bờ và bỏ đi (lại bỏ đi!) mất biệt, ông Sáu cũng bỏ ghe. Không phải để lấy vợ khác làm ăn mà là lên bờ đổi nghề bán vé số và lặn lội khắp bốn phương trời để tìm kiếm vợ mình. “Tìm em như thể tìm chim, Chim ăn biển bắc đi tìm biển đông”. “Qua đã tìm gần bốn mươi năm, dời nhà cả thảy ba mươi ba bận, lội gần rã cặp giò rồi mà chưa thấy” (tr. 109). Rồi sau một đêm rượu đưa tiễn dưới trăng (như đưa tiễn tráng sĩ Kinh Kha sang sông Dịch hành thích bạo chúa) ông Sáu lại lên đường gian nan đi tìm “cổ”. Ông giao con bìm bịp lại cho Phi nhờ nuôi giùm. Nhiều bữa, bìm bịp kêu thê thiết cả đêm làm Phi không ngủ được. “Phi giở cửa lồng, con bìm bịp đập cánh xao xác, đứng niểng đầu nhìn anh buồn lắm, sao anh ngồi đây mà tía tôi đâu? (…) Tía thấy tao buồn nên để mầy ở lại, nhưng rồi lúc ông già bé nhỏ ấy buồn, ai kêu nước lớn cho ổng nghe?” (tr. 110). “Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi, Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê”

Rồi ông Sáu có tìm gặp lại vợ mình sau bốn mươi năm lặn lội? Hai người sẽ chung sống bên nhau hạnh phúc như xưa, trên một chiếc ghe thương hồ khác, với một con bìm bịp khác để nó kêu báo hiệu nước lớn cho ông Sáu xô ghe lên đường? Không rõ. Chỉ biết kể “từ đấy, ông Sáu Đèo chưa một lần trở lại. Từ đấy, giữa biển người mênh mông, Phi gặp biết bao nhiêu gương mặt, cùng cười đùa với họ, hát cho họ nghe, cùng chạm ly uống đến say…” (tr. 111). Và Tư đã thòng một câu kết: “Biển người thì mênh mông vậy…” (tr. 111).

Trong tập Giao thừa, Tư cũng đã thòng một câu kết tương tự trong truyện Đời như ý: “Làm gì có chuyện đời như ý?” (GT, tr. 66). Những câu kết đại loại như một “phán xét cuối cùng” này, thiết tưởng nên để cho độc giả tự suy gẫm lấy thì tốt hơn. Nếu thực sự tha thiết với ý đó, Tư có thể viết một cách khác để kết việc.

Ngoài cái “tuồng ruột” một người bỏ đi, một người tìm kiếm, qua truyện BNMM Tư cho thấy lòng tin cẩn của mình đặt vào cái bản năng chân thật hồn nhiên của muông thú, như bìm bịp chẳng hạn – còn con người thì nói chi! Cái lòng tin này của Tư cũng được thể hiện qua vịt xiêm Cộc trong Cái nhìn khắc khoải và con vịt đui trong Cánh đồng bất tận. Có cảm tưởng Tư thích sống chung đụng với thú vật, thích sống trà trộn với thiên nhiên, với đất đai, với sông nước. Tự muôn đời, đó vẫn luôn luôn là những nguồn an ủi lớn lao sau những lần va chạm não nề với loài có lý trí (hiu hiu) và với cái gọi là (le lói) văn minh.

Sau khi vượt qua Biển người mênh mông, người đọc lọt vào Cánh đồng bất tận, tựa cuối của tập truyện mang cùng tên của NNT. Cánh đồng này dàn trải từ tr. 155 đến tr. 213, cộng 59 trang, có thể coi như truyện vừa – không dài, không ngắn. Chỉ nghe cái tên truyện thôi cũng đã thấy mỏi chưn. Oải! Mệt thấy rõ! Tuy nhiên cũng cứ đi thử coi nó ra làm sao. Để coi cánh đồng nó “bất tận” tới mức nào ở cái vùng đất Cà mau bùn phèn bát ngát này.

Nắng Hậu giang mưa Tiền giang

Đầm Dơi tay ngoắc cánh chim ngàn

Mơi mốt về Cà mau ăn Tết

Hưng Mỹ hăng mùi pháo nổ ran

Bắt đầu là một cánh đồng. Tiếp theo là một cánh đồng thứ hai. Rồi lại một cánh đồng nữa… tiếp giáp một cánh đồng khác nữa… khác nữa… « Cánh đồng không có tên. Nhưng với tôi và Điền, chẳng có nơi nào là vô danh, chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỷ niệm mà chúng tôi có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ tôi có kỳ kinh nguyệt đầu tiên… » (tr. 159). Cho tới một bữa nọ nhân vật nữ, Nương (hay là Tư ?) tự dưng nhận thức ra… « bây giờ gió chướng non xập xòe trên khắp cánh đồng Bất Tận… » (tr. 208). Phải rồi ! Cái tên sao mà đúng quá đúng : Cánh đồng bất tận! Vì cánh đồng này có bao giờ chấm dứt ở một chỗ nào đâu. Đi hoài, đi hoài. Vẫn còn cánh đồng.

Bây giờ đi vào CĐBT, Tư đã có một số kinh nghiệm trong công việc đưa đẩy ngòi bút của mình. Tư không viết như hồi cái thuở ban đầu (lưu luyến ấy) của Ngọn đèn không tắt, nghĩ gì viết nấy, không cần sắp xếp, lộn xộn. Hoặc như trong Giao thừa, truyện kể đơn độc, một dòng. Tư đã biết đưa đẩy ngòi bút của mình trở ngược trở xuôi trong thời gian, trong ký ức. Đã biết lúc nào thì cho nhân vật nào xuất hiện, cho chuyện gì xảy ra. Đi sâu hơn nữa vào tâm lý nhân vật. Biết dàn dựng cốt truyện, chọn lựa bút pháp. Đọc lôi cuốn. Và kết thúc gọn nhẹ. Đẹp. Có tiến bộ tốt rõ rệt. Một điểm son.

Trên CĐBT xuất hiện nhân vật đầu tiên: cha (Ủa! bộ ở cái mũi Cà mau tận cùng miền Nam này, bà con ta đã bắt đầu gọi ba bằng cha hết rồi sao?) Cha và hai con mình, một gái (Nương), một trai (Điền) sống trên ghe làm nghề du mục, nuôi vịt chạy đồng. Khởi thủy, cha làm nghề mộc, thường xa nhà. Má, người đàn bà đẹp nhứt xóm, trắng tươi như bông bưởi, ham mê vải vóc. Để đổi lấy xấp vải đỏ, má khứng chịu cho tên buôn vải dày vò thể xác mình. Rất tình cờ, từ kẹt bồ lúa hai con chứng kiến. Lở dở, má bỏ hết đồ đạc lại nhà và trốn sang xứ khác để khỏi phải chịu đựng nhục nhã với chồng con. Nhưng rốt cuộc người chồng cũng biết. Ông đốt nhà, đốt hết đồ đạc vợ để lại rồi dắt hai con xuống ghe sống đời du mục, nuôi vịt lùa. Mối hận đầy ứ trong tim. Hận vợ. Hận hết thảy đàn bà trên đời.

Để băng bó và rịt thuốc cho vết thương mình, người đàn ông trả thù. Trả thù không phân biệt, trả thù trên bât cứ người đàn bà nhẹ dạ nào đã trót nghe theo lời ông dụ dỗ mà trao thân. Ông dày vò, cắn xé họ hả hê, khinh bỉ, kiêu ngạo. Một người, hai người… Rồi năm người, mười người… Xong, ông vứt họ lên bờ như một băng vải nhớp nhúa đã giúp ông tạm rịt vết thương mưng mủ của mình. Càng kinh nghiệm về đàn bà, ông càng sắp đặt kỹ, càng thâm hiểm hơn. “Với những người đàn bà sau này, cha tôi tính toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng, và bỏ rơi họ đúng lúc” (tr.189).

Những cuộc trả thù của cha đã từ từ thấm độc vào cơ thể thằng con trai mình hồi nào không hay. Tới tuổi mười sáu dậy thì, Điền có những triệu chứng bất thường. Trong thế giới của Điền, giờ đây có thêm một người đàn bà từ bên ngoài lọt vào, đầy ứ sức sống, lồ lộ, ám ảnh: Sương, một cô gái đĩ “du mục” được cha con Điền tình cờ cứu thoát sau khi bị đánh ghen một trận nhừ tử. “Điền yêu chị, nhưng tình yêu đó khiếm khuyết mất rồi. Sau giấc ngủ dài, bản năng nó không trở dậy. Trái tim nó chỉ là một hòn than nhỏ, không thể hâm nóng lại cơ thể ngả màu tro” (tr. 200). Trong cơ thể đứa con trai, một ngọn đèn trời ban sẵn cho mỗi người đã tắt: bản năng tình dục. Cái bản năng đã thúc đẩy má nó ham làm đẹp, đã xúi giục tên buôn vải thèm muốn thân thể trắng muốt của má, cái bản năng đã thúc đẩy Sương bước vào nghề làm đĩ. Tuy nhiên, trong cơn bão trốt phăng cuốn hết mọi người quanh mình, cái linh tính tự nhiên vẫn khiến cho Nương thầm nghĩ : “Tôi không chắc lắm, nhưng dục tình và xác thịt không xấu xa, không đáng bị khinh bỉ, không phải là nguyên nhân đẩy chị em tôi đến cuộc sống này với những đổ vỡ này…” (tr. 193)

Đời sống du mục với bầy vịt ốm nhom vẫn tiếp tục buồn bã trôi xuôi trên đồng không mông quạnh, vắng bặt tiếng người. Như vậy vẫn chưa đủ. Dịch cúm gia cầm thình lình từ trên cao úp chụp xuống bầy vịt chạy đồng như một màng lưới đan khít, vô phương đào thoát. Mọi người giương mắt thao láo chứng kiến cuộc tàn sát tập thể, bất lực. “Xuyên qua những lớp đất bầy nhầy, tôi nghe vịt của tôi vẫn còn thoi thóp, chúng đau đớn vì những cái cổ gãy, rồi quặt quẹo, chúng hỏi vì sao tụi người ta lại ác. Rồi thinh lặng. Trong cái im ắng đến rợn người, tôi nhận ra tiếng của con vịt mù, có lẽ vì không sợ tối, nên sự sống kéo dài (…) Tôi tiếc thôi là tiếc sinh linh nhỏ bé đã thấu được tim mình” (tr. 197/198). Một nhận xét tinh tế, đầy ắp xúc cảm và chan chứa xót thương.

Để cứu vãn tình thế, Sương tự ý nạp mạng cho hai nhân viên được nhà nước đặc phái tới cánh đồng hoang để kiểm tra và tổ chức cuộc tàn sát tập thể. Sáng hôm sau ngất ngư trở lại ghe, bị cha diễu cợt độc ác, Sương đã chua chát ngó thẳng vào bộ mặt người đàn ông chai đá, để rớt từng lời một với Nương: “Má cưng ác một, nhưng người cha này của cưng ác tới mười.” Rồi Sương bỏ đi. “Thằng Điền xách nước về, nó cuồng lên hỏi chị đâu. Tôi chỉ con đường kinh xao xác hoa cỏ dại. Em tôi chạy hồng hộc về phía đó” (tr. 204)

Sương bỏ đi. Điền cũng bỏ đi. Mọi người bỏ đi hết. Chỉ còn đứa con gái ở lại với người cha trơ trơ của mình, đôi mắt không ngừng mong ngóng, lòng đầy ắp những câu hỏi thảng thốt: “Không biết tối nay thằng Điền có được mệt nhoài úp lên chị, hay vật vạ ở đâu đó, bên vách buồng (hay một tấm ri đô bằng vải), đau vật đau vã nghe hoan lạc chảy thành những dòng rên xiết, kêu thét” (tr. 205) Câu hỏi thất lạc giữa đồng không mông quạnh. Để Nương ở lại chèo queo một mình trong lòng ghe tối đen không ngừng chao lắc.

Dù bị trục trặc lớn, cuộc đời du mục vẫn gắng gượng tiếp diễn trong nhàm chán. Và Nương vẫn tiếp tục lớn lên theo thời gian. Cho tới thời kỳ trổ mã con gái, đẹp hẳn ra. Đẹp hấp dẫn. Đẹp não nùng. Đẹp bắt mắt. Đám thanh niên trên cánh đồng bắt đầu kiếm cớ lảng vảng quẩn quanh. Và cha cũng bắt đầu để ý tới đứa con gái của mình. “Không cần gương, tôi nhìn thấy hình bóng má trong mắt người đối diện. Trước ánh nhìn của cha, tôi cảm giác mình soi xuống dòng nước đêm” (tr. 206).

Cuộc sống nuôi vịt càng lúc càng khó khăn, sinh ra giành giựt, tranh lấn, cưỡng đoạt. Bắt đầu có những trận đánh nhau hung tợn, đánh nhau chí tử để tranh giành miếng ăn. Cho tới một bữa nọ… Một biến cố quyết định cuộc đời Nương thình lình từ trên cao ụp xuống như đám mây chì đen nghịt. “Ba người họ ập tới từ phía sau, quây lấy tôi, quần áo vẫn còn đẫm bùn, mặt mũi sưng sỉa. Những thằng con trai hơi ngỡ ngàng khi nhìn thẳng vào tôi, một đứa gầy gò trạc tuổi thằng Điền lau dãi ròng rãi trên khóe miệng, thảng thốt, “Con nhỏ đẹp quá, mày” (…) Và món hàng bị ghì ngửa trên mặt ruộng bì bõm nước” (tr. 210). Nghe tiếng kêu cứu tuyệt vọng của con gái mình, cha hoảng hốt nôn nả chạy ngược trở lại, xông thẳng vào đám côn đồ, tay chân vung đánh loạn đả. “Một tên côn đồ ối lên một tiếng, bụm lấy mắt, vừa kêu rên vừa chửi bới ngậu xị. Không đánh trả, nó có cách trừng phạt khác, nó đè nghiến, giữ cho mặt ông hướng về phía tôi. Và bọn chúng thay phiên nhau, giữ cho cha chỉ một tư thế đó” (tr. 211).

Rồi…

Người đọc thấp thỏm theo dõi cuộc cưỡng hiếp dai dẳng diễn ra trên cánh đồng hoang vắng cho đến cuối truyện. Và bồi hồi đón nhận thông điệp mà người con gái bất hạnh (hay Tư?) muốn nhắn nhủ với giống người hung hăng đang gieo rắc tội ác trên Cánh đồng bất tận.

Nắng Hậu giang mưa Tiền giang

Nuôi tôi khôn lớn phù sa vàng

Mơi tôi về đất xin cho rắc

Xuống con sông Cửu nhúm tro tàn

Bài Cái rầu bất tận của NNT chấm dứt ở dòng này. Bài thứ hai, Sông nước Hậu giang và NNT sẽ đề cập đến hai tác phẩm còn lại: Giao thừaTạp văn.

Chuông ngân chạnh nhớ yêu đầu

« Ma đưa lối quỷ đem đường

Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi »

Kiều

Tôi ngồi xếp bằng rất nghề và rất gọn dưới Phật đài. Cứ xem thế ngồi, có thể xác định được người việt gốc cũ hay gốc mới. Dân gốc cũ ăn thì ngồi xếp bằng (kiểu ăn giỗ), ỉa thì ngồi chồm hổm (kiểu cóc ngồi). Dân gốc mới lâm vào tư thế này người cứ bật ngửa ra đằng sau, hay cứ lắc la lắc lư như con lật đật.

Tôi bắt đầu ê a theo mọi người, quyển kinh chú đặt ngang tầm rún: “A di rị đa tỳ ca lan đế, Á Nàm Dành di rị đa tỳ ca lan đa, dà di nị, dà dà na…” Ngôi chùa tọa lạc vùng ngoại ô Paris, không xa nghĩa địa mấy. Tôi được vợ chồng người bạn mời tham dự lễ cầu siêu cho ông già vừa mất ở Sài gòn. Trên Phật đài, một vị sư trẻ nện chày trên một cái mõ lớn để giữ nhịp. Giọng sư rền rền rất tốt (tưởng có thể hát opéra được). Tóc sư mọc lún phún một lớp dày, không nhẵn thín như các nhà sư tôi thấy ở chùa hồi nhỏ. A di rị đa… dà dà na…

Buổi sáng hôm đó trời quang mây tạnh. Trời vừa chớm thu mát mẻ. Trên mảnh kính đục nằm nghiêng trên mái chùa, bóng tàn lá gì như thể lá chuối phất phơ. Bóng đen và ánh sáng đùa giỡn với nhau thật linh động. Một chút mùi thiền ngấm vào hồn. Lòng tôi thanh tịnh nhưng đồng thời cũng nao nức ham sống. Một lần nữa tôi nhận thức tôi chưa thể tu được. Tôi chợt cảm ngộ cái không khí ngày xưa tôi thường theo má lên chùa lạy Phật. Chùa là một ngôi nhà lá nằm trong miệt vườn Vĩnh long. Đó là chánh điện thờ Phật. Trong sân chùa có một cái am nhỏ để thờ các Bà các Cô và dành cho đồng bóng. Hình như chùa không có tên, hoặc có tên mà tôi không nhớ ra trong bộ óc chưa già mà đã lẫn này. Chỉ quen gọi là chùa Bà Đội.

Hồi nhỏ tôi đi chùa không phải vì tin Trời hay tin Phật gì ráo. Chùa có hủ tiếu chay, có xôi có chè. Ngày cúng cô hồn có cả heo quay, thủ vĩ, bánh ít nhưn lạp xưởng. Và dĩ nhiên ăn ở chùa thì đúng là “ăn chùa”. Từ ngữ này sau đó lọt vào thế tục thành tiếng lóng: “ăn chùa”, “chơi chùa”, “tiên chùa”,… và có lần tôi đã bị một em chỉnh: bộ “của chùa” sao cứ tằn mằn hoài vậy? Kẻ cắp gặp bà già, mặt mày tôi sượng trân.

Tuy chưa biết tin Trời Phật nhưng tôi cũng không có lý do gì chính đáng để chống báng việc đi chùa lạy Phật với má tôi cả. Trái lại, dần dần theo năm tháng, tôi tìm được một lạc thú mới khi lên chùa. Nhưng cái vui vốn lại dính liền với cái khổ (sau này tôi mới biết Phật đã nói như vậy từ khuya)

Ô em áo đỏ bay bay,

Bên chùa chợt ngó, bụng hoài tương tư.

Quả vậy, lần đầu tiên trong đời tôi biết tương tư, vào tuổi xuân 11 hoặc 12 gì đó. Tương tư một cô gái nhỏ cùng đi theo mẹ lễ chùa (và ăn chùa) như tôi. Cô bé có đôi mắt lớn dễ thương, ưa nhìn. Hai đứa tôi chỉ lén lén ngó nhau, chớ đứa nào cũng nhát hít, chẳng ai dám nói với ai một câu nào, tuy trong lòng đã có bụng ưa. Nhưng rồi xa nhau cũng vì nhút nhát. Tình yêu đầu đành để cuốn theo chiều gió… sau chùa. Bây giờ mỗi lần nghe tiếng đại hồng chung ngân nga tôi thấy tim mình rúng động, ngẫm ra mới biết:

Chuông ngân chạnh nhớ yêu đầu,

Tóc xưa giờ đã qua cầu gió bay…

Tôi theo má đi chùa giống như nghị gật theo chân lãnh tụ, lập trường tạm gọi là khá vững. Ngược lại, ba tôi thì đối lập 150 phần trăm. Âu đó cũng là cái nghiệp của ông. Tiếc thay ông không làm chánh trị. Nếu lọt vào chính trường thì ông sẽ đứng về phe đối lập… cho tới chết. Nếu không còn ai để chống thì ông sẽ quay ra đối lập với chính mình.

Ba tôi lúc còn ở miệt vườn cũng học chữ nho, vận khăn đóng áo dài và búi tóc. Nhưng ông là người đầu tiên trong dòng họ tự ý xởn tóc, bận sơ mi và ra thành học chữ quốc ngữ. Khổ nỗi khi ông viết thư thì tỉ như gián điệp viết mật mã, chỉ mình tôi khám phá được bí mật, đọc và hiểu nổi. Ông cũng biết chút ít bùa chú. Khi tôi bị sưng hàm, ông khóan bùa Lỗ Ban dán lên chỗ đau thì thấy có xọp thiệt. Nhưng ông vẫn không tin. Mấy đời trước, dòng họ tôi nhiều vị làm pháp sư có tiếng. Ba tôi kể một bận ông chú pháp sư của tôi đi cầu ở bờ sông nước lớn ban đêm. Bỗng thấy Bà xẹt, ông chơi cắc cớ bắt ấn một cái, buộc Bà phải đứng lại cái rụp (mới biết tay ấn ông cao!) Sau khi phóng uế xong, ông lơ đãng khoát nước rửa, nên buông lơi tay ấn, thừa cơ Bà xẹt tiếp trúng đầu ông một cái bật ngửa lọt xuống sông. Khi người ta vớt được ông lên thì ông bị á khẩu. Sau đó phải rước sư phụ của ông tới giải phép, ông mới nói lại được, nhưng đồng thời cũng bị phế hết võ công, giải nghệ thầy pháp luôn.

Đã ghét thầy pháp, ba tôi lại còn đại kỵ đồng bóng. Ông nói mấy bọn đó gieo rắc dị đoan, lừa đời dối thế, dụ con nít, gạt bà già. Không phải vô cớ đâu. Hồi ở Xóm Mới, chủ nhà của tôi là một người đàn bà góa bụa, có đứa con cứ đau yếu hoài, nên mời bóng tới cúng rỗi trừ căn. Má tôi cũng nhân thể mời bóng sau đó ghé nhà mình lên đồng một phát. Bóng này là bóng đực rựa, có cái hỗn danh độc nhất vô nhị võ lâm là “Mười Lòng Thòng” (cái tên không khá được). Bóng dọn bàn hương án giữa nhà bà chủ rồi gõ trống hát rỗi… “vui lắm Lịnh bà ơi!”… Một chập, say nhang đèn hay sao không biết, tự nhiên bóng nổi hứng hát tiếp: “ứ ự ứ ự… bây giờ gia chủ làm Lan… ứ ư… ta làm Điệp… ứ ư… thì gia đạo mới yên… ứ ứ ứ…”, khiến bà chủ nhà nghe qua đỏ mặt tía tai, còn lối xóm thì che miệng cười thầm. Đã thế, Mười Lòng Thòng còn quấn một cái khăn lau mặt trước rún, vừa hát rỗi vừa ưỡn ẹo trông rất quái gở. Bọn con nít chúng tôi thì coi như pha cái đề nghị “Lan và Điệp” của Mười Lòng Thòng với bà chủ. Chúng tôi biết chắc sau khi màn vũ chấm dứt sẽ có màn thí cô hồn, thế nào cũng vớ được chút kẹo đậu phọng, kẹo mè, bánh men, bánh gai, thèo lèo cứt chuột. Chúng tôi hờm sẵn.

Rời nhà bà chủ, bóng ghé nhà tôi để má tôi cầu đồng. Bóng hỏi gia chủ có cái khăn đỏ để phủ đầu không? Má tôi nói không có khăn đỏ, chỉ có khăn vằn ăn trầu của bà mà thôi. Bóng nói “không có khăn đỏ xái đỡ khăn vằn cũng được”. Khăn vằn vừa chụp lên đầu là hắn ợ ngáp một hơi rồi cười ăng ắc: đồng đã nhập! Đồng trả lời vớ vẩn mấy câu hỏi rồi mở túi hành nghề lấy mấy viên thuốc tễ bán cho má tôi để trị chứng ăn không tiêu. Má tôi vừa đặt tiền xong là đồng đánh tiếng “thôi ta kiếu gia chủ ta thăng”, đoạn ợ một cái thiệt dài rồi thăng luôn. Sau khi Mười Lòng Thòng ra về, ba tôi nói: “Bà cho tôi mượn cái khăn vằn của bà để đi làm ăn như thằng cha hồi nãy coi vậy mà khá!” Dĩ nhiên má tôi cũng không phải bạ đâu tin đó: bà liệng mấy viên thuốc tễ xuống đường mương kèm theo câu rủa “thứ đồ mắc dịch!”

Nhưng không phải kinh nghiệm chiến trường nào cũng “mắc dịch” như vậy. Hồi tản cư mới về thành tôi bị đau chứng gì không biết, ho luôn hai ba tháng muốn đứt hơi mà không có thuốc uống. Kế bên nhà có ông (bà?) bóng lại cái một tối lên đồng, lấy một tách nước lạnh vẽ bùa lẳn tẳn đưa cho tôi uống, vậy mà dứt ho luôn. Thành thử bây giờ ai hỏi tôi tin bùa chú hoặc quỷ thần hay không, tôi không biết thế nào mà trả lời dứt khoát cho được. Ba tôi thì vẫn đối lập là cái cẳng. Chẳng những không tin cốt đồng mà còn nghi cả cái vụ bán nam bán nữ của bóng. Ông xúi anh rể tôi: Bữa nào mầy rình thằng chả đi đái rồi xông ra kéo quần coi thử.

Nói ông già, cần phải phân biệt ông già vợ và ông già ruột, nhứt là trong trường hợp đặc thù của tôi. Khi tôi nói ông già, nên hiểu là ông già ruột, tức ba tôi đó. Ông già vợ tôi thích nuôi cá thia thia và nuôi gà đá độ, đặc biệt là gà nòi. Một bữa ba tôi ghé nhà thăm anh suôi. Thấy ông đang ngồi chuốt cựa gà ngoài sân, ba tôi kề tai nói nhỏ: anh đi đá vịt với tôi vui hơn. Đá vịt? Ông già vợ tôi tưởng ông già tôi nói lộn, cho nói lại. Ba tôi vẫn nhất quyết là đá vịt chớ không phải đá gà. Ông cho thêm chi tiết: Bà Tư Cắc Kè ở xóm ti ?? mới có mấy con vịt mái tơ ngộ lắm. Bấy giờ ông già vợ tôi mới hiểu ra, nhưng chỉ cười trừ. Rốt cuộc, mạnh ai nấy theo nghiệp căn của mình, một đàng đá gà dài dài, một đàng đá vịt mút mùa (lệ thủy).

Hồi ở Vĩnh long, tôi cư ngụ cả thảy ba nơi, mà nơi nào cũng ở gần bên hoặc ngó ngang nhà chứa: căn nhà đầu tiên là nhà của anh tôi do Sở Bách Phần cấp cho, tôi ở tạm đó để anh tôi tiện kèm bài vở. Ngày ngày “tung trời xanh, én nô đùa reo mừng…” tôi phải đi ngang một cái “bọt đền” dành cho lính tây và lính lê dương xả xú báp. Lúc nào cũng có một hai cô son phấn toe toét, đứng chống nạnh trước nhà chứa hút thuốc phì phà, áo hở ngực phơi hai quả tuyết lê thắt dưới cho trồi lên, trông phát ớn chè đậu. Mỗi bận đi ngang tôi đều kéo nón xuống che ngang mày, nhưng dưới vành nón không ai để ý tôi liếc xéo qua một bên, bên mặt hay bên trái tùy theo bận đi hay bận về. Mấy ả đâu thèm để ý đồ nhóc con, vậy mà tôi cứ lo sợ mấy ả nghe được tiếng nuốt nước bọt của mình. Qua khỏi nhà chứa tới đầu đường, trước khi tới trường Cao Tiểu tôi quẹo trái, đi ngang một cái Miễu Bà khá lớn nằm trên một gò đất cao, dưới gốc một cây đa xà già nua, nhánh rễ chằng chịt. Tôi giở nón cúi đầu chào Miễu, mà trong bụng cứ nơm nớp không yên. Nghe đồn Miễu linh lắm, ai có ý nghĩ gì xằng bậy, Bà biết được vật chết liền. Thành thử thằng lỏi cũng hơi teo.

Một bữa tự nhiên mắt tôi nổi mụt lẹo. Ba tôi cười nói: tại mầy ngó tầm bậy chớ gì? Tôi đâm hoảng, tưởng ông đọc được thấu tim đen của mình. Má tôi nói ông đừng có chộ thằng nhỏ; rồi bà mua lười ươi hột é về ngâm cho tôi uống không có đường cho hạ hỏa, mụt lặn. Ba tôi kiếm ở đâu không biết cặp kiếng mát, đưa cho tôi với cọng rau răm biểu giắt lỗ tai để chống ô uế. Tôi cũng bấm bụng nghe theo. Mỗi lần đi ngang bọt đền tôi cứ lo rui rủi có ả nào cắc cớ hỏi “sao hôm nay em đeo kiếng mát?” tôi sẽ không biết trả lời ra làm sao. Nhưng rồi sau đó tôi lại tự hỏi chẳng biết có ả nào để ý cái lối hóa trang kỳ cục của tôi không nữa: thằng lỏi với cặp kiếng mát bự tổ chảng và cọng rau răm tòn teng ở tai!

Qua đâu hai năm sau tôi về ở với ba má tôi gần rạp hát Lạc Thanh. Ngang nhà, bên kia đường, sau một khoảng đất trống là nhà ông Bảy Trào, vừa giặt ủi vừa nuôi em. Khách tìm hoa cứ vô rậm rật. Có một bà đĩ già người Miên lai, tên Ba Lĩ (Marie?) rất ba gai, mỗi lần say rượu là cởi trần ngồi bên lề đường, đụng ai chửi nấy, đụng gì chửi nấy. Vậy mà gặp tôi là một mực “chào cậu” và hỏi thăm sức khỏe. Nhà tôi cũng chỉ đủ ăn, chẳng hách về mặt tài chánh, nhưng được cái tôi học giỏi có hạng, mà xóm tôi thì lại khoái và nể những người học giỏi. Chẳng riêng xóm tôi mà cả tỉnh đều vậy. Như bận nọ, tôi đưa một em bán nước dừa ở ngoài chợ về xóm vắng ban đêm, một đám côn đồ ganh tị chận đường kiếm chuyện, tính đập tôi một trận cho bõ ghét. Em bé bèn lột guốc cao gót ra cầm ở tay, đoạn lấy thân bồ liễu án ngữ trước người tôi rồi hét: “Tụi bay đừng có đụng tới anh Kiệt của tao! Anh Kiệt tao đậu tới… hai cái tú tài!” Nhưng một tú hai tú gì bọn kia cũng vẫn sấn tới. Em bé dọa la làng bọn kia mới chịu de. Tôi mở ngoặc như vậy để cho thấy học giỏi có thớ với xóm làng và mấy em trong tỉnh lẻ dữ lắm.

Nhưng khổ nỗi, ở ngay tại xóm mình, có thớ kiểu đó cũng hơi kẹt. Xóm tôi có ông Bảy Hoàng, cả ngày nhậu li bì, mặt mũi đỏ lưỡng, sần sùi, vậy mà sanh bốn cô con gái cô nào cũng đẹp như tiên, nét mặt giống như cô gái mà họa sĩ Lê Trung thường vẽ lịch. Bốn cô đều tứ chiếng giang hồ, đổi kép như thay áo. Tôi trông mấy cô ngực mông đâu ra đó, cũng ham lắm. Nhưng đối với mấy cô, tôi là loại thư sinh chân chỉ hạt bột, gặp cũng chào hỏi nể nang… vậy thôi. Riêng tôi cứ thầm ao ước được sống một màn liêu trai, một trong bốn cô là hồ ly tinh, nửa đêm đổi xác làm mỹ nhân đến dụ dỗ gã thư sinh mặt trắng (dù mặt tôi cũng không được trắng gì cho lắm).

Đâu có ai ngờ ít lâu sau giấc mơ đó thành sự thật – hay sự thật đã đi vào giấc mơ? Theo diễn tiến tự nhiên của trời đất, tôi chấm dứt giai đoạn “thằng lỏi”, thân thể cũng tăng trưởng theo. Chợt một đêm tôi nằm mơ thấy một người đàn bà đẹp (hao hao giống cả bốn cô) cởi áo phơi ngực trắng phau, và tôi xuất… hạn dầm dề. Tôi phải thức dậy thay quần mà trong bụng lo lắm, dù cảm giác ngất ngây còn tần ngần trong cơ thể. Tôi không dám tâm sự với ai. Nhưng đến lần thứ ba thì tôi hoảng quá đành phải “thú thiệt với đại ca”. Đại ca đây là anh tôi. Nguy thay! Tôi đâu dè mình trót trao duyên lầm tướng cướp! Thay vì giảng cho tôi một đoạn về “người con trai sắp nhổ giò nên biết”, anh chàng lại hù tôi bị bịnh “lở đập” (?), nếu tiếp tục coi chừng cu bị thụt mất. Cách trị: không một lời, lại thêm một tràng cười chế nhạo. Đọc báo thấy quảng cáo “Cửu long hoàn” trị di tinh, mộng tinh, tôi lén mua và lén uống thử. Nhưng càng uống thuốc bổ thận tôi lại càng lở đập dữ hơn. Vì thế, lúc đi tè thỉnh thoảng tôi lại “hò dô ta! nắm cu kéo ra” thăm chừng, lỡ thằng bé thụt mất thì kể như đời tàn trong ngõ hẹp.

Quá sức lo lắng và sợ hãi, người tôi vàng võ xanh xao. Má tôi thấy vậy sợ tôi bị quỷ trù ma ám hay Bà Cô gì đó quở, nên biểu tôi theo bà vô chùa lạy Phật, niệm kinh sám hối, may ra nhờ đó mà tai qua nạn khỏi. Tôi cũng nghe lời, nghị gật lại theo gót lãnh tụ. Nhưng bây giờ lập trường nghị gật đã có rung rinh phần nào so với thời thơ ấu. Vì lẽ sau những chuyến bay đêm, mộng mị ngực nghiếc, hồ ly và lở đập, ý niệm tội lỗi nảy sinh trong đầu tôi. Tôi cảm thấy mình nhớp nháp, do đó đâm ra sợ sợ khi quỳ trước bàn Phật hay trong am Bà. Nhiều đêm tôi bị dày vò bởi các cặp ý niệm đối nghịch tốt-xấu, thiện-ác, sạch-dơ, trên-dưới, tội-phước, đau-khoái, vui-khổ… và bị trì kéo giữa cái bọt đền và cái miễu Bà lúc trước, rồi giữa cái nhà chứa và cái nhà chùa bây giờ.

Dĩ nhiên đì chùa là một lẽ, còn lở đập là một lẽ khác. Do đó, lạy thì có lạy thật đấy, mà lở thì vẫn cứ lở tự nhiên. Rồi chuyện gì phải đến đã đến: chuyện lở đập thấu đến tai ba tôi (kẻ bán rao không nói chắc ai cũng đã đoán biết). Ba tôi cười (lại cười!) hà hà rồi dạy rằng: “mầy uống Cửu long hoàn làm gì mất công, cứ cầm hai chục đồng qua Bảy Trào, ổng bổ cho một thang thuốc là hết lở đập liền, mà lại còn khỏe re nữa!” Tôi bán tín bán nghi, không biết ông già nói chơi hay nói giỡn, nên chỉ dám ghi nhận để đó. Và tiếp tục bay đêm một mình. Và tiếp tục bị dày vò. Và tiếp tục bị trì kéo.

Thời gian này sự xung đột lập trường giữa ba và má tôi xảy ra như cơm bữa, sự xung đột mang màu sắc của một cuộc thánh chiến giữa ác quỷ và thiên thần. Má tôi niệm kinh lần chuỗi, ông châm chọc là biết chuỗi có bao nhiêu hột rồi mà còn làm bộ đếm hoài. Má tôi cúng lạy, ông chỉ trích muốn ăn con gà cần gì phải lạy nó rồi mới dám đem xuống ăn. Giận lắm má tôi cũng chỉ đến mức sử dụng văn chương, đại khái: “ông đừng có “hành chánh” tui, “ông đừng có thiên ám địa hôn tui”. tôi đoán bà muốn nói gì. Đôi khi tôi phải đóng vai trọng tài xây-cái-nại, hoặc nhân chứng thời cuộc bất đắc dĩ. Tôi cũng bớt hành nghề nghị gật. Bên kia đường nhà Bảy Trào vẫn xôn xao ngoài ngõ thiếu gì yến anh. Bên này đường đêm đêm tôi chong đèn học bài và mơ tưởng một cuộc tam canh dạ đáo của hồ ly nữ, khuya tàn đêm muộn nhẹ bước chiêm bao tưởng lạc đường, rưng rưng mùi phấn bỗng ngùi thương, sương đầm vạt áo mong manh lệ… Cái nhà chùa của tôi càng lúc càng mờ nhạt dần sau cái màn sương vạt áo của yêu nữ.

Và nó tiếp tục mờ nhạt đến tưởng chừng như biến mất trong nhãn trường của tôi khi tôi lên Sài gòn học (tôi học quá giỏi, tỉnh lẻ hết lớp). Trước khi bước chân vào Sài gòn hoa lệ, tôi học trọ một năm ở Mỹ tho. Năm này tôi có cô bồ đầu tiên trong đời. Nhà trọ tôi ở cạnh nhà em tại Bến đò. Bên kia bờ (ba la?) là chùa Vĩnh tràng. Tôi thường đưa em qua đó, không phải để đi vào trong chùa mà là để đi ra đàng sau chùa, ngồi giữa mấy cái mả đá tỏ tình cùng tính chuyện tương lai.

Trên lối đi giữa các mồ mả có dựng một tấm bảng, trên viết mấy chữ như sau: “Xin đừng lợi dụng chốn tôn nghiêm mà làm điều thất giáo”. Tôi không làm điều thất giáo, chẳng phải vì muốn tôn trọng lời dặn của nhà chùa. Chẳng qua, cái thuở đó tôi quá cù lần, mà xiêm y của các cô lại là một trò “đố vui để chọc” đối với thủ thuật thô sơ của tôi.

Lên Sài gòn tôi chẳng còn thiết tha gì đến chùa miễu nữa, ngoại trừ cái chùa Chà và. Nhưng tôi đến đó không phải để thực hành tín ngưỡng hay quay về với thiền môn, mà là để… ăn hủ tiếu tôm cua bên vỉa hè cạnh chùa.

Ở chốn phồn hoa đô thị, nhà chùa tôi không biết, chớ nhà chứa thì đã bắt đầu biết một hai nhờ bọn đàn anh tận tình hướng dẫn. Thỉnh thoảng cuối tháng tôi về thăm nhà. Bốn cô con gái mỹ miều của ông Bảy Hoàng đã tung cánh chim biệt mù đâu mất. “Mây xưa cũng bỏ non về, em xưa cũng giã câu thề đó đây…” Tôi thấy buồn buồn. Trông mặt mày của thằng quý tử mình thất thần, má tôi lại dắt tôi lên chùa lạy Phật, ăn chay và ngủ lại luôn ở chùa. Đó là một đêm đầu hạ trăng sáng, yên tĩnh. tôi nằm trên bộ ván ngựa mát lạnh ngó ánh trăng trong dần dần đổi chỗ trên nền đất ngoài hè, nóc chùa theo bóng trăng lên cũng dần dần thu ngắn lại. Đằng xa mờ mờ mái am xanh lạnh lẽo kỳ quái. Cây vú sữa khua lá xào xạc. Trong không khí hâm hấp có mùi hoa cam, hoa lài. Lòng tôi lắng tịnh. Chợt bóng một cành cây lay gió như cánh tay ngoắc làm dậy lại ở trí tôi giấc mơ không thành với hồ ly nữ. Qua tâm khảm tôi, yêu nữ đã lọt vào nhà chùa. Rồi đây biết có ngày nào (và bằng cách nào?) tôi có thể mang mùi thiền vào nhà chứa để giải nghiệp (hay để tạo thêm nghiệp chướng?)

Bẵng đi một dạo bốn năm đằng đẵng tôi xa hẳn cuộc thánh chiến giữa ác quỷ và thiên thần, xa hẳn sự giằng co giữa nhà chùa và yêu nữ để lọt vào thế giới của nhà tu và… đực rựa. Đó là thời kỳ tôi du học Canada, tại một đại học công giáo ở Québec. Xứ đã lạnh lẽo mà năm học đầu tôi chỉ có toàn là bạn trai nên cô đơn và buồn bã hết nói, buồn tới mức khủng hoảng, mất ngủ triền miên. Một bận cuối năm, bọn ở nhà trọ đều về quê ăn Giáng sinh hết, bỏ lại tôi một mình ở nhà trọ hơn mười ngày. Xung quanh xứ lạ quê người, nhà cửa đóng im ỉm. Buồn quá tôi lang thang ra phía sau trường, leo lên một ngọn đồi nhỏ nhìn tuyết xuống rợp trời trên thành phố dưới chân đồi. Cô đơn mãnh liệt tới mức tạo cho tôi một cảm giác đau đớn vật chất, như một mũi tên bắn phủng qua đầu. Cô đơn muốn ngất xỉu. Xung quanh chỉ có tuyết rơi và tuyết rơi. Thình lình tôi chợt thấy mình tan ra trong tuyết. Tôi và vũ trụ chỉ là một. Cảm giác tạo nên ngây ngất mãnh liệt bàng hoàng. cô đơn chợt tan biến. Tôi sảng khoái trở về gác trọ ngủ vùi một giấc hơn hai mươi bốn tiếng đồng hồ, bỏ cả cơm nước (hay đúng hơn là bánh mì và xúp). Dĩ nhiên thời gian sau tôi phải cố lôi kéo cho bằng được yêu nữ vào đời mình, khi đó cuộc sống tôi mới trở lại quân bình. Nhưng đó là loại chuyện “kéo dài xa tít tận chân trời”, xin miễn bàn sâu tán rộng ở đây. Goodbye yêu nữ!

Trở về nước, tôi thuê nhà ở Bàn cờ, sau chùa Kỳ viên, gần chùa Tam tông miếu. Giữa hai kiểng chùa những tưởng tôi được chở che khỏi ác nghiệp. Ngờ đâu cách chùa Kỳ viên mấy căn nhà lại là động của các yêu nữ. Má tôi còn lui tới chùa, còn tôi thì tuyệt nhiên không. Nếu bà là thân mẫu của thầy Mạnh tử, không rõ bà có quyết định dời nhà không nữa, và nếu dời, dời đi đâu? Nhưng cho dù không muốn dời đi nữa, mà hoàn cảnh đưa đẩy bắt buộc dời thì cũng phải dời.

Tôi dọn về Hàng xanh. Cũng lại giữa hai kiểng chùa: chùa Liên hoa và chùa Long vân tự. Hai chùa không được biết nhiều nhờ tu hành, mà nổi tiếng là vùng ẩn núp của nhiều du đãng. Má tôi không lui tới hai chùa này. Nghị gật càng có lý do để thống nhất hành động với lãnh tụ. Cách nhà không xa là thạch động của hai yêu nữ, một nữ đầm lai và một nữ kia to khỏe không kém, ngực mông rất phây phây. Lần này không phải ông già tôi điềm chỉ chỗ “đá vịt” mà là ông già vợ… của anh tôi, tức một ông suôi khác của ba tôi. Tôi bắt đầu kiểm điểm lại các nơi cư ngụ của mình, và nhận thấy có sự trùng hợp kỳ lạ: lẩn quẩn tôi vẫn ở cạnh bên, ngang hông, đối diện, xéo xéo… với “nhà chứa” và “nhà chùa”. Gần như một chướng nghiệp. Nhưng lần này có thêm một loại nhà khác nữa xen vào đời sống thân mật của mình mà tôi chưa có dịp ghi nhận: “nhà mồ”. Từ nhà tôi quẹo ra xa lộ, đi lên một đỗi không xa là nghĩa trang Quân đội. Về sau, loại nhà này cứ lởn vởn xáp lại gần chỗ tôi cư ngụ nên tôi mới bắt đầu để ý.

Rồi đất nước chiến tranh dai dẳng cho tới lúc Sài gòn sập tiệm. Tôi tình cờ đi tu nghiệp ở Pháp trước cái ngày hắc ám đó hai tháng. Vợ con tôi nhào đại lên một chiếc tàu Đại hàn đậu ngoài Tân cảng nên kịp di tản may mắn vào phút chót. Tôi và vợ con tốt phước, tôi cho là phần lớn cũng nhờ công đức của má tôi hay đi chùa lạy Phật. Mà tôi không kẹt nhưng má tôi kẹt. Một tay bà bồng ẵm hai đứa con tôi từ nhỏ, tụi nhỏ theo má chạy mất! Bặt tin hai tháng sau, bà buồn rầu lâm bệnh rồi trút hơi thở cuối cùng tại nhà tôi. Ba tôi chôn cất bà tại Nghĩa trang Tương tế. Như vậy chưa yên, nghĩa trang bị giải tỏa sau đó, bà được mai táng lần thứ hai trong khuỷnh vườn nhỏ của ông suôi (thứ hai) tại Thủ đức. Như vậy không biết đã yên chưa. Ba tôi thì đang lâm bệnh nặng sợ không qua khỏi tuổi tám lăm. Người nhà đã nhắc hòm sẵn. Khi xưa ba tôi thường dặn tao có chết tụi bây chôn thẳng xuống đất làm phân bón, khỏi cần hòm (ông đã bán cái hòm tự đóng cho mình để có tiền xoây xài). Từ ngày nhà nước kêu gọi mọi người bón phân cho chế độ, ông đổi ý đòi chôn cất có hòm đàng hoàng. Tôi còn nhớ những ngày ở ngang nhà Bảy Trào, khi đóng đồ mộc trong trại ba tôi thường hát nghêu ngao: “Ôi quỷ vô thường đâu có vị người tri kỷ, còn đó âm dương lại đưa rước vô chừng”. Lần trước được tin má chết tôi không khóc, lần này nếu được tin ba chết có lẽ tôi cũng sẽ không khóc . “Thế gian tiếu ngã bất tang thương, ngã tiếu thế gian khấp đoạn trường”, đó cũng là một câu ba tôi thường hay hát.

Tôi ở Paris ngót nghét cũng đã mười năm, trong ba căn nhà khác nhau, nhà nào cũng ở gần nghĩa địa. Lần đầu tiên ở đường Pyrénées, gần nghĩa địa Père Lachaise. Lần thứ hai ở đường Odessa gần nghĩa địa Montparnasse. Lần thứ ba về Bagnolet, trở lại nghĩa địa Père Lachaise, cộng thêm nghĩa địa Bagnolet. Tôi thường tự nhủ như vậy cũng tiện, lúc biết mình sắp chết có thể đi bộ ra nhà mồ, tiết kiệm được một vé métro. Ở đây tôi không quen một vị sư nào nên chẳng biết chùa nào mà đi. Nhà chứa thì ở tại các khu dành riêng, yêu nữ và khách hàng mặc cả lộ liễu coi chẳng văn nghệ một chút nào. Tôi ngán ngẩm và hơn nữa cũng chẳng có nhu cầu. Thằng lớn thằng bé gì cũng đã mỏi mệt sau mấy mươi năm thế sự thăng trầm. Nhà chùa: vãn! Nhà chứa: vãn. Chỉ còn lại nhà mồ. Tôi giật mình!

Trong khoảng thời gian thất nghiệp tôi thường ra nghĩa địa Père Lachaise ngồi nghiền ngẫm sự đời. Hình như kinh Phật cũng có khuyên người ta thỉnh thoảng nên ra nghĩa địa mà suy tư đời sống và kiếp người. Suy tư chán mà tôi chẳng thấy mình được soi sáng thêm một chút nào. Tôi quay ra tìm kiếm mối liên hệ giữa ba yếu tố không ngớt quanh quẩn trong cuộc sống của tôi: nhà chùa, nhà chứa, nhà mồ. Tôi cố tìm vị trí thích hợp tương đối của nhà này đối với nhà kia. Tôi xoay chỗ tuần tự các nhà, rồi ngắm nghía các mô thức do mình đề ra: nhà chùa-nhà chứa-nhà mồ, nhà chùa-nhà mồ-nhà chứa, nhà chứa-nhà mồ-nhà chùa, nhà chứa-nhà chùa-nhà mồ, nhà mồ-nhà chứa-nhà chùa, nhà mồ-nhà chùa-nhà chứa. Hết. Cả thảy sáu mô thức, không thể hơn được. Với mỗi mô thức tôi bóp trán cố hình dung một cảnh ngộ phù hợp với hoàn cảnh đó tuần tự theo đời sống của một kiếp người: Lúc thất nghiệp tôi có khối thì giờ để bóp trán. Nhưng rồi không có cái nào ổn hết. Nếu thuận theo cái lý của Kiều thì diễn tiến hợp lý phải là: nhà chứa-nhà chùa-nhà mồ. May nhờ có Giác Duyên trực sẵn ở sông Tiền đường để vớt lên, bằng không thì Kiều đã đi tàu suốt ra nghĩa địa, sè sè nấm đất bên đàng, dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh. Nhưng hoàn cảnh đó chỉ thích hợp với yêu nữ. Gặp trường hợp đực rực như tôi mới tính làm sao? Có lẽ tôi sẽ đi tu và dựng một cái am mây nằm giữa nhà chứa và nhà mồ. Biết đâu nhờ chó dắt tôi có thể vớt được Kiều mang về chùa (để làm gì? nghi lắm!) Hoặc giả có thể chờ khi trăng lặn, hồ ly tinh sẽ đội mồ trút xác biến thành con gái Bảy Hoàng đột nhập vào chùa tìm chàng thư sinh mặt trắng (để làm gì? bí mật!) Hoặc giả yêu nữ và hồ ly tinh đụng độ nhau rồi đánh ghen ngay tại chùa chờ ông đạo ra… giảng hòa? Cũng không ổn. Bóp trán một hồi nữa tôi nhức đầu như thể Tề thiên bị vòng kim cô xiết chặt. Tôi bỏ cuộc. Nhưng chính lúc đó tôi nhận thức tâm mình còn quá vọng chấp, còn quá phân biệt (có cái nhà chùa, có cái nhà chứa, có cái nhà mồ), thành thử cứ oan khổ triền miên không dứt. Có thể chăng ba nhà chỉ là một nhà? Mà một nhà cũng không phảimột nhà? Nếu má tôi còn sống chắc chắn bà sẽ rầy tôi: “Con đừng nói tầm bậy mà có tội với Trời Phật”. Nếu ba tôi có đây kể như ông sẽ chửi tôi: “Mầy mà tu kiểu đó thì tao đốt chùa!” Má tôi đúng, ba tôi đúng, tôi sai? Má tôi sai, ba tôi sai, tôi đúng? Má tôi sai, ba tôi sai, tôi sai?

Trả lời có lẽ giờ đây chỉ còn chăng ngọn lửa chập chờn trên mái chùa đang bốc cháy trong tâm tưởng của tôi.

 

Năm nay đào lại nở


Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thấm
Mực đọng trong nghiên sầu…
Vũ Đình Liên

– Thưa ông cho nhà cháu hỏi thăm. Còn mấy hôm nữa thì là Tết ạ?
Tiếng hỏi làm tôi giật mình ngó người đàn bà chít khăn mỏ quạ. Tôi vừa ăn xong cơm chiều, đang đứng trước sân nhà xỉa răng ở trần cho mát. Tôi vội đáp :
– Thưa cụ vừa mới Tết xong ba bữa. Còn lâu lắm mới Tết nữa.
Người đàn bà có vẻ bối rối :
– Thế hở ông ? Thế mà cháu quên mất, làm phiền ông quá. Ông cho nhà cháu xin lỗi.
– Thưa cụ, có gì đâu mà xin lỗi.
Một cơn trốt thổi đến xoáy những cánh bông giấy chạy tán loạn trong sân. Bông giấy đủ màu: đỏ, cam, tím, trắng; Tết nào cũng rụng đầy, đúng hẹn với trời đất. Người đàn bà ngập ngừng:
– Phiền ông cho nhà cháu hỏi thêm: Ông có biết nhà ông Đa ở lối nào xin ông chỉ hộ cho nhà cháu.
Nữa. Lại câu hỏi đó nữa! Tôi vừa nghĩ thầm vừa nhìn vào đôi mắt hom hem của bà. Chiều nay bà không đeo kiếng mát, loại kiếng gọng nhỏ, có tròng đen tròn vo như loại kiếng đen lính cảnh sát đeo trong phim Hitchcock. Bà lại bối rối, cố nhoẻn miệng cười vớt vát, để lộ mấy chiếc răng nhuộm đen còn đương cự được với tuổi trời.
– Dạ thưa cụ, cháu không biết nhà ông Đa ở đâu.
– Thế hở ông? Thật khổ quá! Cháu đã hỏi thăm nhiều người mà không ai biết nhà ông Đa ở đâu cả.
Bà lí nhí xin lỗi rồi quay lưng đi, chiếc lưng mà sức hút của trái đất sáu bảy chục năm qua đã bẻ còng. Bà lom khom lê đôi dép Nhựt Bổn, đôi dép đã cũ, cao su bè ra hai bên. Tôi chắc chắn bà sẽ lại đi lượm lon, lon sữa bò, lon thịt hộp, lon đậu hộp… Mục này nằm trong chương trình hoạt động hằng ngày của bà. Không ai biết tên bà. Má tôi quen gọi bà là ‘‘Bà Lượm Lon’’. Nhiều lần má tôi cho bà cái lon không đã rửa sạch, và kết chuyện với bà. Không biết hai bà già lẩm cẩm nói gì với nhau mà cười tíu tít như xuân nữ. Có bữa thấy bà lom khom sục sạo ngoài hàng rào, má tôi sực lo ngai ngái cho tương lai của chính mình.
– Tao sợ nữa già tao cũng lẫn lộn rồi đi lượm lon như bả quá! Rồi mầy với thằng con mầy đẩy xe bỏ tao trên núi.
Nói xong, bà cúi xuống hun thằng con trai của tôi bà đang bồng trên tay. Cục cưng của bà đó. Rớ tới là bà xuống đường, tuyệt thực để phản đối.
Bà Lượm Lon quẹo ở hông nhà tôi rồi đi ra phía đường lớn, đại lộ Bạch Đằng, xóm Hàng Xanh. Bà sẽ lạch bạch băng qua bên kia đường lớn, hỏi thăm nhà ông Đa, rồi thất vọng quay lộn trở về lề đường bên này, lại hỏi thăm nhà ông Đa, lại thất vọng, lại lạch bạch băng qua bên kia đường… Đâu mười bữa trước, tôi đang sơn lại cửa rào trước nhà thì bà tới gần hỏi tôi, vẫn giọng lễ phép cố hữu của người nhà quê miền Bắc:
– Thưa ông cho nhà cháu hỏi thăm. Còn mấy hôm nữa thì là Tết ạ?
Tôi dừng cọ sơn, mỉm cười ngó bà :
– Thưa cụ còn bốn bữa nữa thì Tết. Cháu đang sơn lại nhà để ăn Tết đây.
Bà cười tếch toác, răng đen nhánh:
– Thế hở ông? Sắp Tết rồi, vui quá nhỉ?
Bà đưa tay sửa lại chiếc khăn mỏ quạ bị gió xuân xô lệch.
– Dạ… dạ thưa ông, xin phiền ông chỉ hộ cho cháu nhà ông Đa, cháu đi tìm mãi mà… (v.v.)
Nữa. Lại nhà ông Đa nữa! Ông Đa nào? Tôi không cách gì biết được. Ông Đa là ai? Tôi mù mịt. Ông là gì của bà? Một thân nhân? Một ông chủ cũ? Một người chồng cũ? Một nhân tình cũ? Ở đâu? Hà Nội, Hải Phòng, Bùi Chu, Nam Định hay Phủ Lý? Kỷ niệm gì mà trên bước đường di cư khi đất nước chia hai đeo đuổi, đeo riết khiến bà còn nhớ hoài, nhớ mãi, cho tới bây giờ? Hai người đã yêu nhau khắng khít, sống vô số kỷ niệm đẹp, rồi đùng một cái! Xa nhau? Tôi cứ phỏng đoán lan man. Rốt cuộc vẫn là người mù đi trong bóng tối giữa đêm ba mươi.
Nhà ông Đa ở đâu, tôi không biết đã đành. Nhưng ngay chính nhà của bà ở chỗ nào tôi cũng không biết. Chỉ biết đại khái bà ở đầu xóm, vì bận nào bà cũng từ đầu xóm đi lại, qua ngang cửa nhà tôi, quẹo trái rồi băng qua đại lộ Bạch Đằng. Rồi băng trở lại (vân vân). Tung tích: bà là người di cư. Gốc gác: nhà quê miền Bắc – dựa theo giọng nói. Tuổi tác: trên sáu mươi – dựa theo chiếc lưng còng. Dĩ vãng: ông Đa. Hoạt động: lượm lon. Hết!
Bốn mùa bà chít khăn mỏ quạ màu nâu đất đã bạc thếch. Quần dài đen, áo cánh đen tay ngắn, răng nhuộm đen, đi dép Nhựt Bổn bè bè, đeo kính đen tròng kính tròn vo. Một đời sống bình yên thuở nào bên sông Hồng, giờ chỉ còn lại có bao nhiêu đó. Thời buổi này giặc giã, hoả tiễn Nga thụt vô Sài Gòn, phản lực Mỹ xẹt ngang Gia Định, xe tăng thiết giáp rần rần rộ rộ, kéo lê những khẩu đại bác dài ngoằng băng qua xóm Hàng Xanh của tôi và Bà Lượm Lon rồi trực chỉ xa lộ Biên Hoà. Xe tăng tương đối chạy chậm, so với xe vận lương phóng ào ào, nườm nượp, súng bắn lốp bốp mở đường, lôi theo những thùng sắt khổng lồ, no ứ, xẹt tới xẹt lui không ngớt trên đại lộ Bạch Đằng.
Sau khi chứng kiến vô số tai nạn – một lần trái tim người bị cán văng ra còn đập nhẩy trên mặt đường nhựa – tôi thường ê ẩm hàm răng, tóc tai dựng đứng, nổi da gà khiếp vía khi thấy Bà Lượm Lon đi ngang qua cửa nhà tôi, quẹo trái, chập sau có tiếng xe vận lương rầm rộ, súng nổ lốp bốp, rồi tiếng phanh xe khịt khịt, tiếng bánh xe cao su chợt đứng sững nhưng còn trớn cày xiết trên mặt đường nghe rát ruột. Tôi sợ rồi một ngày nào đó cái khăn mỏ quạ, đôi dép Nhựt Bổn, mấy cái lon vừa lượm được sẽ văng tung toé dưới lườn của một thùng sắt đồ sộ. Người ta sẽ thu nhặt những gì còn lại của chiếc lưng còng, của hàm răng đen, của cặp kiếng đen, của một thuở bình yên bên sông Hồng, của những tình tự một thời với ông Đa. Người ta sẽ bỏ hết những thứ đó vào một cái hòm nhỏ, đem chôn ở một nơi rất xa thành phố. Rồi mọi người sẽ dần dần quên, quên hết. Chẳng còn ai nhớ trong xóm mình đã từng có một bà người Bắc Kỳ lom khom đi lượm lon ở miền Nam – lượm lon để làm gì không biết. Sẽ không còn ai hỏi thăm nhà ông Đa. Cũng sẽ không còn ai hỏi tôi, khi mùa xuân hãy còn đó:
– Thưa ông cho nhà cháu hỏi thăm: Còn mấy hôm nữa thì là Tết ạ?
– Thưa cụ, vừa mới Tết xong. Còn lâu lắm mới Tết nữa cụ ạ!
Không rõ vì lẽ gì mà mỗi lần hoa mai nở, mỗi lần hoa đào nở, mỗi lần Tết đến là tôi lại bị ám ảnh bởi những người đàn bà già nua mà tôi đã có dịp gặp trong đời. Có lẽ tại vì tôi nhìn thấy quê hương qua những bà già đó, một quê hương vừa yêu dấu, vừa ngậm ngùi. Thương đứt từng khúc ruột. Viết tới đây tôi lại chảy nước mắt. Trời ơi: Sao tôi cần quê hương đến như vậy!
Những bà già đó tượng trưng cho quê hương. Không! Những bà già đó là quê hương. Những bà già có làn da nhăn thơm tho mùi đất, có nụ cười rì rào tre trúc, có bàn chân nứt nẻ phù sa, có trái tim từ bi vô lượng, trái tim đó đã bơm máu vào rún tôi từ thuở tôi trong bụng mẹ, lúc tôi còn nhỏ xíu, lớn chưa bằng đầu ngón tay. Trời hỡi! Sao thương quá sức! Ai nỡ cắt ruột cho đành? Tôi thèm thương. Tôi thèm khóc. Tôi thèm quê hương. Thèm quá đỗi! Tết lại đến rồi đó…
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?

Năm nay đào lại nở. Phải, năm nào mà đào lại chẳng nở? Tôi muốn la một tiếng thất thanh: ‘‘Ôi Quê Hương!’’. Đào lại nở, tôi lại nhớ. Tôi nhớ những người muôn năm cũ, những bà già lượm lon, những bà già bán cà-rem ở trường học, những bà già bán đậu phọng ở bến xe, những bà già bán nước mía trong chai xách trên chiếc bắc Mỹ Thuận, Cần Thơ, Vàm Cống hay Rạch Miễu đưa bà con về thăm nhà trong dịp Tết. Những bà già mà mỗi lần ngó, bạn đều được tặng không một nụ cười hiền lành – hiền lành như cặp mắt của con trâu đi cày. Cũng không có gì khác để tặng bạn ngoài nụ cười đó. Rồi Tết qua, trở lại chuyến bắc, có thể bạn sẽ không còn gặp lại bà già đó nữa. Không bao giờ! Nụ cười tặng không đã mất. Cũng như quê hương.
Bà già cầm cái chuông nhỏ đưa lên lắc leng keng, ngó tôi mỉm cười. Mỉm cười vì bà đã được tôi ngó. Bà ngồi ở sân trường, giờ ra chơi. Tôi học lớp nhứt, được đâu mười tuổi. Cái nón lá rách để một bên, cái bình cà-rem để một bên, bình tròn dài sơn xanh, trên đậy nắp thiếc mạ kền đã trầy ố. Bà vừa từ bên trường nữ cách đó khoảng hơn trăm thước tất tả chạy qua, mồ hôi còn đổ hột trên trán. Bên trường nữ vừa hết giờ ra chơi là tới phiên trường nam ra chơi, trống giục liên hồi. Có lẽ bên trường nữ bà già cà-rem bán được hơn bên nầy. Bên nầy tụi nhóc khoái đổ xí ngầu hơn là bỏ tiền ra mua cà-rem một cách lương thiện. Được thì ăn nhiều, thua thì bơ mỏ. Nhưng hào hứng. Vì vậy mấy thằng nhỏ bán cà-rem đều thủ sẵn một cái tô và ba hột xí ngầu. Ra chơi tụi nhóc bu lại, trong đó có tôi. Bỏ bà già ngồi ở góc sân chong ngóc một mình vì bà không có… đổ xí ngầu.
Vì vậy khi có đứa nào ngó, bà liền đưa cái chuông nhỏ lên lắc lắc mời mọc. Như con chó hiền lành, chỉ chờ có người ngó là vẫy đuôi ngoắc. Tôi biết sự so sánh có vẻ kỳ cục, nhưng tôi không có cách nào diễn tả ánh mắt của bà hơn là ánh mắt mừng rỡ của con chó khi nhận ra được người quen. Và tiếng chuông leng keng là tiếng sủa mừng. Tôi nghĩ bà cũng quý chuông lắm vì lúc nào nó cũng được bà chùi bóng. Hồi nhỏ tôi cũng ham vui, như mấy thằng lỏi khác. Nhưng đôi khi nhìn ánh mắt mừng rỡ của bà, tiếng chuông leng keng và cái miệng móm cười không còn răng, tôi chợt thấy má tôi đang ngồi chồm hổm đó – tôi cầm lòng không đậu. Tôi bỏ ra năm cắc mua của bà cây cà-rem đậu xanh và hi sinh buổi đổ xí ngầu. Tay bà run run giở cái nắp bình thuỷ bằng mốp lựa cây cà-rem đưa cho tôi, tay run run. Tôi không quên nổi hình ảnh đó – cho tới chết không chừng. Run run không phải vì cảm xúc mà vì tuổi trời, có lẽ. Bà đã già lắm rồi, tóc bạc trắng như trang giấy học trò điểm sợi đen như những đường gạch hàng trên trang giấy. Nhưng bà lúc nào cũng tặng không một nụ cười móm khi đưa cho tôi cây cà-rem. Tôi không hề bắt gặp một chút nào đau khổ hay than trách trong ánh mắt và nụ cười đó. Ngay lúc bà ngồi suốt cả giờ ra chơi, không bán được một cây cà-rem nào.
Có bữa tôi ngó bà, bà ngó tôi đưa cái chuông lên lắc leng keng, cười móm, nhưng tôi đành ngoảnh đi vì tôi vừa đổ xí ngầu thua sạch. Bước đi mấy bước tôi ngoảnh lại, bà lại đưa cái chuông lên lắc. Tôi vụt bỏ chạy… Có bữa tôi thấy ngón chân cái của bà sướt móng chảy máu – bà đi cẳng không. Có lẽ vì chạy quá vội vàng trên con đường đá xanh lởm chởm từ trường nữ qua trường nam, bà vấp cục đá lớn. Tôi đã có lần bị vấp đá xanh trật móng, đau đứt ruột, nên biết. Nhưng nét mặt bà không hề lộ vẻ gì đau đớn. Chỉ chờ thằng lỏi nào ngó là bà lại đưa chuông lên, cái chuông bóng loáng, như tiếng sủa mừng, như tấm lòng của bà.
Một bữa gần bãi trường ăn Tết, tôi háo hức nhào vô đổ xí ngầu với tụi lỏi, chợt trời mưa. Tụi tôi từ sân chơi dời vô núp mưa dưới hàng ba và tiếp tục sát phạt. Tôi cháy túi như mọi bận. Tôi còn đang đứng xớ rớ ngó ra cổng trường chợt thấy bà già cà-rem xớn xác từ ngoài cổng chạy vào, rồi tấp vào hàng ba đụt mưa. Bà giở chiếc nón lá rách ra giũ nước. Mưa lớn quá, bà ướt mem. Bà ngồi chồm hổm dưới đất, dựa lưng vào vách lá của lớp học, mặt bà xanh xao, môi tái mét, có vẻ mệt mỏi. Bà lấy tay lau sơ cái chuông đã ố nước rồi ngó lên chờ khách hàng. Tôi ngó bà, bà ngó tôi rồi đưa chuông lên lắc leng keng, cười móm. Tôi muốn khóc. Tôi chạy vô lớp mượn của thằng bạn năm cắc. Tôi trở ra, đến ngồi chồm hổm bên cạnh bà, leng keng, leng keng…
– Bà cho tui cây cà-rem đậu xanh.
Bà đặt chuông xuống đất, giở nắp thiếc mạ kền. Bà mở tiếp nắp xốp, các ngón tay run run còn đọng nước mưa.
Thùng… thùng… thùng thùng thùng… Tiếng trống chấm dứt giờ ra chơi chợt gióng lên liên hồi. Cây cà-rem đậu xanh vừa lấy ra khỏi bình thuỷ còn run run trên tay bà. Tôi vội vã quăng năm cắc vào nắp thiếc :
– Bà cất cà-rem đó, mơi tui lấy.
Bà cười móm :
– Ờ, mơi nhớ lấy nghe cháu !
Bà cầm nón lá đứng dậy, má tôi đó. Tay xách bình cà-rem, má tôi đứng ngó thằng con trai của bà đang xếp hàng đi vào lớp. Khi tôi đi ngang, bà nghiêng người kề tai tôi dặn nhỏ: ‘‘Mơi nhớ lấy cà-rem nghe cháu!’’. Hơi thở ấm áp của bà phà vào lỗ tai tôi. Vào lớp, thầy ra hiệu cho cả lớp ngồi xuống. Tôi ngồi xuống ở bàn đầu ngó ra còn thấy má tôi đang tất tả chạy trên con đường đá xanh lởm chởm, tay vịn nón lá sợ bay mất. Rồi bóng má tôi với cái áo vá vai mờ dần trong mưa…
Ngày hôm sau, tôi có ý chờ bà tới. Bà không tới. Hai bữa sau bãi trường. Tôi ăn hủ tiếu uống nước bạc hà, tôi ăn dưa hấu đỏ, đốt pháo chuột, và quên hết. Quên tiếng chuông leng keng, quên ngón chân sứt móng, quên cái bình cà-rem trầy ố, quên con mắt vẫy đuôi mừng.
Qua Tết, nhập học, chúng tôi trở lại trường. Nhưng bà già cà-rem với cái nón lá rách và cái chuông bóng lộn không bao giờ trở lại nữa. Không bao giờ…
Đã có bao nhiêu bà-già-quê-hương tôi đã gặp trong đời? Năm người? Mười người? Hay một trăm người? Hay nhiều hơn nữa? Có lẽ vậy. Không sao đếm hết. Những bà già đó nhan nhản đầu làng cuối xóm, ở quê mình. Chỉ cần để ý một chút, bạn sẽ thấy. Họ sờ sờ đó, lúc nào cũng hiện diện, nhưng cũng đồng thời rất âm thầm. Họ không có nhiều lời nói, chỉ có cái nhìn độ lượng, ánh mắt từ bi, nụ cười móm. Và đôi khi họ khóc. Cũng như bạn. Khi đau khổ quá, bạn khóc.
Học hết tiểu học, tôi lên trung học. Hết lớp đệ tam, tôi rời Vĩnh Long sang học trọ ở Mỹ Tho, lớp đệ nhị Nguyễn Đình Chiểu. Nhà trọ ở gần trường, sau trường là bến xe đò. Ban đêm có xe hủ tiếu, xe bán bò bía, khô mực, ổi cóc, la-de nước ngọt… đẩy tới bày bán. Tôi thức khuya học, thỉnh thoảng đói bụng chạy ra làm một tô mì hay uống nước dừa tán dóc với mấy thằng bạn cùng trọ. Lần nào tôi cũng gặp bà-già-quê-hương đi rảo qua các bàn ăn mời mua giùm một hai gói đậu phọng. Bà bưng cái rổ nhỏ, các gói đậu làm bằng giấy nhựt trình quấn thành hình nón dài. Bà để đầu trần, đi cẳng không, quần đen, áo trắng rách lưng đã ngả màu vàng xỉn. Đôi mắt hom hem thụt sâu trong hố mắt, nụ cười nhăn nhúm, móm xọm, hiền hậu.
Lần đầu tiên bà đến mời, tôi mua hai gói. Gói đầu mở ra, bẻ đậu, đậu lép. Bẻ tiếp, lại đậu lép. Lần thứ ba, có một bên lép, bên kia hột đậu có chút xíu. Gói thứ hai, cũng đại khái như vậy. Nói chung, đậu lép rất nhiều, hầu hết. Tôi nghĩ thầm tại mình xui. Nhưng lần thứ hai tôi mua, cũng vậy nữa, lép nữa. Và những lần kế tiếp khác, lại đậu lép và đậu lép. Một bận tình cờ nói chuyện với bà chủ nhà trọ, bà cho biết tình cảnh bà-già-đậu-lép. Bà sống chung với cháu nội và con dâu ở ngoại ô Định Tường. Con trai bà đi lính đã chết. Con dâu mua bán đậu phọng, hột chắc thì luộc đem ra chợ bán ban ngày, hột lép thì rang sơ bỏ vô gói giấy nhựt trình giao cho bà già đi bán ban đêm – ban ngày bà ở nhà giữ cháu. Thấy bà già cả lụm cụm, người mua nhằm đậu lép chắc không ai nỡ nói gì. Nhưng sau đó, khi đã biết được thì không ai mua nữa. Mặc tình cho bà rảo tới rảo lui, hay bưng rổ đứng chờ rất lâu bên cạnh bàn ăn.
Tim tôi se lại, ruột quặn thắt. Trời hỡi! Sao khốn cùng tới mức phải đi bán đậu lép! Tối hôm đó, tôi ngồi uống nước dừa Bến Tre, có ý chờ bà. Bà lẩm đẩm, lom khom tới bàn tôi mời, tôi mua hai gói. Khi bà run run đưa tôi gói đậu phọng, tôi thấy cánh tay bà nổi gai ốc. Trời lập đông. Tết sắp đến rồi. Bà cám ơn tôi. Tôi thấy cổ mình nghẹn thắt. Và nhiều lần như vậy nữa. Lần nào tôi cũng mua hai gói đậu phọng bỏ vào túi, về nhà trọ bẻ ra lấy mấy hột đậu không lép, nhâm nhi thấy bùi ngọt mà sao chua xót ngậm ngùi. Trời gần Tết, càng lúc càng lạnh.
Nhiều bữa có những chuyến xe đò muộn ghé qua cho khách xuống hoặc đổ xăng. Những người bán hàng rong ùa tới, đưa cao những rổ mận, những chùm mía ghim, những bọc kẹo chuối, mứt chuối… ơi ới réo mời hành khách. Bà-già-đậu-phọng cũng lụm cụm chạy tới, nhưng bị lấn giạt ra xa, chen vô không được với bọn đàn bà con gái. Bà đứng phía sau, cầm gói đậu phọng nhựt trình lóng nhóng đưa lên, miệng lắp bắp, lí nhí, nghe không rõ được tiếng nào. Rồi xe rồ máy nhả mùi xăng cháy và khói xanh um mịt mù, vọt chạy… Người bán rong chạy theo để lấy tiền hoặc thối tiền. Bà già bỏ gói đậu phọng lại rổ, đứng ngó theo. Tới lúc xe khuất.
Tôi có cái áo blouson cũ màu trắng, dính mực ở lưng giặt không ra. Một đêm tôi cầm cái áo ra bến xe đò, đứng ở gốc cây me núp chờ. Tôi chờ bà-già-đậu-phọng. Một chiếc xe đò muộn tấp vô bến, đậu lại xuống hành khách. Mấy cô bán rong ùa tới, bà già đậu phọng lụm cụm, lẽo đẽo, đứng xa giơ gói đậu phọng lên lắc lắc, lí nhí. Xe rồ máy vọt chạy. Bà đứng xớ rớ bên lề. Tôi bước tới bỏ cái áo blouson dính mực vào cái rổ của bà, không nói được lời nào. Tôi ngó bà, bắt gặp ánh mắt từ bi đang nhìn tôi. Tôi quay lưng bước lẹ như chạy trốn. Đến gần đầu đường tôi ngoái người ngó lại. Bà già đậu phọng còn đứng đó, trong bóng tối nhá nhem, tay cầm cái áo trắng đưa về phía tôi ngoắc ngoắc. Bà có nói một lời nào không, tôi không biết.
Và sẽ không bao giờ tôi biết được. Hôm sau tôi lấy chuyến xe đò sớm về Vĩnh Long bãi trường, ăn Tết với gia đình. Tôi ăn thịt kho, ăn dưa hấu, uống la-de, đốt pháo đại, và quên hết. Quên bước chân lụm cụm, quên bà già đứng xớ rớ, quên những gói đậu phọng lép. Và cũng sẽ không bao giờ tôi được thưởng thức món đậu phọng lép của bà-già-quê-hương nữa – cái hương vị bùi ngọt mà sao chua xót khôn cùng! Trời hỡi, sao thương quá thể!
Tết qua, tôi trở lại Định Tường, đổi nhà trọ, xuống Xóm Bến Đò bên kia sông là chùa Vĩnh Tràng. Tôi gặp Hoa, người yêu đầu tiên ở đó. Nhưng không còn bao giờ tôi gặp lại bà-già-đậu-lép nữa. Bà chưa chết. Tôi không dám nghĩ rằng bà đã chết. Tôi năn nỉ bà đừng chết. Bà đang bưng rổ bán đậu phọng ở một bến xe đò khác, ngoài ngã ba Trung Lương chẳng hạn. Có thể bà bị lấn ra xa, nhưng bà chưa chết. Bà đang cầm gói đậu phọng đưa lên cao, dù không ai mua. Bà đang mặc cái áo blouson trắng dính mực, coi rất kỳ cục. Nhưng bà chưa chết. Cũng như bà già cà-rem – má tôi. Bà cũng chưa chết. Bà đang ngồi chồm hổm bán cà-rem ở một trường tiểu học khác nào đó, ở Cai Lậy chẳng hạn. Chỉ chờ bạn ngó, tôi ngó, thằng nhóc nào đó ngó là bà đưa cái chuông bóng lộn lên lắc leng keng, cười móm, mời mọc, ngọt sớt.
Có thể bà vẫn còn ngồi đó, dù không ai mua cho bà cây cà-rem đậu xanh. Có thể bà vẫn còn bưng rổ đứng đó, dù không ai mua cho bà gói đậu phọng lép. Có thể bà vẫn còn lom khom đi lượm lon trong xóm Hàng Xanh, dù không ai chỉ cho bà nhà ông Đa. Nhưng mọi người vẫn còn đó. Những bà-già-quê-hương, những ‘‘Mối Tình Đầu’’ thiệt sự của tôi, vẫn còn đó. Cho dù bạn vô tình hay thờ ơ không ngó thấy.
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay…

 

Ngộ Không

Bài Mới Nhất
Search