T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Nguyên Lạc: TIỄN BẠN (2)

Hoa Hướng Dương – Tranh: Mai Tâm

Tri âm và Tri kỷ

— Tri âm

Ai từng nghe qua sự tích Bá Nha – Tử Kỳ hẳn sẽ biết câu: “Cao sơn lưu thủy, tri kỷ khó tìm”. Đây là đôi bạn tri âm.

Bá Nha và Tử Kỳ là đôi bạn tri âm thời Xuân Thu Chiến Quốc. Bá Nha làm quan, Tử Kỳ làm nghề đốn củi (tiều phu).

Bá Nha họ Du tên Thụy, người ở Sính Ðô nước Sở (nay là phủ Kinh Châu, tỉnh Hồ Quảng). Tuy là người nước Sở, nhưng làm quan cho nước Tấn, chức Thượng Ðại Phu.

Tử Kỳ, họ Chung tên Huy, nhà tại Tập Hiền Thôn, gần núi Mã Yên, ở cửa sông Hán Dương, là một danh sĩ ẩn dật, báo hiếu cha mẹ tuổi già nua, làm nghề đốn củi.

Một hôm, Bá Nha phụng chỉ vua Tấn đi sứ qua Sính Ðô nước Sở, vào triều kiến vua Sở trình quốc thư và giải bày tình giao hiếu giữa hai nước, được vua Sở và quần thần thiết tiệc khoản đãi. Bá Nha nhơn dịp nầy đi thăm mộ phần tổ tiên, thăm họ hàng, xong vào từ biệt vua Sở trở về nước Tấn.

Khi thuyền trở về đến cửa sông Hán Dương, nhằm đêm Trung Thu, gặp Tử Kỳ người hiểu rõ tiếng đàn mình, Bá Nha sanh lòng cảm mến nên xin kết nghĩa anh em, để không phụ cái nghĩa TRI ÂM mà suốt đời Bá Nha đi tìm chưa từng gặp.

Hai người kết làm anh em. Tử Kỳ nhỏ hơn Bá Nha 10 tuổi nên làm em. Khi phải chia tay, Bá Nha hẹn ước Tử Kỳ đúng ngày Trung Thu năm sau, hai anh em sẽ hội ngộ nhau tại nơi nầy.

Thời gian lặng lẽ trôi qua, gần tới ngày ước hẹn với Tử Kỳ, Tử Nha tâu xin vua Tấn cho nghỉ phép về thăm quê nhà

Bá Nha thu xếp hành trang đến núi Mã Yên kịp ngày Trung Thu ước hẹn. Kìa là núi Mã Yên mờ mờ sương lạnh, tịch mịch, nhưng không một bóng người. Bá Nha nghĩ thầm rằng năm trước nhờ tiếng đàn mà gặp được tri âm, đêm nay ta phải đàn một khúc để gọi Tử Kỳ lại.

Sau khi đốt hương trầm, đem Dao cầm ra so dây, Bá Nha đặt hết lòng nhớ nhung của mình vào tiếng đàn réo rắt. Nhưng sao nghe trong tiếng đàn lại có hơi ai oán. Bá Nha dừng tay suy nghĩ: – Cung Thương có hơi ai oán thảm thê, ắt Tử Kỳ gặp nạn lớn. Sáng mai ta phải lên bờ dọ hỏi tin tức.

Biết ra Tử Kỳ bị bệnh mất rồi Bá Nha khóc nức nở. Khi đến phần mộ Tử Kỳ, Bá Nha sửa lại áo mũ, sụp lạy. Lạy xong, Bá Nha gọi mang Dao cầm tới, đặt lên phiến đá trước mộ, ngồi xếp bằng trên mặt đất một cách nghiêm trang, so dây tấu lên một khúc nhạc thiên thu tiễn người tri âm tài hoa yểu mạng. Tấu khúc nhạc xong, Bá Nha phổ lời ai oán, thay lời ai điếu, vĩnh biệt bạn tri âm. Xong Bá Nha vái cây Dao cầm một vái, tay nâng đàn lên cao, đập mạnh vào phiến đá trước mộ Tử Kỳ; đàn vỡ tan nát, trục ngọc phím vàng rơi lả tả, rồi ca:

Dao cầm đập nát đau lòng phượng,

Ðàn vắng Tử Kỳ, đàn với ai?

Gió xuân khắp mặt bao bè bạn,

Muốn kiếm tri âm ôi khó thay!

(Viết theo Thư Viện Việt Nam)

 

— Tri kỷ

Kê Khang này khúc Quảng Lăng,

Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân.

Trên đồ sứ Trung Hoa ta thường thấy vẽ 7 ông cụ già ngồi trong rừng tre, kẻ đánh cờ, gẩy đàn, người uống rượu, ngâm thơ. Đó là hình ảnh của Trúc Lâm Thất Hiền đời nhà Ngụy (220-264). Kê Khang là một trong bảy người hiền này.

Kê Khang (223-262) là một người có khí tiết thanh khiết, giàu lòng nghĩa hiệp và cũng là người có biệt tài trong các môn cầm, kỳ, thi, họa …

Kê Khang vốn họ Khuê, người đất Thượng Ngu, huyện Cối Kê (nay là huyện Thiện Hưng, tỉnh Chiết Giang). Vì một sự thù oán nên ông dời về ở ẩn huyện Hoa Dương, tỉnh An Huy. Gần chỗ ông ở có núi Kê Sơn nên lấy núi Kê làm họ.

Kê Khang cũng như 6 người bạn kia đều thích an nhàn dật lạc, say mê đạo Lão.  Có kẻ nói: “Ba ngày không đọc “Đạo Đức kinh” thì miệng thấy hôi”.

Kê Khang làm quan một thời gian rồi từ quan để hưởng cảnh nhàn lúc về già. Từ quan, Kê Khang sống một cuộc đời ẩn dật, ngày ngày ngao du sơn thủy, hái thuốc, vui say với vần thơ điệu đàn.

Lúc ấy ở huyện Đông Bình có người tên Lữ An, vì ngưỡng mộ danh tiếng của Kê Khang nên tìm đến ra mắt. Hai người gặp nhau tâm đồng ý hiệp nên trở thành bạn tâm giao, tri kỷ.

Thời bấy giờ nhà Ngụy suy vi, Tư Mã Chiêu có ý muốn soán ngôi nên tìm mọi cách để trừ khử những kẻ không theo mình. Lữ Tốn vốn là bộ hạ thân tín của Tư Mã Chiêu, cũng là anh họ của Lữ An, thấy vợ của Lữ An xinh đẹp nên y có ý muốn chiếm đoạt. Y bắt Lữ An hạ ngục. Vì tình bạn tri kỷ, Kê Khang không sợ lụy thân, đứng ra minh oan. Nhưng rồi cuối cùng Kê Khang cũng bị bọn quyền thần bắt giam, dựng tội phản loạn, kết án tử hình chém ngay giữa chợ. Kê Khang chết vì bạn tâm giao, tri kỷ.

Kê Khang đàn rất hay, khúc “Quảng Lăng” do ông sáng tác khi đánh lên khúc đàn nghe lưu loát, thảnh thoát như nước chảy (lưu thủy), mây bay (hành vân).

Trong “Đoạn trường tân thanh” của cụ Nguyễn Du, đoạn tả tiếng đàn của Kiều khi nàng gẩy cho Kim Trọng nghe buổi sơ ngộ, có câu:

Kê Khang này khúc Quảng Lăng,

Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân.

(Viết theo Nguyễn Tử Quang)

Mỗi lần nghe đến cụm từ “khúc Quảng Lăng” là ta sẽ nhớ đến Kê Khang, một người chân chính, hết lòng vì nghĩa bạn bè, chết vì người tri kỷ.

@. Theo Nguyên Lạc tôi, Bá Nha -Tử Kỳ chỉ là một truyền thuyết về tình bạn thông qua thẩm âm, hiểu lòng qua tiếng nhạc; tình bạn loại nầy so với tình hết lòng vì “nghĩa bạn bè” của Kê Khang – cư xử nhau hết tình, hết nghĩa, xem nhẹ cả mạng sống riêng mình –  tôi trọng những người như Kê Khang hơn.

Tri Âm đã khó kiếm, Tri Kỷ càng khó tìm.

 

Việc giao tiếp

Xin được ghi ra đây ý nghĩ riêng của tôi về việc giao tiếp:

Trong việc giao tiếp ở đời, nên đối xử nhau bằng “Tình đáp tình”, đừng xem nhau ta / địch: – Trao tha nhân ân tình thì sẽ nhận lại được ân tình. Giống như quả bóng ném vào bức tường sẽ dội ngược lại, ném mạnh thì dội mạnh. Ném sân si vào “bức tường đời” thì nhận lại được sân si thôi!, nhân nào quả nấy như nhà Phật đã nói. Trân trọng yêu thương cuộc đời thì đời sẽ trân trọng yêu thương lại ta.

BÀI THƠ TIỄN BẠN

Bài thơ tiễn bạn của Cao Thích: BIỆT ĐỔNG ĐẠI kỳ 2

Tiểu sử

Cao Thích (chữ Hán: 高適, 702-765), tự Đạt Phu (達夫); là nhà thơ thời Thịnh Đường ở Trung Quốc. Ông cùng với Sầm Than, Vương Xương Linh, là ba gương mặt tiêu biểu trong phái thơ biên tái – Thơ Biên tái: có thể hiểu nôm na đó là những bài thơ sáng tác trong hoàn cảnh chiến tranh, loạn lạc, khi những người chiến sĩ ra trận, tâm trạng của họ nhớ về quê hương, nhớ về người thân hay những ý chí sục sôi quyết lập công nơi biên tái.

Cao Thích 高適 (702-765) tự Đạt Phu 達夫, người Thương Châu (nay là tỉnh Hà Bắc,Trung Quốc), trong một gia đình nghèo. Năm Khai Nguyên thứ 22 (đời Đường Huyền Tông), ông theo giúp Tín An Vương lên biên tái đánh giặc Khiết Đan, sau đó lại đi du ngoạn ở vùng Hà Nam. Cho đến năm 40 tuổi, Cao Thích còn lận đận, sống đời áo vải lang thang đây đó. Sau đó được người cất nhắc, thi đỗ hữu đạo quan và được lên làm quan ở Trường An. Ông được giữ chức huyện uý. Tâm tính ông không hợp với chức này, thường làm thơ than thở. Sau đó thăng Tiết độ sứ ở Hà Tây. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, ông tắt đường đến với Huyền Tông ở Hà Trì, dâng thư nói về nguyên nhân thất bại ở cửa ải Đồng Quan được làm Gián nghị đại phu. Sau có công đánh dẹp Vĩnh Vương Lý Lân, được Đường Túc Tông thăng tước hầu ở Bột Hải. [Wikipedia]

Nguyên tác bài thơ:

別董大其二

千里黃雲白日曛,

北風吹雁雪紛紛。

莫愁前路無知己,

天下誰人不識君。

.

BIỆT ĐỔNG ĐẠI kỳ 2

Thiên lý hoàng vân bạch nhật huân

Bắc phong xuy nhạn tuyết phân phân

Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ

Thiên hạ hà nhân bất thức quân?

(Cao Thích)

 

Dịch nghĩa

Chia tay Đổng-Đại kỳ 2

 Ngàn dặm mây vàng, mặt trời đã xế chiều

Gió bấc thổi, tuyết rơi tả tơi, chim nhạn bay đi lệch phương hướng

Chớ buồn con đường phía trước, nơi đất khách  không có người tri kỷ

Vì trong thiên hạ hỏi xem có ai là người không biết bạn?

Ý thơ:

– Tiển bạn ra đi trong một chiều, có mây vàng sáng rực – mây vàng trời gió, mây đỏ là mưa – Dự báo thời tiết khắc nghiệt – Y chang, tuyết rơi và gió bấc lạnh thổi về rất mạnh, lòng e ngại. Nhạn còn bay chệch đường huống chi người nghệ sĩ như anh. Liếc nhìn ta hiểu bạn không lo vì thời tiết, nhưng sợ cô đơn nới xứ người – Ta bảo đừng lo trên đường đi đến đích (hướng phía trước) không có người tri kỷ tri âm, bởi người trong thiên hạ ai mà người không biêt đến tên bạn (ý Laiquangnam)

Dịch thơ

 Chia tay Đổng-Đại

Mười dặm vàng pha bóng nhật vân,

Nhạn xuôi gió bấc tuyết bay nhanh

Chớ buồn nẻo trước không tri kỷ!

Thiên hạ ai người chẳng biết anh!

(Bản dịch của Tản Đà)

 

Tương biệt với Đổng Đại

Tiễn bạn mây vàng chiều cay mắt

Bấc cuồng tuyết đồ nhạn lệch phương

Buồn chi hướng trước không tri kỷ?

Thiên hạ tên người đã tỏa hương![*]

(Nguyên Lạc phóng dịch)

………..

[*] hữu xạ tự nhiên hương

***

Nguyên Lạc

…………………      

Tham khảo: Thư Viện Việt Nam, Nguyễn Tử Quang, Laiquangnam, Thi Viện, Vũ Thị Minh Huyền, Wikipedia…

 

 

 

 

©T.Vấn 2018

Bài Mới Nhất
Search