T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

T.Vấn: Giải Nobel về Văn Chương 2013

clip_image002

Cuối cùng thì nhà văn nữ 84 tuổi người Canada, Alice Munro ,cũng đã được trao giải thưởng cao quý nhất về văn chương. Khởi sự viết năm 37 tuổi, và chỉ viết truyện ngắn, gia tài chữ nghĩa gần 50 năm của bà gồm 14 tuyển tập truyện ngắn, đã được hội đồng chấm giải xưng tụng là “bậc thầy về truyện ngắn hiện đại”. Tuyển tập truyện ngắn thứ 14, xuất bản năm 2012, có tên “Dear Life”, như lời bà tiết lộ trước khi biết mình nhận giải thưởng, sẽ là tập truyện ngắn cuối cùng. Nhưng có lẽ bà sẽ đổi ý. Một giải thưởng có tầm cỡ như giải Nobel về Văn Chương, có khả năng làm thay đổi nhiều thứ.

Cái tin bà Alice Munro nhận giải năm nay được đón nhận với sự tán đồng của dư luận thế giới, trái ngược hẳn với người nhận giải năm ngóai là nhà văn Trung quốc Mạc Ngôn mà dư luận hiểu biết cho rằng những ẩn ý chính trị đã che lấp đi ý nghĩa văn chương của giải thưởng khi hội đồng chấm giải quyết định trao giải cho nhà văn này. Với Alice Munro là người nhận danh hiệu, giải thưởng văn chương đã trở lại là một giải thưởng văn chương thuần túy như nó phải là thế.

Thực ra, trong thế giới những người đọc không đòi hỏi lắm ở văn chương những thiên chức mà có thể nó không bao giờ có được, thì cái tên Alice Munro không mấy xa lạ. Những truyện ngắn của Munro phản ánh một thế giới có thực chung quanh bà mà nhiều nhà phê bình cho rằng có thể, qua tác phẩm của Munro, nhìn thấy một thành phố tỉnh lẻ ở Ontario, Canada, và những con người ở đó. Đó là nơi bà sinh sống, cùng chồng làm chủ một hiệu sách địa phương.

Trong những truyện ngắn được viết trong chiều dài thời gian hơn 4 thập kỷ rưỡi, khởi đầu với tuyển tập “Dance of the happy shades”(1968) đến tuyển tập mới nhất “Dear Life”(2012) mà Munro đã coi như tác phẩm cuối cùng, người đọc – qua ngòi bút giản dị, trong sáng, thông minh, tinh tế của nhà văn nữ khiêm tốn này – đã nhận ra chân dung nhiều mầu sắc của những con người bình thường và thế giới nội tâm rất đỗi “thường ngày” của họ: lòng thành thực, khả năng dối trá, sự khôn ngoan, sự cam chịu v.v.. . Tất cả những điều ấy được diễn tả không phải bằng thái độ phê phán mà bằng một thứ tình cảm nghiêm khắc, không ủy mị đến từ tấm lòng một người bạn, một người thân yêu trong gia đình.

Nhân vật trong truyện ngắn của Munro là những phụ nữ. Và cũng như chính tác giả, họ là những con người tỉnh lẻ. Trong từng giai đọan của cuộc sống, có lúc họ phải đối diện với sự lựa chọn: hoặc tiếp tục sống hết đời ở nơi họ sinh ra hoặc can đảm dấn thân vào một cuộc sống bấp bênh bất trắc nơi một thế giới rộng lớn hơn ngòai kia. Những ý niệm thiết thân, những vấn đề tuy nhỏ mà tầm vóc của chúng chiếm trọn vẹn tâm trí – và cả cuộc sống – của họ: Tình yêu và tính dục, hôn nhân và ngọai tình, ước muốn độc lập và nhu cầu được/bị lệ thuộc, mộng mơ và cảm thức tự hủy diệt độc ác, tất cả như một tấm gương phản chiếu các ngõ ngách tâm hồn những nhân vật trong truyện ngắn của Alice Munro. Về khía cạnh này, theo nhà phê bình văn học lỗi lạc người Mỹ đã từng đọat giải Pulitzer, Michiko Kakutani, thì những nhân vật Nữ của Munro tương tự như những nhân vật Nam của John Updikes. Họ thường bị lâm vào tình huống phải có những lựa chọn khó khăn, bị giằng co giữa những khác biệt của tập tục, của văn hóa, của những mệnh lệnh đối đầu nhau đến từ tận cùng sâu thẳm của chính mình.

Trong những truyện ngắn của Munro, nhân vật là những con người bình thường với những ưu tư, lo lắng, quan tâm cũng rất bình thường. Giải thưởng Nobel văn chương trao cho Alice Munro, cũng có nghĩa là đã đến lúc người ta muốn văn chương phải trở về với mục tiêu nguyên thủy, đầu tiên và cuối cùng, là phản ánh đời sống con người ở hình thức đơn giản nhất, thực nhất, không tô son vẽ phấn, không khóac áo màu mè sặc sỡ với những thiên chức được áp đặt bởi những thế lực ngòai văn chương.

Lần đầu tiên, giải thưởng văn chương cao quý này được trao cho một nhà văn chỉ chuyên viết truyện ngắn. Như lời của chính Alice Munro phát biểu ngay sau khi biết tin mình nhận giải “Tôi thực sự hy vọng rằng, với vinh dự này của cá nhân tôi, người ta sẽ phải xem truyện ngắn là một nghệ thuật quan trọng, chứ không phải chỉ là thứ người ta làm tạm bợ trong lúc chờ hứng khởi hòan thành một tác phẩm tiểu thuyết”.

Như thường lệ hàng năm, trong việc giới thiệu các tác giả đọat giải thưởng Nobel về văn chương, các nhà xuất bản sách, các dịch giả thuộc đủ lọai ngôn ngữ trên thế giới, sẽ lại bận rộn với những tác phẩm của Alice Munro. Không như năm ngóai với nhà văn Trung Quốc Mạc Ngôn, trước đó đã có rất nhiều tác phẩm của ông này được dịch sang tiếng Việt, năm nay có lẽ ở Việt Nam người ta sẽ được nhìn thấy nhiều đầu sách (tuyển tập truyện ngắn ) của Alice Munro trên các kệ sách các cửa hàng bán sách. Cho đến nay, mới chỉ có một tập truyện ngắn của Alice Munro được giới thiệu ở Việt Nam, đó là tập “Trốn Chạy”(Runaway) , được Trần Thị Hương Lan dịch, Nhã Nam và NXB Văn học xuất bản năm 2012 .

clip_image004Còn về giới viết lách Canada, thì chắc chắn đây là cơ hội tốt nhất để thế giới quan tâm nhiều hơn đến nền văn học xứ sở này. Alice Munro thú nhận rằng “khi tôi khởi sự cầm bút, không có nhiều những nhà văn người Canada và thế giới cũng không biết nhiều đến chúng tôi. Nhưng nay thì đã khác, nhà văn Canada được thế giới biết đến, được ngưỡng mộ và được kính trọng trên tòan cầu.”

Quả thật, một giải thưởng tầm cỡ như giải thưởng Nobel, đem lại rất nhiều thứ cho người nhận giải: tiền bạc, danh vọng, đôi khi cả sự phiền tóai, và xứ sở của người nhận giải cũng sẽ được hưởng lây nhiều thứ khác.

Trông người mà không dám nghĩ đến ta.

T.Vấn

11 tháng 10 năm 20123.

 

©T.Vấn 2013

 

Phụ Lục:

Nhân đây, chúng tôi xin giới thiệu một truyện ngắn của Alice Munro, được chuyển ngữ bởi nhà văn nữ trẻ tuổi Lưu Diệu Vân, một cây bút dịch rất đáng tin cậy. Lựa chọn giới thiệu truyện ngắn “Trốn Chạy” qua bản dịch của Lưu Diệu Vân, mà không chọn “Trốn Chạy” với bản dịch của Trần thị Hương Lan ở trong nước, chỉ đơn thuần vì bản dịch của Lưu Diệu Vân được giới thiệu trên trang mạng Damau, mọi người đọc miễn phí, còn bản dịch của Trần thị Hương Lan được in thành sách và bán ra thị trường. Đó cũng là một cách thế bày tỏ lòng tôn trọng bản quyền thương mại (TV&BH).

Trốn chạy

Lưu Diệu Vân chuyển ngữ

Trong tuyển tập đặc sắc và mới nhất của Alice Munroe – Run Away – chúng ta tìm thấy những mảnh đời, những câu chuyện về phụ nữ thuộc mọi lứa tuổi và hoàn cảnh, cuộc đời của họ được phác họa thật sống động bởi do sự tinh tế và lòng thấu cảm của tác giả có một không hai này.

clip_image005

Tại nhà, Sylvia không còn việc gì để làm ngoài việc mở toang những cánh cửa sổ. Và nghĩ đến – với sự háo hức khó mường tượng mà không khỏi gây ngạc nhiên – là chốc nữa đây cô sẽ được gặp Carla.

Tất cả những vật dụng cá nhân mang hơi hám bệnh tật đã được dời đi hết. Căn phòng chung của Sylvia và chồng, cũng là nơi hấp hối của anh, đã được dọn dẹp ngăn nắp hệt như chưa từng xảy ra chuyện gì. Carla đã giúp quét dọn trong những ngày hỗn loạn giữa chuyện hỏa táng và chuyến đi Hy Lạp. Mỗi một bộ đồ Leon đã mặc hoặc chưa từng thử qua, cùng với những món quà chưa tháo hộp do các cô em gái tặng, đã được chất đầy ghế xe sau để giao cho tiệm bán đồ cũ. Những viên thuốc, bộ dao cạo râu, những lon thuốc bổ trợ lực chưa mở nắp – thứ nước đã từng giúp kéo dài sự sống anh cho đến bây giờ – những thùng bánh mè mà anh ăn những lần cả tá, những chai lotion còn nguyên mà anh thường dùng để xoa bóp lưng, tấm da cừu anh đã nằm bên trên – tất cả mọi thứ đó đã được gom vào bao ni lon và vứt bỏ như rác, và Carla không thắc mắc gì cả. Cô không bao giờ lên tiếng, “Có lẽ người nào đó cũng có thể dùng được những thứ này,” hoặc thốt lên rằng những lon nước đó còn nguyên chưa mở nắp. Khi Sylvia nói, “Tôi ước gì mình đã không quyên những bộ quần áo. Tôi muốn đốt toàn bộ trong lò thiêu hủy rác.” Carla không lộ vẻ ngạc nhiên.

Họ làm sạch lò nướng, lau chùi kệ dựng chén dĩa, chùi bóng tường nhà và cửa sổ. Một ngày kia Sylvia ngồi tại phòng khách đọc những lá thư phân ưu cô đã nhận. (Không có những chồng giấy má hay sách vở cần phải soạn dẹp và không có những bài viết chưa hoàn tất hay bản thảo nghệch ngoạc dở dang – thói quen mà mọi người bắt gặp từ những người viết lách. Anh đã nói với cô từ những tháng trước là anh đã ném bỏ hết tất cả không hối tiếc.)

Những khung cửa sổ to tướng dựng nên vách tường nghiêng hướng nam của căn nhà. Sylvia ngước lên và bị choáng ngợp bởi ánh dương ẩm hơi nước vừa ló dạng – hoặc cũng có thể cô bất ngờ bởi hình ảnh của Carla, chân trần, tay trần, trên chóp thang, khuôn mặt viền vòng những lọn tóc màu hoa bồ công anh còn quá ngắn để tết thành bím. Cô đang cật lực chùi cọ tấm kính. Khi cô trông thấy Sylvia đang nhìn mình, cô dang rộng hai đôi tay thể như đang bị xiên nơi đó, pha trò nheo mặt bắt chước những con đầu hổ phù gắn đầu mái nhà. Rồi cả hai cùng cười phá lên. Sylvia cảm nhận tiếng cười róc rách chảy khắp thân châu cô như một giòng suối nghịch ngợm. Cô trở lại chăm chú những lá thư và Carla tiếp tục công việc lau chùi. Cô quyết ý là những dòng chữ này – dù chân thành hay chiếu lệ, tôn kính và thương tiếc – phải nên đi theo số phận của tấm da cừu và những hộp bánh mè.

Khi cô nghe tiếng Carla kéo chiếc thang xuống, nghe tiếng giày trên sàn gỗ, bỗng nhiên cô trở nên bẽn lẽn. Cô ngồi y một chỗ, đầu cúi gập khi Carla bước vào phòng và đi ngang nhà bếp để bỏ cái xô và tấm khăn chùi vào bồn rửa chén. Carla không ngừng tay, cô nhanh nhẹn như con chim, nhưng cô cũng còn đủ thời gian để cúi đặt một nụ hôn lên Sylvia đang nghiêng nghiêng đầu. Rồi cô khe khẽ huýt sáo.

Nụ hôn cứ luẩn quẩn trong tâm trí của Sylvia từ lúc ấy. Nó chẳng mang một thông điệp đặc biệt nào cả. Một nụ hôn cổ vũ khuyến khích hoặc để báo việc gần sắp xong. Nó mang ý nghĩa họ là hai người bạn thân vừa sánh vai trải qua nhiều nỗi muộn phiền. Hoặc có thể đó là cử chỉ đón nhận mặt trời vừa ló dạng. Hay ngay lúc đó, Carla đang muốn trở về nhà bên cạnh những con ngựa của cô. Tuy thế, Sylvia lại nghĩ đến nụ hôn như một đóa hoa rực rỡ đang rộ nở, những cánh hoa muốt xoải dài trong lòng cô hơi ấm xôn xao, như một ánh lóe mãn kinh.

Thỉnh thoảng trong lớp thực vật học có đứa học nữ trò xuất sắc, sự thông minh và nhiệt quyết và tính tự cao tự đại vụng về, và ngay cả lòng đam mê thế giới thiên nhiên của nó, làm cho cô nghĩ đến hình ảnh mình lúc trẻ. Những đứa như vậy hay bu quanh cô một cách sùng bái, mong mõi một thứ tình nào đó chúng không tài nào, trong nhiều trường hợp, tưởng tượng ra nổi, và chúng khiến cô bắt đầu cảm thấy khó chịu.

Carla không giống bất cứ ai trong số họ. Nếu cô có hao hao trông như một người nào đó trong quãng đời của Sylvia thì có lẽ là cô giống những cô gái Sylvia quen biết thời trung học. Họ là những cô gái sáng dạ nhưng không bao giờ quá sáng chói, những vận động viên ung dung nhưng không sỡ hữu tinh thần tích cực cạnh tranh quá mức, sôi động nhưng không ồn ào. Lạc quan một cách rất tự nhiên.

“Để xem, chị đã ở đâu kìa, trong khu làng nhỏ bé này, trong khu làng nhỏ bé này với hai người bạn già, ừ, thỉnh thoảng chiếc xe bus chở du khách hay ngừng nghỉ ở nơi đó, hệt như đang bị lạc đường, rồi hành khách bước xuống xe và nhìn qua nhìn lại một cách hết sức hoang mang khi họ nhận ra nơi đây chẳng là đâu cả. Không có gì để mua sắm.”

Sylvia đang nói đến Hy Lạp. Carla ngồi cách cô vài bước. Cô gái đô con, có phần hơi e dè nhưng chói rực, cũng đã ngồi xuống đó, trong căn phòng tràn ngập ý nghĩ về cô. Cô cười uể oải và gật đầu chậm rãi.

“Và thoạt đầu,” Sylvia nói, “chị cũng bị hoang mang. Trời quá nóng. Nhưng ánh sáng thật sự là rất tuyệt đẹp. Rồi chị cũng tìm ra việc gì đó để làm, và cũng chỉ có vài việc đơn giản để lấp đầy thời gian. Chị phải đi bộ nửa dặm để mua dầu và nửa dặm ngược hướng khác để mua bánh mì và rượu vào buổi sáng. Rồi chị ăn trưa dưới bóng râm của những tàn cây. Cái nóng sau buổi trưa quá sức chịu đựng nên chị chẳng có thể làm gì khác ngoài việc đóng kín những cái màn cửa sổ và nằm lên giường, đôi khi nằm đọc sách. Thoạt đầu thì đọc sách. Riết rồi chán đến độ không muốn làm cả điều đó nữa. Tại sao lại phải đọc sách? Một lúc sau chị nhận ra bóng nắng đang chảy dài và chị thức dậy đi bơi lội.”

“Ồ,” cô tự ngắt ngang chính mình, “Ô, chị đã quên bẵng mất.”

Cô đứng dậy và lấy ra gói quà cô đã mua, thật ra cô không quên như lời đã nói. Cô chỉ không muốn trao nó cho Carla ngay lúc ấy, cô muốn khoảnh khắc đến tự nhiên hơn, và trong lúc cô đang kể chuyện chuyến đi cô cũng đã nghĩ sẵn trong đầu đoạn cô nhắc về biển và bơi lội. Và nói, như bây giờ cô đang nói, “Bơi lội làm chị nhớ đến vật này bởi vì nó là một mô phỏng bé xíu, em biết không, nó là vật mô phỏng con ngựa họ tìm được dưới nước. Làm bằng đồng thiếc. Họ nạo vét nó từ dưới đáy lên, sau biết bao nhiêu năm. Nghe nói nó thuộc về thời đại trước công nguyên.

Khi Carla bước vào nhà và tìm kiếm việc khác để làm, Sylvia nói: “Thôi, ngồi xuống đây một chút đi, chị không có ai trò chuyện từ lúc trở về. Làm ơn nhé.” Carla ngồi xuống trên vành ghế, chân giạng, đôi tay vùi giữa hai đầu gối, trông có vẻ bơ vơ. Như đang gắng đạt tới lối lịch sự xã giao cô hỏi, “Chuyến đi Hy Lạp ra sao?”

Bây giờ, cô đang đứng, cô vẫn chưa bóc mở hết hoàn toàn lớp giấy gói nhàu nát quấn chung quanh con ngựa.

“Họ nói nó tượng trưng cho một con ngựa đua,” Sylvia nói. “đang nhảy cú nhảy vọt cuối cùng, sự gắng sức cuối cùng của cuộc đua. Người nài ngựa, cũng thế, một thiếu niên, em có thể nhìn thấy không, cậu ta đang thúc dục con ngựa cố vượt qua giới hạn sức mạnh của chính nó.”

Cô đã không nói là người thiếu niên khiến cho cô nghĩ đến Carla, và ngay trong lúc này cô cũng không biết phải giải thích ra sao. Cậu thiếu niên chỉ khoảng độ mười hay mười một tuổi. Có lẽ sức mạnh và sự thanh nhã của cánh tay cầm cương, hay những nếp nhăn trên vầng trán trẻ thơ của cậu, niềm say sưa và sự gắng sức thuần khiết, trông hệt như hình ảnh Carla lúc lau chùi những cánh cửa sổ rộng lớn vào mùa xuân năm ngoái. Đôi chân rắn chắc của cô khi mặc quần đùi, đôi vai rộng, những vệt chùi hào phóng trên mặt kính, và cái lối cô xoải hai tay giỡn đùa, mời mọc và yêu cầu Carla phải tươi cười.

“Vâng em có thể thấy được,” Carla trả lời và tỉ mỉ xem xét bức tượng màu nâu xanh. “Cám ơn chị rất nhiều.”

“Không có chi. Chúng ta uống cà phê nhé? Chị mới vừa pha xong. Cà phê ở Hy Lạp rất nồng, nồng hơn thứ chị thích, nhưng bánh mì thì ngon tuyệt. Và những quả sung chín ngon đến sững sờ. Ngồi đây một tý đi, làm ơn. Em nên ngắt lời chị khi chị cứ huyên thuyên như thế này. Ở đây thì sao? Mọi việc ra sao?”

“Trời cứ mưa liên miên suốt ngày.”

“Chị cũng thấy được điều này,” Sylvia nói vọng lên từ phòng lớn cuối nhà bếp. Trong lúc rót cà phê, cô quyết định sẽ không nhắc đến món quà khác cô đã mang về. Nó không tốn một xu (con ngựa thì đắt hơn cả số tiền cô gái có thể tưởng tượng), đó chỉ là một hòn sỏi trắng hồng mà cô đã nhặt trên đường.

“Cái này cho Carla,” cô nói với bạn cô, Maggie, lúc đó đang đi bên cạnh cô. “Tôi biết là tôi hơi ngớ ngẩn. Tôi chỉ muốn nó có được một mẩu đất của nơi này.”

Cô đã có nhắc đến Carla với Maggie, và Soraya, một người bạn khác của cô, kể cho họ nghe sự hiện diện của cô gái ngày càng trở nên quan trọng đối với cô, một sự gắn liền khó giải thích đang lớn dần lên giữa họ, và điều đó đã giúp an ủi cô trong những tháng ngày khủng khiếp của mùa xuân năm ngoái.

“Thể như trông thấy một người – một người tươi tắn và tràn đầy sức sống bước vào trong nhà.”

Maggie và Soraya cười một cách khó chịu.

“Thì lúc nào cũng là một đứa con gái,” Soraya nói, kèm theo cái duỗi biếng lười của hai cánh tay nâu nặng nề, và Maggie nói, “Rồi ai cũng sẽ chạm trán với điều đó. Mơ mộng đến một đứa con gái.”

Sylvia mơ hồ giận dữ bởi cái từ hủ lậu đó – mơ mộng.

“Có lẽ vì tôi và Leon không có con,” cô nói. “Thật ngu xuẩn. Một thứ tình mẫu tử sai lệch.”

Các bạn của cô đồng lên tiếng, đại khái là có thể điều đó thật ngu xuẩn, nhưng dẫu sao, cũng là một thứ tình.

(Nguồn : Damau.org)

Bài Mới Nhất
Search