T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không: Theo bước chân phù lãng nhân…

    

        Ấm Trà Thiu – Tranh: Thanh Châu

Năm hết Tết đến, thu vén nhà cửa để tống cựu nghinh tân, chợt nghĩ đến lũ mối mọt gậm nhấm giấy má, một tôi mầy mò vào…”tàng kinh các” để thăm chừng. Thấy con bươm bướm lụy chữ nghĩa nằm chết khô trong sách mà cụ Tiên Điền Nguyễn Du gọi là điệp tử thư trung. Khi không con chết tiệt này đưa đẩy một tôi mon men tới kiếp phù sinh hề một thoáng bạch câu với câu “bách niên cùng tử văn chương lý, lục xích phù thân thiên địa trung”. Đành vay mượn chữ nghĩa bạn già nho phong dẫn giải trăm năm một đời, cùng một cõi văn chương, sáu thước tấm thân, lênh đênh giữa trời đất. Hơ! Một cõi văn chương với bốn thước hai thước, nghe hãi quá thể! Thưa bạn đọc.

Ừ thì cũng nên náo động về bạn già của một tôi một phen. Gia dĩ bạn chữ nghĩa đây là ông đồ nát chữ viết thông thiên vạn quyển với sử sách. Gần đây bạn già viết truyện về một sứ thần ta đi sứ cả năm trời với bao gian nan vất vả khôn cùng, như phải đi bộ, nói năng phải bút đàm, v…v…. Rồi sứ thần bỏ xác ở bên ấy, xác được nhét thủy ngân bỏ vào áo quan mang về xứ. Vì vậy các quan ta sợ nhất chuyện đi sứ vì câu ám chướng: “Thứ nhất đi sư, thứ nhì di quan”. Chả dấu gì bạn đọc, bởi lập thân…tối dạ thị văn chương nên một tôi đang hặm hụi một bộ sử dài hơi dầy chữ. Vì một tôi học theo các nhà sử học hôm nay, cứ thuổng sử phấm của người này người kia rồi nhồi nhét là có ngay một bộ sử dầy cộm. Ngon ăn như ăn trứng luộc vì chỉ căt xén, chắp vá nhoáng nhoàng một…”thoáng bạch câu” là xong tuốt. Dễ ợt. Nghe một tôi to hó vậy với bạn đọc, bạn già phều phào mà rằng một tôi chỉ có ba mớ sách đã rối chuyện,  “rối chữ”.

Tiếp, bạn già kể chuyện Con lạc đà chui qua lỗ kim rối rắm như thế này đây…

       Xưa thật là xưa có một vị vua, sau những năm vó câu dập dồn, sống trên mình ngựa, xông pha trên bãi chiến trường. Một hôm vua cho triệu vị sử quan già tới phán:

– Đời Cô chỉ mong ước đọc được bộ lịch sử lòai người trước khi nhắm mắt theo các tiên vương. Bộ sử lại quá nhiều, khanh thu gọn trong vòng 10 quyển được không?

– Dạ được, hạ thần xin bệ hạ 5 năm.            

Vua gật đầu. Bộ sử nằm yên bấy lâu trong viện tàng cổ được chất lên 3 xe sách…

        Làm như ăn khoai môn ngứa miệng sao ấy, “rối chữ tôi” buột miệng hỏi gì mà tới 3 xe sách? Bạn già cầm cây gậy chống trời gõ cách cách vào chân bàn gỗ và cách rách: Như bác biết đấy, xưa sử quan chưa có giấy, sử viết lên tre nên gọi là sử xanh. Sau đấy viết lên gỗ củi, da ngựa, da bò cả ngàn quyển chất lên xe chở đi. Rối chữ tôi chép miệng tách một cái: Dạ vâng, bác dậy sao em nghe vậy. Vâng dạ xong bị bạn già mắng vỗ mặt: Bác ăn vẹt ở mòn chữ nghĩa bấy lâu mà chả hanh thông…thông sử gì sất.

Thế là rối chữ tôi cạch không dám hỏi nữa, đành căng tai nghe…

Ba xe sách mang tới quốc sử quán, được tháo tung từng mảnh, từng chương, lục sọan, tra cứu, bụi xốc lên mù mịt như cát sa mạc trong cơn lốc. Trải qua năm tháng, sử quan làm việc bất kể ngày đêm, lưng còm mắt mờ, tóm lược khắc trên những thớ gỗ dầy cộm. Nhưng sau 5 năm rồi cũng xong, bộ sử 10 quyển được chất lên mấy thớt lạc đà, rồi khệ nệ khiêng vào triều. Vua thấy vậy, lắc đầu ngán ngẩm:

– Nay Cô đã tuổi già sức yếu, khanh tóm lược lại 1 quyển được chăng?

Vị sử quan mệt mỏi tâu:

– Xin bệ hạ cho thần…10 năm.

        Đến cớ sự này, ngu lâu đần dai cách mấy, rối chữ tôi ngộ ra là bạn già muốn răn đe đừng viết dài quá như tra tấn chữ nghĩa bạn đọc. Mà hãy viết ngăn ngắn một ti, cần nhất là loại bỏ những chi tiết thừa thãi, những câu tối nghĩa…

Tiếp, bạn già câu đọng chữ thừa…

Sau 10 năm, lão thần ốm gầy như cây khô, mặt mày vàng võ, đi phải chống gậy, tay run lẩy bẩy mang quyển sử vào trình. Cũng đúng lúc vua đang hấp hối, phều phào:

– Cô sắp đi…Hiền khanh hãy tóm tắt bộ sử bằng…một câu…Một câu thôi.

Lão thần lập bập, thì thào bên tai vua…Vua gật gật đầu, đôi môi khô héo, bỗng nở một nụ cười hiu hắt đầy mãn nguyện rồi băng hà. Lão sử quan lắc đầu, thở ra như thở dài rồi cũng từ từ trút hơi thở cuối cùng bên cạnh bộ sử dầy cộm.

        Đang lụi đụi vì chả biết lão sử quan sầm sì chi với cụ vua thì bạn già xách củi khô gỗ mục ra để luận sử: Như bác biết đấy, vì viết sử trên thẻ tre, thanh gỗ nên phải viết cô đọng. Nên người sau hiểu bung bét hết. Như:Thượng thư đại truyện chép đời Chu Thành Vương (cùng thời Hùng Vương), người Việt Thường từ phía nam Giao Chỉ (Thanh Hoá) cưỡi ba con voi mang chim bạch trĩ đến cống, phải qua 9 lần thông dịch mới hiểu. Lúc về, sợ sứ giả bị lạc đường, Chu Công cho xe chỉ nam để dẫn đường.

Mắt tròn dâu hỏi với…chim trĩ cưỡi voi như bà Trưng? Dòm thấy vậy bạn già vấn ngưu truy mã rối chữ tôi: “Vậy chứ bác nghĩ sao người Việt Thường xách con chim trĩ lêu bêu sang Tàu cả mấy năm trời, bộ con chim trĩ không ngỏm củ tỉ à?”.

Khi không bạn già nho táo “thi thị khả giải, bất khả giải chi gian”, và luận ngữ mà rối chữ tôi hiểu bừa phứa là “sử thi nằm trong khoảnh lơ mơ lỗ mỗ có thể giải thích được và cũng có thể không giải thích được”. Và bạn già lại…vấn nạn rối chữ tôi:

– Giả sử không có giấy tờ, bản đồ, thông dịch, bác có dám một mình tới Hồng Kông, qua Mỹ. Rồi đi bộ từ San Francisco đến Washington không?.

Bụng dạ rối chữ tôi trộm nghĩ ắt hẳn bạn già đẩy đưa theo bước chân phù lãng nhân Bùi Viện đây. Chuyện này cũng ngon cơm: Một là nhà rối chữ tôi ở ngay đường Bùi Viện. Hai là nếu như ở Tây phương có Columbus Christopher tìm ra châu Mỹ. Thì khoảng 300 năm sau, ở Đông phương, ngay tại Đại Việt ta có Bùi Viện cũng tìm ra…châu Mỹ. Và có một trùng hợp của lịch sử là cả hai đều tới Mỹ hai lần. Ngoài ra rối chữ tôi còn gặp Bùi Viện ở phố Tàu nữa. Bèn thưa với bạn già mọi ngẫu sự bằng vào một ngày bắt gặp sấp giấy vàng ố có mươi lỗ bằng hạt gạo vào năm nảo năm nào.

Để rồi bỗng không cả một chuỗi thời gian quá vãng đong đẩy đong đưa…

Bằng vào bốn chục năm trước, cái ngày rối chữ tôi chân ướt chân ráo qua đây. Quán xá chợ búa không ngoài ba tiệm “chạp phô” cũ mèm của người Tàu từ thời tổ tiên họ sang miền Viễn Tây làm đường xe lửa còn rơi rớt lại cũng nên. Một ngày cuối tuần xuống phố ghé tiệm chạp phô mà người Việt ta sang nhượng từ người Tàu, thấy trên quầy bầy dăm băng “cát-sét” nhạc thâu lại, mươi cuốn truyện cũ được “phô tô cóp pi”, bọc giấy dầu cho thuê. Hiểu theo nghĩa là chưa có báo chợ, báo chùa gì sất cả. Lóng nhóng thế nào mắt rối chữ tôi đậu trên sấp giấy kẹp bìa hơi cũ, có vài ba đốm chấm nâu đen li ti. Trong khi đợi nội tướng vất vưởng với chợ búa bèn mở ra “xem cọp”…

Ngay trang đầu sấp giấy mỏng đánh máy bằng máy chữ cổ lỗ sĩ với tựa đề Liên hệ Hoa Kỳ-Việt Nam thời thế kỷ 19. Đọc sơ qua có chuyện sứ thần Bùi Viện của tác giả Trần Đông Phong, và Con đường thiên lý của nhà biên khảo, học giả văn hóa cổ đại. Rối chữ tôi nhẩm chừng tác giả trích dẫn truyện Con đường thiên lý để viết tiểu luận lấy cao học từ bên nhà thì phải. Cũng có thể ông là chuyên gia về bang giao quốc tế của sứ quán hay sứ bộ nào đó và ông đã có mặt ở đây từ thập niên 60 hay 70 không chừng.

Riêng với tác nhân “Con đường thiên lý”, trước 75 rối chữ tôi hong hanh biết cụ là kẻ sĩ bách vi, chỉ lo mài dũa biên khảo, sưu khảo, chuyên công đẽo gọt sử xanh, sử thi. Nên rối chữ tôi gọi cụ là nhà biên khảo, học giả văn hóa cổ đại là vậy. Vậy mà “xem cọp” xong là quên tuốt. Bèn thưa gửi với bạn già nhẽ ấy.…Đất sinh cỏ già sinh tật hay sao đó, bỗng dưng bạn già cắt lưỡi rối chữ tôi thế này đây: “Nhân thoại hưu đề ngôn quy chính truyện”. Thấy rối chữ tôi ngơ ngác như quạ vào chuồng lợn, bạn già khai ngôn phá chữ là hãy…gác những chuyện rườm rà để nói vào chuyện chính.

Ừ thì vào chuyện, nhưng rối chữ tôi đèn lu dầu kiệt đến nằm 2005, nhờ đi tìm con đố ngư trong tàng kinh các mới lòi tói ra tạp chí Văn Hóa Việt Nam có bài khảo luận cũng của ông Trần Đông Phong. Vào tựa, ông bộc bạch ông là nhà giáo, làm báo và cũng là chuyên viên bang giao quốc tế. Vì Con đường thiên lý dầy cả mấy trăm trang nên ông chỉ tóm lược thôi. Thế là rối chữ tôi lui cui gõ mõ từng khúc, từng đoạn theo bài khảo luận, theo những bước chim di của nhà biên khảo, học giả cổ đại…

Trong bài khảo luận, ông Trần Đông Phong gọi tác giả Con đường thiên lý khi là cụ Lê, lúc ông Lê. Ngoài ra với phần Chú thích ở cuối trang mà ông gọi là “footnote’ có ghi những địa danh như “Pháp-Lan-Tây” với Pháp-Lan là phiên âm của Fran, giống như France là…nước Pháp. Và “Sanh-Phát-Lan-Xích-Cô” được giải thích Sanh là phiên âm của San, và Xích-Cồ là phiên âm của Cisco, như vậy thì Sanh-Phát-Lan-Xích-Cô tức là thành phố…San Francisco, sau này người Tàu gọi là Cựu Kim Sơn, thưa bạn đọc.

“…Vào khỏang đầu thập niên 1930, lúc học trường Bưởi tại Hà Nội, đồng môn với cụ Lê là Trần Văn Bảng, quê ở làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, thuộc tỉnh Phú Thọ.

Trong một lúc vui bạn vui bè, Trần Văn Bảng nói với cụ Lê rằng:

– Anh bảo người Việt Nam đầu tiên qua Hoa Kỳ là Bùi Viện. Sai. Người đầu tiên là cụ nội tổ chúng tôi, là cụ Trần Trọng Khiêm.

– Trần Trọng Khiêm là ai? Ở thời nào? Tôi không nghe tên đó.

– Cùng triều Tự Đức như Bùi Viện, nhưng sinh ở đầu đời Minh Mạng, hơn Bùi Viện khoảng hai chục tuổi, không rõ Bùi Viện qua Hoa Kỳ năm nào, nhưng tôi biết chắc là cụ Trần Trọng Khiêm đặt chân lên đât Hoa Kỳ năm 1849 và sống ở đấy 4 năm…”.

Theo ông Trần Đông Phong đọc Con đường thiên lý (trang 26) thi..

“…Ông Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ 1821, tức năm Minh Mạng thứ hai. Năm ông hai mươi hai tuổi, vợ của ông bị viên chánh tổng cưỡng hiếp rồi bức tử. Xong y nổi lửa đốt nhà, sau đó y đến điều tra rồi trình lên quan trên rằng bà bị cướp giết chết. Khi ông Khiêm về đến nhà, ông bình tĩnh chôn cất vợ, nhờ người làng lo việc hương khói cho bà vợ, sau đó ông rời làng và bặt tin. Đúng một năm sau viên chánh tổng bị giết chết và ông cũng rời làng biệt tích. Người làng cho rằng ông Khiêm về trả thù cho vợ.

Người bạn sau đó đưa cho cụ Lê xem bức thư viết bằng chữ Nôm gửi cho họ hàng, thư đề ngày rằm tháng Hai năm 1860. Trong đó ông Khiêm cho biết sau khi trả thù được cho vợ. Ông tới Phố Hiến-Hưng Yên, theo tàu buôn sang Hương Cảng, cư ngụ ở đấy một thời gian, rồi qua Anh Cát Lợi, Hòa Lan, “Pháp-Lan-Tây”. Cuối cùng sang tận Hoa Kỳ theo một đòan tìm vàng và ở thành phố “Sanh-Phát-Lan-Xích-Cô”. Chẳng bao lâu sau, vì nhớ quê hương, ông trở về Hương Cảng, nhập tịch Trung Hoa rồi về lại quê nhà, lập nghiệp ở làng Hòa An, phủ Tân Thành tỉnh Định Tường. Ông tục huyền với thiếu nữ họ Phan, sinh hai con đặt tên là Xuân Lãm và Xuân Lương. Bức thư ký tên Lê Kim, viết ở làng Hòa An, ngày rằm tháng Hai năm Canh Thân, tức là năm 1860.

Năm 1935, cụ Lê vào Nam Kỳ làm việc, nhớ đến chuyện cụ tổ phụ của bạn, nay có tên Lê Kim. Cụ Lê là người thích nghiên cứu, tìm tòi, lại quen biết giới hành chánh nhiều nên lần mò về Định Tường hỏi han, được biết trong sổ bạ của làng Hòa An, có người Minh Hương tên Lê Văn Kim, đến đây lập nghiệp từ năm 1855, đời vua Tự Đức…”.

Rối chữ tôi “điểm phim” với bạn già càng về sau chuyện càng lôi cuốn như phim Miền viễn tây nhằm vào thập niên 50, 60. Vì ông Lê Kim là người Việt Nam đầu tiên, quăng giây cưỡi ngựa rong ruổi về một thị trấn hoang vu. Ngoài ra ông còn góp tay tạo dựng lên thành phố San Francisco đầy gió cát này trong cái buổi hoang sơ…

“…Năm 1946, cụ Lê trở ra Bắc cũng vừa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, nên mất liên lạc với bạn. Cụ tình cờ đọc được cuốn sách bằng tiếng Pháp nhan đề La Rúee Vers l’Or của René Lefèbre, được nhà Dumas ở Lyon xuất bản năm 1937. Cụ đọc thấy cuốn sách này tên nhân vật chính là “Lee Kim” đều bị xóa và sửa thành “Lê Kim”. Ở trang đầu có đóng con mộc dấu đỏ đã phai mầu Tủ sách gia đình Lê Xuân Liêm, làng Mỹ Quới, tỉnh Rạch Giá”. Những điều này khiến cụ liên tưởng đến ông Lê Kim, tổ phụ của người bạn Trần Văn Bảng và cụ đã đọc hết cuốc sách này.

La Rúee Vers l’Or là câu chuyện về một nhóm giang hồ tứ chiến gồm đủ mọi quốc tịch Gia Nà Đại, Anh, Pháp, Hòa Lan, Mề Tây Cơ, Thụy Điển, Do Thái và một người Trung Hoa tên Lee Kim. Họ gặp gỡ nhau rồi cùng đi về hướng tây để tìm vàng vào giữa thế kỷ 19. Câu chuyện khởi đầu từ năm 1849 tại thành phố New Orleans, qua thành phố St Louis, lúc bấy giờ được xem là cửa ngõ để đi về miền Viễn Tây. Chuyến săn vàng của nhóm giang hồ tứ chiến đầy đói khát, vượt qua bao nhiêu núi non, sa mạc. Những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City  đầy hiểm nguy gian khổ, đánh nhau với mọi da đỏ, vượt thóat bọn cướp đường. Cuối cùng nhân vật chính là “Max”, là người Canada lập nên nhóm 80 người đi tìm vàng và cánh tay mặt của y là Lee Kim, cũng dẫn được hơn nửa nhóm người này tới California. Thời đó, “Wild West” tức miền Tây hoang dã là cụm từ người Mỹ dùng để chỉ bang California. Lee Kim là thông ngôn cho cả nhóm vì nói được nhiều thứ tiếng như Anh, Pháp, Hòa Lan, Trung Hoa và “một thứ tiếng khác nữa” nhưng không rõ tiếng nước nào. Lee Kim nói rằng anh ta không phải là người Tàu, nhưng khi được hỏi là người nước nào, anh trả lời là nước của anh ta cũng “gần gần nước Tàu”.

Cuối cùng họ cũng tìm được một ít vàng, sau đó về sống ở San Francisco. Đến thị trấn mới, Lee Kim được thuê làm cho tờ Daily Evening nhờ biết nhiều thứ tiếng. Còn “Max” nổi tiếng nhờ giết được tên cướp của giết người ở vùng này có biệt danh là “Jack ba ngón” để đi vào giai thoại ở miền Viễn Tây. Nhờ vậy Kim Lee và “Max” quen biết với Đại úy Sutter ở thành phố này, sau Sutter được Quốc hội Hoa Kỳ phong tướng. Ông chính là Johann August Sutter, một trong những người đã tạo dựng lên thành phố San Francisco, hiện một con đường lớn vẫn còn đang mang tên ông…”.

Theo ông Trần Đông Phong, quyển Con đường tìm vàng của René Lefèbre tờ còn tờ mất, nên nhà biên khảo, học giả văn hóa cổ đại.vẫn còn hòai nghi…Rối chữ tôi hình dung đến khuôn mặt bạn già cũng hồ nghi không kém với chuyện ông Kim Lee đến Châu Mỹ có…xa vời vợi chăng? Vì sang Cao Ly thì may ra. Vì vậy rối chữ tôi quay quả đến “người về một cõi muôn năm cũ” trong cổ thi cả ngàn năm trước: “Thái sư Trần Thủ Độ âm mưu soán ngôi nhà Lý, hoàng tử Lý Long Tường, con thứ của vua Lý Anh Tông (1138-1175)…”. Bỗng dưng bạn già cười hun hút rằng rối chữ tôi bị ông Cư sĩ Trần Đại Sỹ đan lồng nhốt kiến rồi. Nên rối chữ tôi đành thưa rõ ràng ông họ Trần gặp hậu duệ của Lý Long Tường kể cho ông và ông viết rất bài bản: Hoàng tử Lý Long Tường cùng đòan tùy tùng 6000 người trên ba hạm đội từ bến Đinh Hải nhắm hướng bắc vượt biển đông tới Cao Ly…. Bạn già cười rang rức mà rằng chắc gì ông Trần Đại Sĩ gặp hậu duê nhà Lý. Và chuyện đi trốn với 6000 người với ba hạm đội có…”hư cấu” chăng?!

Ừ thì chuyện đâu hãy còn đó, nên rối chữ tôi trở lại thành phố “Sanh-Phát-Lan-Xích-Cô” với người cháu của nhà biên khảo, học giả văn hóa cổ đại…

“…Năm 1960, nhân có người cháu du học ở California, cụ Lê nhờ anh này đến thư viện San Francisco, lục tìm những tờ báo cũ khỏang năm 1850, xem có bài báo nào nói về hai nhân vật “Max” và Kim Lee hay không.

Đến năm 1962, ông có hai bài báo được người cháu gửi về:

– Bài báo đề ngày 19 tháng Hai năm 1850, có đăng bài với cái tựa đề “Jack ba ngón đã bị hạ” với đầy đủ chi tiết của “Mac”. Như vậy chính là “Max” trong La Rúee Vers l’Or.

– Bài báo đề ngày 8 tháng 11 năm 1853, tựa đề ”Kim Lee và tướng Sutter” viết: “Sáng nay, một người Trung Hoa tên Kim Lee, trước làm việc cho báo Daily Evening đã tặng hai trăm Mỳ kim vào quỹ gây dựng thành phố San Francisco của tướng Sutter…”

Nghe thủng xong, bạn già vào lỗ tai ra lỗ miệng hỏi về gốc gác ông Lê Văn Kim?

Thế là rối chữ tôi đưa bạn già với đường mưa ướt đất theo bước chân phù lãng nhân là nhà biên khảo, học giả cổ đại họ Lê, thì……

“…Sau khi nhận được hai bài báo này, cụ Lê tin tưởng rằng nhân vật Lee Kim hay Lê Kim chính là cụ Trần Trọng Khiêm, người đã gửi bức thư cho bạn mình. Như vậy ông Trần Trọng Khiêm vẫn sống ở San Francisco cho đến năm 1853. Ông trở về quê nhà năm 1854 và cải danh là người Minh Hương với tên mới là Lê Kim.

Sau đó ông Lê cố tìm cách liên lạc với hậu duệ cụ Lê Kịm, nhất là gia đình Lê Xuân Liêm, người chủ của cuốn sách La Rúee Vers l’Or mà cụ đã tình cờ đọc được năm 1946. Mãi cho đến khỏang năm 1970, một hôm ông nhận được một cái thư, dấu bưu điện từ tỉnh Rạch Giá của một độc giả tên Lê Xuân Lưu, hỏi cụ về một khúc mắc của sử nước nhà. Cụ Lê nhớ ngay đến Tủ sách gia đình Lê Xuân Liêm, làng Mỹ Quới, tỉnh Rạch Giá”. Sau đó ông đến tận nơi thăm gia đình này và được biết anh Lê Xuân Lưu là con Lê Xuân Liêm nhưng thân phụ anh đã qua đời.

Anh Lê Xuân Lưu cho cụ Lê xem cuốn gia phả do ông nội anh là ông Lê Xuân Liêm con của ông Trần Trọng Khiêm chép từ năm 1928, trong đó có đọan như sau:

“Sự tích họ ta, nhớ mà ghi chép được, mới từ cụ tổ năm đời triều Tự Đức. Tương truyền cụ là người họ Trần, gốc gác làng Xuân Lũng, huyện Sơn Vi, tỉnh Phú Thọ ngòai Bắc. Họ Trần lập nghiệp ở Xuân Lũng từ đời nào, thì nay chưa thể biết được vậy.

Cụ là con trai thứ một thế gia vọng tộc. Văn võ tòan tài mà tinh thần bạt tục, không chịu theo con đường khoa cử, những mong thỏa chí tang bồng. Ngòai hai mươi tuổi, cụ cải danh họ Lê, húy Kim, khẳng khái rời quê cha đất tổ, xuống một tầu buôn ngọai nhân, lênh đênh mấy năm từ Á qua Âu, không đâu không lưu túc tích (dấu chân). Tới xứ nào cụ cũng tìm hiểu phong tục, cái hay cái dở, ý hẳn muốn thâu thái để sau này kinh bang tế thế. Cụ là người có nhãn quan thiên lý, nhìn suốt cổ kim, có chí kế vãng khai lai, đáng làm gương cho con cháu vậy. Mà họ Lê ta cũng đáng lấy làm vinh dự lắm thay.

Năm Giáp Dần triều Tự Đức, cụ về cố quốc. Cụ không dám về Bắc mà vào Nam lập lên làng Hòa An, thuộc tỉnh Định Tường (nay là Sa Đéc). Nơi đó còn hoang dã tòan lau sậy, tràm với lác, cụ quy tụ được một nhóm người khai phá thành ruộng nương tươi tốt. Cụ thành hôn với cụ bà họ Phan, tính tình hiền hậu, tư cách đoan trang và sanh được hai con tên Xuân Lãm, Xuân Lương, để đời đời đừng quên gốc gác làng Xuân Lũng. Tới nay đến thằng Xuân Liêm ta là sáu đời, họ ta vẫn theo mỹ tục đó. Con cháu phải giữ chớ không được bỏ, giữ được thanh bạch, chính là giữ được cái nề nếp vậy…”.

Phần bạt ở cuối sách, ông Trần Đông Phong viết:

Tôi vốn được cái may mắn quen biết với cụ Lê nên biết cụ là người cẩn trọng trong việc nghiên cứu lịch sử. Do đó khi cụ nói rằng: “Tôi mừng như bắt được vàng. Nhân vật Lee Kim quả là có thực, đúng là cụ Trần Trọng Khiêm ở làng Xuân Lũng ngoài Bắc. Chứng cớ chắc chắn rồi, không ai còn chối cãi được nữa.” (trang 27).

Theo tôi chuyện một người Việt lưu lạc sang miền Viễn Tây, biết cưỡi ngựa bắn súng như phim “cao-bồi” là một dữ kiện lịch sử. Tôi là nhà báo nên rất hãnh diện về ông Lê Kim: 125 năm trước, năm 1850, ông Lê Kim hay Lee Kim là người Việt Nam đầu tiên làm ký giả hai năm cho một nhật báo ở San Francisco.

***

Sau khi tác phẩm của nhà biên khảo, văn học cổ đại khởi đi từ thập niên 30, đến thập niên 70 đúng 40 năm thì kết thúc với chữ: “The End”. Rối chữ tôi lại “điểm phim” với bạn già chuyện Con đường thiên lý lôi cuốn như phim Miền viễn tây. Bạn già dòm rối chữ tôi như người cõi trên và mắng như vặt thịt vì đa thư loạn mục, là đọc nhiều quá đâm rối mắt nên chả nhìn ra ý từ người viết sử. Vì ngay khúc vào truyện, cụ Lê tức nhà biên khảo, văn học cổ đại đã dẫn dụ qua người bạn đồng môn Trần Văn Bảng …

– Anh bảo người Việt Nam đầu tiên qua Hoa Kỳ là Bùi Viện. Sai. Người đầu tiên là cụ nội tổ chúng tôi, là cụ Trần Trọng Khiêm.

– Trần Trọng Khiêm là ai? Ở thời nào? Tôi không nghe tên đó.

– Cùng triều Tự Đức như Bùi Viện, nhưng sinh ở đầu đời Minh Mạng, hơn Bùi Viện khoảng hai chục tuổi, tôi không rõ Bùi Viện qua Hoa Kỳ năm nào, nhưng tôi biết chắc là cụ Trần Trọng Khiêm đặt chân lên đât Hoa Kỳ năm 1849 và sống ở đấy 4 năm…”.

Năm 1849? Bởi đi tìm con ba đuôi lòi tói ra nửa tập “Văn hóa Việt Nam” của ông họ Trần. Hỏi sư mượn lược, rối chữ tôi được thể quắn quả với Bùi Viện qua năm tháng:

Theo tộc phả, họ Bùi chính quán ở Thanh Hóa, di cư ra Bắc từ triều Lê đã 200 năm, định cư ở làng Trình Phố, tổng An Hồi, Trực Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Bùi Viện là đời thứ tám tính từ khi thiên di. Ông sinh năm 1839, đỗ tú tài năm 1864, đỗ cử nhân năm 1868. Cuối đời triều đình xét ông có tội tiêu lạm công quỹ 36 vạn, ra lệnh tịch biên gia sản, nhưng vô hiệu vì ông chỉ có một mái nhà tranh. Ngày 1-11-1878, Tự Đức 31, ông đột ngột từ trần. Có nguồn nói ông bị giam và chết trong ngục.

Trần ai khoai củ đến…một mái nhà tranh, hốt nhiên mù u ra bạn già dậy viết sử đừng viết những chi tiết thừa thãi, rối mù. Rối chữ tôi bèn hỏi khúc kết…u tối của chuyện Con lạc đà chui qua lỗ kim. Bạn già gật gừ: Sau mười lăm năm góp nhặt sử phẩm qua những mảng da trâu, những mảnh gỗ dầy, để rồi nước lã ra sông. Vị vua chết là hết chuyện. Bạn già gật đầu tắp lự: Sử sách cho lắm chỉ tổ cho mối mọt nó sơi.

Ba điều bốn chuyện xong, bạn già len chân vào chuyện…

Ừ thì thêm một lần hoắng huýt với bạn đọc về ông bạn già nặng nợ với sử Việt  Như ở trên đã đảo qua, số là bạn già đây đã viết thông thiên vạn quyển về sử thi, gần đây bạn già viết Bùi Viện (1839-1878) & Cuộc cải cách hải quân…Bây giờ bạn già len chân vào chuyện…thôi thì hãy…”thông sử” với huyền thoại Bùi Viện tới Hoa Kỳ. Cứ theo bạn già có nhiều “tư liệu” chép sự việc này với chi tiết khác nhau, với dật sử còn….dật dờ hơn nữa qua những nhà làm văn hóa, nhà biên khảo để rối như mớ bòng bong thêm…

Như với Lê Văn Ðức, Lê Ngọc Trụ thì Bùi Viện được phái sang Quảng Ðông để tìm cách mở mang việc buôn bán với ngoại quốc. Tại đây, ông được con lãnh sự Mỹ làm trung gian xin viện trợ Mỹ, sau đó chính phủ Mỹ đồng ý giúp. Bùi Viện về Huế xin phép Tự Ðức. Vua phái ông qua Hồng Kông hỏi cho chắc chắn rồi mới ban quốc thư. Sợ tốn thì giờ, Bùi Viện mạo quốc thư, tự chế áo mão tam phẩm qua Hồng Kông. Tự Ðức không bắt tội, ban cho ông danh nghĩa chính thức qua Mỹ xin viện trợ. Mỹ đòi phải ứng trước 2 triệu quan để làm quân phí đánh Pháp. Ông về tâu vua, vua cho phép kinh doanh để kiếm ra số tiền 2 triệu quan đó. Sau vì chuyện tham nhũng, đình thần hay được, khép ông tội khi quân, và giam ông đến chết (!?).

Tiếp đến là nhà biên khảo Thái Văn Kiểm viết bằng Pháp ngữ việc Bùi Viện đến Mỹ. Bùi Viện nhận lệnh Tự Ðức qua Hồng Kông tiếp xúc đại diện các cường quốc ở đây, hy vọng dùng áp lực quốc tế chống lại âm mưu thôn tính Ðại Nam của Pháp. Qua sự giới thiệu của lãnh sự Mỹ ở Hồng Kông, Bùi Viện sang Nhật, gặp lãnh sự Mỹ ở Hoành Tân [Yokohama]. Từ đây, Bùi Viện qua San Francisco, được Tổng thống “Simpson Grant” tiếp kiến. Nhưng vì không có quốc thư, nên Grant không hứa hẹn gì.

Robert Miller (1990) dịch nguyên văn từ nguồn của Thái Văn Kiểm và đoạn diễn văn của Tổng thống Lyndon B. Johnson ở Guam. Nhưng chỉ có một khác biệt Bùi Viện gặp lãnh sự Mỹ tại Yokohama trên đường từ Mỹ về quê hương.

Robert Miller vô tình dựa vào nhân viên ngoại giao của Ủy ban lãnh đạo Quốc gia thời Nguyễn Văn Thiệu viết dùm (1967) một đoạn diễn văn cho Tổng thống Lyndon B. Johnson về sử kiện Bùi Viện qua Mỹ để Johnson đọc tại Hội nghị thượng đỉnh ở Guam.

Bạn già lễnh đễnh rằng gần đây có ông Bảo Vân với chi tiết năm tháng hơn:

Tháng bảy năm 1873, Tự Đức thứ 26, Bùi Viện đến bái mạng vua để lên đường sang Nhật, sau đó vượt Thái Bình Dương đến Hoành Tân rồi sang Mỹ. Đến San Francisco, ông vượt ba ngàn dặm đường bộ tới Hoa Thịnh Đốn. Sau hơn một năm trời ở thủ đô nước Mỹ chờ đợi, cuối cùng Bùi Viện cũng gặp được Tổng thống Ulysses S. Grant để xin giúp đỡ chống người Pháp. Vì Bùi Viện không có quốc thư nên phải trở về. Năm 1875, Bùi Viện mang quốc thư sang Mỹ lần thứ hai, tuy nhiên chính phủ Mỹ đã thay đổi chính sách ngoại giao với Pháp nên không muốn giúp Việt Nam nữa.

Bạn già cho hay ông Trần Đông Phong sau tìm ra gốc gác của ông Bảo Vân…

Cứ theo bạn già thì ở hải ngoại, Bảo Vân là cháu Bùi Viện. Ông có ra quyển sách nhan đề Bùi Viện–Một nhà nho sáng suốt-lỗi lạc-phi thường nội dung không có gì mới lạ hơn tác phẩm của Phan Trần Chúc, chỉ thêm một số chi tiết trích trong gia phả họ Bùi ở Trình Phố, Thái Bình. Mặc dù tác giả tham khảo một số tài liệu của Đào Trinh Nhất, Lãng Nhân, Trần Xuân An, Thái Văn Kiểm. v…v…nhưng nhiều câu hỏi vẫn không có câu trả lời. Ngay cả tài liệu trong gia phả họ Bùi cũng chỉ có giới hạn.

Nghe ong cả tai với những nguồn trên, vì theo bạn già có thể nói Bùi Viện được nhiều người viết…nhiều nhất trong những nhân vật thời Nguyễn. Mặc dù rối chữ tôi rối loạn tiền đình với họ nhưng cũng huếch là nghe bạn già nói rắn trong hang cũng phải bò ra. Bạn già cười hích và thông thiên bác cổ rằng theo các cụ thì “kiến trong hang cũng phải bò ra” vì rắn không có…tai. Nhân chuyện rắn rết, bạn già bò qua “rắn đói lại chê nhái què” với người viết nữ Trần Giao Thủy. Bà hay cô Trần Giao Thủy viết rất gay gắt “chê” Thái Văn Kiểm sao không sao lục tài liệu thời Tự Đức để tìm xem chuyện Bùi Viện đi Mỹ có thật hay chăng? Bởi xưa nay nhiều người viết với thói quen lập lại và trích dẫn những chuyện lịch sử…theo theo thể loại văn chương tự cổ…vô bằng cớ. Như:

       Ông Phan Trần Chúc (1907-1946) là “người đầu tiên” viết truyện Bùi Viện sang Mỹ. Ông là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết lịch sử, cuốn sách của ông được xuất bản năm 1945 tại Hà Nội (tiếp là cuốn Kho vàng của vua Ham Nghi). Ông đưa ra sự kiện Bùi Viện hai lần sang Mỹ. Lần đầu gặp…“Thống lĩnh” Abraham Lincoln. Nhưng theo lịch sử Bùi Viện lên đường vào năm 1873. Lúc đó Lincoln không còn nữa, vì đã bị ám sát năm 1865. Lần sau, Bùi Viện mang quốc thư sang Mỹ, lại biết Ulysses S. Grant cũng đã chết.

Bởi rối chuyện Bùi Viện qua Mỹ lần thứ nhất khi gặp Lincoln lúc gặp Grant. Với địa danh lúc ở Washington khi tại San Francisco. Thêm rối tinh với năm đi mỗi tác giả mỗi viết một khác. Bởi nhẽ ấy bà hay cô Trần Giao Thủy hoá thân thành phán quan…

Phan Trần Chúc mất từ năm 1946, nhà giáo Bảo Vân Bùi Văn Bảo qua đời năm 1998. Tuy nhiên, nhà biên khảo Thái Văn Kiểm, dù đã lớn tuổi nhưng vẫn còn sinh hoạt văn hoá tại Paris; hy vọng với tinh thần một người khảo cứu, khoa bảng (Docteur-es-Lettres Orientaliste, Paris), ông có thể làm sáng tỏ hơn chuyện Bùi Viện đi Mỹ với tài liệu khả tín hoặc sử liệu từ các văn khố Paris. Mặc dù ông Thái Văn Kiểm đã “hiệu đính” hai lần khi viết lại bài bằng tiếng Việt năm 1970 và 1978 nhưng vẫn không có gì mới lạ.

Hơ! Nghe người Trần Giao Thủy ngự sử văn đàn thế đấy nên hãi quá thể. Hãi hơn nữa nhớ lại bạn già nhắn nhe rối chữ tôi là viết biên khảo là làm sự việc rõ ràng hơn, chứ không phải làm rối rắm thêm. Bởi rối chữ tôi chỉ là người sưu khảo nên chả muốn rôi như gà mắc tóc nữa. Thế nên rối chữ tôi chả dám hó hé ngẫu sự trên với bạn già.

Cái đầu như cục vôi sống của rối chữ tôi đang rối tinh thì bạn già ăn vẹt ở mòn cho tới nay, chưa tài liệu nào chứng minh được Bùi Viện qua Mỹ. Vì qua văn khố bộ ngoại giao không có tài liệu về Bùi Viện gặp tổng thống Grant. Vì được một nguyên thủ quốc gia tiếp kiến chẳng phải là dễ dàng và không thể không có những dấu tích ngay từ hàng lãnh sự địa phương như Hồng Kông hay Yokohama. Vì theo các sử gia của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ: Từ 1862 đến 1950 Hoa Kỳ chỉ đặt lãnh sự quán ở Yokohama vào năm 1897 và chưa khi nào đặt tòa lãnh sự của mình tại Hồng Kông, thuộc địa của Anh Quốc.

Với sử nhà Nguyễn thì Bùi Viện chỉ là tác nhân của sử kiện.

Hai nguồn tư liệu chính là Nguyễn triều châu bản Đại Nam thực lục chính biên đều đề cập đến Bùi Viện.với bút phê và ấn dấu của Tự Đức. Có tất cả 10 tài liệu về Bùi Viện nắm cơ quan đặc trách chuyên chở đường thủy, vì Bùi Viện là quản đốc Nha Tuần Tải. Như Đại Nam thực lục chính biên cho biết Bùi Viện được bổ làm quản đốc Nha Tuần tải năm 1877, chức Biên tu, hàm bát phẩm sau lên thất phẩm.

Thêm nữa với chuyện đi sứ thì…

Năm 1866, Tự Ðức gửi một sứ đoàn qua Pháp, do Giám mục J. D. Gauthier dẫn dắt, có Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ và Nguyễn Ðiều tháp tùng. Tiếp đến nhiều sứ đoàn Việt liên tục qua Hồng Kông, Ma Cao. Ðiểm đáng ghi nhận là không thấy tên Bùi Viện xuất hiện trong báo trình của các sứ đoàn này, hay bất cứ sứ đoàn nào đi Hồng Kông trước đó như sứ đoàn Nguyễn Tăng Doãn, Nguyễn Hữu Lập, v…v…

Giả sử chuyến đi sứ của Bùi Viện có thật! Theo thông lệ với chuyện đi sứ của nước ta cả ngàn năm trước, thì chánh sứ, phó sứ, đoàn sứ giả đó gồm bao nhiêu tuỳ tùng? Ai là thông sự (thông ngôn), y viên (y sĩ)? Kết quả chuyến đi có được Bùi Viện ghi chép như Phạm Phú Thứ từ 10 năm trước viết Tây phù thi thảo (Bản thảo tập thơ đi sứ phương Tây) và Tây hành nhật ký (Nhật ký đi sứ phương Tây).

Ngay cả với tập biên khảo công phu gần đây nhất là Quan hệ bang giao giữa Việt Nam và phương Tây ở triều Nguyễn 1802-1945 của Chu Tuyết Lan cũng không đề cập đến “sứ thần” Bùi Viện. Với những người viết về “sử kiện Bùi Viện”, bạn già cân, đo, đong, đếm đàn ông, đàn bà, Tây, Ta có đủ cả rồi bắt qua các sử gia cận đại…

Về mặt chính sử với Việt Nam sử lược của cụ sử thần Trần Trọng Kim không thấy nói đến Bùi Viện đi Mỹ. Ngoài sử gia Phạm Văn Sơn qua cuốn Quân dân Việt Nam chống tây xâm, ông viết chung chung, không có chi tiết gì nhiều: Ông Bùi Viện người Thái Bình, đậu cử nhân được cử sang Tàu lo việc thương mại. Tại Hương Cảng, ông giao du với lãnh sự Hoa Kỳ và được giới thiệu gặp Tổng thống Hiệp Chủng Quốc. Sau một năm chờ đợi vì không có quốc thư. Khi trở lại thì chính tình ở đây đã thay đổi.

Đến tao đoạn này, bạn gia bóc ngắn cắn dài với cua ốc mùi bùn…

Thêm một huyền thoại nữa do một mục tiêu chính trị nào đó với chuyện người Việt có mặt trên đất Mỹ vào Thế chiến thứ nhất (1914-1918): Ấy là ông Hồ…Theo lời tự thuật của ông Hồ, khi làm việc trên Tàu Pháp, dưới bí danh “Paul Thành”, trong khoảng thời gian 1913-1919 ông đã tới New York, Boston, Philadelphia. Nhưng theo báo Yshi của hội truyền giáo Tin Lành Mỹ, năm 1913-1919 ông Hồ ở Thiên Tân. Pierre Brocheux viết năm 2003 trong Du révoutionnaire à l’icône không tìm thấy dấu tích ông Hồ ở Mỹ.

Rối chữ tôi há họng hỏi há có chuyện tào lao ấy sao? Bạn già bàu bạu là trong chốn ta bà có nhiều “huyễn sử” lắm! Đại thể như mới đây ở ngòai nước với “Hồi ký” của Đại sứ Pháp Jean-Marie Mérilion với Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Hồi ký này của ông Vũ Hải Hồ tức ký giả Trần Trung Quân ở Paris bịa như thật . Bịa như ở trên với ông Yên tử Cư sĩ Trần Đại Sỹ với bài viết với tựa đề dài lê thê Ði tìm con cháu thuyền nhân 849 năm trước: Nguyên tổ hai giòng họ Lý tại Ðại-Hàn. Ông cư sĩ họ Trần này trước 75 là sĩ quan tình báo Cây Mai. Đột dưng bạn già cười lủng lẳng mà rằng với chuyện “tình báo” thì…Thì không thể không trở lại với chuyện ông Hồ bắt liên lạc với trung úy Kent, sĩ quan tình báo chiến lược OSS. Thế nhưng qua “bút sử” của đại úy Ray Grelecki viêt lại thì trung úy phi công Mỹ, Rudolph Shaw, đáp xuống vùng Việt Minh khi máy bay bị hỏng vào ngày 11/11/1944. Chứ chả phải trung úy Kent nhẩy dù xuống Cao Bằng cung cấp súng đạn, điện đài và y dược cho ông Hồ.

Năm hết Tết đến, bạn già khua cây gậy chống trời lên..trời rằng phải về cúng ông Táo. Trước khi nhất hữu ly biệt thiên lý tống tiễn, bạn già lụi đụi thêm chuyện ông Phan Trần Chúc viết ngày Bùi Viện lên đường được vua Tự Đức đích thân tiễn đưa. Là nhà văn, ông viết rất văn sách để “hành hạ” Bùi Viện trầm luân trong bể phù sinh như vầy…

“Từ biệt các liêu hữu, Bùi Viện cho giương buồm về phía Bắc, vào một buổi sáng quang đãng mà mặt trời mới mọc trồi lên mặt nước gợn sóng, không khác một cái đĩa ngọc lớn để nghiêng trên tấm thảm hồng. Sau mươi ngày đêm lênh đênh trên mặt bể, vật lộn với gió bão phải đè lên những ngọn sóng to tầy đình kế tiếp nhau, nhô lên đổ xuống như cố ý hành hạ chiếc thuyền mỏng mảnh mà tay ông chèo lái, ông trông xa đã thấy đất liền, khoảng đất rọi một tia sáng vui mừng trong khối óc đầy hy vọng của ông”.

Vì ông Phan Trần Chúc là…“người đầu tiên” vẽ chuyện “Bùi Viện người đầu tiên tới Mỹ” là chuyện hoang tưởng, hư cấu. Với “hư cấu”, ở đại học Western Connecticut State University, trong bài giới thiệu tác phẩm Allegories of the Vietnamese Past: Unification and the Production of a Modern Historical Identity của Wynn Gadkar-Wilcox. Tác giả đặt câu hỏi tại sao người Việt hư cấu chuyện Bùi Viện sang Mỹ gặp Tổng thống Ulysses Grant, dù rất khó tin, để rồi câu chuyện bang giao được phổ biến rộng rãi trong những bài viết về lịch sử của người Việt.

       Với bang giao sử Việt, bạn già thân già vác dùi nặng chuyện đi sứ của sứ thần…

– Bùi Viện không có phái đoàn sứ thần chính thức như một phái bộ quốc gia. Vì ông chỉ đỗ…”ân khoa” cử nhân trường Nam Ðịnh năm 1868. Sau ông bổ làm Chánh quản đốc Nha tuần tải và mang hàm bát phẩm, thất phẩm là chức quan nhỏ. Vì bát phẩm, thất phẩm chỉ hơn cửu phẩm văn giai là chức hàm dành cho dân để mua danh!.

– Bùi Viện không đủ danh vị để đại diện triều đình, vì đi sứ thời trước thường là trạng nguyên, đến thời Nguyễn là tiến sĩ như Nguyễn Trọng Hợp, Phạm Phú Thứ, Phan Thanh Giản. Có thể vì vậy ông phải giả mạo quốc thư và tự chế mũ áo tam phẩm.

Bỗng khi không, rối chữ tôi…rối như cuộn chỉ rối bởi tự mình buộc chỉ chân voi…

Rất ngày tình với bạn đọc, với sách vở tam sao thất bản, thêm các nhà làm văn học chỉ làm to chuyện như luộc con trâu cả con trong nồi làm rối chữ tôi rối loạn tiền đình không phải là ít.

Rối trí thêm nữa chuyện một ông bạn họ Bùi đang ở thành phố rối chữ tôi đang ngụ cư, ông bạn họ Bùi cho biết cụ Bùi Viện đi Mỹ là chuyện có thật vì ảnh chụp cụ Bùi Viện ở Mỹ hiện đang lưu giữ tại nhà từ đường họ Bùi tại làng Trình Phố, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Nhìn bức ảnh, rối chữ tôi cứ rối mắt với cái ghế, cái độc kỷ, bộ ấm trà, cái lộc bình cắm hoa với hoa văn Tàu tàu. Vì vậy rối chữ tôi trộm đồ rằng bức ảnh chụp ở…Hồng Kông.

Và để vẽ rắn thêm chân, rối chữ tôi rấm rẳn với bạn già rằng huyền thoại Bùi Viện người đầu tiên tới Mỹ chỉ là “hiện thực giả, hư cấu thật” và không hơn, thưa bạn đọc.

Nghe rối chữ tôi tu hú với bạn đọc thế…Thế là bạn già cười dín mà rằng theo các cụ ta xưa là “vẽ rết thêm chân”, vì…rắn không có chân. Chả cần vẽ vời, bạn già mọt sách ăn giấy với chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, nho nhe là “bất kiến quan tài bất xuất nhân lệ”. Trước khi biệt hữu thiên địa phi nhân gian, bạn già khủng khẳng cọ đít nồi…

– Bác không hay ấy chứ…chứ như “theo bước chân phù lãng nhân…trong cõi ngu lạc trường” thì năm 1987, nhà xuất bản Văn Nghệ ở miền nắng ấm tình nồng ấn hành cuốn tiểu thuyết của học giả quá cố Nguyễn Hiến Lê nhan đề Con đường thiên lý kể chuyện một người Việt tên Lê Kim qua Mỹ trước Bùi Viện khoảng 20 năm.

Cầm cây gậy gõ cọc cọc xuống mặt bàn, giọng cứng đơ như con bửa củi …

– Con đường thiên lý cũng là…hiện thực giả, hư cấu thật. Vì nhà biên khảo, học giả văn hóa cổ đại Nguyễn Hiến Lê của bác đã bôc bạch trong Đời viết văn của tôi

“Tôi dùng hồi ký của tôi và tài liệu về cuộc tìm vàng ở miền Tây nước Mỹ giữa thế kỷ trước để tạo ra nhân vật không có thật là Lê Kim. Để dựng lên chuyện không có thật về người Việt đầu tiên trôi nổi qua Mỹ, theo một đoàn tìm vàng. Khi tìm được rồi thì chán. Chán rồi thì trở về Nam Việt lập gia đình, khai hoang trong Đồng Tháp Mười.”.

Nghe cũng chán thật nên rối chữ tôi đành im như thóc ngâm. Bạn già bước ra cổng Thạch trúc gia trang, tay cầm cây gậy chống trời kéo lê như dắt trâu qua hàng rào mang theo bồ chữ văn chương tự cổ…vô bằng cớ với dật sử Bùi Viện, người đầu tiên tới Mỹ.

Với tương kiến diệc nan biệt diệc nan, bạn già không quên để lại rổ chữ theo bước chân phù lãng nhân...trong cõi ngu lạc trường với tiểu thuyết lịch sử Con đường thiên lý làm rối chữ tôi…rối như canh hẹ vì chả hiểu…“trong cõi ngu lạc trường” là cổ sự gì?

Thạch trúc gia trang

      Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

 

 

Nguồn: Nguyễn Duy Chính, Hoàng Hải Thủy,

Vũ Ngự Chiêu, Phạm Vũ, Nguyễn Thị Chân Quỳnh

 

 

Bài Mới Nhất
Search