T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

T.Vấn: Hồi Sinh (2)

1.

Đã cuối tháng 3. Thời điểm của tiết Lập Xuân. Vậy mà khu vực trung Tây nước Mỹ vẫn có nơi bị lũ lụt, mưa to nhiều ngày, có nơi tuyết phủ trắng xóa ngập lên đến ngang đầu gối. Dù vậy, học trò vẫn cứ được nghỉ học để chào đón mùa xuân đến như thường lệ hàng năm (Spring Break). Các cửa hàng sáng rực lên nhờ những chậu hoa đầu mùa mừng Phục Sinh (Easter). Có thật là đã qua rồi những ngày đông u trầm lạnh lẽo không? tôi tự hỏi mình khi bước chân ra khu vườn sau nhà xăm xoi những bụi tulips vừa nhú lên chút chồi màu xanh. Có năm tháng 4 rồi mà vẫn còn những trận tuyết rét cóng giết sạch những cành cây non vừa chớm nụ.

Tôi có cảm tưởng như mùa đông luôn luôn có lối chào từ biệt rất “đáng ghét”. Nó khiến cho người ta phải nhắc đến nó cả khi buổi sáng mùa xuân thức dậy thấy nắng đã chói chang trước thềm nhà. Có lẽ đó cũng là sự nhắc nhở của phục sinh, của hồi sinh. Từ trong bóng tối ảm đạm của chết chóc, của hủy diệt, bước ra cái bóng sáng lòa của sự sống. Và, tuy đã đắm mình trong cái ánh sáng chói lọi của hồi sinh rồi, vẫn không thể cưỡng lại được ý muốn ngóai nhìn lại chỗ bóng tối mình vừa bước ra khỏi mà hân hoan tin rằng mình đã được cứu rỗi, thế giới đã được cứu rỗi, lòai người đã được cứu rỗi. Chẳng những con người được hồi sinh, cả cây cỏ muôn lòai cũng đang tưng bừng sống lại. Dù rằng bóng dáng của mùa đông vẫn còn lẩn khuất đâu đó, những trận tuyết rơi muộn, những cơn mưa băng đổ vội vã, những ngọn gió buốt gía nấn ná chưa chịu bay đi vào quá khứ.

Đã qua chưa những ngày đông u trầm lạnh lẽo?

Mùa Phục Sinh. Chúa sống lại. Sự sống ngự trị. Sự chết lui dần vào bóng tối. Từ hơn hai ngàn năm nay, thế giới đã chết đi và sống lại cùng với sự chết đi và sống lại của Chúa. Với vạn vật muôn lòai, mùa đông và mùa xuân vẫn thường xuyên đổi chỗ cho nhau. Tuyết gía đến rồi đi. Nắng ấm bỏ đi rồi lại trở về. Đó là chu kỳ chuyển động của thời gian và vạn vật muôn lòai cũng theo với thời gian mà chuyển động. Nhưng con người chết đi mà không sống lại, theo ý nghĩa tồn tại một xác thân biết vui buồn sướng khổ của kiếp nhân sinh.

Nếu sự khổ nạn của Chúa là để cứu chuộc cho nhân lọai, thì sự thống khổ của con người là để cứu lấy điều gì? Chiến tranh, thiên tai, sinh , lão, bệnh, tử. Những tai họa ấy không chừa một ai trên con đường chúng càn quét. Cả kẻ có tội lẫn người vô tội. Cả những người gìa đã sống quá đủ một đời người đến những em bé sơ sinh chưa một lần biết đến vị ngọt của yêu thương, vị đắng của thù hận, vị cay của nước mắt, vị ấm của nụ cười. Để chịu đựng những nỗi thống khổ ấy, người ta cần có một lý do. Một lý do đủ sức mạnh để nâng đỡ những nỗi đau nặng nề nhất.

Chúng ta đang sống trong một thế giới ngự trị bởi bạo lực. Bạo lực vô hình và bạo lực hữu hình. Chỉ trong khỏanh khắc, người ta có thể mất hết tất cả. Gia đình, người thân, tài sản, sự sống của chính mình. Ai là người có thể giải thích được điều tốt đẹp mà những cuộc chiến tranh hiện đang xảy ra trên thế giới có thể mang lại cho con người? Ai là người có thể chứng minh được cứu cánh của những chế độ hà khắc, đàn áp, đè nén quyền sống của những con người bình thường nhất là để cho những con người ấy có một sự sống tốt đẹp hơn, đáng sống hơn? Ai là người có thể thuyết phục được những con người đang đau khổ hãy cố chịu đựng nỗi đau khổ của mình để chờ cho đến ngày sẽ được giải thóat khỏi mọi sự đau khổ. Con người, xét cho cùng, chỉ như một đứa bé bơ vơ một mình giữa sa mạc. Sẽ chẳng có viên kẹo nào làm dịu được nỗi sợ hãi đang dâng lên trong lòng nó khi trời đang dần dần tối. Con người, cả kẻ giàu có lẫn người nghèo hèn, kẻ thống trị đầy quyền lực lẫn người bị trị thân phận như con giun con dế, đều bị giam cầm trong nhà tù của sợ hãi, và kẻ đau khổ sẽ là kẻ ý thức được thân phận tù tội của mình. Như đứa bé nhìn thấy cái mênh mông của sa mạc và sự thăm thẳm của bóng tối. (*)

2.

Phục Sinh, đồng thời, còn gợi cho tôi cảm gíac hồi sinh. Về những con người đã vượt qua bao nhiêu gian nan, thống khổ, để cuối cùng, đã làm lại đời mình, như những cành cây vươn lên giữa bầu trời xanh sau phong ba bão táp. Chúng ta chỉ có tương lai làm gia tài để lại cho con cháu mai sau. Mà tương lai phải bắt đầu từ hôm nay, từ hiện tại. Một hiện tại không vẩn đục vì những nhọc nhằn gian khổ của quá khứ. Từ bóng tối quá khứ, nhiều con người đã vượt qua được sự thống khổ của chính mình và đặt những bước chân tươi rói như chưa hề biết đến thống khổ vào mảnh đất của hiện tại. Đó là món quà hào phóng và đầy ý nghĩa gởi đến các thế hệ tương lai, nếu như chúng ta muốn để lại chút gì cho họ, trước khi nhắm mắt lìa đời. Nếu câu hỏi “con người chịu thống khổ để được điều gì?” vẫn chưa có câu trả lời xác đáng, thì hành động vượt qua sự thống khổ ấy sẽ mang lại ý nghĩa trọn vẹn cho Phục Sinh, cả sự Phục Sinh của Chúa lẫn sự Hồi sinh của con người. Cùng một lúc, người ta sẽ học được bài học đắt gía là nếu con người không tìm được cách để chung sống hòa bình với nhau thì mặt đất lòai người chỉ là hỏa ngục, và sự hủy diệt sẽ là một phương cách để giải thóat con người khỏi hỏa ngục đó. Khi ấy, hồi sinh chỉ là khái niệm trừu tượng tồn tại qua những trang sách còn giữ lại được sau cơn hồng thủy. Chính con người, nếu không hòa giải được với nhau, chồng không hòa giải được với vợ, cha không hòa giải được với con, anh không hòa giải được với em, thì làm sao nói đến chuyện hòa giải với thần linh để được nhận ơn cứu chuộc ? (**)

Sau trận bão ở vùng biển Nam Á cuối năm 2004 giết chết hơn 250 ngàn người, hủy diệt nhiều làng mạc nằm dọc theo những bờ biển nhiều quốc gia, tôi đã ghi nhận được một hình ảnh có tính cách tiên tri như sau:

Buổi chiều hôm Chủ Nhật sau khi cơn sóng thần làm giảm đi hơn 250 ngàn mạng sống trong tổng số dân cư của thế giới, trong khi cả thế giới khóc than cho người chết, thì trên bờ biển ở một làng đánh cá thuộc miền Đông Ấn Độ, có một người già, lẹp kẹp lê đôi dép vẹt mòn ra ngồi nhặt những con cá đã chết ươn do sóng thần đánh vào bờ từ buổi sáng. Dẫu có thế nào, người ta cũng phải sống cho hết đời mình, dù chỉ còn những ngày cuối cùng. Dù ngày mai, một cơn hồng thủy khác lại đổ xuống, một ngọn núi lửa khác lại phun lên, một trận động đất khác lại diễn ra nuốt chửng nhiều thành phố làng mạc. Dẫu cho cả gia đình ông, con cháu, hàng xóm đã nằm cứng đơ một chỗ như những con cá ươn kia, nhưng ông, kẻ sống sót – tự nguyện hay bắt buộc – vẫn cần phải ăn, để lấy sức mà chôn cất người chết, xây dựng lại xóm làng.

Giữa ngổn ngang của đổ vỡ và mênh mông của đất trời, ông già nhúm lên một ngọn lửa trên bãi biển, xiên những con cá chết vào một cành cây gẫy, chuẩn bị nướng chúng cho bữa ăn chiều.

Ngày mai, ông còn rất nhiều việc phải làm.

(Ngày xưa, ở một vùng biển Nam Á – T.Vấn – Tháng 1-2005)

Nhiều năm đã trôi qua. Không biết ông gìa người Ấn Độ ấy nay còn sống hay đã chết, nhưng hình ảnh một người gìa can đảm đứng thẳng người giữa bao đổ vỡ, cả đổ vỡ của đất trời lẫn đổ vỡ trong lòng mình, là một biểu tượng thật mạnh mẽ của hồi sinh. Nỗi thống khổ, quá to lớn vì ông không còn ai để chia sẻ, hay nếu có còn ai chăng nữa thì người ấy hẳn cũng đã oằn vai với gánh nặng của riêng mình, khiến ông gìa biết mình phải chuẩn bị để đi cho trọn đọan đường nhân sinh. Và ông đã “. . . nhúm lên một ngọn lửa trên bãi biển, xiên những con cá chết vào một cành cây gẫy, chuẩn bị nướng chúng cho bữa ăn chiều. Ngày mai, ông còn rất nhiều việc phải làm.

Việc phải làm của ông gìa có lẽ không phải là hàng đêm ngồi chắp tay chất vấn thần linh rằng chúng tôi chịu thống khổ như vậy để được điều gì cho thân phận làm người, mà chính là xăn tay áo lên, lăn xả vào đối diện với chính sự đau khổ, để rồi sau khi dọn dẹp những đổ nát, chôn cất những người chết, ông sẽ làm lại cuộc đời mình. Bởi vì thật vô lý khi để mặc cho sự đau khổ hủy họai thêm một mạng sống, dù mạng sống ấy đang đếm những ngày cuối cùng còn sót lại trên mặt đất trần gian.

3.

Hôm chủ nhật lễ Phục Sinh (Easter) nơi thành phố tôi ở, nắng ấm áp chan hòa, dù đêm hôm trước có dấu hiệu cho thấy một đợt lạnh nữa có thể tràn về. Tiếng chuông nhà thờ khắp thành phố đổ dồn, rộn rã mừng Chúa sống lại. Giữa tiếng nhã nhạc tưng bừng trong thánh lễ buổi sáng hôm đó, nhìn mọi người nghiêm trang trong những bộ quần áo thật đẹp, nhưng nét hân hoan vẫn tóat ra từ ánh mắt, từ những câu chúc tụng quen thuộc (Happy Easter!), tôi hiểu được hết ý nghĩa của những ước lệ, những nghi thức được lập đi lập lại hàng ngàn năm mà vẫn không mất đi tính cách thiêng liêng cần thiết. Những thứ mà khi tôi còn trẻ, rất khó có ai thuyết phục được tôi tin ở những gía trị mà ngày hôm nay, sau khi đã sống gần hết một đời người, sau khi đã trải qua bao nhiêu những khổ đau họan nạn, sau khi đã bước vào ánh sáng từ đống tro tàn đổ nát của quá khứ, tôi nhìn thấy trọn vẹn ý nghĩa trong sự phục sinh của Chúa, trong sự hồi sinh của con người.

Hơn bao giờ hết, tôi tòan tâm tòan ý trân trọng ánh sáng chói lọi của phục sinh, dù bên Iraq vẫn có mấy chục người chết mỗi ngày, dù ở Tây Tạng, những thây người hiền hòa vẫn ngã xuống trước họng súng bạo lực, và mỗi ngày qua đi, lại thêm một vũ khí tối tân dùng để giết người được đưa vào sản xuất hàng lọat trong các nhà máy.

Rồi thì con người cũng sẽ sống lại, như từ mấy ngàn năm nay con người đã bao lần chết đi và sống lại.

T.Vấn

Mùa Phục Sinh 2008

______________________________________________________________________________________________

*Thế giới có đầy dẫy những chứng cớ cụ thể cho nỗi sợ hãi đang cầm tù chính con người ấy. Sự kiện chính quyền Trung quốc với guồng máy đàn áp khổng lồ trong tay, một dân số hơn một tỷ người chiếm một phần tám dân số tòan cầu, đã biểu lộ sự sợ hãi của mình qua hành động đàn áp đẫm máu một dân tộc thật nhỏ bé là Tây Tạng , dù họ chỉ đòi hỏi những quyền sơ đẳng nhất của con người một cách ôn hòa. Hay sự kiện xảy ra vào cuối tháng 9 năm 2007 tại Miến Điện, nhà cầm quyền quân sự với lực lượng quân đội gần 400 ngàn binh lính đã thẳng tay xả súng bắn vào hàng ngàn sư sãi xuống đường biểu tình yêu cầu một chế độ dân chủ hơn cho người dân Miến Điện. Người dân Tây Tạng hay các vị sư sãi Miến Điện, về tương quan bạo lực, không thể nào là đối thủ tương xứng để cho những nhà cầm quyền độc tài sợ hãi. Thế nhưng, những phản ứng bạo lực để đối phó với những lực lượng hiền hòa chính là hậu quả của sự sợ hãi. Nếu không, họ đã chẳng liều lĩnh phạm phải những tội ác khó tha thứ. Một thí dụ khác nữa ở Việt Nam rất điển hình , là việc tập thơ Trần Dần- Thơ, dù đã được phép in và xuất bản sau khi bị cắt xén khỏang 4o trang, bỏ đi một số bài viết và bài thơ theo yêu cầu “biên tập”, dự trù cho phát hành ngày 21-02-2008 tại Hội Thơ Việt Nam lần thứ 6 tổ chức ở Văn Miếu (Hà Nội) nhưng vào giờ chót, bằng một “lệnh miệng từ trên cao”, tập thơ đã không được phép xuất hiện ở Văn Miếu, và giấy phép phát hành cũng đã bị thu hồi. Trần Dần là một nhà thơ thuộc nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, họat động vào những năm 1955 và 1956 ở miền Bắc, đòi hỏi văn nghệ sĩ phải được tự do sáng tác, không chịu sự chỉ đạo của đảng CS. Sau đó, ông và các bạn bè trong nhóm bị chính quyền CS trù dập trong suốt hơn 30 năm. Mãi đến năm 1994, ông mới được cho phép xuất bản tập thơ “Cổng tỉnh”, được truy tặng giải thưởng văn học của nhà nước năm 2007 (Trần Dần qua đời ngày 17-01-1997). Nhà thơ Trần Dần đã chết hơn 10 năm, vậy mà “ông nhà nước”, kẻ nắm đủ thứ quyền sinh sát trong tay, vẫn còn “nỗi sợ” ám ảnh họ từ hơn 30 năm nay, dù người bị sợ ấy chỉ có chữ, chỉ có thơ trong tay, những câu thơ nghe cứ rờn rợn cả người:

Càng chết tôi càng bất tử,

Eo ơi

Chết vẫn không yên

( Trần Dần – Xổ Bụi 1988)

Ông nhà nước “sợ” cũng chẳng có gì ngạc nhiên. T.Vấn

** Khái niệm “hòa giải”, trong hiện tại, còn mang theo với nó rất nhiều nghiệp chướng. Với kẻ cầm quyền trong nước, nó vẫn được sử dụng như một sách lược chính trị nhằm đạt mục đích giết chết chính khái niệm “hòa giải”. Với người ngòai nước, nó hiện thân là một cái thước đo lòng trung thành của một con người với cộng đồng của mình. Bất cứ ai vượt ra ngòai định nghĩa ấy của “hòa giải”, kẻ đó sẽ bị ném đá về tội phản bội. Bi kịch của thời đại nằm ở chỗ mỗi con người không chịu thừa nhận rằng họ chỉ trách nhiệm cho việc cứu rỗi của chính bản thân họ. Thật là vô lý khi người ta tìm cách áp đặt cái cách người ta nhìn thế giới lên đồng lọai, tự xưng mình là thượng đế, giải quyết các vấn đề của thế giới theo cách nhìn riêng của mình. Karl Marx, một trí thức chỉ biết có sách vở và những tham vọng, tự giam mình trong 4 bức tường thư viện, rồi từ 4 bức tường khép kín đó, ông ta rao giảng cái cách mà ông ta tin rằng sẽ cứu rỗi được thế giới. Từ mớ lý thuyết bệnh họan ấy, hàng trăm triệu con người đã chết. Nhiều thế hệ tương lai còn lãnh chịu những hệ quả tồi tệ của nó. Nhưng hình như người ta chỉ biết lên án Karl Marx, mà không nhìn ra nguyên nhân gốc của những trang sử đẫm máu: đó là tâm thức bệnh họan muốn giải quyết việc của người khác theo cách suy nghĩ của mình. Ngày nay, hình như chính một số trong những kẻ lên án Marx mạnh mẽ nhất, lại là những kẻ đang mang tâm thức bệnh họan của Marx. Dù ở bất cứ thời đại nào, lòai người không bao giờ thiếu những kẻ điên. T.Vấn

© T.Vấn 2008

Bài Mới Nhất
Search