Tháng 6 trời mưa, trời mưa không dứt. Trời không mưa anh cũng lạy trời mưa.
Tháng 6 năm nay về từ lúc nào tôi không hay. Có thể là do những cơn bão dữ tháng 5 vẫn còn để lại dư âm ghê rợn, hú hồn khiến tôi mất tăm dấu tích ngày tháng.
Có thể là do cơn bão cuối cùng của tháng 5 làm tôi khó chịu, bực bội vì chỉ là cơn bão trong ly nước mà cũng làm mình ngồi đứng không yên, để rồi có lúc đánh mất cả chính mình. Có thể là do trời Wichita không mưa, cho dù đã là tháng 6. Tôi có phải lạy cho trời mưa không? Nhưng mà lạy gẫy cả cổ, mỏi cả tay, sưng cả đầu gối, liệu trời có mưa hay không? Xưa nay trời có bao giờ chiều lòng người.
Cái nóng tháng 6 hắt vào mặt giữa không khí khô hạn và nỗi buồn bực trong lòng khiến tôi phải cố tìm một nơi ẩn trốn ở chỗ kín đáo, tĩnh lặng nhất để tìm sự bình an. Và trang sách cũ đập vào mắt, như thể người ta bói kiều:
Tháng 6. Vẫn không thể quên chiếc áo lính ướt đẫm máu và mồ hôi những ngày lửa đạn. Những ngày tuổi thanh xuân đi giữa chiến tranh mà không ý thức được rằng mình đang mất dần tuổi thanh xuân. Để hôm nay, kinh hãi nhìn tuổi gìa xồng xộc bước vào hiên nhà cùng với trí nhớ đễnh đãng, quên trước quên sau, cứ quên những điều phải nhớ, nhưng lại cứ nhớ những điều lẽ ra phải quên từ lâu. Chiến tranh, tuổi trẻ, những trách nhiệm không chu tòan, những năm tháng vô vọng miền lưu đầy Việt Bắc. Và cái ngày tháng 6 hàng năm, ngày những kẻ sĩ mặc quân phục thấm thía hơn lúc nào hết lời dạy của tổ tiên. Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách.
Đã vậy, người bạn thi sĩ, dù áo cơm hàng ngày đã chiếm gần hết thì giờ, vẫn còn đủ cảm hòai mà viết nên những dòng thơ, đọc xong cứ thẫn thờ như người vừa đánh mất một vật gì vô cùng quý báu:
Đà Lạt ngày trở lại
Trần Trung Hậu
ba mươi năm hề ta trở lại
thăm thành phố cũ mái trường xưa
đà lạt hoàng hôn mây xuống thấp
dột lòng viễn khách lệ hay mưa
đi ngang cổng vào trường đại học
chân dường đứng lại hồn đong đưa
dĩ vãng ùa về trong khoảnh khắc
biết bao kỷ niệm nói sao vừa
ta đến nơi nầy một sáng xuân
sẵn chờ sau cổng những thiên thần
áo vàng mũ nhựa
mắt nhìn rực lửa
lệnh truyền nhức óc đinh tai
trời đất cuồng quay
phách hồn tơi tả
quần áo lấm lem chân tay rời rã
ta lạc vào quỷ môn quan
lửa tam muội thử vàng
hay trong lò luyện thép
ngày đầu tiên của đời binh nghiệp
vũ đình trường
đêm lột xác
ta quỳ xuống như bao đồng đội khác
thệ trước quốc quân kỳ
khi tổ quốc lâm nguy
thất phu hề hữu trách
ta đứng dậy
đội trời đạp đất
gánh sơn hà đặt trọn hai vai
chí làm trai
tang bồng hồ thỉ
con dốc nhỏ
cội thông già
mi mo sa
đường ra phố
ly cà phê nhà thủy tạ
ngắm hồ xuân hương
thác cam ly rừng ái ân
thung lũng tình yêu hồ than thở
bạn đang ngược dốc phan đình phùng
ta lại gặp cuối đường tăng bạt hổ
mỗi chiều mỗi sáng bên kia đường
áo em bay trắng cả sân trường
bùi thị
tại làm sao em nhỉ
mà ta đã gặp nhau
khi mê muội trước tình em cám dỗ
ta hiện hình tên lãng tử cuồng si
rời doanh trại nửa đêm chuồn xuống phố
chỉ để nhìn em khẽ chớp bờ mi
ba tấc lưỡi tô tần
túi kinh luân gia cát
tràn đầy bầu nhiệt huyết
tung đôi cánh chim bằng
giã bạn xa thầy rời phố núi
ta đi không hẹn buổi quay về
ruổi dong khắp nẻo đường đất nước
trên đầu lấp lánh ánh sao khuê
ba năm mười năm em có đợi
một người biền biệt cuối sơn khê
nợ nước tình riêng không thể vẹn
đừng trách sao ta lỗi ước thề
vận nước ngửa nghiêng nghiêng ngửa
ngậm ngùi dâu bể bể dâu
ta về đây bạc mái đầu
cố nhân mất hút dưới bầu càn khôn
người đã qua sông dịch
không trở về sao người
vũ trụ hề tuần hoàn
đêm đi hề ngày đến
việt sử hề thăng trầm
chính nghĩa hề tất thắng
quỷ ma rồi phải hiện nguyên hình
ta giữ lòng ta bồ tát đạo
đem đại nghĩa thắng hung tàn
lấy chí nhân thay cường bạo
( Trần Trung Hậu- Đà lạt ngày trở lại )
(Trích: Nhớ xưa sông núi)
T.Vấn © 2011