Tên gọi Ải Nam Quan nghĩa là gì và từ đâu có tên gọi ấy?
a/
Vào khoảng thập niên 30 hoặc 40 của thế kỷ 15, biên cương phía bắc của nước ta được xác định một cách rõ ràng tại “vị trí hiểm yếu” của ải Nam Quan. Người Trung Hoa gọi đó là Trấn Nam Quan có nghĩa là “cửa quan trấn giữ ở phía nam” của đất nước họ, hoặc gọi bằng một cái tên có ý nghĩa xấu hơn nữa là Trấn Di quan (cửa quan để trấn áp bọn người man di, mọi rợ).
Người Việt Nam không bác bỏ hoàn toàn cái tên đó, mà bỏ đi chữ trấn, chỉ gọi là ải Nam Quan hay cửa quan Nam Giao. Chữ Nam mà người Việt dùng có nghĩa là nước Nam (nước ở phía Nam của Trung Hoa), tương tự như chữ Nam trong Đại Nam hay Việt Nam. Đó là một cách gọi nhún nhường, khiêm tốn nhưng thể hiện ý chí kiêu hùng, không khuất phục. Trong thực tế, suốt từ đó cho đến khi mất nước vào tay người Pháp, người Việt qua nhiều bước thăng trầm vẫn không đánh mất ải Nam Quan
Source:
http://hasiphu.com/nhomdalat_MTL21.html
b/
Ải Nam Quan được xây dựng từ triều Hán, tên gọi ban đầu là 雍雞關 (tạm phiên âm Hán Việt là “Ung Kê Quan”). Chữ “雍” có ba âm đọc là “ung”, “ủng” và “úng”, do chưa có văn hiến cho biết ý nghĩa chính xác của tên gọi “雍雞” nên ở đây chỉ tạm đọc chữ “雍” là “Ung”. Về sau Ủng Kê Quan được đổi tên thành Đại Nam Quan (大南關), Giới Thủ Quan (界首關).
Năm Hồng Vũ nguyên niên (洪武元年) triều Minh (Tây lịch năm 1368), đổi tên thành Kê Lăng Quan (雞陵關).
Tháng 6 năm Vĩnh Lạc (永樂) thứ 5 (Tây lịch: ngày 5 tháng 7 năm 1407) triều Minh, đổi tên thành Trấn Di Quan (鎮夷關).[2]
Trong khoảng thời gian từ năm Tuyên Đức (宣德) thứ 3 (Tây lịch năm 1428) đến năm Gia Tĩnh (嘉靖) thứ 18 triều Minh (Tây lịch năm 1539), chưa rõ cụ thể là năm nào, Trấn Di Quan được đổi tên thành Trấn Nam Quan (鎮南關).
Source:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_Quan
ĐAU LÒNG NÚI SÔNG
Việt Nam ơi… nghe đau lòng sông núi
Tan hoang rồi những ngọn núi xẻ đôi
Người có biết lệ dòng sông buồn tủi
Cạn kiệt khô theo mệnh nước nổi trôi
Biển làng chài giờ hóa thành mặn đắng
Chiều ráng pha ngóng ngư phủ quay về
Đợi thuyền nhân. Chẳng ai về. Đêm trắng…
Một màu tang phủ xuống ngõ đường quê
Việt Nam ơi … sao chùng lòng ngôn ngữ
Tiếng quê hương đâu ngọt lịm câu hò
Từ lũy tre, từ áo em thục nữ
Từ đêm trăng xuôi bóng đổ con đò
Hương của đất giờ chẳng còn đâu nữa
Dẫu máu xương bao chiến sĩ hùng anh
Đã nằm xuống ngày bọc thây da ngựa
Đất quê mình: Mùi khổ nạn chiến tranh
Việt Nam ơi …mai tìm đâu ranh giới
Đất nước mình lẫm liệt Bạch Đằng Giang
Hồn Anh Linh trên non cao vời vợi
Vẽ bản đồ dựng lại ải Nam Quan
Như Thương
(Tháng Chạp 2019)