T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không : Cõi đời thiên hạ giấc u minh

clip_image002

Gần nửa thế kỷ không hẹn mà gặp, bạn cũ trường xưa bên kia biển nhẹ cánh phiêu lãng quên mình lãng du ghé thăm. Nói cho ngay với bạn vào một thuở xa xưa cùng chung một mái trường, nhưng cách một vách lớp nên nét mặt, dáng người chỉ mờ nhân ảnh sau lớp bụi nhân gian. Và rồi hai thằng ngồi ngoài vườn nhìn những chiếc lá vàng lác đác, u hoài bóng câu qua song cửa, thấy cũng nên khui chai rượu tương phùng, mong hòa nhập cùng đất trời trong một ngày cuối đông đầy thê lương và ảm đạm…

Bất chợt trong cơn mê chiều với say người, say tình. Bạn búng tay một cái “tách” kéo tôi ra quán chợ để có những giây phút yên sĩ phi lý thuần trong một ngày trời đất vần vũ, đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu, làm dăm cái hồ trường để…xa vắng, vắng xa.

Nón lá áo tơi ra quán chợ

Trơ vơ trên bến nước sông đầy

Sầu nghiêng mái quán mưa tong tả

Chén rượu men lành, lạnh ngón tay

Ôn lại những ngày mưa gió cũ

(Nguyễn Bính)

Ôn lại những ngàycùng âm hưởng của người xưa vọng về như gọi đò sang sông, qua men nồng kể lể của bạn thì chỉ nhăm phút là…hết chuyện, là mất hút đằng cuối phố. Nghe xong, một thóang như chuyện cũ của bạn thuộc trường phái cổ điển, tình bỏ ta đi, ta buồn trong hoang lạnh với mười năm tình cũ…Gợi nhớ, nếu có chút hơi hám của chữ nghĩa không ngòai như định mệnh đã an bài, nay đã nổi trôi bồng bềnh vào quá vãng. Và tôi nhìn mái tóc rồi một ngày tóc trắng như vôi của bạn, để chợt cảm hoài cùng nhân kiếp phù sinh hề một thóang bạch câu.

Cũng trong bữa tiệc tẩy trần khác cuối tuần, đúng nghĩa đen là nhậu tới bến, nhậu mênh mông ở cái nơi chốn xì xọap cắm đầu…ăn, đỏ mặt tía tai ngửa cổ…uống rất trần tục ấy. Bỗng dưng không đâu tôi chợt có một ý nghĩ hay là hãy đốt lò hương cũ qua vài ba trang giấy, như một món quà tao ngộ với bạn?

Bạn nhìn tôi, lắc đầu buông thõng một tiếng gọn lỏn: Không.

Bạn về, thì cứ cho là…như một chuyện tình đi, cũng khăn gói gió đưa về theo bạn. Tôi trở lại một ngày như mọi ngày với cái nợ áo cơm, chẳng có gì để quên với nhớ…

***

Năm sau, vào một buổi tối, một thằng trường xưa bạn cũ khác từ Sài Gòn điện đàm qua cho hay bạn mới về thăm quê nhà. Tôi hỏi bạn đâu mới hay bạn đã đâm đầu về Bắc Ninh…Rồi thằng này cũng nhấm nhẳng đeo đuổi quá khứ vị lai của bạn với tôi cùng thế sự du du hề một cuộc bể dâu với ngày nào năm đó: Rằng hai thằng cùng chung một lán ở trại cải tạo và bạn sống cũng như chết qua cơn bệnh ngặt nghèo, bò không nổi, lết chẳng xong. Ngỡ rằng chẳng chóng thì chầy bạn sẽ đi về cõi u minh, nên được tống tiễn về sớm. Bạn mò được về đến thổ ngơi thì như Từ Thức về trần với nhà không cửa trống để chẳng thấy…vợ của bạn đâu.

Và qua điện thoại, thằng bạn Sài Gòn cho tôi hay vợ bạn là…con gái Hòang Cầm.

Chuyện đời thường trên tôi cũng đã được nghe kể qua bạn, qua cái buổi chiều sầu nghiêng mái quán mưa tong tả, chén rượu men sành lạnh ngón tay năm ngóai. Nhưng ngày ấy bạn chỉ đập cổ kính ta tìm lấy bóng và không cho tôi hay vợ bạn là con gái của nhà thơ đất Kinh Bắc. Buông cái máy nói viễn liên xuống, tôi bật ra ý nghĩ hay là hãy đắp chữ vá câu một truyện ngắn khi không nó “…đâm đầu về Bắc Ninh” để…đi tìm vợ.

Và rồi tôi đuỗn người phân vân: Ủa, vợ con ông Hòang Cằm là ai và vào Nam khi nào”. Đang rối mù, lục lọi trong kho chữ, tôi moi ra được một bài viết có tựa đề Đi tìm người con gái trong vở kịch thơ của Hòang Cầm của tác giả Ngữ Yên:

“…Ông có nhiều bài thơ hay như: Bên kia sông Đuống, Lá diêu bông… Ngoài ra người ta biết đến ông với vở kịch thơ Người Điên, ông là một trong những tác giả khởi sự nền kịch thơ Việt Nam những năm 1945. Thời kháng chiến ông cùng nhà biên kịch Hoàng Tích Linh lập ra đoàn kịch Đông Phương vào đầu thập niên 40 gồm Tuyết Khanh là vợ Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Phạm Duy, Ngọc Bích… Vở kịch vì cuộc kháng chiến, chỉ diễn ba ngày. Nội dung với nhân vật chính là Kiều Loan, người khuyến khích chồng ra đi đánh đổ nhà Nguyễn để phục hồi nhà Tây Sơn, nhưng người chồng chạy theo Nguyễn Ánh, nàng giả điên vào thành Phú Xuân đi tìm chồng, sau đó tự vận chết trong tù…

Người đóng vai Kiều Loan không ai khác hơn chính là vợ nhà thơ: nữ kịch sỹ Tuyết Khanh. Bà đi theo ông ra vùng kháng chiến ông đổi tên vợ là Kiều Loan, do đó sau nầy có cái tên khác là vở kịch Kiều Loan. Lúc đó người vợ có thai, nên ở lại vùng trung du và ông lên đường đi lưu diễn. Trong bữa cơm đạm bạc chia tay ở phố Nỉ, Bắc Giang, nhà thơ không ngờ đây là lần cuối cùng ông không còn gặp lại vợ con. Suốt từ năm 1948-1954, bà nhiều lần viết thư cho Hoàng Cầm nhưng bặt tin và đứa bé ra đời bà đặt tên là Bùi Thị Kiều Loan, vì Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt sinh năm 1921.

Hiệp định Genève, Kiều Loan mẹ bế con di cư vào Nam sống, lúc ấy Kiều Loan con khoảng 6 tuổi. Đến năm 1968 cô lấy chồng ở Sài Gòn. Năm 1975, Hoàng Cầm vào Nam tìm vợ con, nhưng người vợ đã di tản sang Mỹ. Và chỉ còn cô con gái ở lại, đến năm 1982 thì Kiều Loan con cũng sang Mỹ đoàn tụ cùng mẹ.

Năm 1983, trong một buổi đi chơi, tình cờ Phạm Duy gặp mẹ con Kiều Loan qua Phạm Công Thiện. Trong căn gác nhỏ chung cư nghèo nàn, Phạm Duy nghe lại những bài thơ của Hoàng Cầm và tận mắt nhìn lại hình bóng Kiều Loan ngày nào trong vở Người Điên.

Bà Tuyết Khanh đọc lại những bài thơ mà thi sỹ tặng bà năm 1945.

Anh đã về đây gặp lại mình

Cõi đời thiên hạ giấc u minh

Níu tay cười xuống hoàng hôn cũ

Vớt mắt em về bến hoá sinh…

Tiếp đến là cô con gái Hoàng Cầm tên Kiều Loan ngâm tiếp:

Khanh ơi!

Thể xác hiu hiu bụi

Nắng dãi hoe vàng

Em ở đâu?

***

Từ bài viết của Ngữ Yên trên, từ chi tiết “…Năm 1975 thống nhất, Hoàng Cầm có vào Nam tìm vợ con…”. Sau đó với nhiễu sự của đi tìm người, tôi túm tó được một bài viết khác có tên Câu Hát Tìm Nhau của tác giả Quế Hương. Thế là của người phúc ta, tôi nhồi nhét vào truyện ngắn của tôi với…ẩn dụ “lão Tuất” là nhà thơ Hòang Cầm, “Hai Xuân” là bà Kiều Loan và nhân vật xưng “tôi” là người kể chuyện:

“…Tôi gặp lão lần đầu trong quán thịt chó của bà Tư béo, nơi tôi đến bỏ rượu gạo hàng chiều. Lão xuất hiện với bộ dạng một người lỡ đường, tay bị, tay mũ cối, gương mặt rỗ hoa lấm tấm bụi đường và mồ hôi. Tưởng lão là người ăn xin, bà Tư đuổi như đuổi tà:
– Đi ra! Để người ta bán, đừng có hãm tài.
– Tôi tận Hà Bắc vào đây tìm người quen. Bà cho tôi hỏi… bà có biết người này.

Lão chìa ra mảnh giấy bọc ép nylon như thẻ căn cước, ghi dòng chữ: Hai Xuân, người Bắc Ninh, có chồng tên Tuất. Sau 1975 có…
– Mơ hồ thế có trời biết! Không đường, không số nhà… Già rồi lẩm cẩm. Con cháu không sai đi tìm. Thôi đi chỗ khác…
Bà chủ quay ngoắt, dềnh ngang bộ mông núng nính đi vào bếp.
Thương hại lão, tôi gợi chuyện:

– Thế bà Xuân người như thế nào?
– Cô ấy người dong dỏng. Trắng tươi. Hát hay. Xinh đẹp.
Bàn thịt chó bên cạnh nhao lên:
– Ồ ! Cháu lão hả? Bao nhiêu tuổi?
– Cô ấy thua một tuổi?
Quán ven đường bỗng òa vỡ tiếng cười.
– Thế thì “cố” chứ “cô” gì! Tụi này tưởng bở bố ạ! Cỡ ấy ra nghĩa địa tìm dễ hơn.
– Mà cố Xuân là gì của lão? – Gã để râu xồm xoàm vừa nhai vừa hỏi.
– Xưa cô ấy là bạn hát quan họ của tôi.
– Lão vượt đường dài ở tuổi này để tìm một bạn hát xưa già khú đế à?
– Vâng.
– Trời ơi… là trời… ở mô rớt xuống ông ngố đa tình như ri hở trời! – Gã giọng Huế cùng bàn cúi gập người rên giữa một tràng cười. Còn hỏi tiếp:

– Lão ơi, có khát tợp ít ngụm… Kiếp sau yêu cho dài ngày rộng tháng.

Để thưởng câu nói mà gã tự cho là ý vị ấy, ngửa mặt lên trời, ném điệu nghệ một miếng dồi chó vào miệng, nhai nghiến ngấu, tợp một ngụm rượu, khà một tiếng khoái trá.
– Ngoài tôi, chỉ có món xào và rựa mận là để bát đĩa. Còn các món khác đựng trong lá tất… Ăn bốc mới đúng điệu. Đột ngột lão góp ý.
– Mở đầu được đấy ! Mần ly rượu nói tiếp đi!

Câu chuyện xoay quanh chó: cách chọn chó, nấu chó, ăn chó… Lão sành đến nỗi những cái mặt đỏ gay, những cái miệng bóng nhẫy đều quay về phía lão hóng chuyện. Bà chủ đang há hốc miệng nghe lão bày cách chế biến từ bảy món cầy cơ bản thành mười món hoặc hơn nữa. Bà Tư đích thân bưng đến đặt trước mặt lão để mong thụ giáo. Lão giải thích hễ lão cầm đũa là phải ăn no mới thôi. Cái thứ này hễ ăn là say, ăn mãi… ăn thì phải đúng điệu với bạn tri ân để say còn khóc cười cho hả…
Bà chủ lên tiếng: “Dò tìm một cố Xuân nói giọng Bắc, vấn khăn, biết hát quan họ không khó. Tui sẽ nhờ anh em… sẽ để lão ăn thịt chó thỏa thuê không lấy tiền… với điều kiện lão giúp tôi tiếp khí sắc cho quán, phải có ngón nghề đặc biệt mới kéo khách về mình…”

Quán thịt cầy của bà Tư béo từ độ có lão bỗng đông khách hẳn. Thịt bao giờ cũng lớn bùi, bé mềm, cả tơ cả cứng cho đủ vị cuộc đời. Lá sen, lá dong riềng, lá chuối được thay đĩa men, thơm điếc mũi. Buổi tối quán tắt đèn điện thắp đèn cầy ăn thịt cầy… âm âm u u thế mà gọi mời đáo để. Những câu chuyện về đời, về chó của lão dưới ánh nến bao giờ cũng khiến khách ăn cảm thấy bữa rượu thịt đậm đà. Bọn họ gọi lão là “lão Tầm Xuân”. Đôi khi quán rôm rả hẳn lên khi lão nhếch nhác bước vào. Họ hát ong ỏng đón lão: “Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc. Em đi lấy chồng anh tiếc lắm thay. Già rồi tiếc vẫn chưa nguôi. Xắn quần anh lội suối, khòm lưng anh vượt đèo…”.

Có hôm qua men rượu, họ lại đem lão ra giải buồn. Họ đổi những tin “dỏm” về cố Xuân bằng những câu chuyện khi thì cố Xuân ở tận bên làng biển An Hải, mù vì khóc lão. Khi thì ở trên Hòa Khánh, điếc đặc, suốt ngày ho sù sụ… Có lúc bọn trẻ kéo vào quán một bà già nghễnh ngãng, ré lên: “Lão Tầm Xuân ơi, cố Xuân đây nè!”. Bà già chửi te tua còn bọn chúng cười hô hố. Chỉ có lão không nói một lời. Tôi có cảm tưởng có cái gì nặng hơn chiếc lá khô vỡ tan tành trong lòng lão. Ôi lão Tầm Xuân! Lão tìm trong cuộc đời nước chảy mây trôi như một hình bóng của ký ức thì tìm sao đặng? Những cuộc “gặp” ấy để lại trong lòng lão dư vị cay đắng. Lão ngồi uống rượu suông, mắt mờ đục như có khói và lão hát. Lão hát hay lắm. Hay đến nỗi có lần tôi phải chở vợ đến nghe. Nàng đứng ở ngưỡng cửa nghe lão hát bài ruột: “Khi tương phùng, khi tương ngộ. Xuôi lên bộ, văng vẳng tơ tình. Em biết đến bao giờ gặp mặt, sau đền duyên ba sinh”.

Khó tưởng tượng một giọng hát say đắm ngọt ngào dường kia lại thoát ra từ một lồng ngực hom hem phô những giẻ sườn. Vợ tôi bảo không phải lão hát mà tình yêu lão hát. Nàng nhận xét: đằng sau vẻ ngù ngờ, xấu xí, già nua kia là một trái tim thực có một cô Xuân dong dỏng,, hát hay, xinh đẹp trên đời. Cô Xuân ấy không bao giờ già, không bao giờ xấu, không bao giờ chết trong lão! Sau lần nghe lão hát và những câu chuyện tôi kể về lão, vợ tôi bỗng trở nên “ái mộ” lão. Nàng bảo tôi chở lão đến nhà chơi và bị lão “mê hoặc” như cả quán cầy tơ của bà Tư béo qua những bài quan họ. “Sớm đi chơi hội, tối về quay tơ. Dải yếm phất phơ. Miếng trầu, mồi mốc. Miếng ăn, miếng buộc. Miếng gối đầu giường. Muốn tìm người thương. Tìm đâu cho thấy?”…

Bếp nhà ấm áp khi có lão. Lão mơ màng kể cho chúng tôi nghe những ngày hội Lim, những liền anh áo the khăn xếp, liền chị thắt lưng hoa lý, yếm đào con nhạn, mắt lá răm lúng liến hát thâu đêm. Tôi ngồi nghe lão tả những làn điệu quan họ đắm say miên man dìu dặt và yêu cầu lão hát nhưng thường lão lắc đầu. Lão bảo hát quan họ phải có đôi, có bạn, có chỗ. Ký ức lão còn giữ nguyên vẹn những ngày hội quê lão: Hội làng, Hội Xuân, Hội mùa… Trai gái hát chèo, đánh đu, cờ người…
– Lão gặp cố Xuân ở những ngày hội đó à?
– Vâng. Đó cũng là ngày hội quan họ, cả vùng như ngấm men say, phát cuồng vì hội lễ. Năm ấy anh cu Rỗ là tôi tròn 18 tuổi, được cử vào bọn quan họ làng để luyện giọng thi hát với bọn quan họ làng bên kia sông. Nhà tôi ba đời hát quan họ. Tôi luyện trên dưới 200 giọng, thế mà khi hát đôi với cô ấy tôi run. Tâm hồn tôi lơ lửng không đặt hết vào lời. Cô ấy là tiên quan họ. Ngày xưa cô Tấm cũng đẹp thế là cùng! Giọng hát sóng sánh. Mắt đen lóng lánh. Môi cắn chỉ đỏ thắm. Cần cổ như cuống hoa huệ… Tôi say, say lời hát, say cô ấy, quên cả ngón ruột phải tung ra vào phút chót để thắng dứt điểm. Cuộc thi kéo dài đến ba ngày. Tiếng trống dứt mới giật mình ngơ ngẩn. Dĩ nhiên tôi thua..

– Đa tình thế sao không lấy?
– Lệ quan họ những đôi trai gái đã kết bạn quan họ không lấy nhau. Tình yêu có nảy sinh thì cũng gửi thương gửi nhớ qua lời hát. Kết nghĩa quan họ như kết nghĩa anh em, được cha mẹ hai bên, dân hai làng chấp nhận. Tình bạn ấy chân thành, thủy chung, thắm thiết không chỉ đời mình mà có khi còn đến đời sau. Làng tôi có nhiều cặp quan họ khi đầu bạc răng long, tình yêu trong câu hát xưa vẫn không tàn. Có dịp gặp nhau trên chiếu quan họ, họ lại sống lại thời xuân sắc. Anh em kết nghĩa quan họ gặp nhau, đến thăm nhau, ăn uống, vui chơi, ca hát với nhau. Mỗi bên có chuyện vui buồn đều tổ chức đi lại thăm viếng. Rồi cô ấy cũng phải đi lấy chồng. Tôi đau lòng hát miên man…

Mắt lão bỗng mơ màng xa vắng. Rồi một giọng hát trẻ trung đằm thắm da diết cất lên: “Ăn quả nhãn lồng. Ước sao người ấy tôi bồng trên tay…”. Không phải lão Tầm Xuân tóc bạc da mồi hát mà anh cu Rỗ tóc đen như mun, da mầu đồng, có giọng hát Trương Chi hát! “Cô ấy hiểu lòng tôi, chú ạ!” Lão lại ngưng hát, kể: Tôi hát bài “Khi tương phùng, khi tương ngộ” ngang nửa bài thì cô ấy xen ngang, hát tiếp: “Bạn tình ơi! Em biết đến bao giờ họp mặt sánh đôi…Trước không phải, sau đền duyên ba sinh”. Chúng tôi cắt câu quan họ làm đôi, mỗi đứa giữ một nửa. Hẹn kiếp sau chắp lại. Sau đó là chiến tranh… Câu quan họ tan tác trăm phương. Tôi tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, khi hòa bình lập lại, tôi về làng thì nghe cô ấy đã theo chồng… nghe nói vào Nam .

Rồi tuổi già đến. Già buồn lắm chú ạ! Cô đơn và bất lực. Chết không đáng sợ bằng tuổi già. Sống đến đó, người ta mới nếm tận cùng chén đắng cay của đời… Luật đời chú ạ! Già thì lụi tàn, phải chết. Một lần tôi ốm thương hàn, thập tử nhất sinh. Trong những cơn mê, tôi cứ nghe một giọng hát lảnh lót níu tôi lại trần thế: “Người về bỏ bạn sao đành. Người về em vẫn đinh ninh tấm lòng…”. Giọng cô ấy! Chỉ có cô ấy mới có cái giọng la đà sát ngọn cỏ, cao vút chạm mây xanh, thầm thì luồn lách trong da trong thịt…. Sau lần ốm ấy, tôi nghĩ đến chuyện đi tìm cô ấy. Chính cô ấy níu tôi lại cuộc đời này. Tôi phải đi tìm nửa câu quan họ cắt đôi. Trẻ không lấy nhau được, già ở bên nhau, hát với nhau cho đỡ côi cút. Trước sau vẫn là bạn có gì sai trái đâu? Lão im bặt. Đôi mắt già nua chìm trong cõi vắng. Thời gian với lão chỉ là lớp bụi mờ. Gió thổi, bụi bay, dĩ vãng lại hiện ra nguyên vẹn trước mắt lão. Đêm ấy, lão hát miên man bên bếp lửa tàn. Một mình hát, một mình nghe, một mình mở hội đồi Lim, lúng liến, đắm say, chân tình lai láng.

***
Thế mà sau một tuần đi công tác xa về thì ra lão đã bỏ đi… Tôi cũng vô tình quên lão nếu không có lần gặp lại ở Hàng Xanh. Con hẻm em gái tôi ở vang lên tiếng rao lạc lõng: “Ai hàn xoong hàn nồi, mài dao mài kéo không…? Tiếp liền sau một giọng hát cất lên: “Khi tương phùng khi tương ngộ, xuôi lên bộ văng vẳng tơ tình… thương nhớ sầu oanh, lẻ loi chim nhạn. Bạn tình ơi…”. “Ôi!”. Lão. Lão chứ còn ai nữa. Không kịp xỏ dép, tôi chạy nhào ra hẻm gọi ơi ới: “Lão mài dao… lão Tầm Xuân”. Lão quay phắt lại rồi ôm chầm lấy tôi mừng rỡ. Mới hai năm mà lão già thêm nhiều! Gương mặt chằng chịt nếp nhăn lỗ chỗ nốt rỗ như tấm gỗ mọt. Đôi mắt mờ đục, giọng hát khào khào. Lão mang lỉnh kỉnh dụng cụ hàm mài. Câu quan họ lầm lũi lạc theo, lạc lõng trong thành phố…

Chúng tôi tấp vào quán nước bên đường, ở đó tôi được biết vì sao lão bỏ đi đột ngột. Bà chủ quán thịt cầy cùng dãy với bà Tư béo bảo có gặp một bà người Bắc đi xin ở Gia Định biết hát quan họ và y hệt cô Xuân của lão. Thế là lão đi tìm nhưng không thấy…

Tôi định bụng khuyên lão trở về quê. Không ngờ lão cũng nói:
– May gặp nhau lần cuối… Tuần sau tôi về chú ạ. Tôi về để mười ba tháng Giêng tới dự hội Lim lần cuối. Hội Lim giờ đâu như xưa nữa… Nhưng tôi vẫn nghe tiếng trống vào hội giục giã lòng tôi. Tôi yếu rồi! Tôi đã nghe đất gọi Quê gọi, hẹn kiếp sau vậy…
Tôi nhìn lão, chiều tà dần trong đôi mắt mầu hoàng hôn.

***
Khoảng mươi hôm sau, con dao chặt thịt bị mẻ, em tôi nhắc:
– Không thấy lão mài dao kéo vào xóm. cái lão thật lạ, không lo kiếm khách chỉ lo hát. Người già cũng lạ! Trại dưỡng lão em làm có một bà già nhập trại ba năm không nói một lời, tưởng câm, khi gần chết hóa ra biết hát. Cái giọng na ná như lão mài dao.
– Đâu? Bà ấy ở đâu? – Tôi chụp tay nó.
– Ở trong, sắp chết rồi. Mà anh hỏi làm gì?

Tôi kéo áo nó, bắt nó chở đi rồi tôi sẽ giải thích. Dọc đường tôi kể vắn tắt chuyện lão Tầm Xuân đi tìm nửa câu quan họ. Tôi linh cảm đó là cố Xuân.
– Ba năm trước, gương mặt tràn trề nhân ái dẫn bà ấy vào trại. Ông ta bảo với Ban quản đốc ông ta thấy bà già cơ nhỡ, ngủ trước hiên nhà nên thương xót dẫn giúp vào đây. Ba năm ở đây, bà ấy sống lặng lẽ như bóng không hề nói, nằm quay mặt vào vách. Nhưng cách đây một tháng, dường như không nén được nỗi đau đớn, bà ta khóc rống lên: “Hắn là con tôi, cái thằng dẫn tôi vào đây chính là con tôi”. Mấy hôm nay bà ta hát… không ăn, không uống… chỉ phều phào hát… Em tôi kể.

Bây giờ nằm trước mặt tôi là bà cụ tóc trắng như bông vấn vành khăn nhung đã sờn, mỏng như giấy, mặt vàng, hơi thở dốc… “Dong dỏng, trắng tươi, hát hay, xinh đẹp…” Hình hài ấy không còn nét nào giống lão Tầm Xuân tả. Thời gian cho, thời gian lấy hay tôi đã lầm? Tôi định lui ra nhưng chiếc lá khô ấy bỗng khẽ khàng động đậy. Rồi từ lồng ngực thoi thóp hơi tàn, phều phào những tiếng, lời rời rạc. “Bạn tình ơi! Duyên bén ngãi, trước không phải… sau đền… duyên… ba sinh”.
– Đúng rồi! Cố Xuân đây rồi! Tôi reo to giữa những gương mặt già nua ngơ ngác – Lão Tầm Xuân ơi! Nửa câu quan họ đây rồi. Lão tìm ba năm, nay biết tìm lão ở đâu.

Bà cụ mấp máy môi hát, âm sắc yếu dần… yếu dần… Nhanh trí, tôi nắm lấy bàn tay còn xương với da ấy và tôi lập lại lời hát của lão Tầm Xuân: “Khi tương phùng, khi tương ngộ, xuôi lên bộ văng vẳng tơ tình…” Giọng hát vụng về thô ráp như đọc của tôi cất lên, và lạ lùng thay, nó tựa những giọt nước cành dương diệu kỳ… Mí mắt bà lão động đậy, ngực phập phồng rồi giọng hát yếu ớt cứ rõ dần hòa với cái giọng vịt đực ồ ồ của tôi. Những bà già trên nền nhà lập tức ngồi dậy. Những đôi mắt mờ mờ đục chất ngất nỗi buồn và bất hạnh bỗng háo hức như mắt trẻ con.

Tôi lập tức đạp xe đi quanh vùng Gia Định tìm lão Tầm Xuân nhưng bóng lão bặt tăm… Hình như lão đã về quê rồi. Em gái tôi góp ý nhắn lão trên tivi. Mẩu tin kỳ quái được nhắc lại hai hôm: “Lão Tầm Xuân! Đã tìm ra nửa câu quan họ. Đến gấp trại dưỡng lão số 3, đường… Mau lên kẻo không kịp”.

Không kịp thật. Cố Xuân hắt ra hơi thở cuối cùng, lão vẫn bặt tăm. Chiếc xe tang đưa cố đến lò thiêu. Không một vành khăn, không dòng nước mắt. Có lẽ giờ này lão Tầm Xuân đang lê bước trở về. Nửa câu quan họ lầm lũi theo lão… Chơi vơi… Chơi vơi…”

(Hết)

***

Đất khách quê người, buổi sáng ngồi ngòai vườn nhìn mây bay gió thổi, tôi chẳng thấy trời xanh, mây tím, nắng vàng đâu mà nhìn thấy…con chim cu đất quê nhà đơn côi trên sợi giây điện. Mà cái giống này cũng lạ, chỉ đậu trơ trọi một mình, cất tiếng “..gù..gù.. “ gọi…bạn tình nghe đến buồn tênh, làm tôi cũng vương vấn lây, bồng bềnh lãng đãng với nhớ nhà trong điếu thuốc, khói huyền bay lên cây….

Như vung vãi ở trên, tôi đã lậm với tiếng hát quan họ qua thơ cụ Hòang Cầm để gần gũi với đất quê, gió quê vi vút gọi, man mác đồng chiều cuống rạ, ẩn hiện là một thóang hương xưa với những người con gái Bắc Ninh, để tôi đậm đà với mảnh áo tứ thân hoa gụ, giải yếm thắm mầu mạ non, tay cầm nón quai thao lặng lờ đứng trông nắng vãn ven sông. Ai chẳng có lúc thả hồn theo mây khói, vì vậy mặc dù chuyện đã manh nha từ lâu. Lúc này tôi bật ra cái ý tưởng là đẩy đưa hai vợ chồng bạn gặp nhau lại trong một chiều bên bến vắng, với tình ơi tình rằng:

Bắc Ninh cho đến Phủ Từ

Qua cầu sông Nhị, ngẩn ngơ tìm người

Tìm người chẳng biết mấy nơi

Tìm ba mươi sáu phố thấy người ở đây

Tiếp đến, tôi dàn dựng tàn cuộc binh đao, sau bao tháng năm xa xứ, thằng bạn tôi về lại quê nhà. Đất quê lành lắm, trồng gì lên nấy, hai vợ chồng nó rồi ra sẽ có mảnh vườn, bờ ao, chuồng lợn, đàn gà, và chẳng thể thiếu vắng bóng dáng thằng cu, cái hĩm.

Khúc cuối của bài viết của một chuyện tình có hậu. Tôi sẽ thu vén, chắt chiu:

Người ơ! Người ở đừng về

Người về em sẽ khóc thầm

Em nắm vạt áo ướt dầm như mưa

Người ơi! Người ở đừng về

Mà nói cho ngay, chan tương đổ mẻ thì tôi có biết Bắc Ninh với quan họ hồi nào đâu, có cho ăn gan giời trứng trâu tôi cũng chẳng dám lêu bêu xa hơn. Vì vậy tôi gửi bài viết đang dang dở sang bên Úc nhờ một thằng bạn đời bên ấy gấm ghé nó: Một là dọ dẫm nó qua bài viết. Hai là gãi ngứa nó cho dăm tình tiết Người ơi! Người ở đừng về…về quê vợ làng Lim nó. Thằng bạn đời điện đàm to nhỏ rằng: “Mày nhắc đến Kiều Loan, nó sụt sùi rơi nước mắt. Thế nào nó cũng…ới mày”. Tôi chột dạ: Bố khỉ sắp to chuyện đây! Sắp bị bắt cóc bỏ điã để bị mắng vốn là cái cẳng!.

Một ngày giời đi vắng, nó ới tôi thật và kể chuyện về…phố Lý Quốc Sư thăm ông bố vợ Hòang Cầm mới chướng. Nó hí hửng khoe mẽ là ông cụ dạo này khỏe ru, sáng bắn ba-zô-ca ầm ầm, chiều chống ba-toong khơi khơi. Tôi nhủ thầm: Mẹ kiếp, thằng này vào Nam 54, cao tay lắm là mười tuổi…như tôi, thì xin lỗi: Cụ nhà nó chứ! Chứ nó biết khỉ gì về bậc tiền bối như cụ Hòang Cầm với…dạo này,…dạo nọ cùng nàng tiên nâu với cây gậy chống trời. Nó lại xuống giọng thầm thì, khi về ông cụ đưa nó cái phong bì có nhăm chữ “Tặng con rể yêu qúy của bố ”. Nó rất…”bức xúc” khi đọc đến dòng chữ này và nhắc tôi hai lần về câu viết ngập…”ấn tượng” ấy. Nó ra ý rằng mặc dù vợ nó đã em ra đi mùa thu, mùa thu không trở lại, nhưng ông cụ vẫn xem nó như…rể hiền.

Không lẽ trong phong bì lại có…tiền. Nhưng ấy là chuyện sau.

Cụ nhà nó chứ! Chứ hiền thì nó chẳng hiền chó gì, vì ai chẳng biết nó cũng một thời là dân áo liền quần, lấy cái khu trục làm…quan tài bay. Thấy nó phấn chấn quá thể, tôi khều khều nó là muốn vặn vẹo với chuyện tình chết, tình buồn của nó năm nào nón lá áo tơi ra quán chợ. Nó ậm ừ…thôi cũng được. Nhưng đợi cái đã…Đợi tuần sau nó cho biết nó “điện” cho cụ Hoàng Cầm với ý đồ của tôi và cụ nói: “Cứ để cậu ấy viết xem sao”. Nó tiếp giọng yếu sìu rằng tôi ôn lại những ngày mưa gió cũ gì cũng xong tất. Rồi nó buông một câu chết người: “Mày cứ chôn hai đứa tao chung một lỗ với…mồ yên mả đẹp là xong”. Tôi sững người, vặn óc nghĩ không ra và cho là…cái thằng hâm hâm, dở người. Nói cho ngay cũng nhờ câu nói gở của nó, tôi vay mượn câu thơ của cụ Hoàng Cầm: Cõi đời thiên hạ giấc u minh để đặt tên bài viết này.

Là kẻ hậu sinh, được cụ ngỏ lời như cởi tấm lòng, thế là tôi mặc sức cho nó theo chân cụ Hoàng Cầm đi tìm vợ con một dạo ở Sài Gòn qua bài viết Câu hát tìm nhau. Nhờ tiếng con chim cu gáy “gù..gù” tôi bật ra cái cốt truyện, dựa dẫm con chim cu trên giây điện vườn nhà. Vậy là tôi đưa nó tìm em như thể tìm chim, chim bay biển bắc anh tìm biển đông và rồi cũng gặp một chiều bên bến vắng, để trông nước nước chẩy, trông bèo bèo trôi. Tôi dẫn nó về tìm người chẳng biết mấy nơi, tìm ba mươi sáu phố thấy người ở đây. Bố khỉ! Nó chẳng…thấy người ở đây: Vì nó đi lạc mới chết người !

Cỏ hoa lạc lối trong cõi dương gian với u mê ám chướng thì mai này tôi sẽ đưa nó đi gặp người cõi âm qua “đồng cô bóng cậu”. Để cho nó mãn nhãn cậu bắn súng lục, cậu bơi thuyền rồng cho bài viết có chút hơi hám tâm linh, tâm thần, kỳ bí,…kỳ nhân.

***

Và chuyện được dàn trải như thể như thế này đây:

“…Đến thăm ông bố vợ chưa một lần gặp mặt, ông cụ ân cần tiếp nó như một đứa con đi xa trở về. Về chuyện vợ nó, bên bàn thuốc phiện, cụ nói, không hẳn là cụ muốn giấu giếm này kia mà nói cho cùng chẳng ai biết gì hơn là bấy lâu nay vợ nó biệt tăm ở mạn đồi Lim, chẳng bén hơi về đến Hà Nội…Hóa ra nó đi lạc cũng phải thôi.

Cũng từ chuyện đi lạc ở ba mươi sáu phố phường tôi ngộ ra con lộ của chữ nghĩa: Rằng tình tiết phải đi với nhau như…đi bộ vậy. Ngoài ra, nhập thế tục bất khả văn tự thì theo Kinh xuân thu của cụ Khổng Khâu ở bên Tầu: “Thuật nhi bất tác”. Tạm hiểu nôm là truyện viết chỉ là chuyện kể chứ chẳng phải sáng tác quái gì. Có Tầu có Ta, đục câu đẽo chữ theo Nguyễn Công Hoan cùng thời với cụ Hoàng Cầm thì viết truyện là…”bịa”. Nhưng phải bịa qua chuyện có thật. Thật quá thì thô. Vì vậy phải…bịa như thật. Khó thế đấy! Lập thân tối hạ thị văn chương là thế đó! Nhưng nó đâu có hiểu vậy cho tôi nhờ.

Thế nhưng chẳng hẳn là bịa tạc, vì trở về lại căn nhà 43 phố Lý Quốc Sư, cụ đang ngồi ở bàn với cái điếu bát. Bắn một bi thuốc lào ròn tanh tách xong, cụ lững lờ gần xa về cái lệ của 49 làng quan họ là “làng quan họ nghĩa”. Họ coi cha mẹ của bạn như cha mẹ mình, những ngày vui buồn đều đi lại thăm hỏi nên trai gái không được lấy nhau, lửa gần rơm cũng có ngày cũng bén, để rồi sinh lắm chuyện…”vạn sự bất như ý”. Cớ sự này nó cũng đã biết, vì tôi đã vay mượn qua bài viết của tác giả khuyết danh ở trên: Chuyện là lệ quan họ những đôi trai gái đã kết bạn quan họ không lấy nhau. Tình yêu có nảy sinh thì cũng gửi thương gửi nhớ qua lời hát. Kết nghĩa quan họ như kết nghĩa anh em, được cha mẹ hai bên, dân hai làng chấp nhận. Tình bạn ấy chân thành, thủy chung, thắm thiết không chỉ đời mình mà có khi còn đến đời sau.

Qua khói tương tư thảo, cụ thở ra với thân phận con phù du mà quê cụ gọi là con vờ vờ, sống với nước ao tù rồi cũng chết trong váng ao tù. Bà vợ kế Lê Hoàng Yến vừa góp chuyện vừa quẹt mắt giọt ngắn giọt dài về chuyện cô đồng Bắc Ninh…Số là cô vồ ếch ngã lăn cù đập đầu vào cái chum nước mưa, tỉnh dậy, cô như người cõi trên vì có thể nhìn thấy hồn ma đi theo người ta. Sau đó thỉnh thoảng cô nghe được tiếng người cõi âm nói chuyện với nhau Nhưng cô chỉ nhìn thấy được nửa người phía sau của họ.

Nó ngờ ngợ có chuyện “bất như ý” đã sẩy ra, cụ lắc đầu, rít một hơi thuốc lào sòng sọc, chậm rãi nhắc lại chuyện một người con gái tên Vinh, hơn cụ tám tuổi, cô cũng là người dậy hát quan họ ở phố huyện. Một lần cụ rình cô khuất sau một bụi cây dại với cái thú thứ nhất quận công thứ nhì ị đồng. Cụ đang nhìn trộm bỗng cô ta ngẩng lên bắt gặp, cô lúi cúi ngắt cái lá…để làm cái chuyện…hậu sự của tha nhân. Rồi đứng lên, nhìn vào cụ và nói: “Chị tìm cái lá…”. Cụ không nhớ lá gì vì lúc ấy mới mười hai tuổi. Và chỉ biết là…lá cây dại. Vào một đêm năm 1959, cụ chợt tỉnh giấc, thao thức không ngủ được, trong im ắng, bỗng nghe bà hàng xóm văng vẳng ru con “Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng…”. Cụ bật dậy, lấy bút chì và tập giấy ra ghi chép, ký ức người con gái ngòai đồng mươi năm trước lại hiện ra. Và gần nửa mảnh đời người xưa…dại dột của cụ đã đi tìm hạnh phúc cho riêng mình…như không có thật.

Nên cụ đặt tên bài thơ đầu đời là…là…Lá dại:

Từ thuở ấy

Em cầm chiếc lá

Đi đầu non cuối bể

Gió quê vi vút gọi

Cụ thấy…Lá dại không có “cơ sở văn hóa” cho mấy. Từ “d” của chữ “dại” cụ đổi qua…“diêu”. Từ cụ Ngô Không trong Chữ nghĩa làng văn thì `”hoa” là chữ của người Hoa. Chữ Việt cổ là “bông” (1). Thế là cụ lúi húi…gọi hai câu kết:

Diêu bông hời

Ới diêu bông…!

Về đến khách sạn, mở phong bì nó thấy một tờ giấy có đoạn viết tay của cụ:

“…Bài thơ Lá diêu bông sau này tôi viết tặng chị Vinh. Nếu biết tôi tặng, chắc chị cũng ngậm ngùi…Chị lấy chồng. Chị Vinh và chồng có một cô con gái, nhưng hai người đã chia tay. Anh chồng bắt mất cô con gái. Vì vậy chị vào Sài Gòn ở với mẹ, hai mẹ con bán hàng tạp hóa, cuộc sống cũng chẳng khá giả gì…”.

Tờ giấy gấp đôi, nó mở ra: Một bên là bài thơ. Một bên là…lá diêu bông.

Hóa ra ông bố vợ nó vào Nam chẳng phải Kiều Loan mẹ, Kiều Loan con. Mà là “chị Vinh”…không có thật. Nhìn…cái lá diêu bông khô. Nó tự hỏi thật hay giả đây?

***

Hôm sau lên Bắc Ninh gặp “đồng cô bóng cậu” xin lễ. Nhìn thấy “cô” nó ớ ra vì chẳng phải là…”cậu”. Nếu là “cô” thì cô có cái gì ấy lạ lắm. Mà lạ thật, cô nhướng mắt nhìn qua vai nó như muốn tìm kiếm ai, vừa lẩm bẩm một mình không ra tiếng, như nói chuyện với âm hồn nào đó đang vất vưởng sau lưng nó. Nếu là “cậu”, thì sao cậu lại …đánh phấn môi son. Thế nên nó hỏi tên cô cho ra lẽ. Cô cười ròn tan. Quay đi. Và nhấm nhẳng nói một mình: “Hồn chịu về gặp anh giai rồi đấy, nhưng hồn đòi cái…đàn gáo”. Xong, cô đồng tất bật chạy qua bên kia xóm. Vừa chạy vừa nói với lại: Na.

Nó ngớ ra vì tên gọi chẳng nói lên “cậu” hay “cô”. Ấy là chưa kể nếu là cô, thì cô có kiểu cười “ròn cười tươi khóc”. Ngoài ra cô có cách nói chuyện trống không, bằng vào quay mặt đi, làm như không có nó trong cõi ta bà này, làm nó chẳng biết đâu mà lần. Đúng là của khôn người khó và không…giống ai thật! Còn lại một mình trong nhà vì…không có ai ngoài nó. Nó rợn người ngó quanh quất, chỉ thấy lạnh tanh vắng ngắt.

Một lát sau cô cun cút khuân về một nghệ nhân dân tộc khọm trông thấy và tay xách cái đàn gáo…trông giống như…cái đàn bầu. Nó láo ngáo trong đầu với gáo là bầu. Cậu chẳng phải là cô. Bầu là gáo. Cô chẳng phải là cậu khiến mắt mũi nó rối loạn tiền đình muốn…khóc luôn. Muốn khóc thì nó thò tay vào túi quần tìm…napkin. Thì…thì nó mò được một trăm đô và kín đáo bó và phong bì. Và nó bắt gặp lại cái lá diêu bông!

Nó chợt hiểu ra thật giả, giả thật, giả thật…tù mù vậy thôi. Tạm hiểu có là…không. Cũng…có đấy, mà cũng…không đấy!

Cả ba ngồi xuống chiếu, nó ngáo ệch nhìn trước mặt cô là cái đĩa có cái chân gà khô quắt queo và hai đồng trinh. Cô loáy nhoáy thắp hương, cầm hai đồng trinh gieo xuống đĩa để xin âm dương. Miệng khấn lâm râm một hồi lâu…lâu lắm. Bác khọm vừa lên giây đàn “..tách..tách..” vừa lừng khừng hỏi: “Quan họ hay ca trù đây, hở nỡm”. Mắt bác hấp háy như muốn nuốt chửng cô đồng: “Này, mèo mả gà đồng vừa thôi, gieo quẻ xin âm dương đi chứ, sốt cả tiết…nỡm ạ”. Cô đồng mở mắt thao láo, chũm môi mắng: “Cái nhà bác phải gió này, thì đã bảo hồn chịu về hầu bóng với quan bác đây rồi mà”. Qua cái mũi, qua nhang đèn hương khói với tâm linh, linh cảm với cái mũi này: Nếu là “cô” thì cô đây có tính ngang như cua của…một người đàn ông…khác thường. Còn nếu là “cậu” thì cậu này có tính bướng như bứa của…một người đàn bà…khác lạ.

Mà lạ thật, vì vừa lúc cô nhúm miệng cười với bác khọm: “Bữa nay nhà bác là…tình nhân của tớ ấy nhá, sướng bỏ cha đi ấy nhá”. Bác thợ đàn ngáo ra vi chả hiểu gì sất, nhưng cũng vào nhịp “tích tịch tình tang” cho đủ lễ bộ. Đang lúc cô cúi mặt xuống chiếu, hai tay để ngửa trên đầu gối và các ngón tay gấp lại như ngồi thiền. Làm như có tín hiệu gì đấy, thấy vậy bác khọm búng dây đến “tách” một cái, nhịp phách giòn giã đun đẩy. Cô ngửng lên nhìn, mím môi, nhắm mắt, xì xụp khấn, đầu lắc lư như…lên đồng. Bổng thấy cô đồng vuốt mặt, ngồi một lúc. Rồi ngáp một cái rõ to. Ngáp xong cô cất tiếng nói làm nó giật bắn người lên, vì…Vì nó nghe y hệt giọng…vợ nó ngày nào:

– Thằng Lưu bớt ho chửa?

Bị hỏi bất ngờ, nó ớ ra:

– Chưa…

Vợ nó nhăn mặt, tiếng vợ nó qua cô đồng: :

– Nhớ cho con uống thuốc.

Vợ nó nhìn thẻ nhang đang tỏa khói, giọng trầm hẳn xuống:

– Người ta vẫn thường về nhà phù hộ cho con và…nhà nó.

Rồi vợ nó hỏi dồn:

– Sao nhà nó chẳng cúng giỗ cho…người ta.

Nó ấp úng trả lời là nào có biết vợ nó…”đi” ngày nào mà cúng giỗ? Vợ nó nói ngày tháng. Nó vừa rút bút giấy ra hý hóay ghi chép. Vừa hứa năm nào cũng sẽ cúng giỗ với rau muống xào tỏi chấm nước mắm chanh ớt, với đậu phụng rán chấm tương gừng.

Cô đồng vẫn hướng về nó, giọng ảo não bi ai:

Hờ…i i i

Hôm nay (..ư.. ư..) xum họp trúc mai (..i..a..có mấy).

Tình chung (..ư.. ư..) một khắc nghĩa dài trăm năm (..i.a..có mấy).

Hờ…

Sao Khuê một giấc mông mênh…ơ…

Người đi hay ở, ơi người. Chỉ có một đời.

Tiếp, cúi mặt xuống chiếu, giọng như lạc hẳn đi:

Tử sinh, tử sinh, cái trò rỉ sén…ơ son sẻ…rỉ sén

Hờ…ơ…à…ơ…

Một trời thánh thót sương tinh…ơ…

Thuyền ra vạn giặm…à…ơ…

Thuyền ra vạn dặm chút tình khai ân.

Ngẩng đầu lên, vẻ mặt cô đồng rất là tinh nghịch và giảng giải: “Ấy hồn đang theo bạn hát đấy, anh giai ”. Ngu lâu đần dai cách mấy, nó cũng hiểu ra “bạn hát” đây là “người tình” dưới âm của vợ nó. Rồi cô nhướng mắt và gật gật với bác thợ đàn như ra dấu. Bác khọm lật đật, lật đáy cái đàn ngang đùi, gõ “thùm…thùm…thùm” như thúc giục:

Hồn lạc giang đầu. Hự.

Sông mê nước chảy đôi dòng.

Tử ly ấy đổ vào sông mê cuồng. Hự.

Sóng cả này. Hung tợn.

Hỏi ai…ai biết…ư…Hự.

Cô đờ đẫn nhìn nó, thở dài: “Cả hai là làng quan họ nghĩa với nhau, họ đi thuyền hát với quan anh, quan chị rồi thuyền chìm và cả hai chết đuối, tội nghiệp”. Quay về “người tình” hình nhân thế mạng là bác khọm. Cô đằm thắm thiết tha:

Hồn tìm hương duyên.

Đa tình réo rắt..ư…Đánh bồng.

Mà rằng ối a là tình.

Tình bồng mát tay…ư, mấy kiếp.

Ư tình này là mằn mặn…ư đa tình.

Xong, cô đồng ngồi xoa tay lên mặt và ngồi im lặng khá lâu như có gì suy nghĩ lung lắm. Sau đấy, cô đồng nói với nó: “Họ đang hát hỏng với nhau ở dưới đấy, anh giai”.

Người tình khọm điểm nhẹ tang trống ra dấu, cô vào nhịp ứ hự:

Tán tụ này, cung bậc. Ôi a, khi tỏ khi mờ này. Ma trơi í a…

Cao cung lên này. Tình bằng này tình ở. Ối a…là ai mong tình

Ối a là ai mong tình này. Ối a hỏa…hỏa đàn…

Cô đồng tay bấu cuống chiếu, tay phe phẩy cái quạt nan và quay về bác khọm, miệng lầu bầu: Ối a hỏa…hỏa đàn…Đã bảo ở dướ âm mà, nóng lắm”. Bác khọm như thiếu thuốc lào nên không nghe thấy, còng lưng búng giây bắt nhịp tiếng hát trầm bổng đuổi bắt nhau “tích tịch tình tang”. Mắt cô nhíu lại: “Hát ca là cái nghiệp, chẳng bỏ được đâu” và mặt quay đi, miệng nói trống không, như không có nó: “Hồn sắp thăng”.

Vợ nó xòe hai tay về phía chồng, và “người tình” khọm, như mời trầu giã bạn:

Tình rằng…í…i…đa tình…

Lúng liếng…ơi là lúng liếng..ơi..

Xét tấm tình si;

Lả lơi bên nói bên cười…

Lúng liếng…ơi là lúng liếng..ơi..

Bên mời cố cựu…

Bên mời tình nhân…

..i..ai.. là có mấy…

Tích…tịch…tình…tang…

Tách…

Cô đồng ngồi một lúc, sau đó vuốt mặt vài cái rồi đứng lên lễ tạ. “Người tình” khọm búng dây đàn thêm một cái tách nữa.

***

Kết thúc với một tiếng “tách” đầy huyễn hoặc…Tôi để nó thả hồn đi hoang theo nhang đèn hương khói cùng một cõi đi về…Về một chuyện tình của một người con gái Bắc Ninh đa tình qua câu hát tìm nhau như một cái nghiệp, như định mệnh đã an bài.

Tiếp đến, gửi bài cho nó xem trước rồi gửi cho bạn bè đọc sau, thầm nhủ rằng nó sẽ ấm lòng. Không thấy trả lời. Nghĩ cũng quái! Vì tôi vắt óc cho con tằm nhả tơ đến như vậy mà thằng bầu dục chấm mắm cáy này còn chê ỏng chê eo mới lạ đời.

Nhưng chẳng lạ gì, tháng sau nó gọi, giọng đứt đoạn về ông bố vợ Hoàng Cầm:

– Ông cụ không chịu cho đăng bài của mày…

Và nó ngập ngừng:

– Ông cụ nói cụ có….ăn thịt chó hồi nào đâu!

Thạch trúc gia trang

Tận Nhâm Thìn niên 2012

Phí Ngọc Hùng

clip_image004

Cụ đã về bên kia sông Đuống,

kẻ hậu sinh xin phép cụ gửi bài viết

này đến bạn đọc – Nay cẩn kính.

Chú thích :

(1) Với cây cảnh, tiếng Việt cổ gọi là bông, là trái. Nhưng vì ảnh hưởng từ “hoa quả” của tiếng Tàu nên người Bắc gọi là hoa, là quả. Thành ngữ cổ có câu: “Tháng Tám nắng rám trái bưởi”

Di dân vào miền Nam, người Nam vẫn giữ tiếng Việt cổ bông, trái.

Cây dừa tiếng Bắc vào thời vua Lê chúa Trịnh gọi là “cây da” vì mượn chữ Tàu là “cây da”. Sau mới có tên là cây dừa.

***

Thêm nữa với con lợn tiếng Việt cổ (tiếng Bắc cũ) gọi là “con heo” (hay con cúi).

Di dân vào đến miền Trung, xuống tới miền Nam thì con lợn được “hoài niệm” để kêu lại với tiếng xưa, thật xưa là…con heo.

Bởi nhẽ đó nên mới có thành ngữ:
Miền Bắc không nuôi…heo nhưng thích “nói toạc móng heo”.

Miền Nam không thấy…lợn lại gọi “bánh da lợn”.

Ngộ Không

 

 

©T.Vấn 2014

Bài Mới Nhất
Search