T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Nghiện Đảng

Tạ Duy Anh

Kỳ I

(Nhân ngày giỗ bố, cũng là nguyên mẫu nhiều nhân vật của tôi. Nhân tiểu thuyết “Sur le dos du buffle” tái bản và lấy lại tên gốc Lão Khổ. Bài dài nên tôi sẽ chia làm hai kỳ)

Ông tổ của chủ nghĩa cộng sản bảo: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân!” Có lẽ lúc ấy ông chưa hình dung ra rằng thứ học thuyết của ông mới thực sự gây nghiện cho một bộ phận nhân dân, khiến họ u mê, rồ dại còn hơn cả bị nghiện thuốc phiện.

Chẳng hạn như trường hợp bố tôi.

Ông chỉ nghiện thứ duy nhất, ấy là chủ nghĩa cộng sản, được ông đồng nghĩa với “đảng”. Vì thế, việc ông bị “khai trừ” khỏi đảng vào năm mới ngoài 40 tuổi, khiến ông luôn lên cơn “vật”, như người bị “vật thuốc!”

Đến mức đã vài lần bố nuôi ý định tự tử.

Cuối cùng ông chọn giải pháp cặm cụi viết những lá đơn “đòi đảng tịch”. Ông thức thâu đêm để viết, vẻ mặt đăm chiêu, sâu sắc, đầy tính chiến đấu của một đảng viên dù sa cơ lỡ vận, dù bị hàm oan, dù phải một mình đơn độc trong lòng địch (với bố tôi thì những cán bộ huyện, xã, thôn tham gia hất cẳng ông đích thị là địch) vẫn một lòng trung kiên, tin tuyệt đối vào sự sáng suốt của đảng! Mỗi lần ông ngồi xuống viết, tôi lại thấy vẻ mặt ông ánh lên niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng nay mai. Vì thế cứ được một tệp là ông lại bó cẩn thận, nhét sâu vào trong người, thắt dải rút thật chặt rồi lặn lội cùng chiếc xe đạp đi đâu đó.

Thường thì sáng sớm bố đi, khi chúng tôi chưa dậy, chiều tối mới về, kèm theo mấy chiếc bánh mỳ cho chúng tôi, hoặc ít cơm cháy khô cho lợn mà ông tiện đường mua mang về. Cũng có khi bố vắng nhà hai ba ngày. Chiếc xe đạp Thống Nhất bố mua theo tiêu chuẩn cán bộ xã, đã cùng ông mơ giấc mơ đại đồng không biết bao nhiêu lần trên khắp nẻo đường xã Hoàng Diệu, thì giờ đây lại theo ông cọc cạch đi đòi đảng tịch. Nhưng tôi chỉ biết đến thế. Còn ở trên tỉnh, trên trung ương bố gặp những ai, kêu ca gì với họ, họ nói gì với ông… thì tôi được biết rất ít.

Sau mỗi lần cặm cụi viết đơn, ông phờ phạc hẳn đi, mặt mũi phủ đầy bóng tối uất hận. Nhưng lần nào từ trên tỉnh, trên trung ương trở về mắt ông lại sáng lên một niềm hoan hỷ.

Cũng từ khi “mất đảng”, ông bắt đầu mắc căn bệnh nói một mình, đương nhiên là nói thầm. Miệng ông mấp máy không thành tiếng nhưng cơ mặt thì biểu lộ đầy đủ xúc cảm của ông, nghĩa là có ái, ố, hỷ, nộ… theo từng vấn đề mà ông đang diễn thuyết thầm. Có lần tôi thấy rõ miệng ông mím lại, y như lúc ông phát biểu trong một hội nghị và đang chì chiết cấp dưới. Chỉ có điều tôi phải nhắc lại là ông nói thầm và nói một mình. Tôi đã cố công giải mã xem bố đang nói gì và ông tưởng tượng trước mặt ông là ai, nhưng đó là điều vô cùng khó. Bởi vì ông sẽ dừng lại ngay nếu cảm thấy có người để ý.

Nhưng rồi một lần tôi cũng đã toại nguyện. Lần ấy quá say sưa nên ông quên mất là tôi đang ngồi ngay phía sau cửa để học bài. Tiếng thì thào phát ra từ miệng bố vọng vào tai tôi rất rõ. Và hoá ra đó là một bài phát biểu của ông, với giả định là ông đang trong buổi họp chi bộ. (Khi còn là đảng viên, chi bộ nơi bố tôi sinh hoạt, thường họp tại nhà tôi. Có hôm họ chỉ xoay quanh vấn đề xử lý một con trâu chết rét như thế nào. Sau mỗi lần như vậy tôi đều phải lau những bãi nước điếu khai kinh khủng bị xỉ ra vô tội vạ. Thậm chí có lần tôi còn được ngồi chầu rìa nghe mọi người kể chuyện tiếu lâm liên quan đến quan hệ vợ chồng). Bài phát biểu thì thào nhưng rất gay gắt ấy như sau:

– “Đồng chí Văn nói thế mà nghe được à? Bản thân đồng chí đã gương mẫu chưa? Đồng chí quên rằng chúng ta chỉ là công cụ của đảng, giống như cái cuốc cái mai, đảng sử dụng vào việc gì là quyền của đảng. Ngay cả nguyên tắc Mác-xít số một ấy đồng chí cũng còn không nhớ. Làm người cộng sản đồng chí phải thuộc lòng lời sau đây: “Tiên thiên hạ chi ưu, hậu thiên hạ chi lạc”. Hôm nay đồng chí tự ý như vậy, ngày mai đồng chí có thể xét lại các nguyên tắc…”

“Đồng chí Văn” mà bố nhắc tới là người mà tôi phải gọi bằng chú họ. Chú hiền lành, nghèo khổ, quanh năm mắt kèm nhèm với hai cục nhử vĩnh cửu bằng hạt đỗ đùn ra từ hai bên mắt đầy lông quặm và ai bảo thế nào chú cũng gật. Tôi nhớ có lần chú mặc quần đùi đến họp chi bộ, phô ra bộ gọng xương xẩu và tôi nhìn rõ cả “của quý” của chú chỉ bé bằng ngón tay. Chính bố tôi giới thiệu chú vào đảng. Vì thế mặc nhiên chú là người thuộc phe bố. Trước kia, ngày nào chú Văn cũng ghé qua nhà tôi để hút thuốc lào, nhưng việc chính là báo cáo bố tình hình thôn xóm.

Nhưng từ khi bố mất chức, rồi lại bị khai trừ đảng thì không chỉ chú Văn mà hầu hết những cấp dưới một thời của bố tôi đều tránh gặp ông. Có lẽ họ ngại phải ngồi nghe ông mắng mỏ những kẻ đã hạ bệ ông, trong đó có nhiều người vừa được cất nhắc làm lãnh đạo. Điều đó khiến bố tôi thấy chua chát. Nhưng chua chát hơn là ông vĩnh viễn bị gạt ra ngoài những vấn đề trước đây ông luôn được hỏi ý kiến.

Thời gian đầu, ông khắc phục điều đó bằng việc gọi chú Văn đến bắt tường thuật lại. Ông gọi chú Văn đến không phải với tư cách cấp trên, mà với tư cách một ông anh họ, lại là người có công dìu dắt, nâng đỡ chú. Ông chăm chú nghe rồi cho ý kiến chỉ đạo để chú Văn theo đó mà đưa ra chi bộ. Nhờ thế mà tuy ngồi trong xó nhà nhưng ông vẫn không bỏ qua bất cứ nội dung nào chi bộ đem ra bàn. Tức là ông vẫn hiện diện ở các cuộc họp chi bộ thông qua chú Văn.

Cơn thèm họp chi bộ, thèm được đấu đá, thèm được thể hiện tư cách đảng viên của bố chưa khi nào hạ hỏa. Nhiều lần bố tôi nói sa sả còn chú Văn thì cúi đầu ngồi nghe, hai tay không ngớt vò lên mái tóc cứng như nan chổi xể. Nhưng dần dần không phải lúc nào bố tôi cho gọi chú Văn cũng vội vã đến ngay như trước đây. Chú bắt đầu bỏ ngoài tai những lời trách cứ, móc máy, dọa nạt của bố tôi. Thỉnh thoảng tiện thể chú mới ghé qua và cũng chỉ chốc lát lại cáo lý do đứng dậy.

Sau những buổi sinh hoạt chi bộ tưởng tượng, ông lại càng có động lực để cặm cụi viết đơn, cặm cụi sửa chữa chiếc xe ngày càng xuống cấp để tiếp tục lên tỉnh, lên trung ương đòi đảng tịch! Ông coi là đó là việc quan trọng nhất phải làm trước khi chết. Vì nó có liên quan đến tương lai của chúng tôi.

Nhưng trước khi quyết giành lại cho chúng tôi thứ “tài sản tinh thần” đó, ông biến chúng tôi trở thành những người khốn khổ nhất trên trần gian. Ngày đó chưa có các phương tiện nhân bản như bây giờ, cho nên muốn có nhiều lá đơn giống nhau để gửi đến nhiều nơi, thì chỉ có cách duy nhất là chép tay. Bất cứ đứa nào, hễ chỉ cần biết viết là bố tôi bắt chép đơn. Đang học giữa mùa thi cũng phải bỏ đấy. Việc chép đơn cần kíp hơn. Có bận gần hết anh chị em tôi cùng nằm bò ra đất viết đơn đòi đảng tịch cho bố. Thậm chí ông còn huy động cả mấy đứa cháu, thứ bảy chủ nhật vào nhà tôi chép đơn kiện cho ông từ sáng đến tối. Những hôm đó nhà tôi như có việc đám. Mẹ tôi nhễ nhại mồ hôi, tất tưởi lo thịt gà, đồ xôi, nấu miến để mời những người chép đơn giúp. Đương nhiên là chúng tôi cũng được đánh ké.

Khó mà tìm được ai kiên nhẫn hơn bố tôi trong chuyện kiện tụng và tin vào cấp trên. Có lần tôi được bố “thưởng” cho chuyến đi chơi Hà Nội để “mở mang đầu óc”. Ông đưa tôi vào nhà bảo tàng quân đội, vào công viên Bách Thảo, đến những nơi thời trẻ ông từng sống hoặc qua lại khi làm thằng ở cho nhà phán Thịnh. Sau đó bố con tôi đi ăn phở và đó là lần đầu tiên tôi biết món phở.

Nhưng hoá ra phần lớn thời gian chuyến đi là để ông tìm đến những cơ quan mà ông gửi đơn.

Tại đó ông gặp một vài cán bộ đảng, những người trông rất lạnh lùng và khắc nghiệt. Tôi không bao giờ hiểu hết nội dung của những cuộc trao đổi ấy. Bố tôi đầy vẻ oan khuất nói lại những điều mà ông đã nói hàng ngàn lần, rằng ông không thể thiếu đảng, ông yêu đảng, cả đời ông hy sinh cho đảng. Nếu bảo ông giết chết vợ con vì đảng thì ông cũng không ngần ngại, vậy mà đảng lại nghi ngờ ông. Ông không làm gì sai mà sao tước mất danh hiệu đảng viên của ông, khiến ông sống không bằng chết. Người nghe gật đầu liên tục như đã thấu hiểu. Rồi thể nào bố cũng nhận được hàng lô những lời hứa. Ông đem chúng về nhà với một niềm tin là toàn đảng toàn dân toàn quân đang cùng châu đầu lại xem xét những lời kêu oan của ông!

Một câu hỏi mà ông hay hỏi nhất khi gặp cán bộ của đảng, nguyên văn như sau: “Thế chả nhẽ đảng để cho tôi cứ oan khuất thế này hay sao? Đảng ở đâu mà lời tôi kêu mãi không thấu”? Phần lớn người bị chất vấn chỉ cười, bày tỏ nỗi cảm thông hoặc kèm theo vài lời an ủi. Nhưng rồi trong một lần như vậy, ông cán bộ bị bố tôi chất vấn chắc là nhịn không đừng, vỗ vai bảo bố tôi: “Đảng ở ngay bên cạnh ông chứ ở đâu mà phải tìm cho mệt!” Bố tôi tỏ ra không hiểu, ông kia bèn cười thông cảm: “Thế ông nghĩ đảng là ai, ở trên trời chắc! Đảng là mấy ông cán bộ đang thi hành kỷ luật ông đấy thôi. Là mấy thằng mà ông vẫn gọi là “chó săn” ấy, đảng đấy chứ đâu”.

Tôi thấy mặt bố bạc phếch đi. Sao có thể như thế được? Với ông, đảng là một cõi rộng lớn, một đấng vô hình nào đó thiêng liêng đến mức không thể đụng chạm, sờ mó. Ngay cả nhắc đến cũng phải rất cẩn thận kẻo vô ý sàm sỡ. Vậy mà nay ông cán bộ kia lại bảo mấy kẻ phàm phu tục tử, vừa dốt vừa đểu, thối gan thối ruột vì thâm thù cá nhân, những kẻ ăn bẩn nói hỗn… là đảng, thì làm sao ông chịu nổi. Ông lắc đầu một cách ngoan cố với nụ cười chua chát không công nhận.

Ông cán bộ kia cũng chỉ còn biết cười nhạt, thương hại cho kẻ có phần giống một gã dở người. Không một ông cán bộ nào mà bố gặp hôm đó tỏ ra thân thiện quý mến bố con tôi, nếu không muốn nói là ngược lại. Nơi họ làm việc có vẻ gì đó bí hiểm, lạnh lẽo, gợi đến lò mổ, phòng thí nghiệm, nhà xác… khiến cả khi đã ngồi ôm chặt bố từ phía sau, tôi vẫn không thoát khỏi cảm giác rợn tóc gáy của kẻ bị săn đuổi.

Cái không khí âm u, đáng sợ ấy sẽ còn tái hiện lại trong nhiều tác phẩm của tôi sau này.

Ngôi nhà, vốn cải tạo lại từ cái chuồng trâu cụ nội tôi để lại, là nơi sinh sống của chúng tôi đến tận năm 1995. Nó từng bị đồn thổi là “biệt thự” đến mức ông bí thư tỉnh ủy Hà Tây Nguyễn Xuân Trường phải về tận nơi để kiểm tra. Ảnh: FB tác giảKỳ II

Sau những chuyến lên tỉnh, lên trung ương, bố tôi lại thấp thỏm chờ đợi. Bất cứ ai dừng xe trước ngõ nhà tôi đều cho ông niềm hy vọng. Ông hy vọng lời kêu oan của ông cuối cùng cũng đã có người nghe thấy.

Thực ra thì hầu hết những người bố gặp đều chán bố ra mặt, nhưng bố không quan tâm.

Gõ cửa các nơi mãi đều không hiệu quả, trong khi đó thì “giậu đổ, bìm leo” sự trả thù khốc liệt bắt đầu trút xuống gia đình chúng tôi, bố quyết định tung ra đòn “tổng tấn công và nổi dậy” bằng cách kéo chúng tôi vào cuộc ăn vạ bi hài nhất lịch sử!

Chuẩn bị một bó đơn và một cuộn tiền, bố tôi một mình quyết định ngày giờ và thành phần sẽ lên đường chiến đấu! Không ai được bàn lùi. Không ai được tỏ ra nản chí. “Nản chí, mệt mỏi thì sang Mỹ mà ở” – Bố tôi thường bảo chúng tôi thế và tin đó là lời của Phi-den nói với vợ con ông ta!

Đúng ba giờ sáng một ngày đầu hè, chúng tôi-gồm bà nội, bố, tôi và hai đứa em bên dưới-lên đường “tiến về Hà Nội”, nhằm thẳng vào trung tâm đầu não là quảng trường Ba Đình. Từ nhà ra bến xe khách Chúc Sơn gần 10km, chúng tôi phải cuốc bộ. Bố tôi đi bộ rất nhanh nên chúng tôi đều phải chạy gằn theo. Hai đứa em tôi tái hết cả mặt vì mệt. Chân chúng tôi đều phồng rộp, cực kỳ đau đớn nhưng không được bất kỳ có lời kêu ca nào. Bố tôi coi sự yếu đuối như một loại kẻ thù nguy hiểm. Ngay cả bà nội tôi, ngoài bảy mươi tuổi, cũng phải cắn răng im lặng.

Đến Hà Nội, sau khi đánh chén no bụng toàn những thứ mà ngày thường có nằm mơ cũng không thấy, chúng tôi đi tầu điện lên mạn Hồ Tây. Tại đó có rất nhiều cơ quan của đảng, chính phủ, mà bố từng ra vào nhẵn cả đế dép. Ông chia đôi lực lượng. Bà nội, tôi và đứa em bên dưới làm thành một mũi, phía Mai Xuân Thưởng. Còn ông và đứa em út khoảng 10 tuổi thì “phụ trách” khu vực Hùng Vương.

Mỗi người chúng tôi cầm một tập đơn. Hễ thấy chiếc xe con bóng lộn nào, đa phần mầu đen, từ bất cứ chiếc cổng nào chui ra mà trong tầm kiểm soát của chúng tôi, lập tức chúng tôi lao ra đứng chặn ở đầu xe. Phần lớn cửa kính xe đều hạ xuống, tay ai đó thò ra nhận đơn, rồi chiếc xe lại lao đi. Và chỉ thế thôi. Chả ai quan tâm, ngoài những người đi đường hiếu kì. Trong giờ hành chính thì không có vấn đề gì. Thậm chí người phụ trách khu vực là một thiếu tá, còn bày cho chúng tôi cách nhận biết chiếc xe nào chở người quan trọng, chiếc xe nào đừng mất công chặn chỉ tổ mất thì giờ. Lúc thảnh thơi ngồi nghe bố kể sự tình, ông thiếu tá còn khích lệ bố phải chiến đấu tới cùng.

Nhưng hễ hết giờ làm việc, lập tức lực lượng bảo vệ, do chính ông thiếu tá chỉ huy, lùa chúng tôi lên xe, chở thẳng về đồn công an Bờ Hồ. Chúng tôi không cần phải trình báo thì những người trực đồn công an cũng biết chúng tôi là ai. Thậm chí tôi có cảm giác họ chẳng cần biết chúng tôi là ai. Chúng tôi có thể nằm trên những cái ghế dài kê trong mấy gian nhà, hoặc tìm chỗ nào đó trên vỉa hè, miễn là đừng gây rắc rối. Nhưng hình như trong trường hợp của chúng tôi thì có sự thông báo trước nào đó. Vì thế không một ai gây khó dễ hoặc doạ nạt gì.

Với bố, đánh động được khu đầu não thế cũng là một thắng lợi bước đầu. Ông vui ra mặt và mặc dù rất tằn tiện, nhưng những lúc như vậy thì ông sẵn sàng hào phóng. “Chén đã, để lấy sức” – ông thường bảo chúng tôi. Ông cho chúng tôi ăn uống tươm tất rồi đi dạo loanh quanh khu vực đường Lê Thái Tổ bây giờ. Cách đồn công an không xa là nhà hàng Thuỷ Tạ, nơi buổi tối thường bán kem, thứ còn khá hiếm hồi đó nên muốn mua được phải xếp hàng.

Có hôm bố chen vào và may mắn mua được cho mỗi người một que kem trộn cốm vẫn còn “non”, tức là chưa kịp rắn hẳn. Bờ Hồ luôn có gió nên kem chảy rất mau. Tôi cầm hai que kem chạy đi tìm bà nội, nhưng gào khản cổ vẫn không thấy bà đâu. Hai chiếc kem cứ bé lại rất nhanh trong tay tôi khiến bố phải hét lên bảo tôi ăn nhanh đi.

Tôi nhét cả hai que kem đã chảy quá nửa vào miệng, má phồng lên, lập tức thấy như răng sắp rụng hết. Nhưng tôi kiên quyết không nhè ra vì tiếc của và chủ yếu vì sợ bố mắng. Tôi gần như mất hoàn toàn cảm giác là mình đang ăn kem, chỉ thấy buốt nhói đến tận óc. Suốt gần cả tháng trời sau đó tôi ăn uống rất khó khăn và cứ nghĩ đến kem là lại rùng mình kinh hãi. Sau này thỉnh thoảng tôi cũng vẫn ăn kem nhưng chỉ rón rén cắn tí một, vừa cắn vừa nghe ngóng và không bao giờ dám ăn hai hai que liền một lúc.

Quanh bờ hồ Hoàn Kiếm hồi đó vẫn còn có cả những ụ đất, dấu tích của hầm trú bom. Chiến tranh bắn phá đã chấm dứt nên mọi người ung dung đi dạo hóng gió khá nhộn nhịp. Từng cặp trai gái ngồi sát Bờ Hồ nói chuyện cho tới tận khuya, trước khi những người giữ trật tự lảng vảng sau lưng khiến họ đứng dậy đưa nhau về nhà.

Đêm hoang vắng rất nhanh. Những ngọn đèn điện vàng ệch là niềm an ủi cho chúng tôi. Tiếng tầu điện vào ga kéo còi leng keng là âm thanh khó quên nhất đối với tôi. Hình ảnh những người buôn bán về khuya giờ đây vẫn mồn một trong tôi. Họ vội vã, mệt mỏi nhưng mặt ai nấy đầy phấn khích. Sớm tinh mơ hôm sau họ đã lại chờ đến giờ tầu xuất bến chuyến đầu tiên để mang hàng lên mạn Bưởi hoặc xuống Mơ, vào Hà Đông. Mỗi khi chuyến tầu cuối vào bến, chỉ còn lại vài bóng người quét đường.

Và cách đó một đoạn là bố con tôi (bà nội nằm canh cho hai đứa em tôi đã ngủ say trong đồn công an, mặc cho muỗi tha hồ bu vào hút máu).

Trên tấm ni lông trải lên nền xi măng ngay dưới chân cột đèn, tôi nằm bò ra, hai khuỷu tay tì xuống để viết đơn thư cho bố. Chúng luôn là những lá thư bố viết cho người nào đó. Hôm nay là kính gửi anh Ba, ngày mai là khẩn cầu anh Tô, ngày mai nữa đến lượt những cái tên khác mà bố nhắc đến bằng vẻ kính trọng đặc biệt. Nhờ bố mà tôi biết anh Ba là bác Lê Duẩn, anh Tô là bác Phạm Văn Đồng, đại tướng Võ Nguyên Giáp là anh Văn…

Tôi hỏi bố tại sao không gọi tên quen thuộc của các bác ấy, thì bố giải thích bằng thứ giọng vô cùng bí ẩn và giầu cảm xúc: – Con không biết những người cách mạng khi đã gọi nhau bằng tên thân mật là họ bày tỏ niềm kính trọng nhau thiêng liêng như thế nào đâu. Tình đồng chí là thứ tình cảm cao quý nhất trên đời. Nó vượt xa tình yêu. Tình yêu chả đáng bén gót, vì dù sao vẫn là thứ tình cảm ích kỷ. Tình yêu quá lắm chỉ tạo ra sự sung sướng cho hai cá nhân. Không có tình yêu vẫn có thể đẻ một đống con. Nhưng không có tình đồng chí, thì chả có thứ gì cả. Tình đồng chí tạo ra thay đổi cho hàng tỉ, hàng tỉ tỉ nhân loại, tạo ra thế giới đại đồng, tạo ra thiên đường ngay dưới mặt đất.

Tôi nghe và tin như vậy, cảm thấy cũng bị lây niềm kính trọng của bố với các bác mà bố gọi bằng anh một cách tha thiết, cái lối xưng hô của những người cùng chí hướng, cùng mục tiêu hành động.

Tôi nhớ là một trong những lá thư bố gửi “Anh Tô” với dòng đầu tiên: “Anh Tô kính mến!”, do bố đọc bằng thứ giọng lên bổng xuống trầm vô cùng tha thiết. Giọng bố lúc thủ thỉ tin tưởng, lúc buồn đau, lại có lúc như giận hờn…

Cứ thế bố kể về đời bố, về những việc bố làm, những điều bố mơ… đều trên tinh thần cộng sản! Tôi chép xuyên đêm tới tận khi sáng bạch bố mới dừng lại ở câu kết thúc: “Kính gửi anh lời chào cộng sản!”

Tôi lật cho bố xem để biết lá đơn dài ngót chục trang giấy phê-đuyp. Bố tỏ ra hài lòng lắm. Khi bố bảo tôi đứng dậy thì toàn thân tôi cứng đơ. Tôi bèn bò bằng hai khuỷu tay một đoạn để khởi động. Những học sinh Hà Nội trên đường tới trường, khi ngang qua tôi, thấy lá đơn tôi viết bằng thứ chữ nghiêng sang phải thì đều dừng lại tỏ vẻ trầm trồ. Họ gọi nhau “Lại đây mà xem thằng bé này viết chữ vừa đẹp vừa kỳ lạ”.

Chả là hồi đó chẳng hiểu sao học sinh Hà Nội viết riêng một thứ chữ nghiêng sang trái. Những học sinh Hà Nội sơ tán về làng tôi luôn bị chúng tôi chế nhạo đến phát khóc vì kiểu viết đó. Ngược lại chúng tôi bị mắng là viết kiểu chữ nhà quê. Giờ đây mọi người đang xúm lại xem thứ chữ nhà quê và cứ nhìn soi mói vào mặt tôi. Tôi vẫn nằm sấp trên tấm ni lông, do hai tay chưa kịp hết tê dại, mặc cho mọi người bàn tán. Chỉ khi bố tôi gập lá đơn lại, đỡ cho tôi đứng dậy mọi người mới tản đi. Toàn thân tôi tiếp tục đau ê ẩm, mắt nổ hoa cà hoa cải.

Trong vòng một tuần theo bố đi kiện, tôi đã chép cho bố khoảng ba bốn lá thư, lá nào cũng ngót chục trang, thống thiết tình cảm cách mạng, tình đồng chí cùng mục tiêu chiến đấu nhưng đều vì duy nhất việc kêu oan vấn đề đảng. Tôi không bao giờ biết số phận của những lá thư ấy. Chúng được gửi đi là cũng mất tích luôn. Có thể chỉ rời khỏi tay bố, là nó nằm yên vị trong đáy một cái thùng rác hôi thối nào đó! Nhưng với bố, sau mỗi lá thư được viết ra, được nâng niu ve vuốt trước khi gửi đi, lại cho ông niềm hy vọng vô bờ bến và giúp ông trong chốc lát hạ hỏa bớt phần nào cơn “vật đảng”.

Bố tôi chỉ ra lệnh rút quân khi hình như có ai đó hứa với ông, nhưng chủ yếu là do cạn kiệt nguồn lực.

Sau đòn trời giáng cuối cùng của số phận xảy ra vào năm 1987 (cú huých để tôi hoàn thành tiểu thuyết Lão Khổ), đẩy bố tôi đối mặt với cả một bầy mafia từ tỉnh đến xã, cộng thêm đòn đánh dưới thắt lưng của báo Hà Sơn Bình, bố tôi rơi vào cảnh kiệt quệ cả tiền bạc, sức lực và niềm tin. Dù cuối cùng chúng tôi thắng nhưng ông vẫn quyết định chấp nhận lời khẩn cầu của chị gái tôi: rời bỏ quê hương, về sinh sống tại thị trấn Rế, huyện An Dương, Hải Phòng. Trong những thứ “của nả” ông đem theo, có tờ quyết định kỷ luật đảng đã chuyển mầu, với bốn cái gạch đầu dòng ghi tội mà ông mắc phải (theo thứ tự từ nặng đến nhẹ):

1- Lợi dụng chức quyền tự ý thịt một con lợn (thực chất là con lợn nái bị ốm), đổi lấy 5kg tem phiếu để dùng riêng.

2- Lợi dụng chức quyền mua rẻ hai mươi viên ngói Proximăng dùng vào việc cá nhân.

3- Có tư tưởng gia đình trị, gây mất đoàn kết nội bộ.

Riêng tội thứ tư, do tờ giấy bị rách, nên tôi không biết.

Một lần, trong bữa rượu chỉ có hai bố con, ông nằn nì gạ tôi cho ông đọc tiểu thuyết Lão Khổ. Khi thấy tôi ậm ừ, bố tôi bỗng ngồi thẫn thờ như người mất hồn rồi bảo tôi: – Mẹ nó chứ, tao mà không bị oan thì giờ này cũng sắp có huy hiệu 50 năm tuổi đảng.

Tôi cười váng, bảo lại ông: – Ước gì chả nói, lại đi ước cái thứ thua xa nắp chai ấy. Tặng bố huy hiệu “Ba mươi năm ra khỏi đảng”, danh giá gấp vạn!

Bố tôi ngồi lặng đi như vừa bị một cú xuyên thẳng vào tim. Tôi hiểu là cơn “vật đảng” của ông chưa tiệt hẳn. Nhưng, trong một khoảnh khắc mặt bố rất kì lạ và ông bỗng cười phá lên. Rồi bất ngờ ông dốc ngược chén rượu: – Thôi, đấm B. vào nữa…!

Chưa đầy nửa năm sau thì bố tôi qua đời.


Tạ Duy Anh
(Nguồn: Báo Tiếng Dân)

 

Bài Mới Nhất
Search