T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Nguyên Đạo Văn Công Tuấn: CHÚNG TA CÓ LỖI TRƯỚC NHỮNG VIỆC TỐT

Đọc sách Ein Schiff für den Frieden. Das mutige Leben des Rupert Neudeck.

Đầu tháng 11 năm 2022, người quen ở Hamburg là anh Nguyễn Hữu Huấn viết Email báo tin cho biết cuốn sách viết về ông Tiến sĩ Neudeck đã xuất bản và có thể đặt sách qua bà quả phụ Neudeck. Anh Huấn là một thành viên tích cực của những hiệp hội có liên hệ với các chương trình thiện nguyện do ông Neudeck sáng lập. Anh cũng là một cộng sự lâu năm của ông, lại là một người bạn thân thiết của gia đình ông bà. Anh còn cho biết là ai đặt sách qua cách này thì sẽ dành ¼ số tiền ủng hộ Hội Cap Anamur và Hội Mũ Xanh (Grünhelme e.V.). Thật là nhất cử lưỡng tiện. Bởi vậy, tuy chưa biết nội dung sách thế nào nhưng tôi tò mò hết sức và lập tức gởi thư cho bà Christel để đặt sách ngay.

Ngạc nhiên là chỉ hai hôm sau tôi đã nhận được sách, với chữ ký và câu viết của bà ta ở trang đầu:

Thật quá hân hạnh. Ý nghĩa câu ký tặng sách ấy cũng vô cùng đẹp:

 „Es gibt nichts Gutes, außer man tut es

Ký: Christel Neudeck

Im November 2022“

Câu tặng viết tiếng Đức “Es gibt nichts Gutes, außer man tut es”, tạmdịch ra Việt ngữ là: “Không có điều gì tốt đẹp, trừ khi ta làm điều đó.” Tôi cố ý viết nguyên câu tiếng Đức ra đây vì biết rằng cảm quan của hai ngôn ngữ của câu văn này có thể hiểu theo những ý nghĩa khác nhau.

Nếu chỉ đọc câu tiếng Việt người ta sẽ nghĩ đây là một câu nói mang tư tưởng bi quan. Vì bi quan nên nhìn cuộc đời không thấy có điều gì tốt đẹp. Nhưng kỳ thật trong câu tiếng Đức thể hiện ý rằng, để có được điều tốt lành trong cuộc sống, chúng ta cần hành động tích cực và chủ động. Nó khuyến khích con người chúng ta không chỉ luôn kỳ vọng vào những điều tốt đẹp xảy ra một cách tự nhiên mà tự mình phải hành động để thực hiện những điều tốt đẹp đó. Đó đúng là cuộc đời và hành trạng của Tiến sĩ Rupert Neudeck.

Câu nói ấy được coi như là một ngạn ngữ, một câu châm ngôn hay một định ngữ phổ biến trong tiếng Đức. Nguồn gốc của người nói hay viết câu này có khi không được xác định rõ ràng, và nó đã được sử dụng trong nhiều ngữ cảnh khác nhau. Tuy nhiên, đọc kỹ ở cuối sách và dò theo một số tài liệu khác, thì được ghi rằng câu nói của Erich Kästner, một nhà thơ, nhà văn và nhà báo người Đức.

Và cuốn sách tôi nhận được ấy có nhan đề: “Ein Schiff für den Frieden, Das mutige Leben des Rupert Neudeck “

Nhan đề, trong phần đầu “Ein Schiff für den Frieden” dịch đơn giản là “Một con tàu cho hòa bình”, ám chỉ đến một dự án hoặc hoạt động nhằm thúc đẩy hòa bình. Nhan đề phụ, “Das mutige Leben des Rupert Neudeck – Cuộc đời dũng cảm của ông Rupert Neudeck”, nêu bật về đời sống đầy can đảm và táo bạo của ông Rupert Neudeck, một nhân vật có liên quan đến việc xây dựng và hoạt động của con tàu Cap Anamur. Và sự táo bạo cùng can đảm ấy đã cứu mạng sống hàng vạn đồng bào của chúng ta khi ngụp lặn vô vọng giữa biển Đông. Sách do Christina Bacher soạn và Lukas Ruegenberg vẽ hình minh họa.

Lật vào sách, sau trang Mục Lục (trang 4) sách in câu thơ của văn hào Heinrich Böll, là một nhà văn và nhà văn hóa người Đức, người đã nhận được Giải Nobel Văn học năm 1972. Ông nổi tiếng với các tác phẩm về các đề tài giáo dục xã hội và những tư tưởng mang tính chất nhân đạo nói chung. Câu thơ nổi tiếng – nhưng cấu trúc ngữ pháp thi ca Đức rất khó dịch đầy đủ ra tiếng Việt ấy như sau:

„Tuende, nicht Tätige, möchte ich ehren.

Alle diejenigen, die wissen, was es bedeutet,

ein Flüchtling, ein Vertriebener zu sein,

unwillkommen zu sein“.

Tạm dịch:

Hành động, không khoanh tay nhìn. Tôi xin tôn vinh họ.

Tôn vinh tất cả những ai thấu hiểu được

một người tỵ nạn, một kẻ bị rượt đuổi,

những kẻ không được đón nhận.

Ý nghĩa của những câu thơ này là bày tỏ lòng quý mến, kính phục những người đang tích cực hành động. không phải những kẻ chỉ khoanh tay đứng nhìn,thờ ơ trước cảnh đồng loại bỗng chốc trở thành những người di cư, những kẻ bị lưu đày hay những người bị bắt buộc phải rời khỏi quê hương của mình để đi tỵ nạn, nhưng lại không được thiện cảm chào đón nơi đất khách.

Lần dở sách tiếp theo, trang 7, là Lời Giới Thiệu của bà Christina Bacher với nhan đề: Gerade jetzt – Einfach tun! Nie mehr Feige sein / Ngay bây giờ – Chỉ cần hành động! Đừng bao giờ là kẻ hèn nhát!

Chương 1 (trang 10): Eine (zeitweise) schöne Kindheit – Một tuổi thơ (đôi lúc) hạnh phúc. Chương này kể về cuộc sống của gia đình ông ở Danzig, Ba Lan. Nơi đây đã từng có 220.000 người di dân gốc Đức đến sinh sống. Chương này cũng kể về sự kiện gia đình ông, đầu tiên mang họ là Nowocyn, sau đó được đổi thành Neudeck; giống như trường hợp rất phổ biến của các dòng họ khác gốc Đức thời bấy giờ sống ở khu vực nước Ba Lan: giòng họ Buchikovskis đổi thành Buchners, họ Milrownas đổi thành Müllers.

Chương 2 (trang 20) tựa đề: Wer zu spät kommt, den belohnt das leben – Cuộc đời lại thưởng cho những kẻ đến muộn. Đây là một câu nói thường nghe ông Rupert Neudeck nói, nhưng ý nghĩa hoàn toàn không phải mang ý tiêu cực, khuyến khích việc đi trễ. Đây chính là một câu chuyện đầy thương tâm và có thật của gia đình ông.

Chuyện trong chương này kể về việc gia đình ông, như những gia đình gốc Đức khác ở Ba Lan, sau chiến tranh thế giới thứ hai phải quay về tỵ nạn ở Đức. Bà mẹ Gertrud của gia đình Neudeck, giữa tuyết phủ giá lạnh của mùa đông khắc nghiệt âm độ của năm 1945, đã một mình dắt 4 đứa con Ingrid, Rainer, Veit và Rupert (Franz-Martin lúc đó chưa sinh) lặn lội tìm đến thành phố cảng Gotenhafen để mong đón tàu quay về Đức, như bao nhiêu người tỵ nạn khác. Sau nhiều ngày khổ cực di chuyển giữa giá băng, ngày 31.01.1945 họ đến được bến cảng. Dù đã chen chúc và cố gắng hết sức nhưngkhi họ đến nơi thì tàu đã vừa rời bến. Họ phải tìm chỗ trú ẩn tạm thời tránh đói và lạnh. Đến 21 giờ tối hôm đó họ nhận được một tin kinh hoàng: một chiếc tàu ngầm của Nga đã bắn 3 quả đạn pháo ngay vào chiếc tàu chở người tỵ nạn. Chỉ trong vòng một giờ đồng hồ, chiếc tàu chở trên 9.000 người tỵ nạn đã chìm lỉm giữa biển khơi. Chín ngàn con người không một ai sống sót. Thật rủi ro cho 9.000 nạn nhân những người tỵ nạn, gia đình Neudeck do đến trễ nên không đi kịp trên chuyến tàu hãi hùng này và đã thoát chết.

Chương 3 (tr.31): Die lange Flucht in die Freiheit – Cuộc trốn chạy lâu dài đến bến bờ tự do.

Chương 4 (tr.38): Der Vater lebt – Người cha (vẫn) còn sống. Ở Đức, Rupert nghe được tin người cha của mình, đang là tù binh chiến tranh của quân đội Anh và vẫn còn sống.

Chương 5 – chương 8 (tr.47-tr.63): Sinh hoạt của gia đình Neudeck ở Đức, như những gia đình tỵ nạn. Đặc biệt các chương này nói là con đường học hành, làm việc của ông Rupert Neudeck.

Chương 9 – chương 15 (tr.64-tr.113): Con đường dẫn tới các hoạt động của Rupert Neudeck và bạn hữu của ông.

Chương 16 (tr.114): Lasst mal die Kinder ran! Đến phiên những đứa trẻ. Chương sách nói về những hạt giống đáng quý đã được gieo trồng và nẩy mầm trong gia đình Neudeck.

Ví dụ như phát biểu của Milena Neudeck lúc cô còn là một cô bé: Nếu quý vị có ý kiến khác, tôi xin kính đề nghị quý vị viết cho tôi một lý do thực sự thuyết phục về việc tại sao nước Đức không nên cung cấp xe tăng dọn mìn cho những người cần chúng – Wenn Sie  anderer Meinung sind, möchte ich Sie bitten, mir einen wirklich triftigen Grund zu schreiben, warum Deutschland die Minenräumerpanzer nicht denen geben soll, die sie brauchen.

Hay thú vị hơn, bức thư của cô bé Nola Neudeck viết gởi Thủ tướng Đức Angela Merkel:

Và ở đó có một ông Tổng thống tên là Mugabe. Ông ấy rất độc ác vì đôi khi ông ấy giết người (…) Chúng ta có thể thảo luận về việc để ông ấy ra đi không? Hoặc việc ông ấy trở nên người như Bà (tức bà thủ tướng Merkel)? – und da gibt es einen Präsidenten, der heißt Mugabe. Und ist böse, weil er manchmal Leute tötet (…) Können wir bitte besprechen, dass der wegkommt? Oder dass er so wird wie du?

Những câu nói nghe thật giản dị, trẻ con và tức cười. Nhưng đàng sau các câu nói ngây ngô ấy biểu lộ những hạt giống từ bi, tinh thần bác ái đã được hai ông bà Neudeck gieo trong lòng con cháu của họ trong gia đình. Và nó đã thực sự đâm chồi, nẩy lộc tạo nguồn hữu ích cho đời.

Chương 17 – chương 20 (tr.121-tr.145): Những hoạt động của Hiệp hội Grünhelm e.V. Các chương này cũng đề cập đến những nguy hiểm mà Hiệp hội và những thành viên của họ gặp phải ở khắp nơi trên thế giới.

Chương 21 (tr.146): Gia sản để lại của Rupert Neudeck.

Có lẽ không ai có thể nói hết được về cái gia sản tinh thần to lớn mà ông tiến sĩ Rupert Neudeck để lại sau khi ông qua đời vào 31.05.2016 trong một ca mổ tim, bằng chính người cộng sự trong cả cuộc đời của ông là bà quả phụ Christel Neudeck. Nhan đề bài viết cuối sách của bà Christel mang tên „Không sợ hãi cũng không liều lĩnh – weder furchtsam noch tollkühn“. Bà kể rằng, năm 1979 chính là năm mà cuộc đời của ông bà đã thay đổi hoàn toàn, khi họ bắt tay vào việc kêu gọi bạn hữu cùng thành lập con tàu Cap Anamur cứu người tỵ nạn trên biển Đông. Cuối cùng con tàu này đã cứu vớt được 11.300 người tỵ nạn, chủ yếu là người Việt Nam. Rồi ngay sau đó, 5/1980 chiến dịch giúp đỡ y khoa cho Somalia, Phi châu. Rồi những công trình từ thiện khác liên tục kế tiếp theo. Tất cả công việc điều hành, lên kế hoạch…. đều xuất khởi đi từ căn phòng khách ngôi nhà của ông bà, đặt làm văn phòng. Văn hào Günter Grass đã nhìn thấy và diễn tả cái „trung tâm đầu não“ này như sau: Mọi người thích sự hỗn loạn[bề bộn]. Điều ấy đã làm cho họ trở nên sáng tạo… Trong trường hợp này, chúng ta đang tiếp cận những con người yêu lý tưởng, họ bất chấp các luật lệ quy định, các hướng dẫn hiện hành và những thứ tương tự -Die Leute lieben das Chaos. Das macht sie kreativ… Wir haben es in diesem Fall mit Idealisten zu tun, die sich einen Dreck um bestehende Vorschriften, Richtlinien und so weiter kümmern.

Sự liều lĩnh khi đứng trước những mối tương cảm cho nổi khỗ của đồng loại, đã thúc đẩy ông bà và thân hữu của họ dám vượt ra khỏi những quy định phức tạp và nghiêm khắc của hệ thống hành chánh ở nước Đức, để thực hiện được bao nhiêu công trình nhân đạo mà trước nay chưa ai thực hiện được. Việc ấy liên quan đến việc cứu sống bao nhiêu mạng người và nối dài đến những thân nhân của các con người ấy sau đó. Và việc ấy có khi cũng rất nguy hiểm cho những nhà thiện nguyện.

Ca dao Việt Nam ta có câu: „Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người“. Xem đây, những hoạt động của Hội Cap Anamur và Grünhelm e.V. đã xây được cả một thành phố toàn những bậc „phù đồ“ chín tầng khắp nơi trên thế giới.

Cá nhân tôi không hề có tham vọng tóm tắt nội dung tất cả các trang sách ở đây. Việc ấy xin độc giả tự cảm nhận khi mở ra đọc từng trang sách, xem từng bức họa. Những điều tôi viết ra đây chỉ là phần sơ lược ở các chương sách, hoàn toàn từ cái nhìn chủ quan của mình, Nhưng đó cũng là từ tấm lòng của mình cộng thêm sự kính trọng và nể phục gia đình Neudeck. Không chỉ ở ông Rupert, người đứng đầu tổ chức con tàu cứu hơn một vạn đồng bào tôi, mà còn ở bà Christel – và cả đối vớinhững người con và cháu trong gia đình ông bà.

Cuốn sách viết bằng tiếng Đức, in rất đẹp, giấy dày và trắng, bìa cứng, khổ 21,5 x 21,5 in màu, dày 168 trang, có thể cho trẻ em (từ 10 tuổi) và người lớn đều đọc được. Sách có thể đặt mua online trên mạng hay các nhà sách địa phương.

oOo

Rồi vào tháng 5/2023 tôi lại nhận được tin của anh Huấn gởi báo cho hay về cuộc triển lãm của Viện Bảo Tàng Thành Phố Troisdorf , chủ đề „Ta phải làm cái gì đó“.

Trên áp-phích của cuộc Triển Lãm có ghi câu nói của tiến sĩ Rupert Neudeck:

“Man mus etwas tun, ohne lange vorher zu überlegen, ohne zu fragen, ob es überhaupt geht, ob man genug Geld dazu hat. Man mus etwas tun.

Ta phải làm điều gì đó mà không cần đắn đo suy nghĩ lâu, không cần hỏi liệu nó có thể thực hiện được hay không, liệu ta có đủ tiền hay không. Ta phải (bắt tay ngay) làm điều gì đó“.

Câu nói ấy phải được hiểu là:

“Man muss handeln, ohne lange zu überlegen, ohne zu fragen, ob es überhaupt möglich ist oder ob man genug Geld dafür hat.”

“Chúng ta phải kịp thời hành động mà không cần suy nghĩ quá lâu, không cần hỏi liệu điều đó có khả thi hay có đủ tài chánh để thực hiện hay không.”

Vâng, đây là một lời hướng dẫn, một lời dạy cao quý, một kinh nghiệm từ một con người sinh ra để trải nghiệm và làm điều thiện. Một bông hoa tuyệt đẹp chỉ biết nở ra và tỏa hương cho đời. Con người ấy khi gặp điều thiện, điều công ích cho cộng đồng xã hội thì bắt tay vào làm ngay. Chúng ta, những người Việt Nam tỵ nạn cũng đồng số phận như ân nhân Rupert Neudeck của chúng ta. Chúng ta là những tỵ nạn và chúng ta đang sống đầy đủ giữa nước Đức sung túc – cho dù chúng ta đang là ai, đang làm công việc gì trong xã hội này. Chúng ta hãy học theo gương sáng từ cuộc đời của ông Rupert. Đừng chần chờ, đừng trì hoãn vì bất cứ một lý do mà mình cứ vẽ ra và tự cho là chính đáng. Cũng đừng là „kỳ đà cản mũi“ trước những công trình thiện nguyện, công ích. Thời gian trôi đi rất nhanh. Đời người rồi có lúc sẽ chấm dứt.

Và, phải chăng điều này cũng đã quá cũ. Chính triết gia Voltaire đã từng nói đến từ bốn thế kỷ trước, mà đa số chúng ta đã vô tình hay cố ý bỏ ngoài tai.

„Jeder Mensch ist all des Guten schuldig, das er nicht getan hat“.

„Mỗi chúng ta đều có lỗi trước những việc tốt mà ta đã không chịu thực hiện“.

Nguyên Đạo Văn Công Tuấn

Viết ngay khi đọc được bài thơ „Biển vẫn mang màu xanh“ cuối đời của thi sĩ Tùy Anh, sáng tác trên giường bệnh – Asklepios Klinikum Harburg 17.08.2023:

Kể từ khi tôi đứng lặng yên / Trên boong tàu Cap Anamur / Tôi mới thấy nước biển xanh

[…]Bởi biển thủy chung luôn giữ màu xanh / Màu của thanh tịnh bình yên…

Bài Mới Nhất
Search