T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Phạm Đức Nhì: TÍNH NHẤT QUÁN CỦA TỨ THƠ

Ảnh (HKL)

Độc Giả Đặt Vấn Đề

Trong bình luận của anh Trần Nông Dân về bài viết Đọc Bài Thơ “Phương Xa” Bằng Đôi Mắt Bình Phẩm Nghiêm Túc (PĐN) có đoạn:

“Thơ của ông ‘chợt tỉnh, chợt say’, khi thì lả lướt, khi thì quay cuồng, khi rực cháy, khi yếu mềm… Ai đã từng đọc nhiều thơ của ông đặc biệt là tập ‘Thơ Say’ thì sẽ rõ. Điều đó phản ánh tư tưởng bất định của Vũ Hoàng Chương với lời thơ luôn theo những xúc cảm tức thời. Cũng vì vậy mà không nên quá nặng nề với những mâu thuẫn trong thơ cũng chính là trong con người của ông vậy.”

Tính Nhất Quán Của Tứ Thơ

 Làm thơ là trải lòng mình trên trang giấy, chia sẻ tâm trạng, niềm vui nỗi buồn của mình với tha nhân. Đọc thơ là thả hồn vào dòng chảy của tứ thơ – có vần điệu, nhạc họa tiếp sức – để hiểu, cảm tâm tình của tác giả. Khi đọc thơ, ta cho hồn ta tiếp cận với hồn thơ của tác giả (lấy hồn ta để hiểu hồn người) nên lý trí “lơ đãng, chểnh mảng” chứ không cảnh giác cao độ như khi đọc văn. Bài thơ càng hay thì tâm hồn ta càng tự do bay bổng, lý trí càng “đi chơi xa”.

Bởi vậy dù thi sĩ có “chợt tỉnh chợt say, khi thì lả lướt, khi thi quay cuồng, khi rực cháy, khi yếu mềm” thì ngôn ngữ thơ cũng phải được tuyển lựa kỹ càng, thế trận của bài thơ phải được sắp xếp chu đáo để tứ thơ mạch lạc, trên dưới, trước sau ăn khớp. Thả tâm hồn vào bài thơ, người đọc lúc đó rất nhạy cảm, vì thế trong thơ không nên có những chữ hoặc câu làm lệch hoặc cản dòng chảy của tứ thơ. Giới phê bình gọi sự “ăn khớp” đó là tính nhất quán của tứ thơ.

Chữ “Vui” Làm Buồn Bài Thơ

 NIỀM TIN

Lại một NOEL nữa
Mấy mùa Giáng Sinh rồi
Anh ở đồn biên giới
Thuơng về một khung trời

Chắc Ðà lạt vui lắm
Mimosa nở vàng
Anh đào khoe sắc thắm
Huơng ngào ngạt không gian

Mấy mùa Giáng Sinh truớc
Chỗ hẹn anh chờ hoài
Lần này không về đuợc
Hồi hộp đợi tin ai

Em biết chăng đời lính
Nắng sớm với sương chiều
Gió rừng rồi mưa núi
Ðã làm anh vui nhiều

Radio mở sẵn
Ðón thánh lễ truyền thanh
Xin CHÚA ban ơn xuống
Cho em và cho anh

 (Đoạn này khi phổ nhạc đã bị bỏ đi)

Cùng cầu cho thế giới
Cho nhân loại hoà bình
Cho đôi ta gặp lại
Trong một mùa Giáng Sinh

(nhấttuấn (1960) Anh Linh phổ nhạc)

https://www.youtube.com/watch?v=fXgdPlUdKJQ

Tôi đến với Niềm Tin qua giai điệu nhạc của Anh Linh trước khi biết bài thơ gốc của Nhất Tuấn. Nghe bài nhạc đến đoạn “Đã làm anh vui nhiều” tự nhiên thấy chối tai, cảm xúc trong tâm hồn đang trôi theo tiếng hát bỗng khựng lại. Lòng tự hỏi “Trong khung cảnh đó tại sao lại ‘vui’ nhỉ? Mà lại ‘vui nhiều’ mới lạ chứ!”

Đã từng là anh lính chiến, đóng quân ở rừng sâu, núi cao, tôi đã biết thế nào là

Nắng sớm với sương chiều

Gió rừng và mưa núi

theo đúng nghĩa đen của từng chữ. Tôi quen với khung cảnh ấy, sống trong hoàn cảnh ấy không phải vài ngày, vài tuần mà tháng này qua tháng khác.

Những lúc ấy ngồi trong lều nhìn cảnh núi rừng – từ sĩ quan đến lính – mắt thằng nào cũng như đang lạc vào một cõi xa xăm, mặt thằng nào cũng dài thuỗn ra, buồn rười rượi. Dĩ nhiên đời lính ở rừng sâu núi thẳm cũng có những lúc vui – những niềm vui nho nhỏ do người lính tự tạo ra – để quên nỗi nhớ thương quay quắt và để … sống.

Nhưng chỉ cần một cái gì đó rất nhỏ nhặt gợi lên kỷ niệm với người thân thì từ sâu trong tâm hồn của họ nỗi buồn chia xa đang đầy ắp sẽ trào ra như thác đổ.

Câu “Đã làm anh vui nhiều” khiến Niềm Tin đang là tâm tình của người lính xa nhà bỗng trở thành một bài thơ, bài hát “phải đạo” (politically correct). Lời thơ, tiếng nhạc đang là những cảm xúc chân thật của con người bất chợt biến thành những lời đầu môi chót lưỡi, dối người và tự dối lòng mình.

Hơn nữa, xét về kỹ thuật thơ thì câu “Đã làm anh vui nhiều” là câu thơ “tréo cẳng ngỗng” lội ngược chiều với dòng chảy lững lờ buồn bã của tứ thơ.

Đúng là chữ “vui” đã làm buồn bài thơ.

 Câu Thơ Nội Gián

CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA

Chăn trâu đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.

(Đồng Đức Bốn)

Trong bài Lục Bát Và Chăn Trâu Đốt Lửa ông Nguyễn Lâm Cúc đã viết:

Khung cảnh trong bài thơ là cánh đồng miền Bắc, nơi mà dù vụ gặt vừa mới xong rạ rơm cũng không còn lại bao nhiêu, vì suốt cả một vùng đồng bằng dọc theo châu thổ sông Hồng, người nông dân quí rạ không khác gì sản phẩm khác.

 Họ tận thu rơm rạ để làm thức ăn cho trâu, bò; để đun nấu, để làm vách đất nữa. Vì vậy, cánh đồng sau vụ gặt mùa Đông chỉ còn rất nhiều gió và cái lạnh thấu xương.”

 Trong bài “Chăn Trâu Đốt Lửa”: Sâu Sắc Một Triết Lý Nhân Sinh nhà phê bình Đức Thọ cũng đề cập đến sự hiếm hoi của rơm rạ sau vụ gặt Đông:

“Câu thơ thứ hai nhà thơ khẳng định “Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều”. Đúng vậy, trong mùa hanh heo mà đã gió đông thì khi thổi cháy bao nhiêu rơm rạ cho vừa.” 

 Trong đầu tôi tức khắc hiện ra câu hỏi: Trong hoàn cảnh đó làm sao có đủ than lửa để củ khoai cháy thành tro được? Tôi điện thoại hỏi một ông chú họ xa ở ngoại thành Hà Nội thì được cho biết: “Nếu chịu khó kiếm cành khô, củi mục ở nơi khác gom lại thì với chút ít rơm rạ còn sót ở cánh đồng cũng có thể tạo được ‘bếp lửa’ để nướng khoai nhưng phải chăm chút, che chắn cẩn thận, chứ như thi sĩ của chúng ta ‘Mải mê đuổi một con diều’ thì chỉ chốc lát là rơm rạ đã bay tung tóe, lửa tắt, củ khoai chưa chắc đã chín chứ làm sao mà ‘Củ khoai nướng để cả chiều thành tro’ được.”

Mà dù – cứ cho là với cái tài “gầy bếp” đặc biệt của trẻ chăn trâu – củ khoai nướng đã thực sự thành tro thì câu thơ “Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều” cũng đã “lội ngược dòng” với tứ thơ.

Trong quân đội đôi khi có những người lính “vô tích sự”, cháu của ông Bộ Trưởng này, con của ông Tổng Cục kia, có mặt ở Bộ Chỉ Huy, Bộ Tư Lệnh chỉ để làm vì, để bảo vệ “chữ Thọ”, để khỏi phải lao vào chỗ sống chết nơi trận địa. Khi đụng chuyện chẳng những không giúp ích được gì cho đơn vị mà có khi còn vướng chân, vướng tay những người lính khác trong việc hoàn thành nhiệm vụ của họ.

Đặc biệt hơn, còn có những người lính làm nội gián cho địch để cản trở, để phá hoại việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Trong thơ, tôi đã gặp khá nhiều những câu thơ “vô tích sự”. Có lẽ tôi sẽ đề cập đến những câu thơ “thừa” này vào một dịp khác.

Riêng trường hợp Chăn Trâu Đốt Lửa thì “Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều” chính là câu thơ nội gián. Không những nó không giúp làm tăng độ khả tín, sức thuyết phục của tứ thơ mà ngược lại, đã trở thành một chướng ngại vật ngăn cản hành trình qua đó độc giả tiếp cận tứ thơ để rồi đi đến chỗ đồng cảm với tác giả.

Kết Luận

 Phát biểu của anh Trần Nông Dân “Cũng vì vậy mà không nên quá nặng nề với những mâu thuẫn trong thơ…”  làm tôi nhớ đến mấy câu thầy giáo dạy Văn thời trung học đưa ra để châm biếm những thi sĩ, những bài thơ mà “câu sau chửi cha câu trước”, tính nhất quán của tứ thơ bị vứt vào sọt rác:

TRÊN ĐƯỜNG CÓ NHỊ CHÀNG TRAI

Trên đường có nhị chàng trai

Đầu râu tóc bạc cưỡi hai ngựa hồng

Ngựa thì trắng toát như bồng

Giữa đường cát trắng bụi hồng tung bay.

 Mâu thuẫn trong thơ, nếu người bình thơ không lên tiếng cảnh giác, uốn nắn từ lúc còn là “họa dần vơi” thì chẳng bao lâu sẽ đi đến “Sẽ làm anh vui nhiều”, hoặc “Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều” và kết cục là vườn thơ sẽ xuất hiện những bài thơ còn chướng tai hơn Trên Đường Có Nhị Chàng Trai nữa.

Phạm Đức Nhì

 

 

©T.Vấn 2019

 

Bài Mới Nhất
Search