T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không : Tác Giả và Tác Phẩm – Nguyễn Xuân Hoàng (I)

 

 

 

clip_image002

Vài hàng về tác giả

Sinh ngày 7.7.1940(*) tại Khánh Hòa.

Học sinh Võ Tánh Nha Trang

Học sinh Petrus Ký, Saigon

Tốt nghiệp Đại học Sư phạm, Khoa Triết Đà Lạt (1958-1961)

Giáo sư Triết, Ngô Quyền, Biên Hoà (1961-1962)

Giáo sư Triết, Pétrus Trương Vĩnh Ký – Sài Gòn (1962-1975)

Tổng thư ký tạp chí Văn, Sài Gòn (1972-1974)

Tổng thư ký nhật báo Người Việt, California (1986-1997)

kiêm Tổng thư ký tạp chí Thế  Kỷ 21, California (1989-1994)

thuộc công ty Người Việt.

*Chủ nhiệm, chủ bút tạp chí Văn từ tháng Chín, 1996 /  Tổng Thư  ký tuần báo Việt Mercury trực thuộc Nhật báo San Jose Mercury News của Hoa Kỳ (từ tháng 11, 1998 đến tháng 11, 2005).

*Giảng viên [lecturer] môn Văn Học Việt Nam đương đại tại Đại họcBerkeley (09-2001-04-2003)

Hiện định cư tại San Jose, Bắc California.

Sách đã xuất bản:

Trước 1975:

Truyện ngắn: Mù Sương, Sinh Nhật, Bất Cứ Lúc Nào Bất Cứ Ở Đâu;Tùy bút, Tạp ghi: Ý Nghĩ Trên Cỏ; Truyện dài: Khu Rừng Hực Lửa, Kẻ Tà Đạo; Kịch: Sự Đã Rồi của Jean-Paul Sartre (Les Jeux sont Faits, dịch chung với Trần Phong Giao)

Sau 1975:

Người Đi Trên Mây (truyện dài), Sa Mạc (truyện dài); Căn Nhà Ngói Đỏ (truyện-tùy bút); Bụi Và Rác (Người Đi Trên Mây II); Bất Cứ Lúc Nào … (tái bản)

Sẽ in:

Lửa (Người Đi Trên Mây III); Ai Cũng Cần Phải Có Một Bà Mẹ (Tùy bút); Sổ Tay Văn Học.

 

Mục Lục

Không phải lúc nào cũng có sự quên lãng-T.Vấn

Trò chuyện với Mai Thảo

Nhớ Mai Thảo

Hồi ký viết sớm

Tự truyện một người vô tích sự

Nhà văn với nhà báo – Sử Mặc

Văn học Việt Nam trong và ngoài nước

Phụ đính:

Quá khứ một lần nữa – Một tinh cầu khác

T.Vấn : Không phải lúc nào cũng có sự quên lãng

clip_image004

 

Nào còn gì đâu cầm lấy tay tôi

Nào còn gì đâu cầm lấy hồn tôi

Này đây những lời yêu thương thứ nhất

Chia nhau mỗi người làm vốn sinh nhai

(Nguyễn Xuân Hòang)

1.

Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, trong đỏan văn viết về Nguyễn Tất Nhiên nhân cái chết của nhà thơ tháng 8 năm 1992, đã mở đầu như sau : “Sống trong sự quên lãng và chết dưới những vòng hoa, chuyện đó vẫn diễn ra thường ngày trên trái đất. Ở đâu có con người, ở đó có sự quên lãng. Và, tất nhiên có cả những vòng hoa. . . “.

Ý ông muốn nói đến sự lạnh lẽo của người đời đối với nhà thơ khi còn sống , nhưng khi anh nằm xuống một mình trước sân chùa thì “hoa đã ngập đầy nơi an nghỉ cuối cùng của anh “.

Nhưng dường như với trường hợp của chính ông – nhà văn Nguyễn Xuân Hòang – sự quên lãng ấy đã không xảy ra.

Mới đây, nhà văn đã được chẩn đóan mắc bệnh “ sarcoma cancer “, một lọai khối u ác tính hiếm gặp. Cả tháng nay, ông ra vào bệnh viện Stanford để làm xạ trị. Trong thư gởi cho tôi , mà ông viết giữa giờ nghỉ của những cơn đau , lần đầu tiên tôi cảm được “ sự yếu đuối “ ở một con người vốn là “role model “ của tôi từ ngày tôi còn ngồi ghế nhà trường trung học ( đệ nhất cấp) : Tôi bị bệnh gần 3 tháng nay ( nhưng biết bệnh thì mới chỉ khỏang độ 1 tháng ). Đau ở sống lưng từng giây từng phút. Uống thuốc giảm đau để ngủ. nhưng thức dậy thì đau lắm. . . . Tôi nghĩ chuyện sống chết là thường tình, nhưng sống trong sự đau đớn thể xác từng phút từng giây và chờ chết thì sợ quá . . . “

Nhà văn Nguyễn Xuân Hòang sinh năm 1940. Năm nay ông đã vượt qua ngưỡng cửa cổ lai hy mà không phải ai cũng hưởng được, dù ngày nay tuổi thọ của con người đã tăng lên rất nhiều.

2.

Suốt tuần lễ đầu tiên của tháng 8 năm nay, trong giới những cựu học sinh trường trung học Petrus Ký của Sài Gòn năm xưa, sức khỏe của thầy Nguyễn Xuân Hòang là mối quan tâm chính trong mọi sinh họat thông tin liên lạc. Người ta báo tin cho nhau về mọi diễn tiến sức khỏe của thầy Hòang, về các việc mà các học trò của thầy có thể làm để giúp đỡ, hoặc đơn giản chỉ là để bày tỏ sự quan tâm, sự lo lắng, lòng yêu mến dành cho thầy. Tất nhiên, những quan tâm ấy, trước hết gởi đến ông trong tư cách một người thầy. Nhà văn Nguyễn Xuân Hòang là giáo sư dạy tại trường trung học Petrus Ký Sài Gòn từ năm 1963. Ông phụ trách hai môn : Triết và Kim văn. Năm đệ ngũ, tôi họp lớp Kim văn với thầy Hòang. Năm đệ nhất, tôi lại học triết với thầy Nguyễn văn Sâm, chứ không phải thầy Hòang. Nhưng ấn tượng mà nhà văn Nguyễn Xuân Hòang để lại trong tôi từ thời mới lớn ở ngưỡng cửa bậc trung học đã theo tôi suốt đời, mãi đến hôm nay. Cho nên, tôi không ngạc nhiên khi thấy những học trò sau này của thầy Hòang đã tỏ ra rất gắn bó với ông. Sức hút ở cá nhân ông, ngòai cương vị một thầy giáo dạy Triết nổi tiếng, mà còn ở tư cách một nhà văn lớn của Sài Gòn năm xưa , tư cách , một người chủ biên những tạp chí văn học uy tín nhất từ trong nước ra đến hải ngọai và gần đây nhất là trang Blog của ông trên trang mạng của đài tiếng nói Hoa Kỳ (VOA).

Từ ngày rời trường , đi lính, đi tù, rồi đi định cư ờ Mỹ, tôi chưa một lần gặp lại ông, dù là trong đám đông hay chỗ riêng tư. Nhưng tên ông thì tôi vẫn bắt gặp đây đó. Sau này, do một dịp tình cờ từ nhà văn Phạm thị Hòai, người chủ trương trang mạng Talawas, tôi bắt được liên lạc với ông. Cũng từ dịp ấy, ông mới biết mình có một người học trò vẫn hằng dõi theo mọi bước đi của mình.

3

Dựa trên những hiểu biết và những tin tức mà tôi nhận được, tôi tin chắc rằng nhà văn Nguyễn Xuân Hòang không mang cái nghiệp thật buồn của các nhà văn nhà thơ : sống trong sự quên lãng và chết dưới những vòng hoa.

Các học trò của ông, những bạn bè của ông đã phủ ngập căn nhà của ông vùng bắc Cali những vòng hoa thật đẹp, thật tươi mát của sự quý mến chân thành, lòng kính trọng ngay khi gia đình ông đang nhen nhúm chút tia hy vọng trước những tiến triển khá khả quan của việc điều trị. Ông đang nuôi ý định viết một bài chi tiết trên trang Blog của mình về vị bác sĩ của bệnh viện Stanford đang phụ trách việc điều trị cho ông. Ông tin rằng có một sự ngẫu nhiên thú vị khi vị bác sĩ ấy lại là một cựu binh Mỹ năm xưa ,lúc tham chiến ở Việt Nam đã từng trú đóng ở Cầu Bống , Nha Trang , miền đất quê hương nơi ông đã sống qua thời thơ ấu.

Nếu không có những cơn đau thể xác đáng sợ, hẳn nhà văn Nguyễn Xuân Hòang đang sống những ngày thật hạnh phúc, bởi vì ông biết rằng – ngòai những người thân yêu trong gia đình – có rất nhiều những người chung quanh lúc nào cũng yêu thương ông và quan tâm đến ông.

Còn những người bạn đồng nghiệp cầm bút của ông ư ? ông biết hơn ai hết, những lời ai điếu của họ chỉ để dành cho người nằm xuống, để ném theo những hòn đất phủ trên nắp quan tài.

Giờ đây, ông mới chỉ mấp mé bên bờ tử sinh, nên những vòng hoa vinh danh một đời hết mình cho văn học, cho nghệ thuật vẫn còn được cất giữ đâu đó trên những trang bản thảo.

Bốn câu thơ ở trên đầu bài ghi chép nhỏ này là của nhà văn Nguyễn Xuân Hòang mà chính ông cũng không nhớ mình viết hồi nào và đăng tải ở đâu. Cách đây mấy năm, tôi đem ra hỏi ông . Ông ngạc nhiên sao em còn nhớ được chúng. Tôi trả lời em nhớ được vì chúng hay quá.

Tôi muốn được sửa mấy chữ cuối để gởi đến ông lời chúc tốt lành của một người học trò nghĩ mình chịu ở ông món nợ chữ nghĩa :

Nào còn gì đâu cầm lấy tay tôi

Nào còn gì đâu cầm lấy hồn tôi

Này đây những lời yêu thương sau cuối

Chia nhau mỗi người làm vốn đi xa

T.Vấn

Ngày 12 tháng 8 năm 2013

 

Trò chuyện với Mai Thảo

Nhà văn Mai Thảo, một trong những tác giả lớn của văn chương Việt Nam, là chủ nhiệm tạp chí Văn [từ tháng Chín, năm 1996, ông đã giao tờ báo cho Nguyễn Xuân Hoàng trông coi], một tờ báo văn nghệ phát hành hàng tháng tại Hoa Kỳ. Tác giả của Tháng Giêng Cỏ Non, của Đêm Giã Từ Hà Nội… đã từng một thời làm say mê người đọc Việt Nam trong thập niên 50 và 60.

Giờ đây trên một “bàn viết lữ thứ”, trong một căn phòng nhỏ nằm tại trung tâm Little Saigon, nơi ông vừa dùng làm tòa soạn vừa dùng làm nơi ăn chốn ở của mình, Mai Thảo đã cầm bút trở lại. Sức sáng tạo của ông tuy không còn mạnh như xưa, nhưng điều đó không có nghĩa là ông chịu vứt bút, nghỉ tay.

Trên tạp chí Văn tại hải ngoại qua mục Sổ Tay hàng tháng, Mai Thảo đã ghi chép lại nhũng biến cố liên quan đến sinh hoạt văn học ở hải ngoại, một cách đều đặn và bằng một chủ quan mạnh mẽ của một người cầm bút thận trọng. Những người viết văn học sử Việt Nam khi ghi lại giai đoạn 1954-1975 không thể không nói đến dòng văn học đã tách ra khỏi “triều đại Tự Lực Văn Đoàn”.

Người ta nói khi những người Bắc di cư vào Nam, và khi tạp chí Sáng Tạo ra đời, một dòng văn học mới cũng bắt đầu chảy vào dòng văn học của Việt Nam. Nhà văn Mai Thảo lúc đó là một trong những người dựng nên bảng hiệu Sáng Tạo, đã thổi vào văn học nghệ thuật Việt Nam một hơi thở mới, một đời sống mới. Từ ấy đến nay, sau những thăng trầm của thời thế, nhà văn Mai Thảo vẫn tiếp tục “ở” với văn chương Việt Nam chúng ta. Ông đã đến Hoa Kỳ như một thuyền nhân, và ông sống tại miền Nam Calinhư một văn nhân thời thế.

Chúng tôi đến thăm ông vào buổi sáng Chủ Nhật [năm 1993]. Cái quán ăn quen thuộc Song Long nằm trên đường Bolsa, giữa hai con đường Bushard và Magnolia, là “cổng vào” nhà trọ của ông. Căn phòng của một người đàn ông cầm bút, lớn tuổi, độc thân, sao mà ngăn nắp, gọn gàng đến thế! Một chiếc giường đơn, một bàn viết, một kệ sách, mấy tấm ảnh treo trên tường, ảnh của tác giả, ảnh của Vũ Hoàng Chương…

Chúng tôi ngồi bệt xuống sàn nhà, tựa lưng vào giường. Mai Thảo rót rượu vào cái ly thủy tinh, uống một ngụm nhỏ. Ông nhắc lại thời chúng tôi [ông và tôi] làm báo Văn tại Sài gòn. Thời chủ nhiệm Nguyễn Đình Vượng còn sống, thời Trần Phong Giao làm thư ký tòa soạn, và sau đó là thời Nguyễn Xuân Hoàng…

 

***

NXH:   Ông có thể nói đôi chút về việc làm của ông hiện nay?

MT: Sau khi Cộng sản Hà Nội vào Sài gòn, ít lâu sau thì tôi vượt biên đến Mỹ và tôi đã tục bản trở lại tờ báo Văn ở California từ năm 1982. Cho tới nay [1993], tờ báo đã sống được 11 năm với trên một trăm số báo phát hành đều đặn và liên tục không bị đứt đoạn một tháng nào. Đó là do nơi tôi đã làm quen với tờ báo từ khi còn ở bên nhà và cái công việc của tôi ở Mỹ về tờ tạp chí thì được sự hỗ trợ rất tốt đẹp rất nhiều mặt của bạn đọc khắp nơi cũng như của các thân hữu hợp tác.

NXH:  Trên tạp chí Văn có một mục mới mà ở quê nhà trước năm 1975 tờ báo này không có, đó là mục Sổ Tay Mai Thảo. Ông có thể cho biết ông đã viết Sổ Tay trong chiều hướng nào?

MT: Các bài Sổ Tay Hàng Tháng mà tôi viết chỉ có một mục đích rất là đơn giản, như là một tấm gương để soi vào những sự việc đã xảy ra trong tháng, ghi chép những sự việc đó, chủ yếu là sinh hoạt văn học nghệ thuật. Chỉ có vậy mà thôi. Tôi thấy điều gì, biết được điều gì thì tôi ghi lại những điều đó trong Sổ Tay. Thường thường, nó chiếm một chỗ nhất định, nó có một chỗ để tôi luôn luôn nhắc tới bằng hữu khắp nơi qua những chuyến đi của tôi về các địa phương, tôi thích nhắc tới những sinh hoạt địa phương như tại San Jose, hoặc Texas, hay là Hoa Thịnh Đốn chẳng hạn. Mục đích của Sổ Tay là chỉ cho người đọc thấy được một phần nào của sinh hoạt nghệ thuật của chúng ta ở ngoài nước.

NXH:  Nhân ông nói đến những chuyến đi và những thành phố nơi ông đến nó thường phản ảnh được trong Sổ Tay của ông. Ông có thể cho biết thêm về những chuyến đi xa hàng năm của ông. Thời gian ông đi là bao lâu và các chuyến đi đó có ảnh hưởng gì trong việc viết lách cũng trong việc điều hành tờ Văn?

MT: Hồi ra khỏi nước tới giờ, nhịp viết của tôi không còn được mạnh mẽ, phong phú như thời kỳ còn ở quê nhà. Tôi cũng viết và làm những công việc mà tôi phải làm chứ không còn viết ngày này qua ngày khác như là lúc tôi còn viết văn, còn làm báo ở Việt Nam. Cho nên cái việc đi đến các địa phương, chỉ là những cuộc thăm viếng bằng hữu mà tôi có rất đông ở Mỹ cũng như ở Châu Âu và các nơi khác. Thường là anh em đón tôi tới chơi, mà tôi đi sang chơi thì cũng không có chỗ nào là ở lâu cả. Một tuần, quá lắm là mười ngày thôi, thời giờ để làm báo Văn cũng bị cản trở bởi những chuyến đi đó. Và những chuyến đi đó cho tôi thấy được sinh hoạt của từng địa phương mà tôi sẽ không thấy rõ nếu không tiếp xúc với anh em của từng địa phương một. Tôi thích nói về chuyến đi này vì trong đó có tình bằng hữu, có sự quen biết, phần lớn là đã có rất từ lâu, từ ba, bốn mươi năm về trước ở quê nhà và sự gặp lại nhau trên quê người là một cái điều không phải chỉ riêng tôi mà tôi nghĩ tất cả mọi người đều yêu thích.

NXH:  Ông có biết những chuyến đi xa của ông là sự ao ước của biết bao nhiêu người cầm bút tại hải ngoại. Họ muốn được đi như ông, muốn được đến những nơi có bạn bè cũ như ông, nhưng vì đời sống của họ khó khăn, công việc của họ còn bề bộn, sự ao ước đó chỉ là những mơ tưởng mà thôi. Ông có nghĩ là ông hạnh phúc không?

MT: Nếu mà tự tôi, tôi đã không đi được nhiều như đã đi trong mười mấy năm qua. Nhưng phần lớn có thể nói là có nhiều bạn hữu ở vùng này hoặc vùng khác gọi điện thoại nói cho tôi biết là họ muốn mời tôi đến chơi và đài thọ tất cả những chi phí chuyển dịch như máy bay, ăn ở. Bởi vậy tôi mới có thể đi một cách dễ dàng như thế được. Chứ nếu tôi bỏ tiền túi ra, thì cũng không thể đi bất cứ lúc nào muốn đi là được. Về tờ báo Văn, trong 11 năm nay, đã được làm tại nhà in có thể gọi là một nhà in ở nhà, mặc dầu tôi không phải là chủ của nó nhưng mà nhà in nó rất thân thiết, đó là nhà in Kim Printing bây giờ ở Los Angeles. Nhà in đó đã làm tờ báo Văn 11 năm nay. Họ rất biết công việc của tờ báo được thực hiện như thế nào và tôi chỉ có việc chọn lựa bài vở rồi gởi lên cho họ đánh máy, rồi in, gần như mọi chuyện có thể nói là tôi làm lấy một mình rất nhàn hạ. Do vậy mà tháng nào tôi cũng có thể đi vắng mươi ngày mà tờ báo vẫn được ra đúng thời hạn.

NXH:  Hiện nay ông có dự trù cho ra một tác phẩm mới nào không?

MT: Tôi có hai truyện dài viết cho một tờ báo mà người chủ nhiệm như một em gái của tôi. Đó là tờ  Sài Gòn Nhỏ do Hoàng Dược Thảo làm chủ nhiệm. Hai truyện đó viết đã xong, tôi đã nhận lời bán cho hai nhà xuất bản ở đây nhưng họ chưa in và tôi cũng chưa đưa bản thảo chung kết cho họ. Bởi vì nếu đưa thì phải sửa chữa lại những chương, những đoạn ở trong hai tiểu thuyết đó. Ngoài ra, các truyện của tôi in ở hải ngoại, so với ở quê nhà thì không có nhiều vì ngày xưa khi còn ở Việt Nam thì nhiều lắm. Ở đây, từ hồi sang được mười mấy năm, mới có năm, sáu tập truyện ngắn và một tập thơ được in mà thôi. Còn hai truyện dài như tôi vừa nói, vì tôi đã nhận lời bán cho hai nhà xuất bản thì thế nào cũng phải giao cho họ, sau khi đã sửa chữa lại một ít.

NXH:  Ông vừa nói đến một tập thơ, với tư cách là người đọc, chúng tôi thấy tập thơ Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền được rất nhiều người yêu chuộng. Một số nhà phê bình cho rằng thơ ông trội hơn văn ông. Ông nghĩ sao? Ông có thể nói tại sao từ một người viết tiểu thuyết ông đã nhảy sang làm thơ?

MT: Thời kỳ còn trẻ tuổi, tôi làm rất nhiều thơ nhưng khi vào tới miền Nam Việt Nam, viết văn, làm báo, trở thành một người tiểu thuyết gia thì tôi ngưng làm thơ lại. Tới khi sang đến nước Mỹ, đời sống ở Huê Kỳ có những lúc nó trống vắng quá, không biết làm gì cả, thì trong những khoảng trống, tôi làm ít thơ để chơi thôi. Hoặc là ở trên những chuyến xe buýt hoặc là trong những buổi chiều một mình, tôi làm thơ theo thể tứ tuyệt, thể bốn câu hai mươi tám chữ. Những đoạn thơ ngắn như vậy cũng đã có nghĩa là làm những đoạn thơ đó để chơi thôi. Chứ tôi không phải là một thi sĩ toàn phần. Thí dụ như nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, nhà thơ Tô Thùy Yên, hay nhà thơ Nguyên Sa. Tôi không phải là những người đó. Thế nhưng không ngờ những bài thơ của tôi lọt mắt xanh của anh Đỗ Đình Tuân, giám đốc nhà xuất bản Văn Khoa. Anh ấy rất thích những đoạn thơ của tôi và nằng nặc đòi tôi phải thâu thập lại để cho anh xuất bản thành một tập sách. Do đó mới có tập thơ được in ra. Chứ nếu không có nhà xuất bản hỏi thì ý định in tập thơ không bao giờ đến với tôi hết.

NXH: Trong thời gian ông sống tại Hoa Kỳ, ông đọc và thích tác giả nào nhiều hơn cả. Tại sao? Và qua tạp chí Văn hải ngoại những tác giả nào đã được ông khám phá ra khi ông chọn tác phẩm họ để giới thiệu cho người đọc và những người viết đó hiện nay có còn tiếp tục cầm bút hay không?

MT: Tờ tạp chí Văn từ đầu tới bây giờ, khi có tôi đứng coi sóc là một điểm khởi hành cho những người viết mới và nó đã làm công việc từ ở Việt Nam cho tới bây giờ. Nói rằng là tôi thích một nhà văn nào hoặc là đã thành danh hoặc nằm ở trong những người viết mới, thì miễn cho tôi câu trả lời đó bởi vì người nào tôi cũng quý trọng ngang nhau hết. Nhưng tôi đặc biệt yêu mến một lớp nhà văn trẻ khởi viết từ ở hải ngoại bởi vì đó là một điều rất bất ngờ đối với tôi. Thoạt đầu, tôi nghĩ là những người trẻ tuổi cũng có ở trong đời sống hải ngoại với dòng mưu sinh chật vật bây giờ và với những chân trời mới của những người trẻ tuổi, nó không phải là cái chân trời của văn chương, mà chân trời đó đã có một cách rất tốt đẹp với những lên đường số nhiều, ở trong đó có một đặc điểm là rất nhiều những nhà văn phái nữ. Họ viết rất được, họ là những người chưa từng viết ở Sàigòn bao giờ. Sang đến bên này, chẳng những họ không hề quên ngôn ngữ của tiếng Việt mà lúc viết ra thành văn, trở thành nhà văn thì họ trở thành một nhà văn mới rất là xuất sắc với văn chương của họ, không thua gì những người viết ở nhà hồi trước. Đó là tôi nói chung chứ nói riêng biệt ra một người nào thì tôi không muốn kể ra ở đây, bởi vì kể thì tôi phải kể rất nhiều người trong cùng một lúc. Còn những người đã cùng, từng làm văn học nghệ thuật với tôi ở bên nhà thì bây giờ tôi rất là vui thích có nhiều người tuổi đã cao nhưng vẫn còn làm văn học nghệ thuật khiến cho cái dòng văn học nghệ thuật ở hải ngoại chúng ta có cả lớp người trước, có cả lớp người mới đã là một điều rất là đặc biệt.

NXH: Ông có đọc hay theo dõi đời sống văn học trong nước không?

MT: Cái đọc một đời của tôi ưu tiên là đọc những bằng hữu của tôi trước đã. Những bằng hữu đó, trong suốt mấy chục năm vừa qua, đã phải đi vào con đường khổ hình gọi là đi tù. Cộng sản bắt đi tù, họ không còn viết được gì nữa, hoặc là những điều họ viết ra đều không được nhắc, in ra, không được phép phổ biến. Bây giờ thì một phần lớn đã sang đây, tôi đã gặp lại họ. Còn văn chương ở ngoài Bắc thì tôi chỉ đọc một số sách, báo mà người đem đến cho tôi mà thôi, chứ không có chuyện tìm đọc những sách, báo đó. Mặc dầu tôi biết ở Pháp, ở Canada, có chỗ phổ biến những sách báo của Hà Nội. Chỉ bởi vì tôi không thích. Trong một chế độ như chế độ vô sản chuyên chính ở Hà Nội tôi coi văn chương có ở trong chế độ đó là thứ văn chương phục tòng chế độ, không có tự do. Cho nên nếu nói chung, thì những sách báo của Hà Nội tôi đọc ít thôi, không có nhiều. Đọc lại những cái của Nguyễn Bính, của Quang Dũng, của Văn Cao, là những người tôi đã yêu mến họ từ thời kỳ Tiền chiến, đọc tôi còn thấy thích, thấy lại họ sau bao nhiêu năm với văn chương, chữ nghĩa của họ. Còn những người sau này thì tôi đọc rất ít, mà tôi cũng không có ý kiến gì cả. Bởi vì cái đọc của tôi đã như vậy thì những nhận xét của tôi cũng không thể nào tới nơi tới chốn được.

NXH: Ông nói ông ít có dịp đọc những tác phẩm trong nước, điều này cũng có thể hiểu là ông đã có đọc qua đôi cuốn. Xin ông cho biết ông đã đọc những cuốn nào và nếu có thể ông cho biết ý kiến của ông?

MT: Tôi có đọc mấy cuốn tiểu thuyết của Dương Thu Hương, một hai cuốn của Phạm Thị Hoài, một vài truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Đó là những người đang được ở trong nước và cả ngoài nước, nhắc đến họ như là những nhà văn có một tinh thần đối kháng nào đó đối với chế độ. Một số những sách của những tác giả vừa kể tôi thấy cũng là được thôi. Chứ không có gì là xứng đáng để gây một chấn động hết. Và tôi chỉ thích có mỗi một điều là những lúc được ở trong văn của họ thì rất giống với văn chương, mà họ gọi là “văn chương ngụy” của miền Nam Việt Nam. Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài…, cái lúc được nhất của họ là cái lúc họ ở gần chúng ta nhất… Tôi không nghĩ rằng mình nói như vậy là hơi quá, nhưng tôi nghĩ một phần như vậy là vì họ đã bắt chước cái cách viết tiểu thuyết, cách viết truyện ngắn của những nhà văn ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975.

NXH: Theo ông, có một thứ văn chương trong nước và văn chương ngoài nước hay không? Và có chăng một dòng văn chương phản kháng trong nước?

MT: Ở ngoài nước, trong thời gian gần đây thôi, chứ trước không có chuyện ấy, có một số tạp chí, tờ báo, đã đề xướng một chủ trương như là không còn có biên giới, không còn có biên thùy giữa trong nước với ở ngoài nước nữa, và đưa ra cái gọi là trình bày và phổ biến một số các bài báo, hoặc là một số các tác phẩm của những người ở trong nước. Nói cho rõ là của những người chuyên làm báo ở Hà Nội. Công việc đó, tôi không làm và tôi cũng không đồng ý. Bởi vì tôi cho rằng công việc đó chưa tới lúc làm được, chưa đem lại được một kết quả tốt cho ở trong nước lẫn ở ngoài nước. Bởi vì chế độ chúng ta không thể chấp nhận được. Và những khi nói về Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, hay Phạm Thị Hoài, nói đó là những tác phẩm chống đối chế độ, thì sự chống đối đó chưa được rõ rệt. Điều thứ hai sự chống đối đó, theo như tôi thấy, bây giờ lại gần như là bị ngưng đọng lại rồi. Bởi vì nó không đến đâu, hoặc là những nhà văn đó không còn có bản lĩnh, một bản lĩnh chống đối tới cùng, hoặc là những sự chống đối đã bị đè bẹp bởi chế độ. Nhưng việc làm của những tờ báo ở đây, ở trên chiều hướng đó, tôi cũng không có ý kiến gì. Mỗi người làm một việc, thực hiện một diễn đàn thì phải chịu trách nhiệm với công việc của mình. Mà những anh em làm báo đối với tôi là quen biết hết cả. Tôi chỉ có nói với họ như vậy mà thôi. Nghĩa là làm một điều gì, chủ trương một chủ trương nào, thì phải suy nghĩ cho kỹ về cái hơn thiệt cho công việc chung. Tôi nhắc lại điều đó, tôi cho rằng các trao đổi, các giao lưu ở trong nước với ở ngoài nước phải ở trong một không khí mới, là một không khí cởi mở rõ rệt. Ở trong nước cũng như ở ngoài nước, phải có tự do cho con người, phải có quyền sống, quyền làm người cho con người mới được. Chứ còn các chữ nghĩa của Hà Nội, họ cho phép được in ra, thì nhiều khi do một mục đích ngắn hạn của họ để họ tạo ra một ảo tưởng đã có cởi mở hay cởi trói gì đó. Họ tạo ảo tưởng đó mà thôi, chứ họ dẹp đi là họ dẹp, chứ không phải là đã có các thay đổi hoặc đã có những cởi mở đích thực. Điều đó tôi không hề tin, cho đến giờ phút này, tôi thấy không hề có.

NXH: Ông vừa nói đến mấy suy nghĩ về người viết tiểu thuyết trong nước, ông có thể đưa ra một cái nhìn về văn chương Việt Nam hải ngoại. Ông bi quan hay lạc quan, về những ngòi bút mới mà họ vừa xuất hiện trong những năm ở hải ngoại. Ông nghĩ họ sẽ đóng góp như thế nào trong nền văn chương Việt Nam?

MT: Thời gian mấy năm trở lại đây, có một số anh em ở Mỹ và ở các nơi có viết những bài nói về sự bế tắc của những người làm văn học nghệ thuật Việt Nam ở hải ngoại, gióng lên những tiếng chuông báo động về sự bế tắc đó. Tôi không hề đồng ý với chuyện đó bao giờ. Tôi thấy rằng từ 1975 ra đến nước ngoài, văn học nghệ thuật hải ngoại của chúng ta dẫu chưa làm được tất cả những điều mà nó muốn làm, nó đã tạo dựng những điều chính là có một nền văn học nghệ thuật hải ngoại đích thực ở đây. Chúng ta coi thường văn học nghệ thuật của Hà Nội, của chế độ ở nhà là có lý do để coi thường nó, bởi vì chúng ta có một nền văn học nghệ thuật ở đây, tôi cho là hơn nhiều đối với nền văn học nghệ thuật phát đi từ Hà Nội. Tôi không có bi quan gì hết, tôi hiểu những khó khăn của tất cả mọi người qua những trở lực của chính bản thân và tôi cho là chúng ta không nên đòi hỏi gì nhiều quá. Hãy để nguyên như vậy đi, rồi nó lên từ từ. Những người không biết nhìn không thấy là văn học nghệ thuật hải ngoại của ta mỗi một ngày một tốt đẹp hơn lên, đâu có điều gì là phải bận tâm hay phải báo động. Chúng ta không có một bế tắc nào cả. Nhưng ở đây, hoàn cảnh làm việc, hoàn cảnh sinh sống đều rất khó khăn, cho nên văn học nghệ thuật hải ngoại của ta trên từng địa hạt này, địa hạt nọ, có những lúc không phát triển được, bởi vì những người ở trong bộ môn đó đang gặp những khó khăn về mưu sinh, đang gặp những khó khăn về đời sống, nhưng đâu phải như vậy là văn học của ta ở ngoài nước là đi xuống, là bế tắc! Không, tôi không nhìn thấy điều đó bao giờ mà tôi cho là nói chung, rất được, rất đáng khen ngợi bởi vì hoàn cảnh và thị trường chữ nghĩa của chúng ta từ bao nhiêu năm nay ở ngoài nước, không thuận tiện cho công việc làm của tất cả mọi người mà chúng ta đã cố gắng làm tất cả những gì chúng ta có thể làm được.

NXH: Tôi chia sẻ sự lạc quan ấy của ông. Xin được trở lại chuyện những bài thơ của ông có thể đọc những câu thơ mới nhất, hay những câu thơ thích nhất của ông?

MT: Câu hỏi này cũng hơi kẹt cho tôi, bởi vì tôi tối kỵ đọc thơ của mình kể cả trong lúc sinh hoạt thân mật nữa. Bây giờ lại đọc thơ đó cho biết bao nhiêu người nghe nhưng tôi cũng nể anh tới đây, tôi đọc bốn câu thôi. Bốn câu thơ ở trong thơ mà tôi đã nói là những câu thơ làm chơi lúc cuối đời cho đỡ buồn, chứ không phải tôi là một thi sĩ toàn phần. Bốn câu thơ nằm ở trong tập Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền:

“Em đi vừa khuất trên đầu phố

Anh đuổi theo sau bóng đã nhòa

Đứng sững mới hay lìa cách đã

Sơn cùng thủy tận giữa đôi ta”

NXH:  Xin được hỏi ông một câu sau cùng, ông có nhắn nhủ gì với những người viết mới hiện nay ở hải ngoại cũng như những người cầm bút ở trong nước?

MT: Những anh chị em mới viết ở ngoài nước và các anh chị em nếu còn viết được ở quê nhà, tôi chỉ muốn nói một điều duy nhất: ở với văn chương, ở suốt cuộc đời, không làm thơ, không viết văn nữa nhưng ở với văn chương thì ở hết cuộc đời của mình. Đó là một điều tuyệt diệu. Cố gắng ở với nó, sẽ thấy nó là một điều tuyệt diệu, nếu ta ở được với nó không phải chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, mà tôi nhắc lại là ở với nó đến suốt cuộc đời./.

California 1993

 

Nhớ Mai Thảo

Tính đến ngày 10 tháng Giêng 2010 vừa qua, Mai Thảo đã chia tay cùng chúng ta đúng 12 năm. Bài viết này lẽ ra nên post lên vào ngày 10 tháng Giêng, nhưng tôi cứ do dự sợ bạn đọc cho rằng tại sao cứ mãi viết về những người đã ra đi mà không viết về những người đang ở giữa chúng ta. Thế nhưng mới đây, nhân đọc một phản hồi của tradao [Australia] dưới bài viết của hoạ sĩ Đinh Cường về Bùi Giáng, tôi mạnh dạn đưa bài viết này lên như một đáp ứng…muộn màng.

Tác giả Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời, như nhân vật trong truyện này của anh, khám phá ra một điều là “… những kẻ đã tới đích đều tầm thường, những cái đã đạt được đều tầm thường…” Để cho Ngọn Đỉnh Trời mãi mãi là một bí mật, một thần tượng, một cái gì không vươn tới được, không đạt được, nhân vật của Mai Thảo không muốn bước tới, và anh đã chọn sự ra đi. Tôi nghĩ không phải là một sự tình cờ mà Mai Thảo, trong khi trả lời phỏng vấn của Jane Katz, trong Artists In Exile, nói rằng Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời là truyện ngắn anh thích nhất. Anh giải thích “leo lên cho được một đỉnh núi cao nhất phương Đông” nhân vật của anh muốn biết đỉnh núi ấy cao bao nhiêu, “anh đang đi tìm một thứ chân lý tuyệt đối và cũng là hạnh phúc. Nhưng khi đặt chân được lên đỉnh cao ấy thì anh thấy như tuyệt vọng, bởi vì, anh chợt ý thức ra rằng cái chân lý tuyệt đối ấy chẳng bao giờ đạt tới được.” Qua truyện ngắn này, người ta có cảm tưởng như Mai Thảo suốt đời là một người luôn đi tìm hạnh phúc, nhưng rốt cuộc anh vẫn không tìm thấy hạnh phúc ở đâu.

Có phải hoài nghi và cô đơn là hai thuộc tính trong con người nhà văn Mai Thảo? Các nhà phê bình văn học, có dịp sẽ làm công việc phân tích này.

***

Nhớ tháng Tám, 1996, khi nhận tờ Văn từ tay Mai Thảo, tôi nói với anh là anh hãy cố gắng viết Sổ Tay vài kỳ cho người đọc và bạn hữu thấy rằng sự chuyển tiếp không quá đột ngột. Anh bảo: “Ừ, tôi sẽ viết.” Khi bài vở cho số báo đã đầy đủ, chỉ còn thiếu trang Sổ Tay của anh, tôi nhắc mấy bận, nhưng anh luôn hẹn “đến mai”. Và mỗi lần đến thăm anh, tôi thấy sức khỏe anh đi xuống quá rõ, tôi không thể nhắc nữa. Để tờ báo có thể ra kịp đầu tháng Chín, như đã hứa, tôi thấy không còn cách nào khác, phải viết những trang đầu cho mỗi số báo. Nhưng tôi không muốn dùng lại đề mục Sổ Tay của anh. Trên tờ Văn, tôi nghĩ, Sổ Tay là của Mai Thảo.Sổ Tay Mai Thảo. Chữ nghĩa của anh từ bao nhiêu năm nay, qua những trang Sổ Tay, đã đến với người đọc như một người bạn thân, bước vào nhà bạn mà không cần gọi trước hay phải gõ cửa. Ngôn ngữ trong Sổ Tay Mai Thảo đã có cái nét riêng của nó. Phải là Mai Thảo ký dưới trang Sổ Tay của Văn, chứ không thể là của một ai khác. Đó là lý do tôi chọn chữThư Hàng Tháng cho những trang chữ của tôi. Tờ báo đã xong. Công việc còn lại, lúc đó, chỉ là mang lên nhà in Kim trên Los. Tôi gọi điện thoại báo cho Mai Thảo biết chiều nay báo sẽ mang in. Anh ậm ừ bảo anh chị bác sĩ Phó Ngọc Văn vừa từ Hoa Thịnh Đốn xuống, và anh hỏi tại sao không ra Viễn Đông uống một ly nước với người bạn từ phương xa tới. Tôi ra quán cùng ngồi với anh và anh chị Phó Ngọc Văn.

Tôi còn nhớ hôm đó trời Cali nóng dữ dội, mặc dù mùa hè sắp hết. Tôi hỏi anh nghĩ sao nếu tôi thay mục Sổ Tay của anh bằng mục Thư Hàng Tháng, chẳng hạn kỳ này tôi sẽ ghi là Thư Tháng Chín, thay vì Sổ Tay Tháng Chín. Mai Thảo đang đưa ly rượu gần chạm môi bỗng ngừng lại. Anh không vui, bảo theo anh thì không nên thay. Cứ giữ lại chữ Sổ Tay, vì trước hết người đọc Văn từ lâu đã quen với tên gọi của nó, và “với mục Sổ Tay, H. còn có lợi thế là có thể viết về nhiều thứ, nhiều điều, từ cái nhỏ nhặt gần gũi nhất của chính người viết tới cái xa nhất về thời sự, thời cuộc thế giới. Như một chút thời tiết. Như một cuộc gặp gỡ bạn bè bằng hữu. Nhẹ nhàng thôi. Chỉ là những ghi chép đôi khi vụn vặt, nhưng rất là đời sống.” Tôi hiểu ý anh. Và mặc dù mục này xếp chữ đã xong với cái tựaThư Tháng Chín, tôi đã phải ngồi xuống bàn viết sửa lại cái tựa, xóa bỏ lý do vì sao chọn chữ Thư Hàng Tháng, viết thêm một đoạn gặp anh và anh chị Phó Ngọc Văn, và sửa Mục Lục.

clip_image005

***

Cho nên, mỗi tháng, sau khi đã xếp chữ, layout xong toàn số báo, tôi luôn luôn chừa ra sáu trang cho Sổ Tay. Đó là những trang viết sau cùng. Và đó cũng là lý do nhà in T&T ở Costa Mesa hay giục sao tới ngày rồi mà chưa thấy mang báo đến in.

Tôi không viết dễ dàng và trôi chảy như Mai Thảo. Tôi đắn đo, cân nhắc, tôi luôn luôn muốn viết Sổ Tay theo một phong cách khác với Sổ Tay Mai Thảo.

Trong thời gian hai năm đó, mỗi lần lấy tờ Văn từ nhà in về, công việc đầu tiên là tôi mang báo đến anh. Anh nhìn cái bìa báo, hỏi in màu tốn kém làm sao chịu nổi. Anh hỏi lần tới sẽ chọn tranh ai làm bìa. Liệu có sống nổi không? Có lần bất ngờ anh hỏi tôi có uống chút chăng. Tôi biết Mai Thảo chỉ hỏi cho vui chứ anh biết tôi đâu phải là người ghiền rượu. Anh để mấy tờ Văn trên đầu giường, cạnh cái gối của anh. “Để chốc rồi đọc.” Và anh hỏi tin tức tờ báo. Những khó khăn trong công việc và đời sống của tôi. Căn phòng tối vì cửa lá sách đã vặn xuống. Một phần cánh cửa được mở cho khói thuốc có thể thoát ra ngoài. Tôi chỉ im lặng ngồi nhìn anh. Và anh cũng không nói gì thêm. Thường, tôi ngồi với anh không quá mươi phút vì tôi phải đi làm.

Một năm sau, khi anh rời căn phòng phía sau nhà hàng Song Long để vào bệnh viện Fountain Valley, rồi Good Samaritain, rồi Barlow Hospital ở Los Angeles, tôi ít gặp anh. Thường, muốn thăm anh, tôi hay đi ké xe của nhà báo Đỗ Ngọc Yến.

Hôm bệnh viện Barlow báo cho biết ngày đầu tiên tháo ống nhựa ở cổ anh để anh tập nói, vì sức khỏe anh đang bắt đầu hồi phục, tôi đã bỏ một buổi làm, theo Đỗ Ngọc Yến lên Los. Bữa đó, bà bác sĩ [?] Gloria giải thích việc lấy ống nhựa ra và muốn anh phải tập nói. Tôi mang tờ Văn số vừa in đưa cho anh và nói cho bà bác sĩ Gloria biết bệnh nhân Quý Nguyễn đây là một nhà văn nổi tiếng Việt Nam, và ông là chủ nhiệm tờ tạp chí văn chương mang tên VĂN này. Đỗ Ngọc Yến chỉ vào chữ MAI THẢO trên trang hai bìa sách nói cho bà Gloria biết đó là bút danh của ông Quý Nguyễn. Bà Gloria xuýt xoa một cách lịch sự như mọi người Mỹ lịch sự khác, nhưng bà vẫn không quên nhắc, buộc anh phải đọc những dòng chữ lớn trên tờ VĂN.

Lúc đầu anh nhất định lắc đầu từ chối. Anh không đọc, không muốn đọc. Thế nhưng, vì bà Gloria cứ dí mãi tờ báo vào mắt anh, và cứ chỉ tay lên chữ VĂN, đột nhiên tôi nghe tiếng anh đọc khá rõ: V. Ă. N. Và một câu kế tiếp không rõ lắm. Anh đọc “tẹp chí ven học nghẹ thuột”. Chúng tôi rất mừng nghe lại tiếng nói của anh. Bà Gloria là người vỗ tay to nhất và nhiều nhất. Đó là một buổi sáng Los Angeles tràn trề nắng ấm. Tôi nghe bà bảo sắp tới nhà thương sẽ để anh ngồi xe lăn và có người đẩy anh đi dạo dưới nắng. “Rất tốt cho ông ấy. Ông Nguyễn sẽ bình phục thôi.” Anh bình phục thấy rõ. Anh được đưa trở lại Quận Cam, nằm ở Viện Hồi Phục. Tiếng nói anh nghe đã rõ và anh đã nhận diện được những người đến thăm anh. Nhưng thời gian đến với anh đã không còn nữa. Ngày 10 tháng Giêng 1998, Mai Thảo ra đi.

***

Mai Thảo đã ra đi như vậy là đã 12 năm. 12 năm đó, trong các câu chuyện bên ly cà phê, trên cả những trang viết về Mai Thảo, có người hỏi tôi: Ông có phải là người bạn thân thiết của Mai Thảo không? Tình bạn của ông và Mai Thảo thế nào? Sao không bao giờ nghe ông nói về tình bạn của hai người? Điều gì đã gắn bó giữa ông và Mai Thảo? Đó là một câu hỏi rất khó trả lời đối với tôi. Trên số Văn đặc biệt Tưởng Mộ Mai Thảo phát hành vào tháng Hai, 1998, tôi viết: “Từ bên nhà, cũng như ở bên này, tôi chưa bao giờ ‘tự coi’ hay ‘được coi’ là người thân của anh Mai Thảo. Nếu hiểu ‘thân’ theo cái nghĩa là gần gũi, chia sẻ mọi va chạm trong đời sống và những suy nghĩ về văn chương. Trái lại, tôi luôn luôn ‘cảm thấy’ có một khoảng cách giữa anh và tôi. Cái gì làm nên khoảng cách đó, tôi không rõ. Cho đến bây giờ tôi vẫn không rõ. Nhưng tôi biết rõ một điều là tôi luôn luôn yêu quý anh. Như một ông anh trong gia đình.… Nói cho rõ hơn, điều khiến tôi yêu quý Mai Thảo trước nhất và sau cùng không phải là văn chương. Tôi thích câu viết của Thanh Tâm Tuyền: “…những người có cùng quan niệm văn chương chẳng làm cho họ gần gũi, nối kết với nhau…mà đôi khi còn đố kỵ nhau là đàng khác. Có lẽ bởi quan niệm là cái thứ có thể lượm nhặt, học hỏi, ai cũng có thể biết, có thể có, vì là sản phẩm của trí tuệ. Và nói trí tuệ là nói vô cùng, nói đảo điên, nói xuôi nói ngược đều được…”

Tôi vẫn thường nghĩ dán mắt thật sát, thật gần vào một đối tượng, tưởng là sẽ thấy rõ đối tượng ấy hơn, thật ra làm như vậy ta sẽ chẳng thấy gì cả.

Cái khoảng cách cần thiết vừa phải chính là để cho mỗi người có thể nhìn thấy rõ người kia hơn, và qua đó có thể nhìn thấy rõ mình hơn.

***

Tôi luôn yêu mến và quý trọng Mai Thảo trước đây và ngay bây giờ khi nghĩ đến anh, theo tôi, chính là nhờ cái khoảng cách cần thiết ấy./.

 

Hồi ký viết sớm

Võ Phiến nhận thấy truyện Nguyễn Xuân Hoàng có “dáng dấp đặc biệt”: “(tác giả) cẩn thận kết cấu nên những công trình hững hờ mà kiểu cách” (xem Văn học Miền Nam).Hững hờ là không có nội dung. Kiểu cách là có một hình thức nhất định. Dĩ nhiên chính cái hình thức cố ý ấy nó cũng là một thứ nội dung. Văn “hững hờ mà kiểu cách” là văn không chứa gì khác ngoài cảm xúc mỹ thuật của nhà văn(Thu Tứ)

***

Tôi gọi đoạn văn này là “Hồi ký viết sớm” theo như gợi ý của Nguyễn Hưng Quốc cho tạp chí Việt qua chủ đề: Họ Viết Văn Làm Thơ Như Thế Nào?

Tôi viết trong sự thúc bách trước một chuyến đi, mặc dù đã được dự trù trước, nhưng phút chót có một vài việc cần giải quyết trong toà soạn thành ra thời giờ dành cho bài viết này bị mất. Tôi chỉ ngồi trước máy sáng nay gõ những trang chữ này, trước giờ lên phi trường. Tôi biết đây không thể là một bài viết ưng ý, theo suy nghĩ của tôi. Tôi mong được viết lại sau chuyến đi, nếu Nguyễn Hưng Quốc chưa mang tạp chí Việt đến nhà in. Nhưng tôi cũng biết có lẽ đã là không kịp. Tôi không bao giờ chạy kịp sau một chuyến xe nào hết. Bài viết này không nhằm trả lời trực tiếp vào chủ đề mà tờ Việt đưa ra. Nhưng tôi nghĩ, dù sao nó cũng đáp ứng được tựa đề “Hồi ký viết sớm” của một người cầm bút. Tôi mong được các bạn tha thứ về những lời tự thuật hơi luộm thuộm chưa kịp hoàn chỉnh này.

Gia đình tôi, cụ thể là cha mẹ tôi, không phải là những người sính chữ nghĩa. Trong nhà tôi không có tủ sách. Nếu nói chuyện sách vở thì đó là những bộ truyện Thuỷ Hử, Tam Quốc Chí, Đông Châu Liệt Quốc… do mẹ tôi thuê để tôi đọc cho bà nghe mỗi buổi tối trước khi đi ngủ. Những cuốn tiểu thuyết dày cộm, giấy xấu, bìa ngoài thường là giấy loại dày màu xám không thấm nước, đóng bằng chỉ sợi lớn, lật ra rất khó. Những tiểu thuyết chương hồi này thực sự có khêu gợi trí tưởng tượng của tôi, khi tôi vừa đánh vần vừa đọc cho mẹ tôi nghe, nhưng tôi hoàn toàn không bị nó mê hoặc và nó cũng chẳng gợi trong tôi một ý niệm nào về chữ nghĩa. Ngay cả những nhân vật đầy tính chất truyền kỳ của nó tôi cũng không nhớ.

Lớn lên một chút tôi xa gia đình, đến ở nhà ông chú tôi. Tôi không còn cơ hội đọc truyện cho mẹ tôi nghe nữa. Ở nhà trường, tôi không phải là một học sinh xuất sắc. Mặc dù môn toán tôi thường đạt điểm cao, nhưng các bài luận văn tôi thường bị thầy dạy môn Văn là giáo sư Ph. Ng. mang ra phê. Sau khi đã đọc và hết lời khen ngợi những bài hay của các học sinh giỏi, thầy cũng đọc bài tôi cho cả lớp thưởng thức, vì… dở quá. Đôi khi thầy trích vài đoạn văn ngô nghê của tôi đọc to lên và cả lũ nhờ đó có được những trận cười thoải mái. Tôi thù ghét môn Văn. Và tôi hay trốn những buổi học có thầy dạy Văn để ra bãi biển ngồi một mình nhìn trời nước và nghe sóng biển.

Đó là thời gian trường tôi nổi lên hai “thi sĩ”: Duy Năng và Nguyễn Đức Sơn.

Thật ra, tôi không biết mình muốn gì? Tôi không biết mình sẽ sống ra sao?

Năm học sau cùng tôi vào Sài Gòn, được nhận vào trường Petrus Ký. Tôi học ban B, là ban Toán, như cách phân loại thời đó. Ở Petrus Ký hầu hết học sinh đều giỏi. Tôi chạy đua mệt nghỉ với các bạn cùng lớp. Ra trường, tôi ghi danh vào Đại học Khoa học, lớp PCB (viết tắt các môn học Physique, Chimie và Biologie). Tôi có ý định theo ngành y khoa.

Đó là năm đầu tiên tôi bắt đầu đọc truyện. Tôi đọc Võ Phiến, Nguyên Sa, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên, Doãn Quốc Sỹ, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc… Tôi cũng đọc Phạm Công Thiện và Nhất Hạnh. Rồi tôi đọc André Gide, St. Exupéry, Marcel Proust, Hermann Hesse, Francois Mauriac, André Maurois, Camus, Sartre, Dostoievsky, Tolstoi… Tôi đọc cả Hemingway, Faulkner, Tennessee Williams, Arthur Miller… Đọc bản dịch Việt ngữ lẫn bản tiếng Pháp… Gặp sách gì cũng đọc, ngấu nghiến. Có cuốn đọc hiểu. Có cuốn không hiểu gì cả. Tôi tìm kiếm mò mẫm để không bị lạc. Nhưng tôi bị lạc thật. Cuốn sách tôi thích lúc đó là Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền. Và tôi thấy các môn Vật lý, Hóa học và Sinh học ở nhà trường sao mà buồn chán.

Thế giới văn chương kỳ ảo và đầy hấp lực, mặc dù lúc đó tôi ao ước mình trở thành nhạc sĩ hơn là nhà văn.

Tôi mê âm nhạc Phạm Duy. Và thích nhạc bạn tôi: Trịnh Công Sơn.

Chưa hết niên học, tôi quyết định bỏ lớp, vì một lý do mà khi có dịp tôi sẽ viết lại dưới hình thức một truyện ngắn. Tôi ghi danh thi vào ban Triết, Đại Học Đà Lạt. Kỳ thi có khoảng 300 thí sinh, nhà trường tuyển 28 người. Và tôi là người đội sổ. Có hai đề thi để chọn. Tôi không nhớ đề kia, vì nó dính dáng đến một triết gia mà tôi chưa bao giờ nghe tên (vì có học hành gì đâu!), tôi chọn đề với câu nói của André Gide, tác giả La Porte Étroite. Bài luận văn của tôi phải là một bài dở nhất thế giới. Tôi nghĩ, mình thi chơi không đậu thì thôi, vì tôi cũng đã thi vào một trường khác và tôi đã được nhận. Buổi học đầu tiên Linh Mục giáo sư Alexis Cras sau khi chào mừng cả lớp, đã gọi tên tôi đứng dậy cho Cha biết mặt và Cha mỉm cười nói bài luận văn của tôi là một trường hợp đặc biệt. Cha không giải thích thế nào là đặc biệt, nhưng tôi biết đó là một bài viết được vớt vì người viết chẳng có chút kiến thức giáo khoa nào về triết cả.

Đà Lạt là một thành phố xa lạ. Tôi sống xa gia đình từ nhỏ, sẵn sàng thích ứng với mọi hoàn cảnh. Nhưng Đà Lạt là một thành phố đẹp quá. Tôi choáng váng trước vẻ đẹp của sương mù và nỗi cô đơn. Khi rời Sài Gòn ra đi tôi chỉ mang theo một bàn chải đánh răng, một cuốn sách, một cái áo len dày và một bộ quần áo để thay. Đêm đầu tiên, trong căn phòng ký túc xá rộng tôi thấy mình bơ vơ, trơ trọi, lạnh thấu xương.

Bài thơ đầu tiên tôi viết là một bài lục bát lấy tên là “Mang mang”:

Từ xa phố chợ đến giờ

Chân quen bỏ lệ gõ bờ lộ quen

Hoang vu chín đến độ thèm

Lạnh tàn nhẫn rót vào đêm lên đường

Mùa sương phố núi mù sương

Nhịp buồn hút gió hồn nương sao rừng

Chuyện linh hồn với bản thân

Bàn tay thượng đế, mộ phần chiêm bao…

Tôi gửi bài thơ về Sài Gòn cho tạp chí Hiện Đại. Và may mắn sao được Nguyên Sa chọn đăng. Bài thơ viết đã lâu, tưởng đã quên. Thế mà ngạc nhiên làm sao, khi đến Mỹ, nhà văn Bùi Bảo Trúc là người đầu tiên (và có lẽ là người duy nhất,) cười cười đọc cho tôi nghe bài thơ đó và đố tôi tác giả là ai?

Sau bài “Mang mang”, tôi viết “Mù sương”, truyện ngắn đầu tay, đăng trên tạp chí Văn Học do Dương Kiền và Phan Kim Thịnh chủ trương.

Tại sao tôi làm thơ? Tôi không tìm thấy câu trả lời. Tôi đã viết như thế nào?

Tôi cũng không rõ.

Chưa bao giờ tôi đặt một câu hỏi như thế cho các bài viết của tôi.

Tôi viết không phải vì có điều gì cấp bách trong lòng, nếu không viết ra thì không chịu nổi. Tôi cũng không bao giờ có ý nghĩ ngông cuồng là đi cùng trời cuối đất như Tư Mã Thiên để viết cuốn Sử Ký. Hoặc đọc thiên kinh vạn quyển để làm một học giả như Nguyễn Hiến Lê. Tôi viết vì trước hết tôi muốn kể một câu chuyện, nhưng vấn đề là cách kể như thế nào. Chuyện của ai? Tại sao phải kể câu chuyện đó? Kể cho ai nghe? Kể làm gì? Có khi trả lời được, có khi ú ớ. Mấy tác giả tôi đã đọc có phải là những người kể chuyện không?

Tôi nhớ mới đây, nhân cái chết của nhà văn Morris West, một tác giả người Úc, Hoàng Ngọc-Tuấn viết trên Văn một bài rất đặc sắc về tác giả này. Theo Hoàng Ngọc-Tuấn, Morris West không phải là nhà văn ông hâm mộ.

Ông [Morris West] không phải là một biểu tượng tập trung của sự sáng tạo văn chương. Ông không nỗ lực xây dựng một hệ thẩm mỹ mới, không phát hiện những kỹ thuật viết mới, không mở rộng thêm định nghĩa về văn chương. Ông chỉ dùng cây bút để kể chuyện.[1]

Tôi rất thích cách đặt vấn đề của Hoàng Ngọc-Tuấn, khi ông phân biệt hai hướng văn nghệ ở các nước tiền tiến:

một hướng nhắm vào việc thí nghiệm, khám phá và thực hiện những ý niệm thẩm mỹ mới; một hướng nhắm vào sự ứng dụng những phong cách, kỹ thuật và phương pháp sáng tác sẵn có vào việc tiêu khiển quần chúng. Cả hai hướng đều cần thiết, và một xã hội lành mạnh phải phát triển đồng thời cả hai.[2]

Hoàng Ngọc-Tuấn cho Morris West là  một cây bút tài ba suốt đời đã liên tục kể những chuyện hấp dẫn làm bao nhiêu người trên thế giới say mê, và cuối cùng ra đi với lòng yêu nghề trọn vẹn.[3]

Tôi chỉ là một người kể chuyện. Nhưng không phải là một người kể chuyện giỏi.

Ở Đà Lạt ba năm tôi chỉ viết được hai bài (một bài thơ và một truyện ngắn) và làm tờ báo Sinh Viên số 1. Nhà văn Huỳnh Phan Anh sau này là người làm tiếp tờ Sinh Viên đánh số 2. Người bạn trên tôi một lớp và là người nghiên cứu rất kỹ về tiểu thuyết Pháp lúc bấy giờ là anh Hoàng Ngọc Biên. Anh là người đã mang đến cho tôi những hiểu biết đầu tiên về “tiểu thuyết mới”, thứ tiểu thuyết “chống lại tiểu thuyết tâm lý học, chống lại cái thói hay đưa ra cho độc giả, thay vì những sự việc ý thức sơ khai (một loạt ấn tượng không lớp lang)” là một loat kể lể do sản phẩm của trí óc đầy luận lý và khô rỗng. Tiểu thuyết-phi-tiểu-thuyết với Alain Robbe-Grillet (nhà xuất bản Minuit) và Nathalie Sarraute, Michel Butor, Claude Simon… Alain Robbe-Grillet khẳng định trong truyện của ông “biến cố xảy ra ngoài vòng tâm lý học, vốn là thứ khí cụ quen dùng của những người viết tiểu thuyết trước đây.”

Tôi hiểu là tôi rất thích thú một cái nhìn về tiểu thuyết mới này.

Trở lại Sài Gòn, tôi vào dạy môn Triết ở trường học cũ: Petrus Ký. Đây là thời gian tôi viết một loạt truyện ngắn khác, được nhà xuất bản Thời Mới của Võ Phiến nhận in tập truyện đầu tay với tựa đề Mù Sương (nxb Thời Mới, Sài Gòn, 1966). Một tập truyện mỏng, trần trụi, không lời tựa lời bạt. Tôi viết theo những gì tôi nghĩ như một bước đi ra khỏi con đường tiểu thuyết tâm lý cũ của những tác giả đi trước. Tập truyện ngắn lấy tên là Sinh Nhật do Văn Uyển của Trần Phong Giao ấn hành (Sài Gòn, 1968.) Một tập tùy bút Ý Nghĩ Trên Cỏ, do nhà Nguyễn Đình Vượng in (Sài Gòn, 1971). Và một tập sách mỏng Bất Cứ Lúc Nào Bất Cứ Ở Đâu (Văn Uyển, Sài Gòn, 1970). Trên tờ Văn thời Trần Phong Giao làm Thư ký toà soạn, tôi cho in từng kỳ truyện vừa Khu Rừng Hực Lửa, chối bỏ thứ tiểu thuyết tâm lý trước đó. Khu Rừng Hực Lửa được nhà xuất bản Đêm Trắng của Huỳnh Phan Anh in lại, như một thứ tiểu thuyết thuộc nhóm những người viết “khác” của Sài Gòn giai đoạn này, với Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Quốc Trụ, Nguyễn Nhật Duật, Đặng Phùng Quân.

Mới đây, trong cuốn tạp ghi Nơi Người Chết Mỉm Cười, nhà văn Nguyễn Quốc Trụ, trong bài “Tiểu thuyết mới ở Việt Nam”, có nhắc đến bài phỏng vấn của nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh, theo đó tôi có đề cập đến Huỳnh Phan Anh và Hoàng Ngọc Biên, cùng những người viết trong nhóm tiểu thuyết mới ở Miền Nam trước năm 1975. Tôi có trả lời Nguyễn Mạnh Trinh rằng tôi không “mặn” với món tiểu thuyết mới. Thế nhưng, theo Nguyễn Quốc Trụ thì trong những tác phẩm đầu tay của tôi, trong cuốn Sinh Nhật (thật ra là cuốn Mù Sương) chẳng hạn.

ông [Nguyễn Xuân Hoàng] đã không chấp nhận nhân vật tiểu thuyết như một con người có cá tính, có một đời sống tâm lý, sinh lý, có một hoàn cảnh xã hội đặc biệt… Ông chọn một người không có cá tính, đại khái như vậy. Và như thế, vô hình chung ông đã chấp nhận, một cái gì đó, của tiểu thuyết mới, khi trào lưu này không thể nào quan niệm một thứ văn chương đồng hóa con người vào những tình cảm ỷ ôi, sướt mướt, con người như là một con vật bị “hãm hiếp” bởi thất tình, hỷ nộ ái ố…”[4]

Nguyễn Quốc Trụ nói đúng. Nhưng tôi nói tôi không “mặn” có nghĩa là tôi “không mặn” chứ tôi không hề chối bỏ cái nhìn mới trong cách thể hiện các sáng tác của mình. Tôi nhắc lại điều này để nói tại sao tôi viết cuốn Kẻ Tà Đạo (nxb Nguyễn Đình Vượng, 1972) như một cách trả lời cho người đọc nói rằng thứ văn chương mà bọn chúng tôi, qua nhà xuất bản Đêm Trắng của Huỳnh Phan Anh và các bạn tôi, là “thứ văn chương viết để không ai hiểu!” Cuốn Kẻ Tà Đạo lúc đầu tôi định ghi: “Cuốn sách này dành tặng cho những người cần thứ văn chương dễ hiểu.” Nhưng sau cùng tôi đã rút lại lời ghi đó vì một lý do riêng.

Sau năm 1975, mười năm ở lại Sài Gòn, tôi có dịp đọc những cuốn sách miền Bắc, những tác phẩm dịch của Nga. Tôi yêu thích Bông Hồng Vàng, Konstantin Pautopsky, bản dịch của Vũ Thư Hiên, yêu thích Dagestan Của Tôi của Raxun Gamzatov, thích những bài thơ của Xuân Quỳnh, kịch Lưu QuangVũ… đó là những tác giả có vẻ như có khả năng đứng ra ngoài cơn lốc thời cuộc. Nhưng tôi vẫn thấy cầm bút sao mà khó. Tôi đọc Bertolt Brecht, và tôi khám phá ra ông đang nói giúp những người cầm bút những suy nghĩ trong một chế độ mới: Nói chuyện với cỏ cây cũng là điều tội lỗi. Người ta cần phải sống trước, tồn tại trước rồi sau mới nói tới nghệ thuật. Nghệ thuật trong một thời đại hỗn mang đồng hoá với một trò chơi xa xỉ. Nghệ thuật trước hết thuộc về những người được nói, được phát biểu, được trình diễn… và sau đó tiếng nói ấy có nghệ thuật hay không là một chuyện khác. Tuy nhiên đối với tôi, mười năm ấy rất quan trọng. Những ngày trong tù, hay những ngày ngoài đời ngày nào, giờ khắc nào cũng là một bài học cho tôi. Tôi hiểu giá trị của chữ nghĩa hơn, hiểu sự run sợ của lời nói, hiểu cái bóng tăm của những chiếc miệng câm, hiểu bầu trời sao hôm nay không xanh, sao nắng không vàng, sao gió không heo may. Tôi hiểu cái bóng mình đổ đàng sau lưng chính là nấm mồ của chính mình. Tôi hiểu cái bóng nắng ngã ra đàng trước chính là vết thẹo của quá khứ. Tôi cười nói như một người ngô nghê, phát biểu linh tinh như một tên láu cá chợ trời. Tôi là Tôn Tẫn. Tôi là Bàng Quyên.

Mười năm sau, đặt chân lên đất nước này, tôi đã không còn tuổi trẻ. Trong văn chương ở đây tôi gặp lại một nền văn chương ở đó. Người ta dụng văn như một phương tiện. Những chiếc áo ngụy bán trong kia, và những chiếc nón cối bán bên này. Những người chống đối nhau nhưng sử dụng chữ nghĩa giống nhau như hệt. Phỉ báng, lăng mạ, chửi rủa, buộc tội… Giống nhau cho cả người thua kẻ thắng. Văn học nghệ thuật đích thực chỉ còn là một vùng đất nhỏ, bên này cũng như bên kia. Tôi học rất nhiều bằng sự câm lặng.

Hiếm lắm, tôi mới đọc được những bài phê bình lý luận văn học của Nguyễn Hưng Quốc, Bùi Vĩnh Phúc. Và gần đây tôi đọc những suy nghĩ về nghệ thuật của Hoàng Ngọc-Tuấn. Tôi đọc Trần Vũ, Nguyễn Hương ngoài nước tôi đọc Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh… trong nước.

Tôi khám phá ra chữ nghĩa của tôi đã không còn Chàng và Nàng, tôi lược bỏ không thương tiếc những tĩnh từ trong câu văn tôi. Tôi sợ những chữ mình viết ra chưa ráo mực đã cũ, như tấm ảnh rửa bằng thứ nước thuốc xấu, bị ố vàng dưới ánh sáng. Nhiều cuốn sách viết trước 1975 giờ đọc lại đã thấy cũ. Những đề tài thời thượng nhanh chóng bị đào thải. Tôi sợ những trang chữ của mình. Tôi cố đơn giản cùng cực trong cách dùng chữ. Tôi tránh cái sướt mướt. Tôi muốn những câu văn khô. Tôi “không ưa một nhà văn nói lý quá nhiều. Họ chỉ làm như vậy khi họ không còn tin vào cái lực của ngòi bút họ. Khi một người đàn bà đã qua thời nhan sắc vẫn thường bình luận nhiều về tình yêu, ghen tuông nhiều hơn và chẳng chịu thừa nhận bất cứ sắc đẹp của ai.” Ai đã nói câu đó vậy?

Trong một bài viết cách đây chín năm, dưới tựa đề “Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn”, Nguyễn Huy Thiệp viết:

Nhà văn nào mà chẳng bất lực trước trang giấy trắng? Giá trị đến như Truyện Kiều mà Nguyễn Du thiên tài cũng chỉ mơ ước “mua vui được vài trống canh.” Giá trị văn học thường chỉ được người ta nhắc đến khi người viết không còn nữa… Ai lấp đầy những khoảng trống trong tư tưởng nhà văn? Ai? Người nào? May ra chỉ có thiên nhiên. Thiên nhiên sẽ lấp bằng đất, như đã từng lấp mộ các bậc đế vương hoặc bất kỳ một kẻ vô danh không tuổi không tên, không quê hương, không sự nghiệp.

Xin tha lỗi cho những suy nghĩ luộm thuộm đầu Ngô mình Sở của một người đang chuẩn bị chuyến hành hương.

Tự truyện một người vô tích sự

Tôi là đứa con thứ mười hai trong một gia đình mười ba anh chị em. Mười ba người con trong một gia đình, con số ấy đâu có nhỏ, phải không? Nhưng biết làm sao! Có ai trên đời này được quyền chọn nơi chốn, gia đình hay dân tộc để chào đời đâu. Tóm lại, tôi là một người Việt Nam ra đời ở miền Trung, trong thời chiến, dưới một mái nhà “đông dân” và “kinh tế gia cảnh” đang hồi sa sút.

Phải nói là nhà tôi đông người quá, đông đến nỗi tôi không thể nào nhớ hết tất cả những anh chị em của tôi. Cha tôi, má tôi, đôi ba ông anh, đôi ba bà chị, một vài cô em… chỉ chừng đó người thôi cũng đủ nằm chật trong ký ức tôi rồi.

Vậy thì, có lẽ, tôi chỉ xin nói trước một đôi điều về đôi ba người trong gia đình tôi thôi. Tôi nghĩ rằng khi vẽ lại chân dung những người thân thích ruột thịt của mình, tôi cũng đã tự vẽ phần nào chân dung mình. Tuy có hơi nhợt nhạt, nhưng chắc là sẽ không xa sự thực lắm đâu!

Cha tôi, tất nhiên đó là người mà tôi muốn nhắc đến trước nhất trong bản tự truyện này. Ông cao lớn, quắc thước, vạm vỡ. Ngay giờ đây, khi hồi tưởng lại hình ảnh của ông, điều mà tôi có thể nhìn thấy lại trước nhất và rõ nhất là đôi mắt của ông. Đôi mắt ấy đầy thần lực, hơi lạnh và có một vẻ gì như tàn nhẫn. Khi nhìn ai, đôi mắt kia như phát ra một mệnh lệnh buộc họ phải phục tùng. Rất nhiều màu nâu đen, rất ít lòng trắng, đôi mắt ấy khá gần với loài hổ báo. Cũng có khi tôi tưởng đôi mắt ấy là con dao cau phạt ngang, có thể cắt đứt cổ tôi như chơi.

Tôi rất sợ cha tôi. Và tôi không biết rõ lòng mình là có bao giờ tôi yêu ông không.

Má tôi thường nói cha tôi là một con sâu rượu. Quả thật, ông uống như hũ chìm và không bao giờ tôi thấy ông say. “Tao mà say rượu à, rượu say tao thì có!” Cha tôi nhiều lần nói như vậy.

Mỗi ngày bốn bận, cha tôi uống rượu theo chu kỳ “sáng – trưa – chiều – tối”. Sáng uống theo lối sáng, chiều uống theo kiểu chiều. Sáng đánh răng súc miệng, uống ít thôi. Tối cần giấc ngủ, uống khá khá được. Trưa, chiều thì tùy hứng.

Má tôi nói rượu là độc được. Cha tôi nói rượu là thuốc an thần. Cha tôi tích trữ rượu. Má tôi giấu rượu. Cha tôi ít nói khi đã uống nhiều. Và má tôi không phải là loại đàn bà lắm lời.

Nói chung, gia đình tôi đông, nhưng buồn và lạnh. Chúng tôi cử động, ăn uống, đi lại, học hành, trò chuyện như những người khách trọ trong một căn nhà nấu cơm tháng.

Có một thời gian, tuy hơi bất ngờ, nhưng mà cũng ngắn thôi, tôi thấy cha tôi không uống rượu nữa. “Sáng – trưa – chiều – tối” ông chỉ uống trà. Cái thói quen mà ông không thay đổi, đó là bao giờ cũng thức dậy sớm hơn tất cả mọi người trong nhà. Ông nấu nước trong một chiếc ấm màu đen quánh, pha trà trong một bình đất nung màu đỏ gạch cua bóng lưỡng, và uống trong một cái chén nhỏ cũng bằng đất nung da màu lông thỏ đỏ. Cái chén ấy ông trang trọng gọi nó là Thố Hào Trản. Cha tôi rất quý cái chén này. Có lúc tôi nghĩ là ông quý nó còn hơn đứa con của ông là tôi nữa. Ông thường đem khoe với mấy người bạn của ông cái chén đất và nói rằng nó xưa lắm, “bảy trăm năm tuổi đấy!”. Nếu đời sống con người chỉ kéo dài có năm mươi năm thôi thì cái chén này đã áp vào môi của mười bốn đời người. Nó “chạm” đến bảy thế kỷ của nhân loại. Có lần tôi hỏi ông tại sao cha biết cái chén này xưa tới bảy trăm năm. Ông nói chính một ông bạn làm quản thủ công nhựt ở viện bảo tàng vườn Bách Thảo Sài Gòn nói như vậy.

“Cha à! Ông ta căn cứ vào đâu mà nói như vậy?”

“Tao không biết, nhưng tao tin ông ấy. Ông ta là một nhà chơi đồ cổ lừng danh. Lời ông ông ấy rất có giá trị.”

“Nhưng tại sao bảy trăm năm thì quý?”

“Cái gì trên cõi đời này mà lâu đời đều quý cả.”

Tôi biết cha tôi trả lời lấy lệ. Và tôi vẫn không tin là hễ cái gì lâu đời cũng đều quý cả.

Nhưng đột nhiên, cũng bất ngờ như lần chừa rượu, ông bỏ trà không một lời báo hiệu. Tôi nhìn thấy cái chén đất nung, da màu lông thỏ đỏ, nằm lăn lóc dưới gầm tủ; bình trà bỏ ở góc nhà; còn cái ấm đất màu đen quánh nằm ở chái hiên.

Ông uống rượu trở lại.

Thời gian sau đó rất tình cờ có lần tôi nghe ông nói “mấy cái thằng ăn không ngồi rồi, dư tiền dư của, bày đặt chén Tiểu Tống với Đại Tống, Thán Hào Trổ với Thố Hào Trản!” Theo ông, rượu tốt hơn trà, và cái quan trọng chính là “nội dung” chứ không phải là cái “hình thức”. Chén nào cũng được, rượu là đủ.

Tôi không giống cha tôi về mặt này.

Tôi uống rượu nhưng không mê rượu.

*

Má tôi là một phụ nữ có cái chiều cao “hơi cao” so với chiều cao trung bình của một phụ nữ Việt Nam. Da trắng, tóc đốm màu bạch kim, mũi cao nhỏ, mắt xanh hơi nghịch ngợm, cái vẻ bề ngoài của bà nổi bật giữa những người phụ nữ Việt Nam. Những buổi đi học về, tôi thường chui xuống bếp với má tôi và đôi khi cả bà chị kế tôi cũng xuống bếp theo. Thỉnh thoảng, bà kể cho chúng tôi nghe về những mảnh đời của cha tôi. Chấp vá lại những câu chuyện hở đầu hụt đuôi của bà, tôi hình dung ra cuộc đời của ông, bằng cách thêm mắm dặm muối cho nó liền lạc.

Là thủy thủ của những thương thuyền, cha tôi trôi nổi từ hải cảng này sang thương cảng khác. Nay Hồng Kông mai Tân Gia Ba, mốt Marseille, bữa kia Amsterdam… ông như một con cá mập giang hồ vẫy vùng giữa trời và nước. Những hình xâm xanh lè còn đầy trên chiếc ngực vạm vỡ và lông lá của ông, cùng với dòng chữ lăn quăn trên hai cánh tay ông, làm chứng cho những lời nói của má tôi. Trước khi lấy bà, cha tôi đã có một đời vợ. Mẹ trước tôi là một phụ nữ Pháp, tên Suzanne, sinh trưởng ở Marseille, thành phố mà đã có thời cha tôi tưởng chừng sẽ chôn chân vĩnh viễn lại đó như quê hương thứ hai. Nhưng cũng theo lời má tôi kể, ông phải bỏ đi vì một chuyện “lỡ tay” của ông. Một hôm ông bước vào quán rượu quen, gọi thức uống như thường lệ, nhưng chờ mãi vẫn không thấy người bồi mang lại, trong khi đó thì tên chủ quán người Pháp cứ đi ra đi vào ngó ông khinh khỉnh. Ông sốt ruột, nắm cổ áo hắn hỏi tại sao. Hắn nói ở đây không có chỗ cho một dân “Mít”. Ông giận điên lên, quật tên chủ quán xuống sàn nhà và tấn công hắn bằng một thế võ cực kỳ hiểm độc. Tên chủ quán chết không kịp lời trối trăn. Để trốn tránh pháp luật, ông dắt bà Suzanne chạy lên Paris. Paris đâu phải đất sống của ông. Ông quẩy đuôi trở lại sông hồ, bỏ lại thành phố ánh sáng lộng lẫy kia người đàn bà với một giọt máu của ông. Sau này, vẫn theo lời kể của má tôi, có lần bà Suzanne gửi thư cho cha tôi nói về giọt máu rơi của ông nay đã là một thiếu nữ tên Marthe. Má tôi muốn tự tay biên thư cho bà Suzanne, nhưng cha tôi không bằng lòng. Ông nói đó là chuyện của ông, má tôi không được xen vào. Chị Marthe của tôi có thời nổi tiếng là một trong số những người mẫu lừng danh của Paris. Người ta gọi chị là Marthe Nuyen (lẽ ra phải viết là Marthe Nguyễn mới đúng, nhưng chuyện này đâu có ăn nhằm gì). Tôi biết chi tiết này vì lúc hơi lớn một chút có lần tình cờ tôi nhìn thấy trong cuốn nhật ký của bà chị kế tôi có một tấm ảnh in hình một cô gái Pháp ăn mặc thật đẹp như một tài tử điện ảnh. Sau lưng tấm ảnh là lời đề tặng cho cha tôi có chữ ký rất rõ là Marthe Nuyen. Nhật ký của chị nói rằng Marthe làm nghề người mẫu. Và cha tôi biên thư phản đối bà Suzanne tại sao để con tự do làm nghề này. Nghề người mẫu thì đâu có gì là xấu, nhưng tôi không hiểu tại sao cha tôi nói vậy. Cho đến bây giờ, thật tình mà nói, tôi không biết gì nhiều hơn về người chị có cùng chung với tôi một người cha này. Bỏ Paris, cha tôi đi Hương Cảng, lại theo một số tàu buôn khác, lại giang hồ kỳ hiệp, nay thương cảng này, mai hải cảng kia. Đó là thời gian cha tôi gặp má tôi.

*

Bà là người Trung Hoa, nhưng có dòng máu của dân Hồng Mao. Bà thường nhắc đến ông ngoại tôi một cách kính cẩn như nhắc đến một vị thần đầy quyền lực: “Ông ngoại con không phải là người phàm. Ổng là con nhà quý tộc chớ không phải dân giang hồ tứ chiếng như cha mày đâu.”

“Má, con nhà quý tộc thì sao?” Tôi hỏi.

“Dân quý tộc không lấy con nhà thường dân.”

“Vậy sao má chịu lấy cha?”

“Không biết! Đừng nhiều chuyện! Nhưng má thích tụi con ăn học đàng hoàng, hơn là lang bạt kỳ hồ.”

Bà không muốn chúng tôi giống cái thời tuổi trẻ của cha. Ước muốn của bà, sau này, tôi thấy hình như không đạt được bao nhiêu phần trăm.

Ông ngoại tôi người Bắc Kinh, con một gia đình quyền quý có chức phận, được gởi sang Anh du học. Ông lấy một phụ nữ người Anh và sinh ra má tôi. Không hiểu vì sao ông bỏ bà ngoại tôi ở lại Luân Đôn, về nước chỉ mang theo cô con gái là má tôi. Nhưng rồi, ông cũng không nuôi má tôi. Ông đem gửi bà cho một gia đình người Hoa khác ở Hương Cảng, cung cấp ít tiền bạc và thỉnh thoảng mới đến thăm bà. Cuộc tình duyên giữa má tôi và cha tôi ra sao, không ai trong đám con cái chúng tôi biết. Mà má tôi cũng không bao giờ hé môi nói rõ tại sao một thiếu nữ “con nhà quan xinh đẹp thế kia” (tôi vẫn luôn luôn nghĩ má tôi là người đàn bà đẹp nhất mà tôi đã gặp trong đời) lại đi phải lòng một người đàn ông giang hồ như cha tôi. Dù sao khi tôi bắt đầu nhận ra mình là đứa con của một gia đình đông đảo, tôi có thể nói má tôi là ngưòi đàn bà tần tảo lo cho chồng cho con trong cái xã hội bình thường của chúng ta. Quần quật suốt ngày với con cái nhà cửa, chạy ăn từng bữa, tất tả, ngược xuôi, đắp cái này, vá cái kia, nhưng không bao giờ thấy bà hé răng kêu một lời than thở. Về ngôn ngữ, tôi không biết nói sao cho đúng. Má tôi nói tiếng Hoa cũng sõi như tiếng Việt. Phần tôi, tôi chỉ ăn cắp được của má tôi và cha tôi một chút chiều cao của thân thể, nhưng tiếc thay, tôi không lấy được một tí nào về sự chịu đựng lớn lao của bà và cái cang cường dũng cảm của cha.

Tuy vậy hình như tôi là một đứa con được má nuông chiều quá đáng trong một gia đình đông đúc. Cha tôi lạnh lùng. Anh chị em tôi dửng dưng. Nhiều khi tôi có cảm tưởng như chẳng có sợi dây gia tộc nào ràng buộc được chúng tôi lại với nhau.

Nói nào ngay, mấy ông anh bà chị tôi không ai ghét bỏ tôi, nhưng hình như cũng không ai yêu tôi. Riêng tôi, tôi nghĩ là mình thù ghét tất cả mọi người, trừ một người, tất nhiên, đó là má tôi. Tôi đâu có cần gì phải làm ra vẻ lạnh lùng. Tôi có thừa sự nhạt nhẽo để có thể chia xẻ cho tất cả mọi người. Cái phần ấm áp, tôi chỉ dành riêng cho mỗi một mình má tôi.

Thật ra, chị Thảo tôi, mà tôi có lần nói rất giống má tôi, là người mà tôi cũng yêu lắm, gần bằng tình yêu mà tôi đã dành cho má tôi. Nhưng giữa chị và tôi có một khoảng cách vô hình. Không bao giờ hai chị em tôi nói với nhau quá câu thứ hai mà không cãi nhau. Đúng với cái tên mà má tôi đã đặt cho chị, chị là một thứ cỏ hoang mọc trên một vùng đất khô cằn là cái gia đình tàn tạ của chúng tôi. Và cái sắc đẹp man dại của chị làm cho má tôi lo lắng buồn bã hơn là làm cho bà hãnh diện mừng vui. Chị Thảo là một kết hợp kỳ lạ giữa cha tôi và má tôi. Chị có cái nhan sắc của má tôi và cũng có cái lạnh lùng đôi khi tàn nhẫn của cha tôi.

Năm mười bảy tuổi, chị bị một tên thanh niên con nhà giàu trên tỉnh theo đuổi. Hắn mang tặng chị hết món này đến thứ khác, toàn là loại đắt tiền. Lúc đầu chị cười cợt, coi như trò đùa. Về sau chị vất tất cả những thứ ấy ra cửa. Hắn tên là T. và theo chủ quan tôi, lúc ấy hắn là một thanh niên khá đẹp trai. Cao lớn, để ria mép, ăn mặc chải chuốt, hắn đẹp theo kiểu một công tử. Hắn khôn khéo, tìm mọi cách để chiều lòng mọi người trong nhà tôi. Kín đáo mang rượu đến cho cha tôi mỗi tuần, tặng vải vóc cho má tôi, đồ chơi cho tôi và các em tôi. T. đi lòng vòng chung quanh trước khi chinh phục tâm điểm là chị Thảo tôi. Tôi có cảm tưởng như nếu bắt hắn phải quỳ xuống để xin chị Thảo chút tình yêu, chắc hắn cũng sẵn sàng không do dự. Nhưng chị Thảo nhất mực không hề cảm động hay thương hại hắn nói gì đến thương yêu. Tôi không biết là lúc đó chị có đang yêu người nào không. Hình như là không. Thật ra tôi cũng không chắc lắm. Nhưng rõ ràng là chị vất cái thứ tình yêu đầy quy lụy, say đắm và mù quáng của T. xuống cống rãnh. Nhiều buổi chiều, tôi thấy T. đứng bứt rứt bên kia đường, dưới gốc cây muồng hoa vàng nghệ, ngó chăm vào nhà tôi. Hắn đau khổ thấy rõ. Và thú thật, tôi có thương hại hắn. Tôi thấy chị Thảo tàn nhẫn. Cha tôi không giờ uống một giọt rượu của T. Còn má tôi vào những ngày năm cùng tháng tận, cần mua sắm ít vải may quần áo mới cho chúng tôi, vậy mà bà cũng nhất quyết gói gửi trả tất cả vải vóc lại cho T. Một lần cha tôi cho gọi T. vào nhà, rót rượu cho hắn uống. T. nói không biết uống rượu. Cha tôi bảo “Nam vô tửu như kỳ vô phong” đàn ông không uống rượu như cờ không gió. Hắn nhìn cha tôi như cầu khẩn. Cha tôi cụng ly. T. bưng lên nốc cạn một hơi. “Khá!” cha tôi nói, và rót tiếp một ly thứ hai. Cứ thế hết ly này đến ly khác. Khi cha tôi đứng dậy, T. ói thóc ói tháo, đầu gục xuống bàn, người mềm như sợi bún.

Khi người Pháp trở lại Việt Nam sau cuộc chiến, T. làm thông ngôn trong một tiểu đoàn Lê dương. Hắn lúc bấy giờ nổi tiếng như một hung thần. Nhiều người đã chết dưới tay hắn. T. háo sắc đến độ gần như vùng nào mà tiểu đoàn hắn đi qua đều có vài ba thiếu nữ là nạn nhân của hắn. Đi bên cạnh T. luôn luôn có hai tên lính người Ma Rốc rạch mặt. Nhiều cô gái sau khi bị hãm hiếp, còn bị tên Ma Rốc dùng dao cắt vú và đâm nát cửa mình.

Thời gian này gia đình tôi đã tan thành nhiều mảnh. Tôi theo cha tôi chạy lên Hòn Lớn, một địa danh ở miền Trung, nằm dưới chân một ngọn núi khô cằn, nhà cửa giống như những căn chòi cất vội vàng trên một nền đất chưa được phẳng. Tiếng súng còn khá xa chỗ ở của cha con tôi.

Lúc đó, tiểu đoàn của T. đang bố ráp càn quét ở một vùng quê khác, nơi má tôi và chị Thảo đang ẩn náu. Sau này má tôi kể lại: Một buổi tối T. xông vào nhà với hai tên lính Ma Rốc rạch mặt. Hắn ung dung ngồi hút thuốc để hai tên Ma Rốc đè chị Thảo ra cột lên giường và trói má tôi chặt vào cột nhà. Ở thôn quê hồi đó, phòng khách, phòng ngủ, phòng ăn chỉ là một. Má tôi hãi sợ lắm. Hắn hỏi chị Thảo:

“Em có bằng lòng lấy tôi không?”

“Không!” Chị trả lời.

“Tại sao?”

“Không tại sao gì cả.”

“Chừng nào mới chịu lấy tôi?”

“Không chừng nào hết!”

“Sợ tôi không?”

“Tại sao phải sợ?” Chị Thảo hỏi lại ương ngạnh.

T. rút khẩu súng ngắn đeo ở thắt lưng ra, kê vào đầu chị, nhắc lại một lần nữa. Chị Thảo không nhìn hắn. Má tôi la lên, sợ T. bắn thật. Hắn tát vào mặt má tôi. Xong hắn xé quần áo chị Thảo ra, hãm hiếp chị ngay trước mắt chừng ấy con người. Lúc đó, má tôi nói, hắn như một con thú say mồi. Má tôi phát bệnh nặng sau khi chứng kiến cái cảnh tượng hãi hùng giáng xuống đời chị Thảo. Chị Thảo, sau tai nạn khủng khiếp kia, âm thầm bỏ má tôi đi biệt vô âm tín. Mặc dù chỉ nghe lời kể của má tôi về những hành động dã man của tên T., tôi không bao giờ quên hắn. Tôi sẽ nhắc hắn ở đoạn sau.

Phần tôi, kể từ khi bắt đầu va chạm cuộc sống, tôi khám phá ra rằng con người ta không thể nào sống mà thiếu người khác được. Tôi thấy tôi là kẻ đói tình thương trong một gia đình thừa mứa những liên hệ ruột thịt. Nói giản dị, khi tôi nhận thấy mình cần một bà chị như kiểu chị Thảo để yêu mến thì chị ấy không còn trong gia đình nữa. Có lẽ là chị ấy vẫn còn sống đâu đó mà không muốn trở về gia đình chăng, tôi không rõ.

Tôi giữ lại trong trái tim mình hai người anh. Một ông anh cả và một người anh kế.

*

Anh cả tôi bỏ nhà đi giang hồ khi mới mười bốn tuổi. Năm đó tôi chưa chào đời. Má tôi nói anh đi Sài Gòn. Sau đó là Cà Mau, Rạch Giá, Năm Căn, Cần Thơ, Châu Đốc… Có lần trong bữa cơm má tôi nói anh mày ở Vạn tượng bên Lào mới gửi thư và tiền về cho má. Lần khác trả lời câu hỏi của chị Thảo, má nói anh cả đang ở Savanakhet. Khi cha tôi bỏ trà, liệng lăn lóc cái Thố Hào Trản, là lúc ông nói anh đang ở đồn điền Chup bên Nam Vang, Căm bốt. Nói chung là tôi rất lơ mơ về nơi ăn chốn ở của anh ấy. Còn mặt mũi của anh ra sao thì mãi lâu về sau tôi mới có dịp nhìn thấy.

Người anh kế tôi, tuy cao lớn, nhưng dáng người thanh nhã. Ấy vậy mà khi vừa đậu xong cái bằng tú tài toán anh đã chọn đời lính như một nghề nghiệp. Anh thi vào trường Võ Bị Đà Lạt nhưng khi ra trường chuyển sang binh chủng Không Quân. Khi Sài Gòn thất thủ, anh đang mang lon trung tá, bị bắt đi học tập cải tạo và chết trong lao tù Cộng Sản. Anh là người lính ưa văn chương chữ nghĩa. Anh có nhiều bạn là nhà văn nhà thơ, mặc dù anh không hề viết một truyện ngắn hay làm một bài thơ nào. Sở dĩ tôi có biết mặt quen tên một ông nhà văn, một bà nhà thơ nào đó, chẳng qua cũng là do ông anh tôi dắt về nhà thôi. Anh che chở cho một nhạc sĩ trốn lính, bỏ tiền trợ cấp cho một bà ca sĩ có bầu “với ai đó”. Anh luôn luôn hào hoa rộng lượng. Tôi thích nhìn anh trong bộ đồ bay, chữ Tổ Quốc Không Gian trên ngực áo, chiếc nón lưỡi trai che ngang cặp kính Ray Ban rất là thời thượng. Anh có nhiều bạn gái, phần lớn là ca sĩ phòng trà, và anh không yêu một cô nào quá lâu. Anh nói với tôi anh không có tình yêu. Mãi đến năm Bảy Hai, sau mùa hè đỏ lửa, trước ngày má tôi qua đời, anh báo tin cho tôi biết là anh quyết định lấy vợ. Chị là một cô giáo dạy Vạn Vật và là người rất xa lạ với thế giới đầy buông thả của anh. Nếu cái vẻ hào hoa phong nhã của anh là thứ vũ khí sắc bén chinh phục các cô ca sĩ thì khi gặp chị, vũ khí ấy trở thành thừa thãi, vô hiệu. Chị nói chị lấy anh vì tánh thật thà của anh, chứ không phải vì “cái mã bề ngoài” của anh. Hôn nhân đã ép anh vào một khuôn khổ, không kẽ hở. Nhà cửa, vợ con, gia đình, hàng xóm đâu ra đấy. Anh không còn luông tuồng như xưa nữa. “Tình yêu có thật!” Anh vẫn nói với tôi như vậy khi đã có với chị một đứa con. Tuy vậy mỗi khi có dịp về Sài Gòn, anh như một con cá gặp nước. Bạn bè, ăn nhậu, nhẩy nhót như điên. Vũ nữ, ca sĩ, phòng trà, âm nhạc, rượu chè… anh sống vội vã như thể ngày mai trái đất này sẽ trở thành tro bụi. Tuy vậy có lần anh nghiêm chỉnh nói với tôi rằng không biết cuộc chiến tranh này rồi sẽ đi về đâu. Có nhiều điều anh không hiểu. Tình hình chính trị ngày càng xấu. Các thành phố lớn có vẻ như co rúm lại. Chiến tranh đâu chỉ có ở một mặt trận, nó nằm cùng khắp đất nước thành thị, thôn quê, ruộng vườn rừng núi. Ngay trong hơi thở ta, trên da thịt ta, trong thành phố hiền lành chiến tranh cũng đầy chật. Anh nói đến những ánh đèn nhấp nháy của nhà cửa làng mạc, nói đến rừng núi sông ngòi… những nơi anh đã bay qua. Anh nói đến những đám mây như những tảng bông trắng xốp, đến bầu trời xanh lơ mênh mông. Anh thích nhà văn phi công người Pháp, ông Saint Exupéry trong tác phẩm Terre Des Hommes. Và câu nói của một nhân vật trong cuốn sách này ám ảnh anh là: “Cái mà mình đã làm, mình nói thật, không một con vật nào làm được.” Anh muốn có cái cơ hội thử thách điều đó.

Khi hay tin anh chết trong lao tù cải tạo, nhớ đến lời nói của anh, tôi tự nghĩ không biết anh đã chiêm nghiệm ra điều ấy hay chưa.

Nghĩ cũng hay, một gia đình đông đảo đến là như thế mà chiến tranh đến, chiến tranh đi, vô tình cướp mất của tôi lúc này một ít ông anh, lúc kia một ít bà chị, để rồi rút cục con rắn dài mười ba khúc chỉ còn lại có khúc đầu, khúc giữa và khúc đuôi.

Tôi muốn giới thiệu về ông anh cả tôi trước khi nói tiếp về ông anh trung tá.

*

Cũng giống như cha tôi, anh cả tôi cao lớn vạm vỡ khác thường. Anh có một khuôn mặt bạnh, chân mày rậm xếch, mũi to, miệng rộng, cằm vuông, râu quai nón, đen sạm. Một vết sẹo dài chạy từ khóe mắt đến mang tai. Mắt anh không lớn nhưng lì lợm và dữ dằn như mắt cha tôi. Tóc anh xoắn chảy xuống gần phía ót một chùm mịn quăn tít. Cổ anh tròn cứng, vai ngang, hai bàn tay to lớn phốp pháp. Trên khuôn mặt anh, người ta có thể nhìn thấy một sự kết hợp kỳ lạ, mâu thuẫn đến tuyệt vời giữa sự cứng rắn và mềm mại, dễ ghét và dễ thương, hận thù và thân ái… Tất cả những hình nét mà tôi có thể vẽ được về anh chỉ là nhờ vào những tấm ảnh anh gửi về cho má tôi. Tôi còn nhớ Tết Nguyên Đán một năm nào đó, lần đầu tiên tôi giáp mặt anh. Tôi thấy những đường nét mà tôi đã hình dung về anh là không xa lắm. Hồi đó tôi mới bốn tuổi, má tôi bắt tôi ra mừng anh ở xa mới về. Tôi đứng nép bên má nhìn anh, thấy anh tưởng như một người đã quen nhau từ lâu lắm. Nhưng tôi không chào anh. Anh là người quen trong trí tưởng tôi, hơn là người anh có mặt trong đời sống thực tôi. Anh ở nhà không lâu và lại ra đi hồi nào tôi cũng không nhớ. Tôi chỉ biết thời gian đó gia đình tôi tạm coi như sum họp nhất, mặc dù lạnh lẽo vẫn là khí hậu chính của mọi người. In hình như là trong nhà ai cũng linh cảm sắp có một điều chi đó xảy ra, như chờ đợi một cơn bão vậy. Và tôi thấy người anh cả tôi lúc ấy rất quan tâm đến chị Thảo. Anh nói chuyện khá lâu với chị và loáng thoáng tôi nghe nhắc đến tên T., người thanh niên vẫn theo đuổi chị. Một buổi tối, cả nhà ngồi quanh bàn ăn, cha tôi gợi chuyện để anh cả tôi kể những biến cố đời anh. Anh cười, hàm râu quai nón giãn ra như một ông tây con. Anh nói ít, cũng như má tôi vậy, về nơi ăn chốn ở của anh: rừng cao su, những người phu được mộ từ miền Bắc, những tên chủ đồn điền người Pháp hách dịch phách lối, cách tra tấn dã man những người trốn việc mà bọn cai vẫn thường đối xử với đám phu phen… Anh kể chậm rãi về nhiều người, nhiều việc, nhưng không ai biết chút gì thêm về đời tư của anh. Khi anh đứng dậy thì thầm với chị Thảo điều gì đó, cha tôi tuyên bố một câu khó hiểu: “Thằng này giống tao!” Về sau tôi biết là anh đã “làm thịt” một tên cai phu tàn ác vì hắn hành hạ dã man một người phu đồn điền.

Một năm sau, Cách mạng Tháng Tám bùng nổ trên toàn quốc, anh tôi bị con lốc thời cuộc cuốn theo, thổi bay từ núi rừng này sang núi rừng khác, mặt trận, chiến khu, và biệt tích biệt tăm, cho đến sau tai nạn buồn thảm của chị Thảo tôi.

Tôi quên nói là sau khi trái lựu đạn nội hóa đầu tiên nổ tung trong một ngày mùa Thu ngay trước cửa nhà tôi thì gia đình tôi giống như một tổ ong bị vỡ. Chúng tôi, những con ong bay tán loạn, tơi tả, lạc loài, vô định. Má tôi và chị Thảo một đàng, các ông anh bà chị khác một ngõ. Chỉ có riêng mình tôi, theo cha chạy qua những làng xa tận cùng một chân núi. Tôi biết những cánh đồng xanh lá mạ, những vườn xoài vườn mận, những hệ thống dẫn thủy nhập điền thô lậu, những con sông dài phơi mình ngái ngủ giữa trưa hay trôi lặng lẽ dưới bóng trăng đêm… Tôi được thấy những đàn bò gậm cỏ buồn nản, những con trâu lười biếng trầm mình dưới đầm nước tù ngầu đục… Nhưng cuộc chiến ngày một đuổi nà những người thành phố. Tiếng súng lúc đầu còn xa, càng về sau càng gần hơn. Trước mặt chúng tôi là ruộng vườn, thôn xóm. Sau lưng chúng tôi là núi đá, rừng cây. Cùng đường rồi, chạy đi đâu nữa. Cha tôi nói như vậy. Và ông vừa làm tiều phu, vừa làm nhà nông. Cha tôi nói đất đai chỉ nuôi sống che chở những ai yêu nó, sống với nó, làm việc với nó. Cha tôi là một người tháo vát. Ông nói tận trong máu huyết của mỗi người Việt Nam đều có chứa đựng dòng máu của một nông dân. Đây là thời gian cha tôi trở lại với ấm trà và chén đất. Không còn cái Thố Hào Trản của thời Đại Tống Tiểu Tống gì đó, mà một ông bạn già của cha tôi từng nói. Chén đất nung thứ thiệt màu đỏ gạch cua, cha tôi làm lấy. Ông vẫn là người dậy sớm, nấu ấm trà. Và tôi trở thành người bạn hiền bé nhỏ đối ẩm cùng ông. Cuộc sống của hai cha con tôi nơi sơn cùng thủy tận hạnh phúc một cách bắt buộc. Cha tôi nhắc má tôi và chị Thảo ít hơn là nhắc đến hai ông anh tôi. Cho đến một hôm, một người liên lạc đến báo cho cha tôi biết anh cả tôi ở chiến khu về muốn gặp ông. Tôi mừng lắm. Nhưng cha tôi trầm ngâm không nói chi. Tôi còn nhớ cuộc gặp gỡ của chúng tôi diễn ra dưới chái hiên của căn chòi lợp lá phên. Buổi chiều ở núi lạnh tê. Anh tôi đứng trước sân căn chòi. Vẫn cao lớn, hơi gầy, râu cạo nhẵn, tóc vẫn xoăn tít bám sát da đầu. Vết sẹo dài từ khóe mắt trái đến mang tai. Cha tôi và tôi đứng dưới dàn bầu nậm. Tôi hết nhìn anh lại nhìn cha. Anh gầy càng giống cha nhiều hơn. Hai người đàn ông đứng im sững như hai người thợ săn đang rình mồi, nhìn ngó nhau trân trân. Tôi thấy những đốm sáng cuối cùng của ngày lóng lánh trong đôi mắt anh. Sau cùng, tôi nghe thấy tiếng cha tôi kêu tên anh trai tôi. Tối hôm đó, ba chúng tôi ăn cơm chung bên bếp lửa. Cơm trộn bắp chan nước mắm bằng nước muối pha đường thẻ. Bữa cơm rất ngon miệng, mặc dù tôi đã quá ngấy với những hột bắp nhiều hơn gạo trong chén cơm. Anh ôm tôi vào lòng, lấy khẩu súng ngắn ở thắt lưng ra, tháo đạn, cho tôi mượn. Anh đọc cho tôi nghe một bài thơ của một tác giả mà sau này tôi biết là Quang Dũng:

Mẹ tôi em có gặp đâu không

Những xác già nua ngập cánh đồng

Đó là những câu thơ mà tôi sẽ còn nhớ mãi. Một lúc, anh ngập ngừng nói với cha:

“Con đã gặp thằng T.!”

“Thằng T.?” Cha tôi hỏi gặng. “Mà ở đâu?”

“Ở Tân Hưng. Gần Gò Quít, cha nhớ không?”

“Nhớ. Rồi sao?”

“Con hỏi nó có biết con là ai không? Nó nói biết. Con hỏi nó sợ không? Nó nói không…”

Anh ngừng lại, trầm ngâm.

“Cha biết con đã làm điều gì phải làm cho em Thảo.”

Cha tôi im lặng rót trà vào chén đất, uống một hơi cạn.

Sáng hôm sau, khi tôi thức dậy, anh đã ra đi từ hồi nào. Cả cha tôi nữa, ông cũng đã vào rừng đốn cây làm thêm phên cửa, sửa vách và dành củi cho mùa đông.

Người anh sinh trước tôi vài năm, cũng như tôi, lớn lên cuộc chiến tranh Việt Nam đi vào một khúc quanh khác. Người Pháp đã ra đi sau khi thất thủ Điện Biên Phủ. Người Mỹ vừa đến, Quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Hòa thành lập. Gia đình mười ba anh em chúng tôi chỉ còn cô út ở nhà với má tôi. Anh cả tôi cũng như chị Thảo đều biệt tăm. Ông anh kế của tôi theo học trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Còn tôi, sau đó vào Quang Trung rồi đi Thủ Đức. Chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ. Các tướng lãnh thay nhau cầm quyền. Cha tôi qua đời đúng vào dịp Tết Mậu Thân. Bốn năm sau má tôi cũng “đi theo”, khi một tay nhà báo Pháp viết về “đại lộ kinh hoàng” ở Quảng Trị, nơi người bạn Thủy Quân Lục Chiến của tôi làm bài thơ Cổ Thành tặng tôi trước khi hy sinh. Cô em gái út nhà tôi lấy chồng. Ngôi nhà tôi ở đã bán. Tôi là người lính sống ở văn phòng nhiều hơn chiến trường. Tôi luôn luôn là kẻ được nuông chiều trong một xã hội không phải ai cũng may mắn được như thế. Ông anh Không Quân của tôi tuy vẫn hào hoa bay bướm, nhưng là một người cha gương mẫu, một người chồng tốt. Anh được bạn bè đồng đội quý mến và quả tình anh cũng rất yêu mến con đường anh đi. Một lần chúng tôi gặp nhau ở Sài Gòn, anh nhắc tên người anh lớn và chị Thảo của chúng tôi. Không biết bây giờ anh chị ấy ở đâu, ra sao. Sống chết thế nào. Anh nói chiến tranh ghê tởm và anh hỏi tôi nghĩ sao. Tôi nghĩ sao? Tôi là một người vô tích sự. Nhưng bây giờ hiểu ra, tôi yêu tất cả mọi người. Tôi không thù ghét ai. Người anh Không Quân của tôi cũng nói vậy. Anh chờ đợi và mong muốn hòa bình. Anh nói anh không phải là một nhà chính trị, nhưng anh tin rằng anh chiến đấu cho tự do của dân tộc. Anh nói anh không hề mù quáng nghĩ rằng anh đang sống trong một xã hội tốt đẹp, nhưng anh tin rằng anh đang chiến đấu trong một xã hội để làm cho nó tốt hơn cái hiện có.

*

Tháng Tư Bảy Lăm, Sài Gòn thất thủ, trong “những người chiến thắng” trở về có ông anh cả tôi, nay là một cán bộ chức sắc, một thứ công thần. Anh có tìm gặp tôi trước ngày tôi bị gọi đi học tập cải tạo. Tôi thấy anh khác xưa nhiều. Vết sẹo trên mặt có vẻ như nhạt đi, những bắp thịt gân guốc đã mất. Anh gầy và trầm ngâm. Anh không gặp người anh Không Quân của tôi. Tôi không nghe anh giải thích tại sao. Cô em út của chúng tôi đã theo chồng rời bỏ Sài Gòn trong một ngày áp chót của cuộc chiến. Tôi không hiểu tại sao có phương tiện trong tay mà người anh Không Quân của tôi không ra đi. Cũng như những sĩ quan thua trận cấp úy khác, tôi thu xếp ít quần áo và lương thực cho mười ngày học tập. Nói là mười ngày, nhưng ba năm sau tôi mới được trở về, khi ông anh Không Quân của tôi vẫn còn ở lại trong một trại cải tạo ngoài Bắc. Ra tù tôi sống lang thang làm đủ thứ nghề, đi khắp mọi nơi, nhưng tôi vẫn không gặp và không nghe chút tin tức gì về chị Thảo tôi. Làm như chị là một người không có thực trong gia đình tôi.

Ông anh cả tôi sau đó có đến thăm tôi trên một lần nữa, sau khi tôi vượt biên bị bắt ở Rạch Giá vừa được thả về. Ông nói đừng làm chuyện bá láp, vượt biên là phản quốc. Đó là thời gian chế độ mới đánh tư sản, đổi tiền. Ông nói học tập cải tạo là rất tốt cho những đầu óc vô tích sự như tôi. Phải như thế thì tôi mới “sáng mắt sáng lòng” ra được. Mãi đến năm thứ mười sau ngày Sài Gòn thất thủ tôi mới vượt biên thông suốt. Tôi đến được Pulau Bidong, trong một chuyến đi không đến nỗi bi thảm như những người khác. Tôi luôn luôn là một người may mắn. Một năm sau nhờ sự bảo lãnh của cô em út, tôi được Mỹ nhận cho định cư.

Khi còn ở đảo tôi hay tin người anh lính Không Quân đã chết trong trại giam. Ông anh cả tôi cũng không còn nữa. Một lá thư từ bên nhà gửi qua cho biết ông ấy chết hơi khác thường: tự tử bằng một viên đạn bắn qua đầu. Qua thư từ tôi biết thêm sau khi ông đi thăm người anh lính Không Quân bị bệnh nặng nằm chờ chết trở về, ông đã chọn cái chết của chính mình như một cách nói lời tuyệt vọng. Mười năm sau khi lấn chiếm miền Nam, đất nước ngày càng tan nát, đời sống người dân ngày càng xuống thấp, trong khi máu mủ ruột thịt bỏ đi xa hay vẫn còn nằm trong lao tù của chế độ mà mình phục vụ, có lẽ đã là động cơ thúc đẩy họng súng quay về phía ông. Đôi khi tôi nghĩ cái lẽ sống mới quan trọng hơn sự sống. Có phải vì thế mà ông anh cả tôi hành động kiểu đó chăng? Đó là tôi suy nghĩ vậy, chớ tôi không chắc lắm đâu.

Hôm qua tôi vừa được thư bà chị dâu từ Cabramatta Úc Đại Lợi gửi sang cho hay chị đã lập gia đình. Người chồng chị hiện nay cũng là một người Việt Nam. Hai vợ chồng mở một tiệm ăn. Cả hai mời tôi có dịp sang chơi, sẽ đài thọ vé máy bay và nơi ăn chốn ở.

Tôi không biên thư trả lời. Tôi gọi điện thoại viễn liên chúc mừng chị. Tôi nói muốn đón các cháu sang Mỹ chơi. Chị hứa.

Đời sống ở Mỹ thật tiện nghi. Tôi đủ ăn đủ mặc và tôi giàu tự do. Tuy nhiên vào những buổi sáng cuối tuần, đi bách bộ trong khu công viên Mile Square Park ở Quận Cam, tôi như thấy mình đang trở lại thời sống với cha ở một vùng núi miền Trung, và văng vẳng bên tai vẫn như còn nghe lời cha nói: “Thằng này đúng là đồ vô tích sự!”

Buổi sáng sớm rừng còn đầy sương mù, gió thổi luồn qua những vòm cây lạnh. Trên những ngọn cây cao, tôi nghe tiếng chim kêu từng hồi. Giẫm trên những ngọn cỏ ướt sương, bập bập điếu thuốc lá chưa kịp khô, tôi thấy mình già hẳn. Như giờ đây, gần bốn mươi năm sau tôi thấy tôi mới già bằng thuở đó./.

Nhà văn với nhà báo

Sử Mặc

Sử Mặc (SM) : Chào nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng (NXH) Từ khi kế nhiệm tờ Văn của Mai Thảo (MT), nhiều người nhận thấy rằng mục Sổ Tay của NXH viết hay không kém nhà văn tiền nhiệm. Nhưng cũng kể từ khi chuyên trách mục này, độc giả lại ít được đọc truyện MT trước đó hoặc truyện NXH sau này . Đây chỉ là một sự dừng chân nghỉ mệt để khơi động một chu trình viết lách khác . Hay có sự bế tắc nào?

NXH : Chào anh Sử Mặc. Sao hôm nay lại có chuyện phỏng vấn này? Chắc phải có chuyện chi đặc biệt phải không? Dù sao đã hỏi thì xin trả lời: Phần anh Mai Thảo thì tôi không dám có ý kiến, còn phần tôi thì vì công việc lu bu, thì giờ cho việc viết quá ít, thành ra mới có cơ sự đó.

SM : Trước kia, nhà văn NXH là một giáo sư triết. Vậy nghề giáo chuyên môn này có giúp ích gì cho nghề văn không? Sự giao thoa giữa hai nghề mang tỉ lệ thuận hay nghịch?

NXH : Đi dạy học cũng như làm thợ nề thợ mộc, nói chung cũng như những ngành nghề khác, nó cũng giúp cho nghề văn mặt này và có trở ngại cho nghề văn mặt khác. Có khi thì thuận, cũng có khi nghịch.

SM : Có người cho rằng trong giới văn nghệ với nhau có sự kết bè và phân biệt đối xử. Cụ thể: nhà văn nhà thơ “lớn” phải đánh bạn với nhà văn nhà thơ cùng tầm cỡ! -Văn nghệ “cung đình”(có dán marque trí thức, phú hộ) không đi đôi với văn nghệ “bụi” (hiểu theo nghiã chịu chơi, bất cần dư luận) – Báo chuyên đề văn học không chơi với báo chợ – vv. Anh có nhận thấy như vậy không ? Nếu có, tình trạng này có ở mức độ tệ hại và có cơ may cải thiện không ?

NXH: Không biết có hiện tượng này cho “một ai đó” với “một ai đó” không? Nhưng cá nhân tôi, tôi không thấy có chuyện này. Vì thật sự tôi không hiểu thế nào là “lớn” thế nào là “tầm cỡ”? Nhưng tôi biết một điều – một điều rất cũ và rất xưa – là hai người hợp tánh với nhau, cùng chia sẻ được với nhau về một số suy nghĩ đời sống cũng như chuyện chữ nghĩa, dễ nói chuyện với nhau hơn là những người gặp nhau chẳng biết PHẢI nói chuyện gì. Chẳng hạn, tôi vẫn thích giao du với anh Nguyễn Mộng Giác vì chúng tôi là bạn với nhau từ lâu. Không phải vì anh ấy làm báo Văn Học còn tôi làm báo Văn. Anh Giác có lúc không làm tờ Văn Học, còn tôi anh Mai Thảo mới chuyển tờ Văn để trông coi từ tháng Chín 1996. Chẳng hạn, anh Phùng Nguyễn tôi mới quen khi gặp anh ở nhà anh Giác, và tôi trở thành bạn thân của anh ấy từ năm sáu năm nay. Mà rất thân như anh em. Trường hợp nhà văn Lê Minh Hà ở Đức, Ngọc ở New York – nay do công việc đã dọn về Florida – tôi chưa hề quen mà cũng chưa hề biết mặt, nhưng tôi có cái cơ may được đọc bản thảo của chị (Ngọc) và được cho bài (Lê Minh Hà) và Văn được phép đăng truyện của các chị. Tôi rất sung sướng quen biết với họ. Trường hợp Nguyễn Nam An, Quan Dương, Phạm Chi Lan, Nguyên Nhi, Nguyễn Thị Thảo An… là những tác giả tuy không giao du thân thiết [riêng Nguyễn Nam An tôi vẫn tự cho phép mình coi là anh em trong một gia đình] nhưng tôi bao giờ cũng vẫn qúy mến các anh chị đó. Không những vì tài năng của họ mà còn vì tư cách của họ nữa. Anh có để ý là khi mình đi dự một tiệc cưới, khi được xếp ngồi cùng bàn những người mình không quen thật khó nói chuyện không. Không phải chuyện giàu nghèo hay có danh vọng gì đâu, mà là vì không cùng ngành nghề hay sở thích đó thôi…. Anh có nghĩ vậy không?

SM : Đúng đấy nhà văn à ! Hoan nghênh tinh thần cỡi mở của anh NXH . Nhưng tôi thấy điều này vẫn còn lấp ló đâu đó . Nhưng thôi ! Bá nhơn bá tánh …miễn sao mình sống thật với mình là qúy phải không anh ! Như vậy trong văn chương cũng cần triệt hạ quan niệm đàn anh đàn em, chia bè kết lũ, phải thế không ạ ?

NHX : Tôi nghĩ câu hỏi đã được trả lời.

SM : Với tư cách chủ nhiệm/chủ bút một tạp chí chuyên đề văn học có tầm vóc hiện nay ở hải ngoại, anh có thiên vị không trong việc lựa chọn bài vở ? Lấy một ví dụ nhỏ : giữa một thân hữu cộng tác có phụ giúp vật chất cho tờ báo nhưng khả năng văn chương yếu kém và một ngòi bút cộng tác khá nhưng hoàn toàn không có khả năng góp gạo thổi cơm chung, anh nghiêng về bên nào ?

NXH : Chúng tôi thấy câu hỏi này rất dễ trả lời: Thứ nhất, chúng tôi không có may mắn có được một thân hữu cộng tác có phụ giúp vật chất cho tờ báo mà lại đòi đăng bài. Tờ Văn được rất nhiều thân hữu giúp, nhưng không thân hữu nào đòi cái chuyện kỳ quái đó. Thứ hai, tôi vô cùng mừng rỡ và sung sướng được đăng bài của những tác giả tài năng. Tôi sợ các bậc tài năng ấy không chịu cho bài chứ. Anh cứ hỏi các ông Nguyễn Mộng Giác, Khánh Trường thì biết KHÔNG CÓ NHÀ VẮN VIẾT BÀI, ĐỐ ANH LÀM SAO RA BÁO!

SM : Hiện tượng nữ giới rầm rộ tham gia sinh hoạt văn nghệ, theo anh là để : Điểm trang cho cuộc đời ? – Bình đẳng với nam giới ? – Do hoàn cảnh xã hội mới thúc đẩy?

NXH : Hình như nhà văn Võ Phiến có nói đâu đó một câu đại khái là chúng ta đang có một nền văn chương đổi phái tính. Tôi không phải là nhà nghiên cứu sợ trả lời kiểu thầy bói thì anh cười.

SM : Nhìn lại sinh hoạt văn học VN hải ngoại hơn hai mươi năm qua, anh nhận thấy kể theo phái tính ngòi viết nam hay nữ dài hơi hơn ? Tại sao ?

NXH : Tôi nghĩ người dài hơi vẫn là người nam: Trước đây là nhà văn Nguyễn Mộng Giác. Hình như giờ đây nhà văn Hoàng Khởi Phong có dự tính viết bộ trường thiên Người Trăm Năm Cũ dài hơn Sông Côn Mùa Lũ……

SM : Anh có quan niệm đem ngôn từ dung tục vào văn chương có thể tẩy được phần nào cái vết nhàm chán của văn chương lãng mạn cổ điển . Đấy có phải là một hình thức đổi mới nghệ thuật viết không ?

NXH : Càng ngày tôi (cá nhân-chủ quan) càng thấy những chữ nghĩa “đẹp đẽ,” “lãng mạn” làm văn chương chúng ta không chỉ nhàm chán mà còn khó nuốt nữa.

SM : Nhiều người hô hào : phải gia nhập, đầu tư vào thị trường văn chương chữ nghĩa bản xứ . Anh nhận thấy có mảy may nào hi vọng không ? Hay chỉ là một ý niệm suông ?

NXH : Gia nhập, đầu tư như thế nào? Tôi không rõ. Nhưng tôi biết những nggòi bút trẻ như Nguyễn Quí Đức, Andrew Lam, Andrew Phạm, Linda Lê và… đã và đang đi vào thị trường chữ nghĩa bản xứ bằng chính tài năng của họ trên lãnh vực văn chương. Họ viết trực tiếp bằng tiếng Anh, hay tiếng Pháp (trường hợp Linda Lê). Họ đang làm cái việc mà cá nhân tôi ao ước vì tôi không có khả năng đó.

SM : Anh có nhìn ra cái động lực đã làm chùn bước các ngòi bút được kể là năng động, là niềm hi vọng cho văn học lưu vong lâu nay như Trần Vũ, Đỗ Kh. , Nguyễn Qúi Đức, Vũ Quỳnh Hương, Vũ Quỳnh Nh. vv..vv

NXH : Tôi nghĩ các người trẻ đầy tài năng này vẫn viết đấy chứ. Nguyễn Quí Đức vẫn sáng tác trong khi đang làm cho một đài phát thanh của nguồn bản xứ, Đỗ Kh. làm điện ảnh, hai nhà văn họ Vũ thì một người công chuyện đa đoan, một người đời sống gia đình bận bịu. Để hai vị nữ lưu đó có chút thì giờ tôi tin là người đọc chúng ta sẽ có cơ hội thưởng thức văn chương của họ. Riêng Trần Vũ, tôi có may mắn gặp anh hồi đầu tháng Mười Một vừa qua tại Paris, anh nói lúc này anh “ngưng viết vì anh cần làm việc có tiền và có địa vị trong xã hội”. Anh Trần Vũ có lý riêng của anh. Đôi khi văn chương chẳng qua cũng chỉ là một trò chơi. Không thích trò chơi đó người ta tìm trò chơi khác thực tế hơn.

SM : Nhà văn NXH trong mong gì ở giới viết lách trẻ ?

NXH : Chưa bao giờ tờ Văn được đăng nhiều sáng tác của người trẻ như những năm gần đây.

SM : Anh theo đuổi nghề báo là vì : Muốn gánh lấy một trách nhiệm ? ( như duy trì một diễn đàn văn nghệ đứng đắn ) – Thời cơ đưa đẩy ? – Thỏa mãn một sở thích cá nhân ? – Mưu sinh ?

NXH : Như đã trả lời ở trên: Công việc làm báo của tôi hiện nay (không phải tờ Văn) cũng như mọi người khác trong xã hội là phải làm việc làm một việc nào đó để sống. Không lẽ mình cứ ngồi chơi lấy gì nuôi bản thân, nói chi chuyện nuôi gia đình. Còn tờ Văn là một chuyện khác. Nó chẳng mang lợi lộc gì ngoài bỏ công bỏ sức xxin bài, lay out, chịu nợ nhà in, gửi báo mỗi tháng và những khi báo gửi trễ bị một vài bạn đọc khó tánh mắng vào mặt, như mình là một người được bạn ấy nuôi sống bằng mấy cục đồng trong một năm. Chúng tôi luôn luôn biết ơn bạn đọc. Những bạn đọc đã thông cảm việc làm của chúng tôi, đã thông cảm nhưng khi báo ra trễ, gửi trễ vì nhiều lý do, trong đó có lý do Sổ Tay bao giờ cũng đưa chậm, vì cứ muốn chờ thời sự sau cùng để cho vào bài viết. Một vài bạn đọc hiếm hoi ccó vẻ như muốn nói “Tôi mà giận lên không thèm mua báo nữa thì chỉ có nước đi ăn mày.”

SM : Từ ngày báo chí liên mạng nở rộ, báo dưới “đất” có bị ảnh hưởng gì không về lượng độc giả, thân hữu cộng tác bài vở ?…

NXH : Tôi không rõ lắm. Báo Văn cũng như Văn Học, Hợp Lưu đâu có đông người đọc đến nỗi sự thay đổi này làm ảnh hưởng chuyện kia, trừ phi các tác giả thỉnh thoảng có cho bài nay họ chỉ dành cho báo liên mạng thì họ không cho nữa thôi.

SM : Có người than phiền đa số các vị chủ báo lười trả lời thư tín, thắc mắc của độc giả thân hữu như một thái độ xem thường bạn đọc . Điều này oan hay ưng ?

NXH : Tôi không biết các ông Nguyễn Mộng Giác, Khánh Trường thế nào chứ cá nhân tôi thích trả lời bằng điện thoại (nếu người viết có ghi số điện thoại) hoặc thích nhất là trả lời qua email. Chuyện viết một bức thư trả lời với tôi lúc này là một nỗi khổ tâm, không phải xem thường bạn đọc đâu, oan lắm!!!!!- mà vì quá lu bu. Có một cách trả lời thứ ba là mở hộp thư tòa soạn. Tôi nghĩ nhân đây lợi dụng câu hỏi của anh, tôi cầu mong bạn đọc tha thứ và thông cảm. Nhớ cho số điện thoại hoặc cho địa chỉ email. Hết lòng biết ơn các bạn và anh Sử Mặc.

SM : Xin cám ơn nhà văn NXH . Cám ơn quý bạn đọc !

 

Văn học Việt Nam trong và ngoài nước

Nếu lấy những năm 1945, 1954, 1975 – những dấu mốc của lịch sử Việt Nam đương đại – làm dấu mốc cho Văn Học Việt Nam thì điều ấy cũng không lấy gì làm sai lắm.
1945: văn học kháng chiến và văn học đô thị; 1954: văn học ngoài Bắc văn học trong Nam, và đến năm 1975: Văn học trong nước và văn học ngoài nước, mà ta vẫn thường gọi là văn học hải ngoại.
Trong khi văn học đô thị và văn học kháng chiến chỉ kéo dài có 9 năm, văn học trong Nam-ngoài Bắc kéo dài 21 năm, thì văn học trong nước và ngoài nước tính đến nay đã là 30 năm. Và không biết còn kéo dài bao nhiêu năm nữa. Ba mươi năm ấy nhìn lại – cả trong và ngoài nước – chúng ta có khá nhiều tác giả, nhiều đầu sách, nhưng dường như không có tác phẩm nào lớn, theo nghĩa đưa được văn học Việt Nam hoà nhịp vào dòng văn học thế giới. Tại sao?
Ba mươi năm, sau một cuộc chiến tàn khốc, bao nhiêu xương máu đã đổ xuống, bao nhiêu nước mắt, chia lìa, đau đớn và đau khổ. Thử tưởng tượng [tôi không nghĩ chỉ là tưởng tượng đâu!] trên bàn thờ của một gia đình Việt Nam, bà mẹ đốt nhang trước chân dung hai đứa con, một người lính Cộng Hoà và một người lính Cộng Sản. Hai kẻ thù ngoài mặt trận là hai đứa con yêu của một bà mẹ. Không phải là cái thắng của một chủ nghĩa hay là cái thua của một thể chế, với bà mẹ, đây là nỗi đau hai mặt: cái chết của hai đứa con mang cùng huyết thống đứng trên hai chiến tuyến đối nghịch!
Khi cuộc chiến chấm dứt, nỗi mừng của người thắng trận cũng mang theo nỗi đau của người thua trận. Những vinh và nhục, không phải chỉ một cá nhân, một gia đình mà cả một dân tộc phải mang theo. Và kỳ lạ thay, những bài học mới cho cả hai phía: cái được cho người thua và cái mất cho người thắng.
Nếu tủi nhục và xót xa, cho người này; hãnh tiến và quyền lực cho người kia, thì cái được và cái mất nào cho một bà mẹ trong hoàn cảnh bi thương trên? Hình ảnh hàng triệu người bỏ nước ra đi, đường biển, đường bộ, đường rừng, đường bay; bao nhiêu người trong lao tù khổ ải, bao nhiêu người chôn vùi trong lòng biển cả, bao nhiêu là nạn nhân của hải tặc bạo tàn,…chắc rồi cũng sẽ phai đi theo năm tháng nhưng không thể nói là mất hẳn trong trí nhớ lịch sử.
Sự đổi đời lớn lao, cắt da xé thịt, một thế hệ lớn lên, thành đạt ở đất nước ngoài Việt Nam, hay vùng vẫy vươn lên trong một đất nước đang còn thay da đổi thịt, thế nhưng văn học chúng ta bên này, bên kia vẫn chưa có tác phẩm ngang tầm với thời đại. Tại sao?
Đó là một câu hỏi khá lớn cho một bài viết nhỏ. Tôi chỉ muốn giới hạn mấy suy nghĩ quanh vài hiện tượng văn học gần đây trong và ngoài nước để may ra tìm cho nó một câu trả lời.
Văn học trong nước
Trước hết là chuyện Hoa Thủy Tiên trong bài Trò Chuyện Với Hoa Thủy Tiên và Những Nhầm Lẫn của Nhà Văn – trên bán nguyệt san Ngày Nay, Hà Nội [các số 4, 5, 6 các ngày 15/2/2004, 1/3/2004 và 15/3/2004] của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Bài viết thực sự đã gây một chấn động lớn trong giới văn học trong nước và tạo ra những phản ứng nhiều tầng và nhiều hướng.
Ông viết: “Khoảng hơn hai chục năm trở lại đây, ở Việt Nam không có những nhà văn có phong độ, khí phách lớn. Đến ngay cả những nỗi buồn cũng không phải là những nỗi buồn lớn. Thái độ hời hợt của xã hội với văn học, cách tiếp nhận của xã hội đối với các giá trị văn học cũng làm mất đi cảm hứng ở nhiều nhà văn nhiệt thành. Đấy là chưa kể đến sự tráo trở và lạnh lùng của cơ chế thị trường vẫn chẳng nể nang gì ai cả.”
Vậy thì văn học Việt Nam hiện nay thiếu gì? Nguyễn Huy Thiệp trả lời “văn học thiếu vắng những tham vọng to lớn”…. “Văn học luôn tránh né một vấn đề nan giải khó nói nhất trong xã hội: không phải khó khăn kinh tế, không phải sex, không phải là tình cảnh chiến tranh. Nó là vấn đề nhân tính. Văn học Việt Nam gần đây mất đi khả năng tưởng tượng, lãng mạn, mơ mộng và nhiệt huyết sống. Nó trở nên thực dụng, ê chề, lọc lõi, oái oăm, đôi khi đểu cáng.”
Để có một nhà văn có giá trị nhân đạo [có lẽ Nguyễn Huy Thiệp muốn nói nhân bản], ông viết, phải dựa vào nhiều yếu tố, không phải chỉ là nỗ lực cá nhân và tự phát, “năng khiếu” như lâu nay người ta vẫn tưởng. Đã đến lúc phải nghĩ đến một tuýp nhà văn khác: lớp nhà văn trí thức của một xã hội phát triển. Họ viết văn có bài bản, có lý luận, lý lẽ chứ không mò mẫm. Trước đây, ở Việt Nam hầu như chưa có những điều kiện xã hội để xuất hiện týp nhà văn này. Theo ông, văn học giá trị bao giờ cũng đề cao nhân tính, và, một xã hội không có những tác phẩm văn học hay, không có những tác phẩm văn học giá trị nghĩa là nhân tính mất đi.. . Trách nhiệm đó không phải chỉ ở một người nào mà nó ở toàn xã hội. [bđd].
Đánh giá nền văn học trong nước bằng cái nhìn từ trong, Nguyễn Huy Thiệp viết: “Nhìn vào danh sách hơn 1,000 hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam người ta đều thấy đa số đều chỉ là những người già nua không có khả năng sáng tạo và hầu hết đều “vô học”, tự phát mà thành danh. Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ, tức là những người chỉ dựa vào “cảm hứng” để tùy tiện viết ra những lời lẽ du dương, phù phiếm vô nghĩa, nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài năng thực sự (số này đếm trên đầu ngón tay) là còn ghi được dấu ấn ở trong trí nhớ người đời, còn toàn bộ có thể nói là vứt đi cả.” [bđd].
Chính những dòng chữ này của Nguyễn Huy Thiệp, trong phần thứ ba của bài viết, là ngòi thuốc nổ tạo thành một chấn động liên lỉ.
Chuyện Hoa Thủy Tiên mới nở chưa kịp tàn thì nổ tiếp chuyện “Cái nước mình nó thế!” của Hoàng Ngọc Hiến – giáo sư đại học, nhà nghiên cứu phê bình văn học, tác giả của một nhận định từng làm rung động giới văn học trong nước những năm 80 khi ông đưa ra cụm từ “hiện thực phải đạo”.
Đây là bài phỏng vấn do Phạm Thị Hoài và Trương Hồng Quang thực hiện trên Talawas. Một bài phỏng vấn đậm đặc sôi nổi và mở ra nhiều cánh cửa trong đời sống văn học trong nước. Nó không chỉ liên quan đến những người cầm bút [trong nước] mà còn liên quan đến cả giới chức văn hoá và chính trị. Nổ tung như tạc đạn, nếu có thể gọi như thế.
Từ Nguyễn Huy Thiệp với bước đầu đi vào thế giới văn chương –đến nhà thơ nữ Xuân Quỳnh, người phụ trách mảng văn xuôi nhà xuất bản Tác Phẩm Mới [tiền thân của Hội Nhà Văn bây giờ], và Nguyễn Duy, Thu Bồn. Rồi Nguyễn Minh Châu, Hà Minh Đức, đến Chế Lan Viên, Tố Hữu, Lưu Quý Kỳ, Bùi Minh Quốc, Vũ Thị Thường, Nguyễn Đình Thi, cả ông Lê Đức Thọ và Trần Độ..…
Phát biểu về Chế Lan Viên, ông Hiến cho rằng “Nhà thơ lớn nước mình cũng nhà quê, cũng trẻ con cả thôi, cả nước mình nó thế: Nhà quê và trẻ con.”
Hoàng Ngọc Hiến còn cho biết “Trần Đăng Khoa [người từng nổi tiếng là nhà thơ thần đồng trước kia, đã] tìm mọi cách để hạ uy thế của Nguyễn Huy Thiệp, đối với Trần Đăng Khoa thì Nguyễn Huy Thiệp là thằng cường hào địa chủ trong văn học cần lật đổ.” Theo ông, cái cách của Trần Đăng Khoa là thế này: “Nguyễn Huy Thiệp là người sắc sảo, trí tuệ ư? Không, sắc sảo trí tuệ cái gì, chỉ có phép nói ngược thôi. Anh nói trắng thì nó nói đen, anh nói phải thì nó nói trái, Thiệp nó chỉ có thế, chứ chẳng có trí tuệ gì. Họ [Trần Đăng Khoa và những người như ông Khoa] muốn chôn, muốn đóng ván thiên cho Thiệp.” Và ông gọi ông Khoa là nông dân và trẻ con.
Ông cũng nhắc đến tên nhà thơ Hữu Thỉnh [phe bảo thủ, chống đối Nguyễn Huy Thiệp] và Hội Nhà Văn Việt Nam – một tổ chức của Đảng và là “một bộ máy quan liêu, lấn át tính chất nghề nghiệp”, nhưng người ta vẫn muốn vào Hội vì quyền lợi và được đi nước ngoài. Ông cũng nhắc đến Nguyễn Khoa Điềm, người ở trên đe dưới búa, nhắc đến dịch giả Lê Huy Bắc, nhân vật được coi là người giỏi tiếng Anh nhất trường Sư phạm, một trường đại học mẫu mực, trường điểm của nhà nước, tương lai của nền học thuật Việt Nam. Thế nhưng, ông Hoàng Ngọc Hiến cho biết bản dịch của ông Lê Huy Bắc, “một đoạn mười dòng của ông ấy đã có bốn cái contresens, tức dịch ngược hẳn ý của người ta.” Ông cũng nhắc đến Đặng Việt Bích, con trai ông Trường Chinh, muốn làm Viện trưởng trường Đại học Văn Hoá-Nghệ Thuật, nhưng không được vì “quá lười đọc sách, ngu dốt, ích kỷ, nhếch nhác.”
Phê bình bài trả lời phỏng vấn của ông Hoàng Ngọc Hiến trên Talawas, ông Trần Mạnh Hảo nhắc một câu nói của ông Hiến: “Theo tôi [Hoàng Ngọc Hiến], dùng tiếng Việt chính xác mới là yêu tiếng Việt, mà cái yếu nhất trong văn học Việt Nam từ 1945 đến nay không chính xác về từ ngữ. Toàn dùng những từ chung chung, từ khuôn sáo, không chọn được từ chính xác.”
Văn học hải ngoại
Đó là văn học do một người cầm bút trong nước nhìn từ bên trong. Còn nền văn học hải ngoại qua cái nhìn của người viết và người đọc thì sao?
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác, tác giả hai bộ trường thiên tiểu thuyết đồ sộ. Mùa Biển Động và Sông Côn Mùa Lũ, trong bài “Tình trạng lão hoá trong sinh hoạt văn học” [nxb Văn Mới, 2004] cho biết những nhà xuất bản uy tín trước đây [như Văn Nghệ, Thanh Văn, An Tiêm và mới nhất như Văn Mới] ngày càng ngại bỏ tiền xuất bản sách, nhất là loại sáng tác như thơ, tiểu thuyết. Số ấn bản trung bình chỉ lên đến 500, nghĩa là nếu bán hết may lắm lấy lại đủ vốn, cho nên dù sách xuất bản dưới nhãn hiệu nào, đa số trường hợp đều do chính tác giả bỏ tiền túi in lấy sách của mình. “Tình trạng ấy đưa đến một loạt phụ ứng: sách in ra nhiều nhưng chất lượng không bao nhiêu, nhu cầu quảng cáo để bán sách giết chết ngành phê bình, độc giả đứng trước rừng sách nhiều màu không biết nên mua sách nào sau nhiều lần “trao thân lầm tướng cướp” quyết định không mua sách nữa, không có người mua sách thì ngành xuất bản sa sút kéo theo động cơ thúc đẩy việc sáng tác… Cái vòng lẩn quẩn không lối thoát ấy có thể xảy ra cả trong nước, nhưng ở hải ngoại trầm trọng hơn do tình trạng lão hoá của sinh hoạt chữ nghĩa.”
Lão hóa theo Nguyễn Mộng Giác là một khi người cầm bút chỉ nhằm viết cho những người cùng cảnh ngộ lưu vong như mình đọc, thì họ sẽ cứ viết như lâu nay họ đã từng viết: “tiếc nuối một thời hoàng kim đã mất, xót xa trăn trở với những khổ ải đã trải qua, lật từng trang album bồi hồi với những kỷ niệm đẹp, mơ ước ngày trở về có khải hoàn môn dựng trên khắp nẻo đường và gặp lại một quê hương y nguyên như thời hoàng kim cũ.”
Có thể nói thêm là Lão hoá không chỉ ở người viết mà còn cả ở người đọc nữa, bởi vì ở hải ngoại số người đọc báo Việt và văn chương Việt ngày như một giảm xuống. Cứ nhìn vào các tạp chí văn chương như Văn Học, Hợp Lưu hay Văn thì biết.
Đã đến lúc người viết nhận ra rằng tác phẩm của một nhà văn không chỉ nhắm vào một nhóm người, một cộng đồng nhỏ mà là cho cả một dân tộc nếu không có tham vọng có một readership lớn hơn, vượt khỏi biên giới của một nước.
Những câu hỏi rất cũ đặt ra cho người cầm bút như Viết cho ai? Viết cái gì? Viết như thế nào? Bây giờ vẫn còn có thể đặt lại trong một ý nghĩa mới. Nó không chỉ đúng cho người cầm bút hải ngoại mà theo Nguyễn Mộng Giác, nó còn đúng cả cho người cầm bút trong nước nữa. Ông kể lâu lâu xem một tạp chí hay một tuần báo văn chương trong nước, ông cảm thấy bị xúc phạm khi đọc hồi ký hay truyện ngắn của những cây bút Miền Bắc dùng những “nhân xưng miệt thị như “y”, “hắn”, “chúng”, “bọn nguÿ”, “thằng ngụy” y như trong thời chiến tranh. Rõ ràng là người viết văn ấy viết cho họ đọc với nhau, bất kể những thay đổi trong hơn một phần tư thế kỷ qua.”
Theo nhà nghiên cứu phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc [Chiến tranh, như một thi pháp, Talawas, 27/5/2004] thì trong văn hoá chiến tranh có ba điều đáng kể nhất: “chủ trương phi-nhân hoá kẻ thù, mỹ học về bạo động và đạo đức học về sự phá hoại”. Và trong quá trình phi-nhân hóa kẻ thù người ta tìm cách tước bớt chất người của kẻ thù bằng một hệ thống đại từ nhân xưng cực hạn chế: “thằng”, “con” và “mụ”. Những biện pháp phi-nhân hoá kẻ thù như thế làm cho hành động giết người được miễn trừ trách nhiệm đạo đức: giết kẻ thù chỉ là giết một khái niệm, một con thú hay một kẻ chưa thành người vậy thôi.” [bđd].
Đào sâu hơn, Nguyễn Hưng Quốc cho rằng giới văn nghệ sĩ Việt Nam viết về chiến tranh ‘như một cách tái tạo lại chiùnh mình’. “Những nỗ lực tái tạo ấy thay đổi theo thời gian và theo thời tiết chính trị chung quanh….. Nỗ lực tái diễn dịch và tái cấu trúc quá khứ như thế là hành động phổ quát ở hầu hết mọi người cầm bút.. Bởi vậy, đối diện với đề tài chiến tranh, trong đó có chiến tranh Việt Nam, chúng ta không cần, không nên, và thật ra, cũng không thể đặt ra vấn đề chính xác trong việc tái hiện hiện thực”. Và ông kết luận: “Một cuộc chiến tranh có thể mang tính chính nghĩa hay phi nghĩa; nhưng một tác phẩm viết về chiến tranh thì chỉ có vấn đề hay hoặc dở mà thôi”. Và ông thêm, trong thế giới nghệ thuật, cái hay nhất bao giờ cũng được xem là cái đúng nhất. Chiến tranh và Hoà bình của Leo Tolstoi không phải là tác phẩm viết đúng nhất mà là tác phẩm viết hay nhất về cuộc chiến tranh Nga-Pháp. Và khi nó được xem là hay nhất, nó tự động được xem là chuẩn mực, từ đó, không phải chỉ có cuộc chiến tranh Nga-Pháp mà hầu hết các cuộc chiến tranh khác đều ‘bắt chước’ Chiến tranh và Hoà bình.” [bđd].
Cụ thể hơn, Hoàng Ngọc Tuấn trong một bài viết trên Hợp Lưu [số 71, tháng 6&7, 2003] có tựa đề “Văn chương về chiến tranh Việt Nam và nhu cầu sáng tạo bút pháp mới” cho rằng mặc dù “văn chương về chiến tranh Việt Nam cực kỳ phong phú về số lượng, chỉ có một số tác phẩm được xem là những thành tựu nghệ thuật”. Tại sao vậy? Cũng như cách nhìn trên của Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc Tuấn cho biết phần lớn tác giả xem nhẹ giá trị sáng tạo nghệ thuật và đề cao “sự trung thực”, họ viết như một người lính hơn là như một nghệ sĩ văn chương, cũng giống như một bức ảnh rõ ràng và chính xác và một bức ảnh nghệ thuật có một khoảng cách rất xa. Trong gần hai thập niên trở lại đây, một số nhà văn đương đại của Hoa Kỳ đã nhận ra rằng không phải chỉ có một sự thật, mà có nhiều sự thật về chiến tranh Việt Nam và về bất cứ sự kiện nào xảy ra trong cuộc chiến ấy, và họ nỗ lực tìm kiếm những bút pháp mới có khả năng diễn tả cái hiện thực đa phương, đa tầng của lịch sử và cái tâm cảm cực kỳ phức tạp của con người trong cuộc chiến ấy.” [bđd]
Ông nêu ra cuốn tiểu thuyết Paco’s Story cuœa Larry Heinemann làm ví dụ. Theo ông, Heinemann phù hợp với quan niệm thẩm mỹ hậu hiện đại, theo đó tác giả không chủ tâm đưa ra một phán xét chung cuộc nào cả, và độc giả phải đối diện với vô số khả thể diễn dịch. Sau này, trong số những nhà viết tiểu thuyết hậu hiện đại về chiến tranh Việt Nam, Tim O’Brien với tiểu thuyết The Things They Carried (1990) là đáng lưu ý nhất. Theo Hoàng Ngọc Tuấn trong khi tuyệt đại đa số các nhà văn chiến tranh trong thời hiện đại nỗ lực chinh phục độc giả bằng những sự kiện và diễn biến “như thật” hoặc “hoàn toàn có thật”, O’Brien lại cố làm cho độc giả hoài nghi liên tục bằng những sự kiện và diễn biến không ngừng tự mâu thuẫn nhau…Hơn thế nữa, ông còn xen vào câu chuyện để, một cách tỉnh táo, lật tẩy chính lối viết của mình.” [bđd]
Nhiều người trẻ gốc Việt hiện nay tại hải ngoại đã không viết bằng tiếng mẹ đẻ mà viết trực tiếp bằng tiếng Anh hoặc Pháp. Họ không đơn giản chỉ viết cho người ngoại quốc đọc. Họ viết như một nhà văn.
Một trong những người trẻ cầm bút đó, nhà văn Nguyễn Quí Đức – hồi đầu tháng Ba, 2005, trước một chuyến đi công tác trong vùng Đông Nam Á cho một đài phát thanh tiếng Mỹ do anh làm chủ biên – nói rằng đối với giới trẻ, văn chương ngày nay không còn biên giới, nó đã ra khỏi cái đường biên quốc gia, tuổi trẻ của anh và những người trẻ hơn anh, nhận ra không còn nữa cuộc đối thoại đông và tây, không còn chuyện bắc và nam, không còn chuyện xung đột tôn giáo. Thế giới đã nhỏ hẹp với khoa học kỹ thuật tối tân ngày một biến ảo không lường. Đinh Linh có thời đến sống ở Italy, đạo diễn lừng danh Trung Quốc Trần Khải Ca đến Việt Nam. Đây là thời đại để người ta đi tới chứ không phải để người ta bước lui. Một phụ nữ Thái lấy chồng Đức và sanh con bên Pháp, hay một người Ấn chào đời ở Anh và đi học ở Mỹ. Vấn đề toàn cầu hoá đang là câu trả lời cho những câu hỏi cục bộ của người cầm bút đương thời.
Trước đây gần tám năm, Salman Rushie cũng từng đề cập đến vấn đề trên cho văn học Ấn Độ, trong một bài viết dành cho hợp tuyển Những tác phẩm văn học Ấn Độ điển hình: 1947-1997 [sau đó bài được Tạp chí Dân tộc Aán Độ (India’s National Magazine) số ra ngày 9-22/8/1997 kỷ niệm 50 năm ngày Ấn Độ độc lập, in lại.].
“Tiếng Anh là phương tiện giao tiếp thông dụng nhất thế giới; chẳng lẽ chúng ta lại không vui mừng về sự tinh thông của chúng ta về thứ ngôn ngữ mà uy thế của nó càng ngày càng lớn mạnh. Việc lên án các nhà văn về những thành công của họ trong việc bứt phá các rào cản ngôn ngữ không khác việc làm của chủ nghĩa địa phương hẹp hòi là bao (chủ nghĩa địa phương có thể là thói tật chính của văn học bản địa.) Vai trò quan trọng của văn học được thể hiện ở chỗ, nó là phương tiện có thể tạo ra những cuộc đối thoại giữa các quốc gia trên thế giới…… Văn học sẽ có ít, hoặc chẳng có gì để nghiên cứu với những cái tên chỉ được biết đến trong nước của tác giả”. [Phạm Phương Chi dịch, http://evan.com.vn, 10/3/2005]. Cái nhìn của Salman Rushdie đối với văn học Ấn không khác mấy cái nhìn của Nguyễn Quí Đức đối với sự bế tắc của văn học Việt Nam.
Sau cái “nhếch nhác” của văn học trong nước và cái “lão hoá” của văn học hải ngoại, liệu văn học Việt Nam bao giờ mới có tác phẩm ngang tầm thời đại?
Phải chăng, để ra khỏi cái ngõ cụt ấy là một nền văn học Việt Nam viết bằng tiếng Anh, Pháp như nhận định của Nguyễn Quí Đức?

***

Phụ đính:

 

Quá khứ một lần nữa

Y đứng giữa phòng triển lãm nhìn ngó ngu ngơ những bức tranh, nhưng y không trông thấy gì hết, những màu sắc mát mẻ hay nóng sốt kia không ăn nhập gì đến y. Y ngồi xuống một chiếc ghế cao, mở một quyển sách, đọc lướt một dòng chữ. Một cậu bé mười hai tuổi, chết vì buồn. Không tưởng tượng nổi, không thể nào có thể tưởng tượng được. Mười hai tuổi, chết vì buồn. Có phải đó là cái chết của một thế hệ chưa kịp lớn như sự héo úa của một chồi lá chưa kịp xanh hay là cái chết của sự ngu xuẩn và bất lực? Còn y? Y soi mặt mình trong gương gắn sau những chai rượu trên tường gỗ, y thấy gì trên khuôn mặt y? Má hóp xương, những sợi tóc trắng trên một chiếc đầu xù. Tuổi trẻ của y đâu? Cái tuổi trẻ rồ dại đã cột chặt động cơ phản lực vào đời sống y, cái tuổi trẻ như con ngựa bất kham lồng lộn hất y tung lên ngã xuống. Y là chiếc chong chóng xoay mãi xoay mãi không ngừng. Điều buồn thảm là y không hề thấy chóng mặt. Y tỉnh táo trong sự quay cuồng và mệt mỏi trong sự bất động. Với y, tình ái giống như rượu khai vi, nó làm cho y thấy ngon hơn trong đời sống chính trị. Y bước từng bước một, mạnh bạo vững vàng trên những bực thang của quyền lực. Y lên cao, lên cao không ngừng. Y có trong mắt nhìn niềm lạnh băng lãng mạn. Y tham lam nhưng lòng tràn đầy bao dung. Trong tay y kín đáo không hề để bay mất ngọn gió danh vọng, và hạnh phúc thì phả đầy không khí y đang thở. Y có hết những thứ người khác mơ ước. Y cao hơn hết chiều cao của mọi vật. Nhưng điều khổ nhọc, nỗi bất hạnh, sự đau xót của y cũng chính là ở chỗ đó. Phải. Chính ở đỉnh chóp đỉnh của đời sống đó y đụng phải cái tận cùng của đáy huyệt, cùng lúc với vinh quang y khám phá nỗi nhục nhằn. Ánh sáng ấy chói chang quá làm y mù lòa. Trong không khí đầy mùi làm y ngộp thở. Y gọi rượu, đánh diêm và châm một điếu thuốc. Cái kiểu cách ấy tưởng không còn nữa nhưng sao vẫn phảng phất rơi rớt trong điệu bộ của y. Hơi nước lạnh ướt rịn thành ly. Y uống một hớp. Hà! Rượu làm ấm lòng ta. Y xoa tay. Mùa đông. Thời tiết là cuốn băng nhựa quay ngược lại dĩ vãng. Ta khác nào con bò già ngồi gậm nhấm nhai lại ngọn cỏ quá khứ, những ngọn cỏ vốn đã úa héo và nghiền nát. Trên đầu ta là bóng tối của trời đất và trong ta chỉ là vết tích của một thời đã qua.

Ôi tuổi trẻ cuồng mê, mi đã làm gì đời ta!

Y nghe lại mãi mãi điệp khúc ấy, một thứ sóng bể vỗ đều đặn trên bờ cát.

“Một ly nữa?”

“Sao không?”

Y nhìn những dòng chữ chụp lại từ trang giấy của đứa bé tự tử. Tôi buồn quá. Tôi không sống nổi.

Y tưởng nước mắt có thể chảy giàn giụa trên mặt mũi y. Dưng không, như thế thôi. Nhưng chẳng có gì hết. Những giọt nước mắt ấy cũng không còn nữa trong đời y. Phải có cái gì để khêu gợi y trở lại thời trẻ tuổi. Tế bào trên đời sống y đã chết cứng dày cộm để có thể có được một cảm giác. Y đã quá già để nhớ lại tuổi thanh xuân.

Ta đã quá bạc nhược để làm anh hùng thêm một lần nữa.

Y là một thứ hoa lục bình đang trôi lênh đênh dưới gậm cầu quên lãng. Y nhìn thẳng vào mắt người khách ngồi bên cạnh. Chẳng còn ai nhận ra ta. Y đặt tờ giấy bạc lên mặt bàn. Y cho hai tay vào túi kẹp quyển báo trong nách. Y đi chậm rãi trong bóng tối những dưới tàn cây. Người ta bắt đầu già khi bắt đầu nhớ tới quá khứ. Y đang đi chậm rãi vào tận cùng dĩ vãng.

Mùa đông. Y nghe lại một khúc hát quen trong đầu. Mùa đông. A, cây kim nhọn đâm thủng trí nhớ ung nhọt ta. Y dừng lại dưới một trụ điện đường. Y mở trang sách có in hình thằng bé mười hai tuổi. Y nhắc lại: Nó chết rồi. Nó cao hơn ta.

Từ lâu, y đã đánh mất tính kiêu hãnh. Y hiểu ra rằng kiêu căng, tự mãn chỉ là một thứ nhân đức lệch lạc.

Ta là khúc củi mục tấp dạt vào bờ sau trận lụt, phô bày sự trống rỗng và nát ngướu của nó.

Y nhẹ như bông, bay bổng như khói.

Quá khứ một lần nữa.

Tại sao không?

Đâu rồi những người đàn bà ta yêu và yêu ta?

Chỉ có đôi mắt của nàng, đôi mắt đen và to và tin tưởng, làm xúc động đời ta. Nàng nhỏ bé nhưng tròn trịa. Nàng có hai cánh tay đầy những sợi lông măng mịn vàng. Nàng có đôi chân dài. Nàng có bộ ngực căng. Nàng ngu ngốc nhưng nàng đẹp. Ta thích sự ngu ngốc của trí óc nàng nhưng ta yêu vô cùng sự thông minh của thân thể nàng. Thân thể nàng? Làm sao ta có thể chịu đựng nổi cái run rẩy của da thịt nàng? Làm sao ta có thể cưỡng nổi sức ham muốn kỳ lạ tuyệt diệu đầy mời gọi của cái nhìn nàng?

Y đứng lại ở một góc ngã tư đèn đỏ. Ánh sáng của những ngọn điện đường làm y khó chịu. Y quay trở lại con đường cũ. Khi người ta buồn quá người ta chỉ muốn chết, phải vậy chăng chú bé không quen?

Trong bóng tối, y giẫm chân lên những ô vuông của miếng gạch. Hồi nãy, chân ta đã đặt lên chỗ này. Y ngừng lại, nhìn xuống. Không sao, đi lên một lần nữa đâu có hề gì.

Bên kia đường là một khu vườn công cộng với những chiếc ghế đá mài mát rượi. Ta đã nằm ở đó. Ta đã đặt tên cho nó, giữa một buổi sáng rất đẹp trời, giữa đám tay chân bộ hạ và bạn bè ta. Bạn bè ta? Các anh đã đi những đâu rồi? Đã biến mất tận đâu rồi những người vẫn ngồi chung bàn với ta mỗi buổi sáng, những người vẫn đi cùng ta một con đường, những người đã chia xẻ chung với ta sự ca ngợi, những người đã nói sẵn lòng chết cho ta? Không phải ở sau lưng ta họ đang đi tới, cũng chẳng phải trước mặt ta họ đang chờ đợi. Họ ở đâu bây giờ?

Y băng qua đường, leo lên những bậc cấp, ngồi xuống chiếc ghế đá.

Buổi tối của một ngày cuối năm sao có cơn mưa bất chợt dị kỳ?

Y hít mũi ngửi mùi khói đất nồng.

Thành phố này đã một thời trong tay ta nhưng ta không nhìn thấy nó. Có lẽ hồi đó ta bị nhìn ngó hơn là được ngó nhìn mọi vật mọi người. Thành phố này ta đã yêu mến vô chừng, ta đã muốn làm cho nó lớn như bất kỳ một thành phố nào khác mà ta đã đi qua, ta đã muốn tập trung mọi sinh hoạt có tính cách quốc tế trên mọi lĩnh vực mà ta có thể ghé mắt đến, ta đã muốn nó không những chỉ là thủ phủ của một quốc gia mà hơn nữa còn là bàn đạp giao điểm của mọi quốc gia. Thành phố này, mà những hàng cây cao mút mắt trên những con lộ hẹp, ta đã đau đớn ra lệnh chặt bỏ, để có được những đại lộ …Không, buổi tối hôm nay ta mới nghe thấy rõ hơi nồng của nó, bởi vì chưa bao giờ nó là của ta, chưa bao giờ ta chiếm được nó. Ta không thể như một người nào đó, giữa mùa đông rét mướt ra vườn khuya ôm các pho tượng đá để cho quen cái lạnh về sau. Ta lạnh.

Y ngả lưng trên ghế, hai tay khoanh lót đầu. Y tưởng tượng một chốc nữa đây, y có thể nhìn thấy trên trời cao, giữa bóng đêm vô hạn, con mắt của quá khứ sẽ bay qua và chút ánh sáng của đời sống còn rớt lại sẽ đốt cháy trong y ngọn lửa tin tưởng.

Ta biết đó chỉ là một niềm hy vọng đầy tuyệt vọng. Ta đã lạc mất người đàn bà ta yêu, dứt bỏ mất mối thân tình với những bạn bè ta mến, ta đã làm thô kệch thêm nữa một thành phố vốn đã xấu xí.

Hình như có cái gì cồm cộm ở lưng ta?

Y nhổm dậy. Tờ báo quấn tròn nhét trong túi sau của y. Y mở ra, trong bóng tối, tưởng như nhìn thấy khuôn mặt non choẹt của chú bé chết buồn.

Và như một nhà khắc kỷ chân chính, y nằm xuống, mở rộng tờ báo đắp lên mặt, mỉm cười.

Nó cao hơn ta.

Y nói nhưng không nghe thấy gì cả.

Quá khứ, hãy thức dậy một lần nữa.

Tại sao không?

Đêm sâu như trời cao.

Sài Gòn, 1972

 

Một tinh cầu khác

Tháng chạp tây. Những ngày cuối của một năm cũ. Từ một thành phố miền dưới thấp tôi đã bay lên một thành phố miền cao trong một giờ di chuyển; thời tiết biến đổi đột ngột làm tôi ngộp thở. Thủy đón tôi ở sân bay. Buổi chiều xuống nhanh kéo theo đám sương mù bu quanh những ngọn đèn dọc theo đường về khu chợ.

Xe của hãng hàng không thả chúng tôi xuống dưới chân dốc chợ Hòa Bình. Thủy đưa cho tôi chiếc khăn quàng cổ màu tím (chiếc khăn mà cô đã hứa đan tặng tôi khi nghe thấy tiếng ho khan rát bỏng của tôi qua đường dây nói liên tỉnh).

“Anh nhớ uống thuốc đầy đủ theo toa bác sĩ nghe?”

“Không.”

“Không nghe thì đừng nói chuyện với em nữa.”

“Nhớ rồi.”

“Tốt. Em sẽ tặng anh cái khăn quàng cổ rất đẹp, khi nào anh lên thăm em.”

“Khi nào?”

“Em hỏi anh mà!”

“Thì bây giờ anh hỏi em.”

“Ba ngày trước Nouvel An.”

“Tại sao không bốn ngày hay hai ngày?”

“Tại vì em muốn như vậy.”

“Cứ tạm coi là được đi.”

“Đồng ý, nhé ông.”

“Đồng ý, cô nhỏ.”

Tôi khoác áo choàng lên vai. Trời lạnh dữ. Hơi rét lùa qua cổ áo chui vào da thịt. Tôi đốt một điếu thuốc, thở khói.

“Chờ lâu không, cô nhỏ?”

“Lâu. Nhưng sao?”

“Thì hỏi vậy thôi.”

“Chỉ hỏi vậy thôi?”

“Tôi nhớ em.”

Tôi ngó chăm vào mặt Thủy. Đôi mắt màu nâu của cô chìm trong bóng đen. Khuôn mặt nhỏ trắng nhợt lạnh lẽo. Chiếc áo choàng màu da beo, cổ lông gấu đen mướt, tóc xõa cùng với chiều cao của một tấm thân vừa mới lớn, mọc vững vàng trên một đôi chân dài, khiến Thủy có vẻ như là một thiếu nữ Tây Phương hơn là Á Đông. Thủy nhắc cho tôi nhớ là trên con đường chúng tôi đang đi đây, lâu lắm, trước đó, suốt trong ba năm trời ròng rã tôi đã từng đi, dưới bầu trời nặng mây và sương mù này tôi đã từng thở, đã từng ngước nhìn những cánh anh đào nở rộ một cách muộn màng sau lễ Giáng Sinh. Câu nói của cô làm tôi nhớ đến những viên sỏi khua động dưới chân tôi trên triền dốc một buổi tối đánh bi-da trở về căn phòng trọ. Mùi bắp nướng thơm phức bốc lên từ những lò than hồng ở một góc phố. Những gói lạc rang cháy vàng nóng giòn tan lừng trong miệng.

“Em lấy phòng ở khách sạn nào vậy?”

“Ở Thủy Tiên, ông.”

Thủy cho tay vào túi áo choàng lấy ra chiếc chìa khóa rung rung trước mặt. Bỗng nhiên Thủy kêu lên:

“Hành lý của anh đâu?”

“Đây!”

Tôi đưa cái xách tay nhỏ cho Thủy.

“Đừng có giễu, ông!”

“Thật mà!”

“Không đem theo gì hết hả?”

“Chừng này không đủ sao?”

“Đủ cho em nhưng không đủ cho anh.”

“Em cũng đủ cho tôi.”

Tôi choàng tay qua vai Thủy. Phố vắng. Tay Thủy ôm vòng ngang hông tôi. Tôi đốt liên miên hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác. Tôi thấy Thủy cũng thở khói trắng đầy miệng.

Một chiếc xe nhà chạy ngang qua, chậm, dừng lại. Một cái đầu ló ra cửa xe kêu:

“Thủy! Thủy!”

Chúng tôi quay lại. Thủy khom thấp người xuống ngó vào xe, hỏi:

“Ai vậy? Bích đó hả?”

Tôi đứng ra xa, tiếp tục hút thuốc và tiếp tục thở khói. Cái dáng khom người của Thủy làm tôi nhờ ngày đầu tiên chúng tôi quen nhau. Rất tình cờ. Một hôm ở rạp chớp bóng ra, trời đang đổ trận mưa lớn, tôi đứng dưới hàng hiên đợi xe. Cũng khá lâu, hết chiếc này đến chiếc khác, chẳng có chiếc nào trống, cho đến khi, cuối cùng của sự sốt ruột, một taxi trờ tới. Tôi đưa tay ra dấu cho bác tài thấy, xong chạy ra lẹ làng đặt tay lên nắm cửa. Đúng lúc đó, một cô gái từ phía sau tôi cũng chạy tới. Cô nhìn bàn tay tôi đang đặt lên nắm cửa. Rồi cô nghiêng thấp người xuống ngó vào trong xe, chờ đợi. Dưới cơn mưa, hai người khách đón xe đứng sựng lại trước một chiếc xe trống, cảnh tượng ấy ngộ nghĩnh và buồn cười. Bác taxi không nói một lời nào. Ông ta hết đưa mắt nhìn tôi, lại nhìn sang người thiếu nữ. Chắc chắn là ông ta không có ý kiến. Rất nhanh, tôi mở cửa xe và nói với người con gái:

“Mời cô!”

Không chút do dự, người thiếu nữ bước lên xe một mình, đóng mạnh cánh cửa, nhìn tôi mỉm cười và cho xe chạy. Tôi nhớ lúc đó tôi hơi hối hận vì đã nhường xe cho cô gái. Người gì đâu mà bất nhã. Tại sao không biết nói một lời cảm ơn? (Sau này tôi thấy mình vô lý. Tại sao cứ muốn người ta nói cám ơn?) Buổi sáng hôm sau, như thường lệ, ngồi uống cà phê với mấy tên bạn ở một quán nước quen, tôi gặp lại người thiếu nữ đón xe dưới mưa. Cô không đi một mình. Người thanh niên kéo ghế cho cô ngồi trạc tuổi cô hay lớn hơn cô vài tuổi. Cô có vẻ được chìu chuộng. Hình như cả hai đang ở thời kỳ yêu nhau. Cô gật đầu chào tôi và hỏi thăm tôi là hôm đó đến mấy giờ mới đón được chiếc xe để về nhà. Chúng tôi nói chuyện với nhau như hai người bạn cố tri. Và tôi được biết cô tên là Thủy. Cô đang theo học trường Chính Trị Kinh Doanh ở Viện đại học Đà Lạt. Cô về Sàigòn thăm nhà. Cô đã ở đây một tuần. Cô đang có trong sắc tay cái vé cho chuyến phi cơ ngày mai. Cô ghét cái không khí xô bồ ở Sàigòn. Cô muốn sớm trở lại Đà Lạt. Ngay buổi chiều hôm đó chúng tôi gặp nhau thêm một lần nữa. Tôi còn nhớ đó là quán Hoàng Gia trên đường Tự Do. Quán nhỏ, ít khách. Bàn ghế đẹp. Bức tranh sơn mài làm nổi bật lớp gỗ màu nâu trên vách. Âm nhạc nhảy nhót trên những chai rượu đặt dọc theo kệ gỗ. Chúng tôi đã uống với nhau những chén trà Hoàng Cúc thơm ngào ngạt và nói về thành phố mà Thủy sẽ trở lại. Tôi cho Thủy biết là tôi đã ở trong thành phố ấy ba năm. Tôi từng là sinh viên khóa đầu của Viện Đại học này. Tôi nói cho Thủy nghe những con đường mà tôi vẫn thường đi mỗi ngày. Nhà trọ của tôi gần một trường nữ mà mỗi lần tiếng trống tan học đã lôi tôi ra đứng dựa gốc ổi trước nhà hút thuốc để lòng rung động theo những tà áo xanh phất phới và giọng nói líu lo của những “cô gái Bùi Thị Xuân.” Tôi tả lại cho Thủy nghe ngày thứ nhất thành phố đó đã chào đón tôi như thế nào. Một ly cà phê đen đặc quánh ở quán Tùng, một trận đòn nhừ tử, bò lăn bò càn với máu mũi máu mồm bê bết lảo đảo từ khu chợ Hòa Bình để trở về căn phòng cư xá sinh viên trong Viện. Đó là trận đòn tàn bạo nhất thời tuổi trẻ mà tôi được hưởng. Và đó cũng là trận đòn làm ấm áp thân thể tôi nhất vì tôi đang không chịu nổi cơn giá rét của thành phố cao nguyên này. Thủy nói rất ít, gần như cô chỉ bày tỏ sự xác nhận những điều tôi nói hoặc chỉ để nói lại cho rõ về một vài thay đổi mà trước kia khi còn theo học tôi đã không nhìn thấy. Sau cùng, trước khi chia tay, Thủy hỏi tôi một câu mà cho mãi đến nay tôi hãy còn nhớ như in:

“Nhưng em chưa biết tên anh?”

Câu hỏi đó làm tôi không nín được cười. Chúng tôi quen nhau đã một ngày, đã nói chuyện với nhau như hai người bạn cố tri, và cô không biết tên tôi.

“Tên tôi? Có cần thiết không?”

“Cần chứ anh. Vì anh đã biết tên em.”

“Vậy thì tôi tên là Tâm. T. Â. M. (Tôi đánh vần từng chữ cho cô nghe). Tâm. Có nghĩa là tim, trái tim.”

Tôi đặt tay lên ngực tôi.

Tôi nhìn thấy Thủy cười. Và chúng tôi ra về.

Sáng hôm sau, Thủy trở lên Đà Lạt. Tôi biết giờ đi của cô nhưng không đưa cô ra phi trường. Để làm chi? Tôi nghe thấy tiếng tôi hỏi tôi. Tôi đã lập gia đình, đã có hai cháu, hai đứa bé dễ thương và kháu khỉnh nhất trong những đứa trẻ mà tôi được gặp. Tôi đang có những đau khổ cùng cực về một cuộc sống chung. Tôi không còn một chút tin tưởng nào về cái mà người ta gọi là tình yêu. Tôi thù ghét đám đông ồn ào lô nhô lúc nhúc. Tôi chán nản vô cùng cái đời sống lúc nào cũng đòi hỏi phải thế này thế nọ, thế nọ thế kia. Tôi hút thuốc nhiều hơn. Tôi bắt đầu uống rượu vào mỗi buổi tối. Tôi bỏ sở đi lang thang từ quán rượu này đến quán rượu khác, công việc dồn lên mãi đầy ắp tận mũi, đến nỗi người chủ sở vốn yêu mến tôi đã phải kêu tôi lên dặn dò nhắn nhủ, khuyên đi khuyên lại như một bố già dạy đứa con ngỗ nghịch. Để làm gì? Cuộc sống hôn nhân của tôi đang gặp trục trặc. Đã bắt đầu đổ vỡ thì đúng hơn. Tại sao khi người ta không thể sống chung nhau mà lại không thể chia tay? Và tại sao khi người ta khám phá ra người ta không thể sống nếu phải xa nhau mà người ta lại không thể kết hợp?

Mùa hè Thủy trở về Sài Gòn. Cô gặp lại tôi với hai đứa nhỏ vẫn trong một rạp chiếu bóng. Vẫn người thanh niên ấy đi bên cạnh cô. Tình yêu của họ có lẽ đã lớn hơn trước. Thủy hôn hai đứa con tôi. Cô hỏi “Chị đâu anh?”. Tôi cười, không trả lời. Không có gì để giải thích với Thủy về trường hợp tôi lúc này. Chúng tôi đang ở thời kỳ khó khăn. Người luật sư cho tôi biết việc ly dị sẽ phiền phức và mất nhiều thời gian. Tôi hiểu. Sự phiền phức đó chính là hai đứa bé. Tình cảm chia lìa giữa cha mẹ sẽ gây cho đứa trẻ một xúc động mạnh về mặt tâm lý và chắc chắn là sẽ có ảnh hưởng không nhỏ cho đời sống tinh thần của chúng về sau này. Tất cả chúng tôi kéo nhau vào quán nước gần đó. Thủy ôm đứa con trai của tôi vào lòng và nói: “Mi tôi đi, người tình bé nhỏ của tôi”. Một lúc, cô ngước mắt nhìn tôi: “Em sẽ đến thăm anh”. Người thanh niên đi bên Thủy không nói một lời nào trong buổi cà phê. Tôi tưởng là hai người yêu nhau. Nhưng tôi đã không hiểu gì cả. Và cô đến thăm tôi sớm hơn là tôi tưởng.

Tôi ở một căn phòng cho thuê, lầu hai, trong một cư xá bình dân. Cầu thang hẹp, trần nhà thấp. Thủy đun nước pha cà phê, xếp lại đống quần áo dưới chân giường, thay drap, quét dọn rác rưới, xếp lại đống sách báo dưới sàn nhà, giặt khăn lau mặt, chùi bóng lavabo. Thủy hỏi:

“Tại sao hai người xa nhau?”

“Hai người nào?”

“Anh và chị, chứ còn ai vào đây.”

“Sao em biết?”

“Sao không! Nhìn thấy anh dẫn hai đứa nhỏ đi vào một quán ăn; sao mà thê thảm quá thế!”

“Ăn thua gì đến em.”

“Chả ăn thua gì tới ai. Nhưng em cảm động.”

Hôm sau Thủy ở lại suốt ngày với tôi. Chúng tôi không có gì giấu diếm nhau. Giữa hai đứa chỉ còn là sự trong suốt. Bức tường ngăn đôi đã bị phá vỡ. Tôi cho Thủy biết tình trạng đặc biệt rắc rối của tôi. Vấn đề khó khăn là ở chỗ đó.

“Vấn đề của anh không phải là vấn đề.”

“Em không sợ dư luận sao?”

“Nếu sợ thì em đã không đến anh.”

“Tại sao không sợ?”

“Tại em thương anh.”

“Tại sao thương tôi?”

“Anh biết không, cái hình ảnh một người đàn ông dẫn hai đứa nhỏ đi xem xi nê hay vào tiệm ăn làm em xúc động quá chừng chừng.”

“Vậy thì đâu phải em thương tôi. Em thương cái hình ảnh ba cha con mà.”

“Em thương ba cha con cũng được chứ sao?”

Vậy là chúng tôi dính vào nhau. Tôi đang cố gắng tháo bỏ một sợi dây oan nghiệt, và có phải bây giờ đây tôi đang buộc vào đời tôi một sợi dây oan nghiệt khác? Không, tôi không tin như thế. Khi người ta bắt đầu khám phá ra cái bóng đen ở phía bên kia của cuộc sống chung người ta không còn cách nào khác để nói lời chia tay.

“Đi, anh!”

“Người quen nào vậy, cô nhỏ?”

“Bích, bạn em. Nó hỏi em Tết tây sao không về Sài Gòn?”

“Em nói sao?”

Thủy ngó tôi cười.

“Nói sao? Có anh ở đây, em không đi đâu hết.”

“Thật vậy sao?”

“Chứ bộ anh tưởng em giả à!”

Đến trước thềm rạp chiếu bóng khu chợ Hòa Bình, tôi kéo tay Thủy ngồi xuống. Bóng tối nhờ nhờ đục mù sương đêm. Thành phố như một bức tranh thủy mạc. Một ngày giáp năm buồn tẻ vắng lặng không bóng người. Và chúng tôi hôn nhau, cuồng bạo như một loài thú. Chúng tôi là những chủ nhân của thành phố Hoàng Triều Cương Thổ. Khi chúng tôi nhả nhau ra, Thủy lả người như một chiếc lá khô.

Chúng tôi đã bước qua cánh cửa của thời lãng mạn xưa cũ. Chúng tôi đã khám phá ra nhau cái mùi vị của tình yêu.

“Cám ơn em.”

“Tại sao anh lại cám ơn em?”

“Tại vì,…nếu không có em thì tôi biết cám ơn ai.”

“Đừng nói chuyện huề vốn ông.”

Nếu bạn đang đứng trên thềm chợ Hòa Bình ngó xuống con dốc trong một buổi chiều đầy sương mù, bên cạnh là một thiếu nữ vừa mới lớn, bạn sẽ hiểu tại sao cuộc đời này vô cùng đáng sống.

Tháng hai 1969

*Chú Thích : Về năm sinh của nhà văn Nguyễn Xuân Hòang, khi được hỏi về sự không đồng nhất ở những tài liệu khác nhau, có chỗ ghi 1940. có chỗ ghi 1937, nhà văn đã cho biết : ông sinh năm 1940, nhưng giấy tờ ( thế vì khai sanh ) của ông đề 1937.

Bài Mới Nhất
Search