T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Nguyên Lạc: THỦ PHÁP “SHOW, DO NOT TELL”

Gió

Gió – Tranh: Mai Tâm  

Lời nói đầu:

Show, Do Not Tell được nhà bình thơ Phạm Đức Nhì giới thiệu, Nguyên Lạc tôi đồng cảm với anh về thủ pháp (kỹ thuật) nầy nên bỏ công tìm hiểu, sưu tầm, nghiên cứu thêm rồi đúc kết thành văn bản chia sẻ cùng các bạn, với hy vọng độc giả tìm thấy được một vài điều hữu ích.

— Để tránh bị hiểu lầm là “sính ngoại” tôi xin giải thích tại sao dùng cụm từ “Show, Do Not Tell” (Show, Don’t Tell): — Người Việt rất giỏi trong việc hội nhập cái hay của nước khác. Thí dụ như các từ: Cà-phê, xe cyclo .v.v..Thay vì nói “thức uống màu nâu đỏ, vị đắng, có nguồn gốc từ Arab (Arabic), uống vào gây phấn khởi và tỉnh táo, ta chỉ cần nói cà-phê (café, coffee) là ai cũng hiểu ngay. Cũng vậy, thay vì nói :” Bày tỏ, hiển thị ra, gợi ra, không cần kể lể; để độc giả tự đoán ra, tự kết luận”, ta để nguyên cụm từ “Show Do Not Tell” là người sẽ biết, chỉ đơn giản thế thôi.

SƠ LƯỢC VỀ SHOW, DO NOT TELL

Show: Bày tỏ, hiển thị, gợi ra

Tell: Nói, kể lại

“Show, Do Not Tell” là một biện pháp tu từ, thay vì dựa vào một (hoặc vài) tĩnh từ, trạng từ khô cứng nào đó để kể lại một sự kiện, bày tỏ một tâm trạng, tác giả tạo ra những hình ảnh sống động, cụ thể để từ đó độc giả tự khám phá, hiểu ra sự kiện, tâm trạng ấy. Độc giả sẽ cảm thấy thích thú vì không chỉ đọc một cách thụ động, mà còn được tham dự một cách tích cực vào tiến trình tìm gặp điểm đến của tứ thơ.(Phạm Đức Nhì) [1]

Show, Do Not Tell (Show Don’t Tell) chỉ là một thủ pháp, một biện pháp tu từ (kỹ thuật thơ, văn) giúp văn thi sĩ làm văn thơ hay hơn chứ không phải là một Học thuyết hay một Trường phái nào cả. Hơn nữa, nó được bắt đầu từ nhà biên kịch người Nga Anton Chekhop:

 [ SHOW, DON’T TELL là một thủ pháp, một biện pháp tu từ (kỹ thuật) thường được sử dụng trong nhiều loại văn bản khác nhau, giúp cho độc giả trải nghiệm câu chuyện thông qua hành động, từ ngữ, ý nghĩ, cảm giác và cảm xúc …hơn là qua sự cắt nghĩa (giảng nghĩa), tổng hợp và miêu tả của tác giả. Mục đích không dìm chết độc giả với một mớ tính từ nặng nề, mà là để giúp độc giả (tự) trải nghiệm những chi tiết đáng kể (độc đáo) trong bản văn (thơ). Kỹ thuật nầy áp dụng giống nhau cho mọi thể…

Khái niệm này thường được quy cho nhà soạn kịch (biên kịch) người Nga Anton Chekhop với câu nói nổi tiếng của ông:

“Đừng nói với tôi là mặt trăng đang chiếu sáng; hãy chỉ cho tôi ánh sáng lấp lánh trên mảnh thủy tinh vỡ”

Lời trích dẫn có lẽ là không chính xác lắm, đúng ra nó được trích từ bức thư gởi anh ông, trong đó ông viết: “Trong các mô tả về Thiên nhiên, con người phải nắm lấy một số chi tiết nhỏ, gom chúng lại sao cho khi độc giả nhắm mắt, anh ta sẽ có một bức tranh. Ví dụ, bạn sẽ có đuợc MỘT ĐÊM TRĂNG SÁNG nếu bạn viết rằng: Trên cái đập nước xoay quạt, một mảnh thủy tinh từ một chai vỡ lấp lánh như một ngôi sao nhỏ sáng và rằng bóng đen của một con chó hay một con sói lăn cuộn qua như một quả bóng.]*

BÀN THÊM VỀ SHOW, DO NOT TELL

  1. PHÂN TÍCH
  2. Hai câu ca dao:

Chúng ta thử xét hai câu ca dao:

1a.

Râu tôm nấu với ruột bầu

Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon (ca dao)

Hai vợ chồng nghèo, bữa cơm chỉ có món canh râu tôm, ruột bầu – hai thứ “vứt đi – nhưng vẫn “chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”. Thông tin chỉ có thế. Nhưng điểm đến của câu ca dao còn xa hơn tí nữa, cần đến một chút nỗ lực suy nghĩ của độc giả. Nghèo như thế, bữa cơm kham khổ như thế mà hai vợ chồng vẫn vui vẻ với nhau, chắc là họ phải yêu nhau ghê lắm. Vâng! Đấy chính là điểm đến của “tứ thơ”, là ngụ ý của câu ca dao.(Phạm Đức Nhì)[1]

— Để nói đến hạnh phúc không cần phải đầy đủ vật chất, sang giàu ; chỉ cần tấm lòng thật sự yêu thương nhau (moonlit night – đêm trăng sáng), không cần giải thích (TELL) dài dòng chi tiết, bạn chỉ cần viết (SHOW = glass from a broken bottle glittered like a bright little star…): Râu tôm nấu với ruột bầu / Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon) là độc giả tự suy ra hiểu, và họ sẽ thích thú vì xem như mình có dự phần vào.

1b.

 Một mai thiếp có xa chàng

Đôi bông thiếp trả đôi vàng thiếp xin (ca dao)

— Tại sao đôi bông thiếp trả, đôi vàng thì xin? Đôi bông rất nhỏ (vài chỉ) so với đôi vàng (có khi cả lượng). Trả đôi bông, giữ đôi vàng!  Sao nàng không trả luôn đôi vàng?  Không lẽ người đàn bà dân quê Việt Nam mang thói tham lam?

— Sự thật nó có tích như vầy: — Đôi bông là vật cha mẹ chồng cho nàng dâu hồi đám nói; đôi vàng là của riêng mà hai vợ chồng trẻ nhờ dành dụm sắm được lúc sau. Nàng dâu than vãn bà mẹ chồng khắc nghiệt, sẵn sàng “trả đôi bông” lại cho mẹ chồng. Nhưng nàng vẫn thương chồng – “xin giữ đôi vàng” – nài nỉ chồng cất nhà ở riêng để thoát ách. Câu hát đó cao sâu lắm! Hồi xưa, khách qua đường hễ nghe nó là hiểu được tánh tình của bà mẹ chồng trong nhà như thế nào”. (Miễu Bà Chúa Xứ – Sơn Nam)

Để nói đến sự khắc nghiệt của bà mẹ chồng và sự thương yêu của người vợ, muốn tình nghĩa vợ chồng không tan vỡ (moonlit night – đêm trăng sáng), không cần giải thích (TELL) dài dòng, chỉ cần viết (SHOW = glass from a broken bottle glittered like a bright little star…) “tr đôi bông, xin đôi vàng” là độc giả tự suy ra, tự hiểu những điều muốn nói trên, do đó họ sẽ thích thú vì xem như mình có dự phần vào.

  1. Cuộc thi mỹ thuật quốc tế

Có thể giải thích thêm Show Đo Not Tell bằng chuyện tiếu sau đây:

Cuộc thi mỹ thuật quốc tế lấy đề tài là nạn đói, các danh họa nổi tiếng của các quốc gia đều tham dự. Việt Nam được giải đặc biệt với bức tranh vẽ hậu môn giăng đầy mạng nhện.

– Đói quá có gì ăn vào mà đi cầu, lâu ngày thì hậu môn phải giăng đầy mạng nhện thôi.

Rõ ràng không cần vẽ vời chi tiết rắc rối (Tell) nào cơ thể ốm o, mặt mày hốc hác, thân thể gầy mòn, xương lộ, bụng teo.v.v…và v.v… họa sĩ chỉ cần vẽ “hậu môn giăng đầy mạng nhện” (SHOW = glass from a broken bottle glittered like a bright little star…)  là người thưởng lãm tự suy nghĩ, tự đoán ra “nạn đói khủng khiếp” tác giả muốn diễn đạt và còn rất lấy làm thích thú vì mình đã dự phần vào tác phẩm.

  1. Hai câu cổ thi

Nhiều người biết câu thơ cổ này:

Ngô đồng nhất diệp lạc,

Thiên hạ cộng tri thu.

(Ngô đồng một lá rụng,

Người biết mùa thu về)

(Hán dịch)

(Funya no Yasuhide: sống vào giữa thế kỷ thứ 9 – Japan) [3]

Hai câu thơ cổ này giải thích rõ thêm về thủ pháp SHOW, DO NOT TELL

Ta nhận xét:

— Chỉ cần SHOW cái cụ thể là chiếc lá rụng, không cần giải thích (TELL) dài dòng, người đọc cũng cảm nhận được với cái trừu tượng là mùa thu, tình thu, hơi thu…  Họ sẽ rất thích thú vì có dự phần vào bài thơ, phải không?

  1. Bài thơ “Mẹ khuyên ta đừng nhìn qua cửa sổ”- Minh Đức Hoài Trinh

Bài thơ “Mẹ khuyên ta đừng nhìn qua cửa sổ” của Minh Đức Hoài Trinh gồm sáu đoạn hai mươi bốn câu, nhưng hết hai mươi câu là những lời khuyên của người mẹ trước sự đau khổ của người con gái vừa thất vọng trong tình yêu.

Tôi sẽ trích đoạn vài câu thơ trong bài thơ Minh Đức Hoài Trinh để minh họa thủ pháp Show, Do not Tell.

4a.

Mẹ bảo ta đừng nhìn qua cửa sổ

Khi hoàng hôn đang chầm chậm bước chân

(Minh Đức Hoài Trinh )

[…Trạng thái tâm lý của con người phần nhiều khác biệt ngày và đêm, buổi sáng trưa chiều và tối. Con người buồn nản thất vọng càng chán chường hơn khi chiều đến, khi hoàng hôn về, khi đêm tối. Hoàng hôn và đêm tối là môi trường tốt, thích hợp cho sự buồn chán nhất là buồn khổ vì tình yêu thất vọng.

Với kinh nghiệm trong cuộc sống, người mẹ khuyên người con gái đang đau buồn vì thất vọng, vì người yêu không trở lại. Nỗi đau buồn còn mới quá, chưa được thời gian làm dịu bớt, nên nàng thường một mình trong phòng sống những phút dằn vặt cô đơn. Bởi thế mẹ khuyên không nên nhìn qua cửa sổ, vì không muốn nàng thấy cảnh buồn của buổi chiều tà “khi hoàng hôn đang chầm chậm bước chân”, Và cảnh hoàng hôn bắt đầu một đêm kinh khủng, một đêm cô đơn, một đêm lẻ loi…](Nguyễn Liệu)[4]

— Chỉ viết ra, biểu hiện ra (SHOW = glass from a broken bottle glittered like a bright little star…) lời khuyên “đừng nhìn qua của sổ khi hoàng hôn đến” của người mẹ, không giải thích gì thêm, không chi tiết gì thêm (TELL) người đọc cũng dự cảm, cũng đoán ra nỗi cô đơn khủng khiếp của người con gái trong bài thơ khi hoàng hôn đến, đêm về như nhà văn Nguyễn Liệu đã bình giảng.

4b.

“Mẹ khuyên ta đừng nhìn qua cửa sổ

Sau những đêm quằn quại ngủ không mơ

Ngoài gió siết run từng cơn lá đổ

Hãy xuống hàng chấm dứt một bài thơ

(Minh Đức Hoài Trinh )

Từ ngày người yêu xa vắng,

 […người yêu không trở lại, nàng chờ đợi hoài, không tin tức. Quằn quại không ngủ được, nên cũng không mơ thấy người yêu. Trên cuộc đời không gặp lại được, thì chỉ còn hi vọng gặp trong giấc mơ, nhưng nàng cũng không có được giấc mơ, vì nàng quằn quại ngủ không được.

Mẹ nàng khuyên nàng đừng nhìn qua cửa sổ để khỏi phải thấy những trận gió tàn nhẫn phủ phàng làm cho cây run lá đổ, để tránh bớt nỗi đau lòng nhân lên gấp bội. Và nàng làm thơ vì nàng là một thi nhân. Những đêm như thế đó, những đêm quằn quại, những đêm cô độc, hồn thơ của nàng lai láng. Hồn thơ càng tuôn ra không làm cho nàng bớt đau khổ, trái lại chuốc mãi, nuôi dưỡng mãi nỗi đau khổ cùng cực của thi nhân, của nàng. Bởi vậy mẹ nàng khuyên nàng nên “xuống hàng” chấm dứt bài thơ. Bài thơ thất tình này, có thể bất tận với nỗi đoạn trường bất tận, nên phải chấm dứt để may ra ngưôi bớt nỗi sầu. Tại sao “xuống hàng”? Thường thường khi nguồn thơ lai láng, khi cảm hứng trổi dậy, thi nhân ghi vội vã gấp rút cho kịp hồn thơ đang dâng trào, và khi ý đã hết, cảm hứng đã cạn, thi nhân chấm dứt bài thơ bằng cách “xuống hàng” để ghi năm tháng, ngày giờ, địa điểm nơi sáng tác bài thơ. Thông thường là như vậy, nhưng ở đây, mẹ nàng như ra lệnh, chấm dứt việc làm thơ, dù bài thơ trường ca này mãi mãi không chấm dứt được…](Nguyễn Liệu) [4]

— Chỉ cần viết ra, biểu hiện (SHOW= glass from a broken bottle glittered like a bright little star…) câu “Hãy xuống hàng chấm dứt một bài thơ” không cần giải thích, chi tiết gì thêm (TELL) người đọc cũng đoán ra được nỗi đau khổ cùng cực, nỗi thất tình như nhà văn Nguyễn Liệu đã bình giảng trên. Chính điều này làm độc giả cảm thấy thích thú vì mình đã dự phần vào và tác giả hình như viết riêng cho mình.

  1. Bài thơ không kể lể

Chiếc khăn quàng của em

Anh gấp lại, để dành

Như người lính đứng nghiêm

Gấp lá cờ cuối cùng

Của một đất nước chiến bại

Gấp làm hai

Gấp làm tư, làm tám, và gấp mãi

 (Khăn quàng –  Nguyễn Đức Tùng)

Tương tự như nỗi lòng người lính gấp cờ chiến bại, mỗi nếp gấp là một lưỡi dao đâm nhói vào tim, mỗi cử động để gấp chiếc khăn quàng biểu hiện một nỗi tiếc nuối, nhớ thương day dứt, không nguôi. Thủ pháp Show, Do not Tell xử dụng thật tuyệt vời ở bài thơ này: — Thi sĩ hoàn toàn không nói gì đến nỗi niềm thương thớ, tiếc nuối, nhưng những hình tượng đưa vào bài thơ đã dẫn độc giả đến chỗ cần đến. (Phạm Đức Nhì: Lời bình ngắn cho bài thơ Khăn Quàng Nguyễn Đức Tùng) [1]

  1. Bài văn không kể lể

Đây là bài văn minh họa tôi dùng bài viết “Trả Lại Tiền” của cố nhà văn tài hoa Cao Xuân Huy, tác giả của “Tháng Ba Gãy Súng” và xin phép được thêm thắt chút cho hợp với bài nghiên cứu này:

[…Sau khoảng năm năm “cải tạo” về, biết gã thèm đàn bà, người bạn mới cho gã mượn chiếc xe đạp và dúi vào tay gã năm đồng rồi chỉ hướng.

Đường Hồng Thập Tự (1980) lác đác chị em ta đứng thập thò dưới các gốc cây. “Xe qua lại nhiều quá, không được.”

Gã đảo một vòng công viên trước cổng Dinh Độc Lập. Tối. Mỗi gốc cây đều thấp thoáng bóng người. Vài tay cũng đạp xe rảo rảo giống gã.

“Được rồi”. Gã tấp vào một gốc cây.

Một ả ló ra kéo tay gã:

“Dzô sát trong đây.”

“Nhiêu?”

“Hai chục.”

“Không có đủ!

“Dzậy có nhiêu?”

“’Thổi’ không thì nhiêu?”

“Mười.”

“Vẫn không đủ.”

“Dzậy chớ muốn nhiêu?”

“Có năm thôi.”

Gã quay đi. Ả kéo lại.

“Thôi, có nhiêu lấy nhiêu!”

Gã đứng tựa lưng vào gốc cây. Tụt quần.

Ả ngồi xổm xuống. Làm việc …(Cao Xuân Huy) [5]

 

Có tiếng hổn hển …

Xong việc. Gã dẫn xe đạp.

— Anh làm gì?

— Cải tạo mới về.

— Này, tiền trả lại, anh giữ để xài!

— Sao vậy?

— Cha cải tạo!…] (Nguyên Lạc)

Bài văn “kiệm lời” này giải thích rõ thêm về thủ pháp SHOW, DO NOT TELL: Không cần nói nhiều, kể lể chi tiết (TELL), qua những đối thoại kiệm lời (SHOW = glass from a broken bottle glittered like a bright little star…) này, độc giả sẽ ra suy được cái thảm kịch nhân sinh sau ngày “đổi đời”, sau ngày “giải phóng” 1975. Họ cùng dự phần với tác giả.

Cái hay ở đây ta nên chú ý thêm là sự “nén ý”, cô đọng trong bài văn ít lời này nhiều ý nghĩa nhân sinh mà tôi sẽ bàn sơ lược ở phần kế tiếp.

Qua những thí dụ minh họa trên, Nguyên Lac tôi hy vọng các bạn hiểu được phần nào cốt tủy của thủ pháp SHOW, DO NOT TELL Theo thủ pháp này:

[… không cần gì phải nói nhiều, nói thêm, đôi khi nửa câu cũng đã đủ ý. Cái phần còn lại để dành cho độc giả tưởng tượng thêm, vì cái tưởng tượng bao giờ cũng hay hơn cái có thật, cái chưa có bao giờ cũng hấp dẫn hơn cái đã có.](Võ Kỳ Điền)

  1. SƠ LƯỢC VỀ THƠ NÉN VÀ THƠ MỞ

Từ kỹ thuật SHOW, DO NOT TELL này có thể sẽ đưa đến THƠ NÉN Ý và THƠ MỞ NGÕ / ĐỂ NGÕ

Trước khi bàn sơ lược các loại thơ này, tôi xin đuoc trích ra đây lời nhận định, theo tôi rất hay của nhà văn Nguyễn Anh Khiêm

Theo Nguyễn Anh Khiêm (Ký Ức Sơ Sài) thì tiến trình ngôn ngữ như sau: Đủ từ / đủ ý (thoại)  –> đủ từ / nhiều ý (văn)  –> ít từ / nhiều ý (thơ). Do vậy trong thơ càng ít từ mà càng nhiều nghĩa (Nén) thì thơ càng hay; không cần phải ầu ơ ví dầu,”hoa lá cành” cho dài ra, làm bài thơ loãng, dễ chán. [6]

Cũng đừng quá đặt nặng vấn đề “trí tuệ”, dùng một từ đơn giản, bình dị dễ hiểu mà nhiều nghĩa hay hơn là dùng “chữ hàn lâm”, “đỉnh cao” sáo rỗng ý nghĩa mù mờ hoặc vô nghĩa.

Một bài thơ, văn chữ nghĩa “hàn lâm”, nặng về trí tuệ, kỹ thuật quá có thể toàn bích như một bức tranh , một bức tượng giai nhân tuyệt vời. Nhưng dù sao nó cũng là bức tranh, bức tượng “chết”, chỉ để ngắm nhìn thôi (chỉ có lý trí không cảm xúc), đâu bằng giai nhân đời thường, dù không hoàn toàn tuyệt bich, nhưng ta có thể ôm ấp, mân mê ve vuốt “cõi tồn sinh” (đầy cảm xúc).

  1. THƠ NÉN Ý

Thơ nén ý cô đọng trong lời thơ những ý của người tài danh khác, của tiền nhân.

Thử phân tích hai câu thơ này:

Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi?

(Tiếng hát trong trăng – Bàng Bá Lân)

Qua hai câu thơ nén ý này độc giả sẽ suy nghĩ và nhớ đến các câu thơ khác:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

(Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử )

Hoặc hai câu cuối của bài thơ “Xuân giang hoa nguyệt dạ”(Trương Nhược Hư)

Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân qui,

Lạc nguyệt dao tình mãn giang thụ.

Đêm trăng hoa trên sông xuân

Nào hay AI cưỡi trăng về,

Trăng sà trên bến cây mê mê tình

(Laiquangnam dịch )[7]

  1. THƠ MỞ NGÕ

Xưa nay người làm thơ giỏi là người làm thơ mở để có được sự “đồng tham gia” của người đọc mà ta gọi là “Đồng tác giả”; bởi khi thơ đã xuất thì chính tác giả cũng không biết hết ý của mình.

2a. Ta thử phân tích câu thơ này:

X nhớ Y bên trời viễn xứ

Mắt lưng tròng giọt rượu trào tuôn

(Nguyên Lạc tự chế để minh họa)

Độc giả nam / nữ nghĩ rằng X nhớ Y chứ đâu có liên quan gì đến mình. Ừ bài thơ cho là hay đi, nhưng tác giả nói cho ai chứ đâu phải nói cho mình. Độc giả hững hờ với bài thơ.

Bây giờ, nếu câu thơ viết Anh / Em nhớ Em / Anh bên trời viễn xứ: – Độc giả sẽ nghĩ rằng Anh / Em là mình, rồi liên tưởng đến những kỷ niệm nào đó trong quá khứ. Độc giả sẽ hứng khởi, thích thú, thấy bài thơ hay hơn vì cảm thấy có mình trong đó, có mình dự phần vào.

Và hai câu thơ này:

Thu đi thì lá phải là…

Người đi nhức nhối tim và… dĩ nhiên!

(Nguyên Lạc tự chế để minh họa)

Cũng như trên, hai câu thơ này là thơ mở, mời người đọc cùng góp cảm xúc riêng mình vào. Hai câu thơ có nhiều ý: — Là sao? Và sao? Dĩ nhiên điều gì? Những câu hỏi mở ra để độc giả dự phần, tự tìm câu trả lời tùy theo những cảm xúc riêng mà họ đã kinh qua trong quá khứ.

Thơ mở là như thế !

2b. Và hai câu lục bát này

Chân trời gốc bể đâu xa

Riêng tương tư BẠN bao la không bờ!

(Nguyên Lạc tự chế để minh họa)

. Chú ý về chữ BẠN:

BẠN (cũng giống chữ AI câu thơ dịch thơ Trương Nhược Hư) mở ngõ (cửa) cho người đọc đi (dự) vào. Người đọc cảm thấy có mình trong đó và có thể tiếp lời. “Tương tư BẠN” là mình thương nhớ người khác (Anh / Em thương nhớ Em / Anh)  hoặc mình được thương nhớ (thương nhớ của Em/Anh).

. Chân trời gốc bể đâu xa

Câu nầy gợi độc giả nhớ đến các câu thơ của Yến Thù:

Thiên nhai địa giác hữu cùng thời

Chỉ hữu tương tư vô tận xứ

(Ngọc lâu xuân – Yến Thù)

Dịch nghĩa:

Chân trời góc bể cũng có điểm cuối cùng

Chỉ có tương tư là mãi vô tận

Xét rõ, ta thấy hai câu lục bát này vừa NÉN và MỞ.

III. THÍ DỤ MINH HỌA

Xin được trích đoạn thơ sau đây và giải thích rõ để làm thí dụ minh họa về những gì đã nói:

Đẫm quỳnh ngất tiếng vỡ oà

Ngàn ve hoảng hốt khúc ca ngợi tình

Mai sau có biết bóng hình

Trùng lai hạnh ngộ khối tình ngọc tan?!

Ngụy ngôn đánh đổ đá vàng!

Ba sinh đứt đoạn thu tan lệ trào!

(Vườn thu xưa – Nguyên Lạc)

Đây là bài thơ áp dụng “Thủ pháp Show, Do not Tell”

Giải thích:

1.

“Ngàn ve hoảng hốt. khúc ca ngợi tình”

Là đoạn thơ “nén ý ” gợi độc giả nhớ đến tiếng ve kêu vang trong bài thơ Trần Dạ Từ:

Lần đầu ta ghé môi hôn

Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang

Vườn xanh, cỏ biếc, trưa vàng

Nghìn cây phượng vĩ huy hoàng trổ bông

(Nụ hôn đầu – Trần Dạ Từ)

2.

“khối tình ngọc tan”

Gợi nhớ đến Mị Nương khóc, lệ rơi khiến tan chảy ly ngọc làm từ quả tim Trương Chi. Đây là thơ “nén ý ” gợi đến khối tình Trương Chi/Mị Nương.

3.

“Ngụy ngôn đánh đổ đá vàng”

— Đá vàng

Đá và vàng dùng để ví sự bền vững, gắn bó trong quan hệ tình cảm (thường về tình nghĩa vợ chồng): – “Tình nghĩa đá vàng”.

Nó cũng gợi ý nhớ đến bài nhạc “Đời đá vàng” (nhạc sĩ Vũ Thành An) và truyện”Cõi đá vàng” của Nguyễn Thị Thanh Sâm trước 1975 tố giác sự độc ác của CS.

— Ngụy ngôn

Ngụy ngôn là lời nói giả dối, giả tạo; cũng như ngụy ngữ là từ dùng để che đậy những gì xấu xa. Ai nói ngụy ngôn? Nói ra sao?… do độc giả suy đoán theo ý riêng mình. Đó là DO NOT TELL trong thủ pháp nói trên.

–Ba sinh đứt đoạn

Ba sinh: ba kiếp người: Kiếp trước, kiếp này và kiếp sau theo thuyết luân hồi của Phật giáo. Theo đạo Phật, người ta làm vợ chồng với nhau cũng phải trải qua 3 kiếp. Kiếp này làm vợ chồng là để trả nợ cái ân tình vợ chồng của kiếp trước.

“Ví chăng duyên nợ ba sinh” (Truyện Kiều).

Nó cũng nhắc nhớ đến bài “khóc ông Phủ Vĩnh Tường” – Hồ Xuân Hương

Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!

Cái nợ ba sinh đã trả rồi

Nó cũng nhắc nhớ đến chuyện “Ba Sinh Hương Lửa” của nhà văn Doãn Quốc Sĩ

  1. Và “quỳnh hoa” là “cõi tồn sinh” của người nữ như trong bài viết của tôi: HOA QUỲNH – Ý NGHĨA VÀ TRUYỀN THUYẾT.

Qua những điều giải thích trên, hy vọng các bạn hiểu rõ thêm về Show,Do not Tell , thơ nén ý và thơ mở

Hãy “mở cửa” để mọi người bước vào dự bữa tiệc Văn chương /Thi phú, chứ đừng là ‘khung cửa hẹp” chỉ của riêng mình. Cô đơn lắm lắm!

 LỜI KẾT

Xin được ghi thêm 

Ứng dụng thủ pháp “Show, Do Not Tell” các bạn nên nhớ rằng còn nhiều thủ pháp hay khác nữa, ngoài nó tùy theo lúc mà ta áp dụng, phải uyển chuyển.

Đối với các đại văn hào, “ngữ lực” họ quá tuyệt vời, nó không cần thiết. Đôi khi các vị còn dùng cả Show va Tell.

Thí dụ: Nguyễn Du

— Ông dùng cả Show và Tell:

Trong như tiếng hạc bay qua ( Kiều) 481

Đục như nước suối mới xa nửa vời ( Kiều) 482

— Ông đã dùng thủ thuật mô tả một “nốt” nhạc, một đoạn nhạc bằng cách so sánh và đối chiếu với một âm đã có sẵn trong thiên nhiên:

Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,( Kiều) 483

Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa ( Kiều) 484

***

Qua trên, đó là những phần tôi đã học hỏi, nghiên cứu, bàn thêm về thủ pháp (kỹ thuật) SHOW, DO NOT TELL. Hy vọng các bạn biết thêm ít nhiều điều lý thú về thủ pháp này.

Và sau cùng: Đây là bài viết MỞ nên nó rất cần ĐỒNG TÁC GIẢ. Mời các bạn đóng góp thêm.

Nguyên Lạc    

…………………

Nguồn: Wikipedia, Laiquangnam Lai, Võ Kỳ Điền, Truyện Kiều, Thi viện, FB

* Nguyên văn tiếng Anh:

[Show, don’t tell is a technique often employed in various kinds of texts to enable the reader to experience the story through action, words, thoughts, senses, and feelings rather than through the author’s exposition, summarization, and description. The goal is not to drown the reader in heavy-handed adjectives, but rather to allow readers to interpret significant details in the text. The technique applies equally to nonfiction and all forms of fiction, literature including Haiku  and Imagism poetry in particular, speech, movie making, and playwriting.

 “Don’t tell me the moon is shining; show me the glint of light on broken glass.”

In fact, the quote is probably apocryphal, but derived from a letter to his brother in which he wrote: “In descriptions of Nature one must seize on small details, grouping them so that when the reader closes his eyes he gets a picture. For instance, you’ll have a moonlit night if you write that on the mill dam a piece of glass from a broken bottle glittered like a bright little star, and that the black shadow of a dog or a wolf rolled past like a ball.”…] [2]

Ghi chú:

[1] “SHOW, NOT TELL” Trong Thơ – Phạm Đức Nhì

http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/07/show-not-tell-trong-tho.html

Phạm Đức Nhì: Lời bình ngắn cho bài thơ Khăn Quàng

https://t-van.net/?p=36469

[2] Show, don’t tell

https://en.wikipedia.org/wiki/Show,_don%27t_tell

[3] Thơ Funya no Yasuhide – Bài số :  22

http://chimviet.free.fr/33/Wakatramnha/22-Yasuhide.htm

[4] Một bài thơ của Minh Đức Hoài Trinh – Nguyễn Liệu

https://nghiathuc.wordpress.com/2018/08/09/mot-bai-tho-cua-minh-duc-hoai-trinh-bai-cua-nguyen-lieu-3/

[5] Tác Giả Tác Phẩm Cao Xuân Huy – Ngộ Không : 

https://t-van.net/?p=4313

[6] Ký Ức Sơ Sài- Nguyễn Anh Khiêm

http://daihocsuphamsaigon.org/index.php/van/85-nguyenanhkhiem/187-kyucsosai

[7]  Trương Nhược Hư – Xuân giang hoa nguyệt dạ – Laiquangnam

http://www.art2all.net/tho/laiquangnam/lqn_truongnhuochu_xuangianghoanguyetda.htm

 

 

©T.Vấn 2018

Bài Mới Nhất
Search