T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Đỗ Xuân Tê : Hắn và cuốn nhật ký

clip_image002

Hắn vơí tôi là bạn đồng tù, cùng ở traị Gia Trung trên Gia lai Kôngtum. Traị này là traị caỉ tạo hắc ám nhất của cụm traị giam phía Nam, kể từ Quảng trị đổ vào. Thành phần bị giam thì đủ moị thành phần, moị diện, tuy không có cấp bậc rõ rệt như bên Cảnh sát hoặc Quân đôị, nhưng về mặt nguy hiểm thì được các giơí chức Hà nôị đánh giá là không cần phaỉ chuyển ra Bắc,nhưng cần cho caỉ tạo lâu daì taị miền Nam.

Họ là ai? Thì đa phần là thành phần có liên hệ vơí Mỹ, liên hệ vì làm thông dịch, thám báo, biệt kích cho Mỹ, liên hệ vì đã được đào tạo ngắn hạn, daì hạn ở Mỹ, có dính líu đến hoạt động của tình báo, văn hóa Mỹ, hoặc đã giúp việc cho các lực lượng đồng minh của Mỹ v.v…

Hắn vơí tôi không quen biết nhau từ ngoaì, quê quán laị kẻ ở Saigòn, ngươì ngoaì Đà nẵng, nhưng đến tuôỉ động viên thì hắn và tôi cùng hoạt động ở miền cận sơn Quảng ngaĩ dọc từ Chu lai dến Đức phổ, Trà bồng. Hắn là thông dịch viên cho Ban Quân báo thuộc Sư đoàn Không kỵ Mỹ, bản doanh đóng taị Chu lai. Còn tôi là một biệt kích của lực lượng thám báo Mỹ, đóng dọc biên giơí bên sườn phía đông Trường sơn. Hắn có cấp bậc vì do bên quân đôị bịệt phaí ngang cấp Trung sĩ, còn tôi do Mỹ trả lương nên coi như tương đương cấp Trung đôị trưởng. Noí cụ thể, sau chiến tranh, hai thằng tôi nếu kể là có “tôị vơí nhân dân” thì sau hai tuần caỉ tạo là được về, giống như đa phần các hạ sĩ quan trong quân đôị miền Nam. Nhưng chỉ vì dính líu đến Mỹ, nên hắn lãnh “án” trên 8 năm, còn tôi cộng thêm 3 năm vượt biên nên hơn hắn hai năm có lẻ.

Ra tù hắn tìm đường vượt biên vì cô vợ đã sang Mỹ trước. Tôi thì mấy lần không thoát laị chẳng thuộc diện gì nên đành ở laị đắp đôĩ làm ăn. Cũng may lấy được cô vợ con nhà lành cùng bị bắt khi vượt biên nên khi ra tù hai vợ chồng chí thú làm ăn nên giờ này hai tuị tôi thuộc loaị khá. Hai vợ chồng cũng có dịp đi đây đi đó do công chuyện làm ăn. Nhưng lần này trùng dịp Hà nôị hôị nhập vơí nền kinh tế thế giơí nên tôi được cấp hộ chiếu du lịch Mỹ ba tháng, Phỏng vấn không mấy khó khăn vì là cựu nhân viên sở Mỹ, chỉ tiếc là vợ không được đi vì sợ hai vợ chồng dướí 60 cùng đi e sẽ ở laị (?).

Bạn bè bà con tôi ở Mỹ cũng nhiều, nhưng tôi muốn tìm và gặp hắn vì những kỷ niệm gắn bó trong tù , vả laị hắn laị ở ngay quận Cam nên cũng dễ tìm. Nhưng tìm được hắn đã khó, gặp được hắn laị càng khó hơn nếu không có anh B. là bạn của của cả hai thằng khi còn ở chung traị. Tôi đã muốn nản thì hắn hẹn gặp tôi ở khu Phước Lộc Thọ vào một sáng chủ nhật.

Thằng cháu thảy tôi xuống khu Parking, hắn đã chực sẵn. Hai đứa nhận nhau không mấy khó khăn vì tướng tá hắn vốn đô con. Hắn bốc tôi lên xe, rôì laí thẳng ra một xa lộ dọc bờ biển, hắn noí là Newport Beach. Xe dừng ở một quán cà phê gần baĩ biển, hai đứa tìm một chỗ ở góc vắng. Hắn hoỉ tôi vaì câu xã giao, chuyện của hắn và gia cảnh thế nào hắn chưa kịp noí. Đi thẳng vào câu chuyện, hắn cho biết mấy tháng gần đây hắn như là kẻ bị săn đuôỉ, hắn đang là con “môì” của cả hai phía, một ở trong nước, một ở haỉ ngoaị. Tôi vốn không thích mấy chuyện chính trị, laị ở thế kẹt vì hết hai tháng tôi còn quay về, vợ con tôi còn ở bên kia bờ đaị dương, nên tôi hoỉ hắn có gì nguy hiểm cho hắn không và có thể liên lụy gì đến tôi không. (Tuy chưa biết đầu đuôi câu chuyện, nhưng trong óc tôi nghĩ biết thế khoỉ đi gặp thằng cha này cho xong, bạn bè bà con mình thiếu gì ngươì mình chưa gặp)

Như đoán được tâm tư tôi, hắn trấn an ngay, “chuyện thì daì dòng, nhưng cậu cứ yên tâm vì tôi muốn giãi bày để cậu khoỉ hiểu lầm taị sao tôi có vẻ khó khăn mơí cho cậu gặp”. Hai đứa cùng châm điếu thuốc, hắn biết tôi hút nhiều hơn ăn, còn hắn mơí hút laị vì tâm tư bất ổn. Chợt hắn hoỉ tôi, “cậu còn nhớ caí vụ cuốn nhật ký của con bé VC ở Quảng ngaĩ không? Tôi đã kể cho cậu nghe hôì ở Gia trung rôì đó.” Tôi không để ý lắm vì ra tù là lo vượt biên, laị không thuộc mấy caí diện có thể sang Mỹ, nên noí cho ngay mấy chuyện trong tù có ai nhắc thì nhớ, chứ còn thì chỉ muốn quên cho đỡ nhức đầu. Rít xong một hơi thuốc daì, tôi nhớ maì maị là hắn có vẻ “si tình” con bé Bắckỳ này và có kể khá nhiều tình tiết liên quan đến một cuốn nhật ký của đơn vị Mỹ tịch thu được trong một cuộc hành quân taị vùng Đức phổ (Quảng ngaĩ) nơi gần Traị tôi đóng hôì cuôí thập niên 60. Nhưng trước hết cần tìm hiểu thêm về hắn thì moị chuyện mơí có sự nôí kết…

Hắn ngươì Saìgon là con của một gia đình khá giả. Lúc nhỏ hắn học chương trình Pháp (được các thầy ở Taberd goị hắn là Henry), sau chuyển sang chương trình Việt, không ham học lắm nên rớt tú taì, nhưng ngoaị ngữ thì giỏi cả Anh lẫn Pháp. Đến tuôỉ động viên đoì bằng cấp hắn chỉ đi được hạ sĩ quan, nên hắn thi vào khóa thông dịch viên của quân đôị và đồng hóa cấp bậc trung sĩ. Hôì đó có câu đồng dao, “Rớt tú taì anh đi trung sĩ/Em ở nhà lấy Mỹ nuôi con”. Hắn cũng đi trung sĩ, nhưng nhà hắn khá giả laị chưa lấy vợ, nên hắn tình nguyện ra phục vụ taị miền Trung, được Quân đoàn I cho về làm thông dịch viên cho toán quân báo sư đoàn Cọp Bay của Mỹ đóng taị Chu lai.

Nhiệm vụ của hắn là làm công tác phiên dịch khi bắt được các tù binh cộng sản, bất kể chính qui xâm nhập hay cán bộ địa phương. Tuy không trực tiếp trận mạc nhưng cũng khá nguy hiểm khi bay trực thăng đến làm công tác phân loaị tù binh ngay taị chiến trường. Hết hành quân, hắn làm việc taị hậu cứ cùng vơí các sĩ quan Mỹ, chủ yếu là dịch thuật các taì liệu tịch thu được taị chiến trường, kể cả các thư từ, nhật ký vìết tay của các cán binh hi sinh taị trận địa.

Hắn tuy là một hạ sĩ quan, nhưng Mỹ họ coi hắn như một chuyên viên (specialist) được ra vào tự do các PX để mua đồ và ăn uống vơí các sĩ quan Mỹ taị câu lạc bộ sư đoàn. Hắn được sự nể trọng của phía đôí tác vì lôí làm việc không kể giờ giấc laị rất hiệu quả trong công tác dịch thuật. Hắn đã được tưởng thưởng một huy chương Mỹ và phía Việt nam tặng hắn một bằng tưởng lục khi trực thăng của hắn bị bắn hạ gần quận Đức phổ trên đường đi công tác. May mà hắn nhảy ra được lúc trực thăng bốc cháy, chứ không thì hắn khoỉ cần đi caỉ tạo và lưu lạc sang tơí đất Mỹ.

Ngoaì giờ làm việc, để đỡ nhớ nhà, hắn hay đem từ văn phòng về các lá thư hoặc nhật ký của cán binh Việt cộng xâm nhập. Trên nguyên tắc không được đem các loaị taì liệu này về phòng, nhưng hắn lấy cớ cần đọc trước để dịch cho sát nên Mỹ họ cũng lờ đi.

Bản thân hắn không thích chiến tranh, tất nhiên đi quân dịch cũng là miễn cưỡng, nên hắn có caí nhìn hơi khác vơí các ngươì lính chiến thực sự. Laị ở tuôỉ thanh niên chính hắn cũng còn nhiều mơ ước chưa thực hiện được nên hắn có một sự đồng cảm nào đó vơí những ngươì cán binh trẻ thuộc phía bên kia. Hắn thấy thương các thanh niên Hà nôị phaỉ vượt Trường sơn chịu cảnh xa nhà, xa ngươì thân, ngươì yêu, hi sinh những năm tháng tươi đẹp nhất của tuôỉ học trò để rôì trong một khoảnh khắc nào đó phaỉ chịu kiếp “sinh Bắc tử Nam” bỏ thân nơi rừng già, nơi vực sâu, nuí thẳm.

Hắn laị tự so sánh dù sao hắn cũng còn có những kỳ phép ngắn để về thăm cha mẹ, anh em, còn những số phận “xẻ dọc trường Sơn đi đánh Mỹ” thì ôi thôi đi là tử biệt về là thiên thu! Hắn đọc nhiều lá thư, nhiều đoạn nhật ký có lần hắn đã khóc vì thấy tâm tư họ trong sáng quá, tình cảm trung thực quá, nôĩ nhớ ra riết quá, ngây thơ nghe theo tiếng goị của đảng, của tổ quốc để rôì cứ goị là đi, biết đi là chết. Tất nhiên cũng có những trăn trở, cay đắng, thậm chí bất mãn vì những yếu tố gian khổ, chết chóc trên đường hành quân, khi phaỉ đi tơí một vùng đất chưa hề đặt chân, một mục tiêu chưa hề biết đến, một kẻ thù chưa hề trực diện, một chân trơì ấp ủ vẫn còn nằm bên kia bờ ảo vọng.

Càng đọc hắn càng tin vào caí suy nghĩ của hắn, chiến tranh là hủy diệt, chính nghĩa là một chiều, con ngươì là công cụ, và đất nước Việt nam của hắn chẳng qua chỉ là baĩ chiến trường của hai ý thức hệ. Có điều hắn ngạc nhiên là các thanh niên được đào tạo trong lòng chế độ cộng sản lẽ ra phaỉ cứng coỉ, sắt đá, nhưng trong tâm tư tình cảm sao vẫn thấy giống như hắn và tuôỉ trẻ miền nam. Từ đó hắn nghiệm ra rằng lẽ ra các nhà lãnh đạo nên để dành những thế hệ này cho sự phồn vinh của Tổ quốc, cho con Hồng cháu Lạc có dịp nở mày nở mặt vơí năm châu thay vì đốt cháy tuôỉ trẻ của họ bằng những ngôn từ sặc muì hận thù sắt máu, đẩy đưa họ vào chốn hủy diệt đọa đầy.

Nay trở laị vơí công việc của hắn, thì một hôm tình cờ lục trong đám taì liệu mơí tịch thu, hắn để ý có một cuốn nhật ký viết tay, ngoaị hình còn nguyên vẹn, chữ nghĩa sạch sẽ dễ coi, khá dày, trình bày trang trọng, laị có hình ảnh kèm theo. Tác giả là một cán bộ xâm nhập, một nữ bác sĩ ngươì Hà nôị tên TR. Không giống những lần đọc các cuốn nhật ký khác, lần này cuốn sách làm hắn trằn trọc khó ngủ mất mấy đêm.Thật sự về nôị dung chưa hẳn có gì đặc biệt hơn so vơí một số nhật ký của các cán binh trẻ, thì cũng vẫn là tâm tư, nguyện vọng, mơ ước tuôỉ thanh xuân, môí tình học trò dang dở, niềm thương nôĩ nhớ bà con chốn quê, cũng đề cập đến sứ mạng đảng giao, lý tưởng thanh niên, tình đồng đôị, đoàn viên trong đơn vị, những gian khổ trên lộ trình xâm nhập, những bất trắc khi vào đất địch…

Hình như cán binh nào cũng có thể viết và đa phần họ thích viết vì không còn phương tiện nào có thể giaỉ tỏa được tâm tư, nôĩ niềm của họ. Cảnh sống nay chết mai nhãn tiền trước mắt khiến họ viết để ít ra cũng coi như kỷ vật gưỉ laị ngươì thân nếu quả thật những kỷ vật này còn đến tay ngươì thân. Có sự trùng hợp là những người lính của cả hai miền đều thích viết thư, loaị “tình thư của lính”của các chiến sĩ miền nam vơí ”ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay/ thư của lính viết giữa rừng cây khi nhớ em thật đầy” đã thể hiện nôĩ niềm thương nhớ lúc dừng quân ngay trên những con đường mòn mà cả hai bên đang tìm và diệt nhau.

Trở laị cuốn nhật ký, hắn vẫn cảm thấy có gì đặc biệt vì tác giả là ngươì nữ trí thức trẻ, dân Hà nôị, xuất thân cũng gia đình trí thức, laị công tác ngay taị một trạm xá vừa là nơi chữa trị vừa là trạm giao liên cho cán bộ địa phương, một địa bàn ác liệt bất phân thắng baị trong suốt cuộc chiến. Hắn đọc xong, tuy thầm phục cô gaí có ý chí và nhiệt tình tuôỉ trẻ, nhưng cũng có vaì đoạn làm hắn “nóng mặt” vì cô mang quan điểm của một đảng viên cuồng tín, nhưng dù sao hắn cũng muốn giữ nó làm kỷ niệm. Trong đầu hắn còn có ý định một khi chiến tranh chấm dứt, nếu hắn còn sống, hắn sẽ tìm cách liên lạc và trao laị cho gia đình cô gaí. Nhưng rôì hắn sợ, hắn không dám giữ, vì taì liệu này thuộc loaị “classified’ (Kín), không được phổ biến, lưu giữ khi chưa có lệnh, vi phạm sẽ bị phạt theo quân kỷ, cấp hắn laị nhỏ hắn hiểu điều này. Nhưng nếu hắn không giữ thì taì liệu loaị này cũng sẽ bị đốt khi khai thác xong. Hắn trăn trở làm sao phaỉ giữ laị nó.

Hắn biết lính Mỹ thích có một caí gì làm lưu niệm khi mãn nhiệm kỳ (tour of duty) ở Việt nam. Ngươì thì lấy một mảnh cờ rách của đôí phương ngoaì trận địa, kẻ thì giữ một caí ruột tượng đựng gạo của một anh cán binh vô tri vô giác, miễn nó là một vật thể có dính vết máu càng tốt, để khi về Mỹ còn “khoe” vơí bà con lôí xóm đã từng trực tiếp tham gia trận đánh này, cuộc chạm địch kia. Cũng vì vậy mà bọn con buôn Saì gòn đã in lậu cờ Mặt trận hoặc sao vàng đem bày bán chui ở lề đường Tự do, Lê Lơị cho lính Mỹ sắp ra phi trường Tân sơn nhất lên đường về nước.

Hắn nghĩ ngay đến viên sĩ quan hắn làm việc dươí quyền, Trung úy Fred Smith. Biết anh này sắp mãn nhiệm kỳ một năm taị Việt nam, hắn gơị ý cuốn nhật ký này không nên đốt, có nhiều caí hay hay hắn dịch laị cho Fred. Fred có vẻ thích thú, chưa kể bản thân tác giả và hình ảnh của nó làm cho anh ta có phần lưỡng lự không muốn thiêu hủy. Thế là ý đồ của hắn ít nhất thành công được nửa phần. Nửa phần còn laị chờ cận ngày Fred giã từ đơn vị. Là nguời bảo quản các loaị taì liệu tịch thu, hắn tạm cất nó trong tủ sắt.

Anh chàng Fred này gần đến ngày về chỉ mong an toàn rút khoỉ Việt nam. Moị việc anh ta nghe nhiều hơn cho ý kiến, nên việc điều hành anh ta để cho hắn lo chờ viên sĩ quan mơí thay chân. Trong lòng hắn vẫn có cảm tình vơí anh Mỹ trẻ này, vừa hạp nhau trong công tác, vừa hay tâm sự chuyện bên kia nửa vòng traí đất, một nơi mà hắn ước mong có dịp đặt chân đến tuy chỉ là viển vông. Vốn hiếu khách Fred có ngỏ lơì mơì hắn thăm gia đình khi hết chiến tranh. Hắn ậm ờ ghi địa chỉ , cũng chẳng ngờ sẽ xử dụng nó vaò một ngày nào đó.

Fred về nước, mang theo cuốn nhật ký như hắn mong đơị, không quên dặn vơí là có dịp Fred cố liên lạc vơí gia đình ngươì quá cố. Chờ hai bên Mỹ-Việt quan hệ bình thường quá lâu, Fred ghi laị địa chỉ Hà nôi, rồi đem tặng cuốn nhật ký cho thư viện của một đaị học lớn ở Texas, nơi chuyên đề lưu giữ, trưng bày các taì liệu, hiện vật trong chiến tranh Việt nam. Sách đi nhưng Fred vẫn giữ được bản sao, kèm phần dịch thuật không chuyên của ngươì chị dâu, cũng là một thiếu nữ Việt nam mà anh của Fred yêu và kết hôn trước khi về nước. Gia đình này có vẻ có duyên vơí Việt nam. Chuyện cuốn nhật ký tạm chìm trong ký ức của cả Fred lẫn hắn, tất nhiên dòng đơì đưa đẩy còn nhiều chuyện phaỉ lo.

Cà phê đã cạn, thuốc hút đã tàn, tạm quay sang chuyện khác. Hai đứa thả bộ dọc baĩ biển.

Tôi noí chuyện của tôi, hắn kể chuyện của hắn, hai bên laị trở về âm vang của những ngày lao đao thuở trước. So vơí tôi bên Việt nam , chưa chắc hắn đã khá hơn tôi. Sang tơí Mỹ hắn cũng long đong lắm, vợ thì đã có gia đình khác, công việc thì không có bằng cấp nên chỉ làm lương đủ sống, đôi khi dư dật chút đỉnh, bù laị có lúc bị lay off. Hắn ăn trợ cấp thất nghiệp mất hai năm. Cho đến lúc gặp tôi, hắn mơí đi làm laị được gần một năm. Cô vợ mơí vơí hắn có một mặt con, hai ngươì đến vơí nhau do cô vợ tỏ tình thương cảm khá mặn mà vơí hắn, noí chung là cuộc sống hạnh phúc, ổn định.

Tôi hoỉ còn ông bạn Fred giờ ở bang nào, mặt hắn tỏ vẻ xúc động cho biết không ngờ “thằng ấy” tốt thật, anh ta tuy ở bên miền Đông nhưng đã lo cho hắn từ A tới Z khi hắn đến Mỹ, laị an uỉ hắn chuyện tình cảm và giúp hắn xin laị việc môĩ lần lay off. Hai bên vẫn trao đôỉ diện thoaị thường xuyên, nhưng cũng vì Fred mà hắn đang lâm vào cảnh khó xử hiện nay.

…….

Quan hệ Việt-Mỹ trở laị bình thường. Các cựu binh trong cuộc chiến có thể ghé thăm Việt nam, thậm chí muốn thăm laị chiến trường xưa cũng không ai cấm. Fred chờ đơị ngày này. Sau khi nhờ tòa đaị sứ Mỹ ở Hà nôị xác nhận địa chỉ, hai anh em Fred lên đường sang Việt nam, thăm ai thì khoỉ cần phaỉ đoán. Để dành sự bất ngờ cho người được thăm, Fred và Mike thuê chiếc xích lô đến ngay địa chỉ của mẹ cô TR. Sau khi tự giơí thiệu, chào hoỉ, bà mẹ vốn là một dược sĩ nên cũng hiểu đôi chút tiếng Anh và biết là họ trao một kỷ vật của con gaí bà đã hi sinh cả ba chục năm. Bà cố trấn tĩnh goị ngay cho con gaí út, nó giỏi tiếng Anh về ngay để làm thông dịch. Cuộc họp mặt bất ngờ sươỉ ấm tâm tình của cả đôi bên. Nôị dung trao đôỉ khiến cả hai bên đều tỏ ra lưu luyến, hẹn nhau gặp laị.

Cuộc gặp gỡ được đăng trên báo Phụ nữ Hà thành, vì cô út làm việc ở đây.Thành đoàn biết là vấn đề nhạy cảm xin chỉ đạo ở trên để làm thủ tục xin phép …cho in. Cuốn nhật ký được Hôị Nhà văn xuất bản và kịp phát hành nhân kỷ niệm ba mươi năm chấm dứt cuộc chiến.

Cuốn nhật ký gây tiếng vang lớn trong giới thanh niên, nhiều ngươì tò mò tìm đọc. Nhân vật Mỹ có công lớn là Fred thì không noí làm gì, nhưng anh không muốn nhận “công” một mình, mà laị kéo theo caí tên của ông bạn mình là chàng Henry, người hạ sĩ quan thông dịch năm xưa. Anh gán cho hắn đã phát ngôn một câu khiến anh không thiêu hủy cuốn sách đaị loaị, “Đừng đốt, trong ấy tự nó đã có lửa!”. Khi kể laị tôi hoỉ hắn chữ nghĩa ở đâu mà cậu noí văn hoa quá vậy. Hắn thực thà noí không nhớ rõ, nhưng hắn có noí lửa nhiệt tình tuôỉ trẻ trong con ngươì của cô gaí khi dịch sơ cho Fred nghe.

Ấy vậy mà câu noí để đơì ấy dẫn đến sự tồn taị của cuốn sách khiến ông Thủ tướng viết thư cho Ban biên tập vơí gơị ý là cần tìm ra viên trung sĩ “ngụy” này để biểu dương. Tờ báo Tuôỉ Trẻ đi tiên phong trong cuộc truy lùng. Chắc họ cũng tưởng hắn còn ở Việt nam, trung sĩ thì chỉ đi caỉ tạo ít ngày, giờ ‘đánh bóng” hắn thì một công đôi việc quảng bá luôn cho cuốn sách. Có ngờ đâu hắn đã đi Mỹ, hắn đã traỉ qua tám mùa thu cao nguyên vì hưởng ứng caí chính sách khoan hồng trước khi tìm đường xa xứ.

Câu chuyện đến đây, hắn thú thật đang lâm vào caí thế kẹt. Vì chẳng phaỉ tìm đâu xa, cứ hoỉ Fred là tìm ra tông tích của hắn, ít nhất là một đầu mối quan trọng. Còn giả sử hắn còn ở trong nưóc thì vô phương tìm ra hắn vì hắn sẽ chẳng bao giờ đọc laị cuốn sách này. Xét cho cùng, nếu được nhà nước vinh danh hắn, tặng thưởng hắn thì vinh dự nôĩ gì. Hắn đã đánh mất tuôỉ trẻ, một thơì cho chế độ cũ, một thơì daì hơn cho chế độ mơí, hắn đã mất mẹ khi còn trong tù, hắn đã mất vợ khi đến Mỹ. Nay hắn chỉ muốn yên thân làm ăn. Đúng, hắn cũng chỉ mơ ước “hòa bình” cho bản thân bên cạnh vợ con, có công ăn việc làm ổn định, có cuộc sống tự do, có đầy quyền nhân phẩm.

Có lúc hắn cũng tự nghĩ nếu hắn có công cứu sống được cô gaí thì có thể hắn sẽ “chường mặt” để nhận sự biết ơn, đằng này ngươì chết chẳng lấy laị được, cuốn sách cũng chỉ là an uỉ phần nào nôĩ trăn trở của ngươì còn sống, đặc biệt là Mẹ của TR, một ngươì hắn chưa được một lần gặp mặt, nhưng có lòng kính trọng sâu xa bà mẹ Việt nam này. Một bà mẹ hơn hai mươi năm chăm sóc cho ngươì chồng baị liệt cùng nôĩ nhớ thương quay quắt đứa con gaí yêu quí của mình suốt hơn 1/3 thế kỷ.

Chuyện càng ngày càng thêm phức tạp, ly kỳ. Nghe đâu cuốn nhật ký đã được dịch sang tiếng Anh, hiệu đính và bổ sung thêm vơi caí tựa đề “Đêm qua em mơ thấy hòa bình”, được nhà xuất bản Random House in ấn. Chưa hết, nhà nước còn cấp ngân phí cho dự án sản xuất một cuốn phim mang tựa đề trùng hợp vơí câu noí để đơì. Một phần ngoaị cảnh đang được quay bên miền Đông. Nghe đâu Fred được chọn đóng cho chính vai của anh. Tất nhiên thế nào chẳng có viên trung sĩ “ngụy”.Vai TR thì chưa chọn xong, bà mẹ ra điều kiện không chọn các cô gaí “chân daì”, con bà phaỉ được thể hiện bằng một cô gaí có học thức, đoan trang, có bản lãnh tuôỉ trẻ. Cộng đồng quận Cam đang theo dõi sát diễn biễn của công tác tuyên vận haỉ ngoaị có một không hai này.

Còn hắn quả tình hắn không muốn liên lụy thêm, hắn không muốn trở thành một “Trần Trường II”. Xin cám ơn những lời tán tụng, nếu kể là hắn có công thì như vậy đã đủ cho hắn rôì. Cũng đừng hiểu lầm về con ngươì hắn, trước sau hắn vẫn là ngươì tị nạn và hắn muốn sống yên thân trên đất nước tạm dung này.

Sau phút hàn huyên, hai ngươì bạn đồng tù đi ăn trưa ở một nhà hàng trên đường Beach. Họ chia tay nhau trước lúc lên đèn. Trên đường về nơi tạm trú, tôi thở phào, chuyện chẳng có gì nguy hiểm và thông cảm cho hoàn cảnh của hắn. Ít ra hắn đã có ngươì để tâm sự, một điều lẽ ra Fred phaỉ hiểu và giúp hắn.

Đỗ Xuân Tê

 

©T.Vấn 2012

Bài Mới Nhất
Search