T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Giã Từ (Tiểu Thuyết -1962)

Võ Phiến

 

Giã Từ (Tiểu Thuyết -1962)

 

clip_image001

Sau sự kiện “ trường hợp Thu Tứ “ , trong tinh thần truyền bá rộng rãi mọi tác phẩm của Võ Phiến nhằm giúp cho độc giả khắp nơi, trong cũng như ngòai nước, và nhất là những độc giả trẻ của những thế hệ tương lai, có cái nhìn chính xác và công bằng về một trong những cây bút đại thụ của văn học VNCH, TV&BH xin phép trang Diễn Đàn Thế Kỷ – là nguồn mà chúng tôi thu thập bài vở cho tập tiểu thuyết Giã Từ này – được đăng tải lại trong chuyên mục “ đọc lại võ phiến “.

TV&BH xin trân trọng giới thiệu tiểu thuyết Giã Từ với quý độc giả khắp nơi.

TV&BH

Tháng 10 năm 2014

 

 

– Ủa! rồi ông bạn chuyến này i thiệt sao?

“Ông bạn” được săn sóc hỏi han đó là tôi. Lần này tôi đi thật. Vì vậy mà không vội vàng trả lời, tôi thong thả thưởng thức sự quan trọng của mình.

Người hỏi tôi mặc bà ba đen, quấn khăn lông quanh đầu, đi chân trần không guốc không dép gì cả. Đó là một người dân chài đã ngoài bốn mươi lăm.

Đợi tôi xác nhận cái tin tôi sắp giã từ Qui Nhơn xong, người bạn dân chài sa sầm nét mặt, nói:

— Tụi tôi nghe tin, buồn hết xức vậy ó.

Tôi hiểu cái lòng chân thành của ông Sáu: có mực khô nướng mà không có chén rượu, ông ta “buồn hết xức”, có ruốc tươi mà không có miếng kẹo đậu phụng để giã vào nước nắm, cũng “buồn hết sức”… Tôi bèn thân mật vỗ lên vai ông ta, dỗ dành:

— Buồn vậy, nhưng có cá cơm ăn gỏi và có rượu nhắm thì ông Sáu cũng cố gắng vui một chút được chớ?

— Thôi i, giỡn hoài! Ờ! mà chiều nay, xẵn gặp nhau, tụi tôi mời ông bạn dự một bữa gỏi cá. Ược không?

— Chiều nay thì không.

— Xao vậy?

— Tôi định tìm chiếc ghe đi qua bên Phước Mai một lần chót. Để chào ông Tám giữ ngọn hải đăng ấy mà.

— Vậy thì hay lắm; tụi mình em ồ nhắm lên ghe, vừa i vừa dùng. Tôi rủ thằng Tư Tái theo, nó sẽ lặn gỡ một ít hàu ăn thêm cho vui.

Thế thì nhất định là vui, không còn nghi ngờ gì nữa. Bao giờ có cá tươi để ăn và có rượu nhắm thì người dân chài dễ dãi liền tin tưởng ngay rằng chốn cực lạc quyết không thể ở cách xa mép nước. Buổi đầu tiên tôi được quen ông Sáu cũng tại nơi bờ biển, khi ông ta xách cái cãu con, nheo mắt ngóng ra biển đợi chiếc ghe của mình về để xúc một cãu ruốc chạy về nhà ăn gỏi. Tôi tò mò hỏi qua về món ăn ấy, ông Sáu liền niềm nở rủ tôi dự tiệc.

Từ đó tới nay tôi đã dự với ông Sáu không biết bao nhiêu lần tiệc nhỏ tiệc lớn. Người dân chài không biết cách nấu nướng cầu kỳ, không dùng nhiều gia vị: gần hết các thứ tôm cá ở bể bắt lên, họ thích hoặc luộc, hoặc bóp dấm ăn ngay với rau thơm. Tính họ dễ dãi và hay mời mọc, nên những cuộc ăn uống như thế thường tụ tập đông bạn bè và tốn kém khá nhiều. Một đôi khi tôi toan góp ý kiến với ông bạn vong niên nghèo nàn về một cách sống tằn tiện hơn thì ông Sáu cười ngất, khỏa tay trả lời rằng của cải do nghề biển làm ra là của bọt nước: có đấy rồi tan đấy, làm sao mà để dành được? Những người bạn xúm xít quanh mâm rượu cũng vùng lên cười rộ về sự ngờ nghệch của tôi. “Của bọt nước: làm sao để dành được!” Tiếng cười vui vẻ cởi mở của họ vang lên ầm ĩ rồi tắt đi dễ dàng, như tiếng sóng đánh ào tới một cái rồi tan liền; họ lại vui ăn vui uống, lời khuyên can của tôi bị cuốn ào đi không để lại một dấu vết.

Lần lựa ngày tháng trôi qua, tôi kết bạn với ông Sáu được hai năm. “Quân tử chi giao đạm nhược thủy”, mối giao tình giữa hai chúng tôi không được giống thứ tình lạt lẽo của người quân tử: trên thứ giao tình chúng tôi cứ phảng phất luôn luôn một mùi men nồng. Bọt nước tan đấy rồi lại nhóm ngay đấy, ông Sáu không góp của cất nổi một cái nhà ngói, mua nổi máy thâu thanh, xe Vét-pa v.v… nhưng để tổ chức những cuộc ăn uống thì lúc nào ông cũng sẵn sàng. Hôm nay được tin tôi nhất định rời khỏi Qui Nhơn đi làm ăn xa, ông Sáu “buồn hết xức” lại muốn rủ nhau tiêu sầu bằng cá tươi. Tôi bằng lòng.

Tôi tỏ ý muốn biết cùng đi với chúng tôi ra hải đăng chiều nay có những ai. Ông Sáu liền trả lời ngoài tôi với ông chỉ thêm có ông Ba Thê và chú Tư Tái thôi. Tôi giật mình, không ngờ sự tình cờ lại ghép ông Ba Thê trong bữa ăn tiễn biệt tôi, lại cho tôi gặp ông Ba Thê một cách trịnh trọng như vậy trước khi rời bỏ Qui Nhơn. Bởi vì ông Ba Thê Đồng Thời là lịch sử một đoạn đời của tôi ở đất Qui Nhơn.

Ông Ba Thê Đồng Thời vào khoảng trên dưới năm mươi lăm tuổi, đầu tóc bạc từ hồi bốn mươi, là một người có phong thái đặc biệt khoan thai nhàn nhã. Ông ta có nhà cửa, có vợ và ba con, trai có, gái có, bạn hữu có, trà tàu uống sáng có, phở ăn khuya đôi khi cũng có. Chỉ có một điều ông Ba Thê chịu thiếu thốn đã lâu, ấy là nghề nghiệp. Ông ta thất nghiệp ít nhất cũng trên hai mươi lăm năm rồi. Và, căn cứ trên hiện tình sức khỏe cùng tâm lý của ông, chúng ta yên trí ông còn có thể tiếp tục thất nghiệp như thế vài mươi năm nữa.

Có ai thất nghiệp mà chịu vui công khai? Ông Ba Thê phàn nàn nhiều lắm về tình cảnh của mình, cho nên ông hóa luôn ra một người thất chí. Theo lời ông ta phân trần thì ông luôn luôn vùng vẫy để thoát ra khỏi tình trạng nhục nhã. Nhưng mà bây giờ ông ta chỉ còn chừng vài mươi năm nữa để sống trên đời: làm sao kịp tìm thấy một nghề nghiệp cho ra hồn? Gấp quá rồi! Chỉ còn có mỗi một hy vọng là tìm ra nghề nghiệp ngoài cõi thế gian thôi.

Hồi xuân xanh ông Ba Thê đẹp trai, vui vẻ, lanh lợi, khiến ai thoáng  trông qua cũng phải chú ý. Cho nên ông không cần khó khăn gì cả mà tự nhiên đi đến đâu có bạn bè, có nhân tình nhân ngãi đến đó, rồi không cần tìm kiếm mà tự nhiên cơ hội đến: ông ta được vào lính khố xanh dễ dàng, được thăng lên cai, lên đội lúc nào, tựa hồ như không kịp để ý tới. Sự đời thường là như thế: những dịp may mắn chúng cứ như là ham vui mà dắt nhau tới trong một thời gian nào đó, rồi tặc một cái, xảy ra chuyện trắc trở, thế là những cơ hội tốt đội khăn tang lũ lượt kéo nhau đi, gọi kêu mấy cũng không chịu trở lại; cuộc đời cứ vắng tanh vắng teo hằng mười năm, mười lăm năm, rồi mãi mãi.

Có thể nói quyết là trong trường hợp ông Ba Thê sự thành công không hề do cố gắng, vì vậy thất bại cũng không do biếng nhác. Có cố gắng gì đâu trong cái thời từ hai mươi tới ba mươi tuổi của ông Ba Thê? Vừa lớn lên, có chút ít chữ nghĩa, có một ít tài sản vốn liếng, Ba Thê còn đang ham chơi bời, còn tính vào tận Nam Kỳ cho rộng chân rộng cẳng bay nhảy, ông ta đã tính đâu tới chuyện vô lính! Vậy mà không ai gởi gắm giới thiệu, ông ta vẫn được thu dụng vào hàng ngũ khố xanh. Hoàn cảnh mới có thú vui mới, Ba Thê kết giao với rất nhiều bạn đồng ngũ, tập tành thêm nhiều thú chơi bời, được rất nhiều cấp trên vừa lòng, ngợi khen và giúp đỡ, và cất nhắc, được nhiều con gái lưu luyến. Những thứ đó xúm lại làm ra một sự nhộn nhịp, rộn ràng vô số kể. Ba Thê thực tình bị bận rộn đến nỗi không kịp để ý và sau này không thể nhớ lại mình đã làm cái gì để được yêu mến và thăng thưởng mãi.

Ông Ba Thê và nhiều bạn của ông ta chỉ còn nhớ lại một đôi mảnh sinh hoạt không thể có chút giá trị kinh nghiệm gì. Chẳng hạn hồi ông mới cưới vợ, một hôm có nhóm thân sĩ ở quận Bình Khê rủ nhau tổ chức hát bội, tất cả ban hát chỉ có hai cô đào là con hát chuyên nghiệp, còn bao nhiêu kép đều là mấy ông thân sĩ mộ điệu tự đóng lấy để thưởng thức với nhau. Ý kiến được ông tri huyện địa phương cho là ngộ nghĩnh, nên ông tri huyện có tham dự đêm hát Lã Bố hí Điêu Thuyền ấy. Thủ vai Lã Bố là Ba Thê mà cô đào đóng vai Điêu Thuyện thì quá trẻ và quá lẳng lơ. Cô vợ mới cưới của ông đội Ba Thê ngồi ở hàng ghế quan khách cứ đỏ mặt lên dần dần, đỏ như có ai xoa mạnh tay lên hai bên mang tai; rồi cuối cùng bà đội bật lên khóc hu hu trên hàng ghế quan khách. Điêu Thuyền ngoảnh xuống chợt hiểu sự cơ liền tái mặt, thất sắc. Lã Bố ngỡ ngàng, lúng túng trong hia giáp rộng thênh thang. Ông tri huyện giơ chiếc dùi chầu lơ lửng quên đập xuống mặt trống.

Người ta cũng còn nhớ mãi cái hội gọi là của Những-Người-Ăn-Bê-Thui. Hội viên hết thảy là những tay cờ bạc, điều kiện nhập hội ấy không bao giờ công bố nhưng hóa ra là điều kiện thiết yếu nhất. Khi nào sòng bạc tổ chức tại nhà một hội viên thì tiền xâu hôm đó đều được trích ra một đồng bỏ vào quĩ “hội”. Như thế cho đến cuối tháng, kiểm điểm lại, nếu còn thiếu thì các hội viên chia nhau góp cho đủ tiền mua một con bê non, ăn thui vào một ngày chủ nhật. Nếu số tiền xâu nhập lại mà đủ thanh toán tiền thui bê thì các hội viên cố nhiên hỉ hả tọa hưởng cái ích lợi do sự cờ bạc đem đến mà khỏi đóng góp thêm. Đến dự tiệc, một số hội viên đem theo ống đu đủ, chờ khi vừa cắt cổ con bê ra là thọc ngay cái ống vào mạch máu để hút. Các hội viên khác thì hứng huyết trong những cái bát có sẵn gừng giã và rượu trắng, khuấy đều rồi uống ừng ực. Tất cả đều tin rằng huyết bê uống tươi có tài cải lão hoàn đồng. Sự tin tưởng đó làm nền tảng lý tưởng cho việc thành lập ra hội Những Người Ăn Bê Thui. Lẽ dĩ nhiên rất có thể phê bình rằng tín ngưỡng ấy không có gì thâm thúy, tuy nhiên nó cũng đủ để cố kết mười bốn hội viên hoạt động trong hai năm tròn không mệt mỏi. Một hội viên già lạc quan khoe rằng râu của mình trước kia vàng hoe và khô, từ ngày ông nhập hội đã lần hồi trở lại đen và mướt, rất xinh.

Riêng về phía Ba Thê, ông ta thường có chuyến ngồi đánh bạc, suốt bốn mươi tám tiếng đồng hồ liên tiếp, sau đó được lệnh ông Một, ông Lãnh hay một cấp trên nào gọi, ông đội Ba Thê vẫn có thể gấp gấp đến trình diện mà không thiếu vẻ tỉnh táo. Có những đêm mới bắt đầu ngồi vào chiếu được vài giờ, ông Ba Thê thua hết cả món tiền đem theo, như thế mà ông ta vẫn không chịu rời sòng bạc đứng dậy, cứ ngồì mãi đó xem người khác đánh, nói xen vào chuyện của họ, cười góp với họ suốt đêm tới sáng. Được như thế một phần là vì lòng đam mê, một phần khác cũng là vì huyết tươi của bê thui.

Chuyện Ba Thê hí Điêu Thuyền cũng như chuyện Những Người Ăn Bê Thui, về sau này, khi đã thất nghiệp, được hồi tưởng lại thiệt tình chúng không giúp ích được chút kinh nghiệm gì cho ông Ba Thê để ông ta có thể xoay xở thoát cảnh nhục nhã.

Điều đó thật đã minh bạch rõ ràng. Vậy mà những kỷ niệm ấy ông Ba Thê cứ nhớ mãi, bạn bè ông ta cứ nhớ mãi. Đặc tính cố hữu của những giai thoại lưu truyền chung quanh tiểu sử các danh nhân, ấy là tính cách vô ích và cái tuổi thọ dai dẳng của chúng.

Ông Ba Thê cầm súng ban ngày, đánh bạc ban đêm. Cũng có khi ban đêm ông ta phải vác súng tuần hành, thì trái lại có lắm khi ban ngày ông ta vụng trộm đánh bạc. Cái sinh hoạt nhịp nhàng đó ai cũng rõ. Vả lại trước sau ông Ba Thê chỉ cầm súng non mười năm, nhưng đến khi đóng lon đội khố xanh thì ít ra ông ta đánh bạc cũng được mười ba năm rồi. Như vậy nếu gặp hồi phải nhường nhịn nhau thì đáng lẽ phía sinh hoạt cầm súng nên nhường cho phía sinh hoạt huynh trưởng kia mới phải. Thế mà việc đời đã xảy ra không thèm hợp với lẽ phải. Số là ông án sát với ông lãnh binh có điều bất bình với nhau, một đêm nọ thầy đội Ba Thê đang đánh bạc ở nhà ông lãnh thì bị vây bắt thình lình.

Từ trước tới giờ ai còn lạ gì nhà ông lãnh có chứa bạc, ai còn lạ gì những mặt mũi đêm đêm hội họp xung quanh chiếu bạc đó? Có lạ lùng chăng là cái sáng kiến bắt bạc bất tử ấy.

Một chuyện táo bạo như thế phải là do cụ án xếp đặt. Nhưng mà sau đó ông lãnh vẫn cứ thoát tội được, chỉ có mấy bác cai và thầy đội bị lột lon cho về làm dân.

Trong khi thiếu chuẩn bị mà bị bắt buộc phải làm dân bất ngờ như vậy, người ta làm dân một cách rất vụng về.

Đó là nguyên do đã gây nên cảnh dang dở trong cuộc đời ông Ba Thê Đồng Thời.

Từ khi thiếu nghề, về sống quanh quẩn dưới mái gia đình, càng ngày ông Ba Thê mới lại càng biết thưởng thức cái nết na của vợ mình.

Bà đội Ba Thê không phải là lá ngọc cành vàng, nhưng trong xã hội thỉnh thoảng người ta bắt gặp một đôi gia đình tầm thường mà giáo dục con cái nghiêm như là ở chỗ quyền quí vậy. Ông thân sinh ra bà đội Ba Thê xưa kia chỉ là một thầy câu, giúp việc ở một huyện đường nho nhỏ. Thầy câu đó còn ít tuổi mà trông sáng sủa lanh lợi, được quan huyện thương mến. Quan huyện có cô cháu họ mặt mũi dễ thương hết sức, nhưng mà đôi chân hơi yếu, dáng đi ưỡn ẹo một chút. Quan huyện đề nghị, thầy câu đỏ mặt nhận lời, và cô cháu gái quan huyện về sau thành bà nhạc mẫu ông đội Ba Thê.

Sau bốn lần mang nặng đẻ đau, sức khỏe suy giảm, bà câu phát bệnh rồi đôi chân sẵn yếu bị co rút hẳn, không đi lại được nữa. Quan huyện cũ đổi đi, thầy câu buồn cảnh gia đình, không có người khuyên can đủ uy tín, nên thỉnh thoảng có ý muốn đi tìm thú vui ngoài tổ ấm. Bà câu biết vậy, nhưng bà bất lực, cả ngày chỉ ngồi nguyên một chỗ, không làm sao theo dõi, ngăn ngừa được chồng. Trong tâm hồn thấm thía cay đắng, nhưng người đàn bà ấy vẫn giữ một bề ngoài trang trọng, điềm đạm. Rồi càng ngày người ta để ý thấy bà câu chăm sóc dạy dỗ con cái càng nghiêm thêm lên. Buồn về chồng, bà câu lại giữ vững khuôn phép gia đình đối với con cái. Tuồng như để vớt lại sự tàn phế tật nguyền, bà muốn làm bật nổi cái nguồn gốc quyền quí của mình, muốn phô trương với chồng và nhắc cho mình cái uy thế tinh thần ấy. Sự kiêu hãnh có lẫn lộn chua chát. Thực là một cách trả thù kỳ quặc. Tuy vậy nó có kết quả hay. Sau mỗi lần sa đà ở một chỗ chơi bời, lúc quay về, bước qua khỏi cửa, ngồi vào nhà, thầy câu trông thấy thái độ kính cẩn của đứa con mang đôi guốc tới cho mình, pha trà cho mình, nghe những lời thưa gởi nhỏ nhẹ trọng vọng, bất giác thầy câu cũng cảm thấy rụt rè trong sự ham mê tội lỗi. Bà câu kín đáo liếc nhìn chồng thăm dò, và đo lường được mức tác động.

Cứ như vậy, trên hai mươi năm sống trong cảnh túng thiếu bà câu dùng tất cả cái thì giờ của người đàn bà bị bệnh tật buộc lại một chỗ để bắt mấy cô con gái ra công tập làm những món mứt, tỉa những đóa hoa rất công phu, tập nhuộm những cánh hoa tỉa bằng đu đủ rất đẹp, tập thêu những mẫu mặt gối hết sức khó khăn rắc rối, tập giữ kín từng lời nói, bước đi, cái nhìn, giữ một sự khép nép tột bực…

Ông đội Ba Thê cảm bà đội chỉ vì nét mặt khả ái. Ông ta có ý tìm đâu tới chỗ thế gia vọng tộc. Vả lại theo ông rõ thì bà câu xưa kia chẳng qua là cháu họ xa xa của quan huyện, vì nhà nghèo nên mới theo ở giúp việc cho quan. Như vậy người giàu tưởng tượng nhất cũng không hy vọng bắt gặp trong huyết quản bà đội một giọt máu quan quyền. Khi ông đội Ba Thê cưới vợ thì ông câu già đã về hưu, sinh nhai bằng nghề buôn bán lặt vặt trong một ngôi quán nhỏ ở chỗ phố huyện. Ông đội Ba Thê có ngờ đâu từ ngôi quán xiêu vẹo ấy ông ta rước về một tiểu thư nghìn vàng.

Còn người thiếu nữ về sau trở thành bà đội thiệt đã khéo lựa chọn khi gởi thân vào một kẻ quân nhân. Bởi vì đức tính căn bản của bà đội Ba Thê là khép nép sợ hãi. Từ thuở còn con gái cho đến già, lúc nào người đàn bà ấy cũng cần một sự che chở. Ông đội Ba Thê đã làm đầy đủ nhiệm vụ đối với vợ, và ngược lại ông được báo đền bằng sự trung thành tuyệt đối của vợ. Hồi còn xuân xanh, bà đội liệt vào hàng đầu danh sách những thứ đáng sợ là đàn ông. Về sau, khi chiến tranh xảy ra, tiếng động cơ của máy bay oanh tạc chiếm mất chỗ xếp hạng của đàn ông.

Bà đội không bao giờ dám nằm ngủ một mình trong bóng tối. Bên giường phải có một ngọn đèn nhỏ và bên mình phải có một người. Người đó, nếu không phải là ông đội Ba Thê thì là một đứa ở giúp việc, hay có thể là một đứa bé con. Giấc ngủ của bà đội như thế, trong đời bà không có chỗ ám muội nào về phương diện ái tình. Nhưng quí hóa hơn cả là cái cách phản ứng rất hiền lành của bà trước những hoạt động ái tình đáng ngờ của ông Ba Thê: trông thấy tận mắt ông đội hí Điêu Thuyền mà bà chỉ có khóc lên hu hu.

Sau này, trong những năm chiến tranh, lúc nào có máy bay lượn trên đầu là bà đội nằm rạp xuống đất rên ư ử, ôm đầu mà rên cho đến khi nào máy bay bay mất mới thôi. Và hết rên rồi thì bà đội còn ngồi thở hỗn hễn, mặt mày tái ngắt, hai tay ôm ngực, ngồi yên một vài giờ cho lại hồn vía. Thật là một phương thức phòng không thụ động hết sức hao tốn thì giờ và sức khỏe.

Một linh tính rất nhạy báo cho bà đội Ba Thê tất cả những thứ đáng sợ trên đời, từ một con sâu cho đến một người nham hiểm. Một hôm đang ngồi chơi nhà tôi, thoáng trông thấy bà Ní-Nà1 đi ngang qua, bà đội hạ giọng nói nhỏ: “Người đâu mà trông thấy hãi quá”. Bà lấy làm hãi lắm. Những người có tướng như thế dẫu có nợ bà cũng không dám đòi, dẫu có tình với chồng bà, bà cũng không dám gây chuyện.

Từ ngày ông đội Ba Thê thiếu nghề, cái tính sợ hãi của bà vợ thành ra một món xa xí càng ngày càng nổi bật lên, ông đội không làm sao không chú ý đến được. Thoạt tiên ông còn nuôi một chút ảo tưởng vu vơ: ông nghĩ rằng khi còn ở trong quân ngũ ông đã nuôi vợ, biết đâu khi ông mất chức bà vợ lại chẳng tính chuyện nuôi ông trong cơn anh hùng thất thế. Ở đời thiếu gì người đàn bà biết trổ tài khi tình thế đòi hỏi đến. Nhưng ảo tưởng của ông đội Ba Thê không thọ: chưa tròn một năm thì nó chết hoàn toàn. Thất nghiệp mặc kệ thất nghiệp, bà đội chịu, không sao dám xông pha ra đời, giành giật với đời để về nuôi sống gia đình.

Bà đội Ba Thê trước sau chỉ nhất định giữ nguyên một vai nội tướng. Nói cho đúng, lần lần bà hóa ra một cố vấn nội tướng hơn là một nội tướng thực sự, bởi vì tài sản và công việc nhà ông Ba Thê cũng chẳng còn gì nữa để cho bà quản trị, điều khiển. Bà nấu nướng có khéo thực, nhưng đã lâu không có được bao nhiêu nguyên liệu để nấu nướng, nên bà đội Ba Thê chỉ hay bàn suông và chỉ vẽ nhiều hơn là làm việc. Bà đội biết tìm hứng thú trong sự hướng dẫn bà con láng giềng cách thức làm thế nào cho mứt gừng được trắng, cho rim chanh được xanh vỏ, giữ lửa thế nào cho mứt bí khỏi nhăn tóp, dùng rau gì và chùi rau làm cá thế nào cho gỏi khỏi tanh v.v… Chỉ có cái hứng thú ấy gọi là chút bổng lộc tinh thần dành cho bà đội Ba Thê, bởi vì người đời đối với các vị cố vấn và quân sư thực là bạc bẽo đáng trách.

Ông Ba Thê thiếu nghề, bà Ba Thê cũng không hành nghề được, vậy thì lấy gì cung dưỡng cho sự sinh sống của hai vợ chồng và ba đứa con? Đó chắc chắn là một vần đề nan giải lắm. Những chỗ bạn bè cũ của ông đội thỉnh thoảng có nghĩ tới chỗ đó và ngậm ngùi ái ngại. Bạn bè thì ông đội Ba Thê có quá nhiều, mỗi người chỉ cần nghĩ tới một chút rồi bàn tán qua một câu cũng đủ gây thành dư luận. Nhưng những người bạn nghĩ chán rồi đành làm ngơ, bỏ qua vấn đề. Vào đúng lúc ấy, hoặc buổi trưa hoặc buổi tối, họ ở sở về, vừa lơ đễnh nhấc một cốc bia đưa lên môi toan giải khát vừa nghĩ tới chương trình giải khuây sắp tới, bỗng họ nghe một tiếng chân khua rụt rè trước cửa, một tiếng gõ cửa rất khiêm tốn. Họ ngẩng đầu lên và bắt gặp ngay một đứa con ông Ba Thê. Họ ngạc nhiên, hỏi xem có sự gì bất ngờ đã xảy đến cho ông Ba Thê chăng, thì đứa nhỏ tiến đến, đưa cho họ một chiếc phong bì nhỏ xíu, rồi kín đáo lui ra chờ đợi.

Trong phong bì có một tấm danh thiếp, trên đó ông Ba Thê viết:

“Qui Nhơn le…

Cher ami,”

Nội dung mấy dòng chữ tiếp theo đó đặt ra hai vấn đề: nạn thất nghiệp và tình bằng hữu. Để rốt cuộc yêu cầu người đọc thư giải quyết vấn đề bằng một món tiền.

Mỗi chuyến thư đi như thế đều đem về cho ông đội Ba Thê một món tiền hoặc lớn hoặc nhỏ để ông cân nhắc về tính tình, độ lượng của từng người bạn và suy nghiệm về nhân tình thế thái. Những dòng chữ hữu ích thảo trên danh thiếp như thế chỉ khi nào gửi đến một độc giả “kém văn hóa” thì ông đội mới phải viết bằng quốc văn. Ngoài ra ông ta thích dùng Pháp ngữ, bởi vì ông đội Ba Thê ưa chuộng sự thanh nhã, mà một nội dung như trên diễn tả bằng ngoại ngữ vẫn được nhã hơn bằng tiếng nước nhà. Nói thế để hiểu rằng không phải tự dưng mà ông Ba Thê sính phô trương tiếng Pháp, vì kỳ thực ông sử dụng thứ chữ đó rất khó khăn và sai lầm nhiều lắm.

Mỗi lần trong nhà thiếu thốn có vẻ khẩn cấp, bà đội Ba Thê báo động một cách nhỏ nhẹ cho ông biết. Ông đội ngẫm nghĩ trầm ngâm, lục soát trí nhớ. Trong phút giây chờ đợi ấy, bà đội hoặc tiếp tục bửa những cọng rau muống, hoặc tiếp tục xếp cái quần cái áo, hoặc tiếp tục lấy khăn lau mặt bàn…, giữ một sự xa cách khiêm tốn, không dám hỏi han và dò xét quấy rầy đến sự suy tính cao xa của chồng.

Rồi lần nào cũng như lần nấy, sự suy tính chín chắn của ông Ba Thê đều đưa đến cùng một giải pháp: tấm danh thiếp. Ông gọi con ôm cặp ra, trịnh trọng mở lấy một tấm danh thiếp và vung bút viết: “Cher ami…”. Bà đội Ba Thê tiếp tục công việc, giữ một thái độ xa cách kín đáo đầy kính cẩn. “Lần này thì tới phiên ông bạn nào đây? Ông đó ra sao? Liệu có bằng ông trước không? Có đỡ cho gia đình được nửa tháng chăng? mười ngày chăng? một tuần lễ chăng?” Bà đội rất có thể lo lắng tự nêu những câu hỏi như thế lắm. Trong công việc làm ăn cách này cũng có sự phập phồng tương tự như trong một cuộc xổ số. Thế nhưng bà đội nết na tôn trọng sự quyết định của chồng như một thiên cơ, mà bà ta không dám ghé mắt tò mò vào. Bà đội lặng lẽ tiếp tục công việc quét tước, nấu nướng của mình, đầy kính cẩn khuất phục.

Tới khi ông đội Ba Thê đề bì thư đến hàng chữ cuối cùng, mạnh tay gạch đít đánh soẹt dưới chỗ địa chỉ người nhận thư, thì bà đội thở ra một cái nhẹ nhàng đến nỗi rất khó nhận thấy, và lên tiếng gọi: “Toàn đâu con? Cất cái cặp cho thầy”. Giọng sai bảo của bà lúc ấy nhuốm sâu xa một ý nghĩa dịu dàng thân ái.

Bà đội Ba Thê như không hề biết chồng vẽ cái gì trên tấm danh thiếp và không bao giờ chịu ngừng công việc để lắng tai nghe xem người chồng sai đứa con đi đâu. Tuy nhiên rất nhiều lần đứa con nhận lệnh của cha xong vừa chạy ra đến đầu sân thì đã bị bà gọi giật lại: “Toàn! Mẹ bảo đây! Lấy cái mũ mà đội chứ, trời nắng thế này mày định đi đầu trần tới tận nhà ông Thứ đó à?”, hoặc là: “Toàn, con lấy cái áo khác, thay áo đi, nhà ông Thịnh người ta ăn mặc tử tế”, hoặc là: “Nhớ cẩn thận.. Nhà ông Hoa Lan2 có con chó dữ lắm.”

Ông đội Ba Thê có nghe những lời vợ dặn con mà y như không hề nghe. Ông im lìm nghiêm trang. Ông chụp lấy bình trà rót một chén, ngồi nhấm chầm chậm. Ông Ba Thê có cái bình trà nhỏ, mỗi lần rót ông chụp trùm cả bàn tay lên, dùng lòng bàn tay ấn xuống giữ chiếc nắp cho khỏi rơi. Sự thưởng trà và nét mặt xa vắng của ông đội Ba Thê sau mỗi lần phóng tay viết thư làm cho công việc đó nhuốm một tính cách bí ẩn và quan trọng đối với mấy đứa con nhỏ, và đặt ra một khoảng cách hơi lạnh lẽo giữa các người trong gia đình, ít nhất là chừng nửa giờ đồng hồ. Trong lúc đó hoặc giả ông Ba Thê có thể ngẫm nghĩ: “À, ra người vợ hiền đức của ta cũng có ý theo dõi công việc ta làm. Cái nết kín đáo tế nhị đó đáng khen nhưng mà sao nó làm ta khó chịu vậy? Lúc này nàng đang nghĩ thế nào? Dĩ nhiên là nàng đã tán thành hành động của ta từ năm này qua năm nọ rồi. Nhưng có cái gì lượn quanh quất trên sự tán thưởng ấy mà ta không thấu rõ được?”

Về phần bà đội Ba Thê cũng có một vài tư tưởng không phát biểu: “Ông đội những lúc này có sực nghĩ tới sự ăn không ngồi rồi của ta chăng? Cái gì ẩn núp phía sau vẻ nghiêm nghị ấy: buồn phiền chăng? áy náy thẹn thùng chăng? Thái độ nhu mì khép nép của ta như thế là hợp cảnh lắm rồi, còn gì nữa?”

Cứ như vậy, từ hai phía, những luồng tư tưởng âm thầm lần dò tìm nhau trong tăm tối, và chẳng bao giờ chạm gặp nhau. Hai vợ chồng ông đội Ba Thê sống những giờ phút tôn kính lẫn nhau như khách. Cho tới khi có một tiếng chuông rung leng keng của chiếc xe đổ rác đi ngang qua trước nhà, hay là có con gà nhảy vào bươi đám rau răm, hay là con chó mực nhà láng giềng toan thọc mõm vào vò nước v.v… ông Ba Thê thừa cơ hội lên tiếng gọi bà đội đuổi gà, đánh chó, và như thế đánh tan được bầu không khí đặc biệt.

Mỗi khi đứa con cầm phong thư từ các nơi gởi về, bà đội Ba Thê cũng chẳng bao giờ dám biết đến trong đó chứa đựng những thứ gì. Sự thành công hay thất bại của công việc chỉ riêng có người chủ gia đình mới được quyền biết tới. Đó là thuộc về vấn đề uy tín. Mà ông Ba Thê xứng đáng tượng trưng cho uy tín của gia đình, bởi vì hơn một lần ông biết cách “lau chùi thất bại” một cách lặng lẽ, can đảm: ông lạnh lùng bỏ túi phong thư trả lời, rồi sau đó khéo léo thủ tiêu lúc nào không ai biết được.

Nhưng danh thiếp gửi đi thường vẫn có tiền bạc gửi về. Tiền bạc đó người chủ gia đình toàn quyền giữ lấy rồi thong thả trao lại cho vợ. Ông đội Ba Thê không bao giờ nghe vợ thóc mách dò la, hỏi đứa con về số bạc đem về. Tuy nhiên khi nào bà đội cũng trù tính sự chi tiêu thích đáng với số tiền còn lại trong túi chồng; và lần nào cũng vậy, bà lên tiếng báo động đúng ngay lúc túi ông gần cạn.

Đáng suy nghĩ nhất là về số phận của hai đồng rưỡi bạc đá gà. Số là ông đội thích xem chọi gà. Ông không nuôi gà, nhưng mỗi tuần, vào chiều thứ năm, trong xóm có tổ chức trước sân nhà Tám Phụng một cuộc đấu gà mà ông đội rất muốn tham dự với hai đồng rưỡi trong túi. Hai đồng để đánh cá và năm cắc để uống một chén rượu, tán huyên thiên cho vui. Bởi vậy đưa tiền cho vợ bao giờ ông đội cũng ngầm giữ lại món tiền ấy. Thế nhưng nhiều lần vào chiều thứ tư, bà đội còn đề nghị tiêu rán một món độ vài đồng, ông vội vã kêu lên: “Mình không rõ sao? Hết cả tiền rồi mà!”; tức thì bà đội hiền lành nói nhỏ nhẹ: “Vậy mà tôi cứ tưởng mình còn hai đồng rưỡi trong túi, không có sao? Mình coi lại đi, may mà còn, mình nhịn đỡ cho vài đồng”. Thật là quái lạ, bao nhiêu bạc tiền cất trong túi ông đội đều như là triển lãm ra dưới cặp mắt không có chút tò mò nào của bà vợ hết cả. Như thế, thỉnh thoảng có những buổi chiều thứ năm cặp gà trước sân Tám Phụng đành nhảy nhót vô duyên không được tán thưởng khích lệ.

Cũng là một thắc mắc hợp lý nếu có người hỏi: lẽ nào tấm danh thiếp nhỏ bé xinh xinh lại có thể nuôi sống nổi hai vợ chồng và ba người con ông đội Ba Thê hai mươi lăm năm trời? Thực vậy, ở miền Trung cằn cỗi này, ruộng đất mẫu kia mẫu nọ không đủ bảo đảm một cuộc đời nhàn tản, huống chi tấm danh thiếp con con, rộng không đầy sáu phân vuông!

Tôi xin nhận ngay lời bắt bẻ đúng lý sự ấy. Tôi cũng ngờ rằng ông Ba Thê còn có những phương tiện sinh nhai khác nữa, người ta không ai dám tự hào có thể thấu rõ hết những bí ẩn phong phú của cuộc sống. Có điều mọi phương kế sinh nhai được ông đội Ba Thê chịu dùng đến đều phải có một vài tính cách chung, là đòi hỏi rất ít cố gắng, và nhất định không thể mang tên là một nghề. Bởi vậy ông đội Ba Thê mỗi lần gặp gỡ những người bạn — những người cher ami — đều nhăn nhó than van là mình thiếu nghề nghiệp.

Cái thuở mà bạn bè ông Ba Thê toan giúp đỡ ông ta thoát cảnh thiếu nghề là một thuở xa lắm, hồi đó tôi còn là một đứa trẻ lên ba lên năm chưa hiểu biết gì. Sau này khi những người bạn bè đó biết về ông Ba Thê khá sâu xa, họ không bao giờ dám mạo muội giới thiệu một nghề nghiệp với ông ta nữa. Nhưng đối với bà Ba Thê thì thỉnh thoảng bà vẫn còn gặp một “a-văn-tuya” kỳ thú trong sự săn đuổi nghề nghiệp.

Bà đội Ba Thê có một độ kết giao với bà Thái Hưng3. Hai người đều lấy làm hâm mộ nhau vì chỗ tính nết thùy mị hiền lành. Bà đội than van: “Đời bây giờ làm ăn sao khó quá. Thú thiệt với chị, tôi không còn biết xoay trở ra làm sao nữa…” Bà Thái Hưng đề nghị: “Hay là bác thử buôn bán coi?” Bà đội Ba Thê cười buồn bã: “Tình cảnh chúng tôi, vốn liếng đâu mà ra buôn bán! Đời bây giờ dễ gì ít vốn mà làm ăn được sao?” Bà Thái Hưng suy nghĩ rồi bằng lòng để cho bà đội mua chịu dầu lửa, thùng diêm, gạo, thuốc điếu v.v… mỗi thứ một ít, bán được tới đâu sẽ trả nợ dần cho mình tới đó. Bà đội Ba Thê thành thực cảm động, cuống quít, nắm lấy tay người bạn gái trẻ tuổi: “Tội nghiệp chưa! Cái tâm của chị thật là hiếm có”.

Bà đội về tới nhà vội vã giục chồng “thử buôn bán” coi sao. Ông đội không phải là người thù ghét những cuộc thí nghiệm. Ông ta thuê xe chở dầu, chở gạo của bà Thái Hưng về nhà. Trong khi người chồng và bà Thái Hưng lo cân lường, tính toán, thì bà Ba Thê xoắn xuýt trầm trồ về cái tâm của người bạn gái: “Tội nghiệp! Tội nghiệp quá!” Trong từ ngữ riêng của bà đội Ba Thê, hai tiếng tội nghiệp có nghĩa là đáng yêu chuộng.

Hàng hóa chở về nhà, bán được tới đâu, vợ chồng ông đội ăn tiêu tới đó không hề tính trả lại cho bà Thái Hưng đồng nào. Đến chừng bà này hoảng hốt chạy tới nhà Ba Thê can thiệp thì hàng hóa đã chẳng còn gì nữa. Hai người đàn bà thùy mị cùng tỏ ra vô cùng thất vọng trước một tình thế hết đường cứu gỡ.

Thế là một cuộc thí nghiệm gặp thất bại. Bà đội Ba Thê đã có thiện chí để buôn bán thử, nhưng buôn bán là một nghề rất khó thử.

Phê bình về câu chuyện làm ăn ấy, bà Thái Hưng thở dài: “Ai có ngờ đâu, người coi bộ hiền lành tử tế như vậy mà liều tới nước đó. Hai vợ chồng thiệt xứng đôi, không chịu làm gì cả. Lười biếng không tưởng tượng nổi!” Bà Thái Hưng đã phạm đến một tiếng tối kỵ là “lười biếng”. Lời phê bình đó dội tới tai hai vợ chồng ông đội Ba Thê, hai ông bà tức giận run lên, thề không bao giờ ngó mặt bà Thái Hưng nữa.

Thỉnh thoảng một năm, đôi năm, bà đội Ba Thê lại gặp một người bạn gái “tội nghiệp” để cuối cùng đành không ngó mặt nhau được, chỉ bởi vì một tiếng tĩnh từ dùng thiếu chọn lựa. Theo ý kiến ông Ba Thê không thể có một nguyên nhân thất bại nào được đặt tên là biếng nhác. Ông ta đã tìm hiểu nguyên nhân và đã đi phân trần với nhiều người bạn bè — người cher ami — của ông ta. Ông bảo: “Chán lắm, chán lắm! Thời buổi bây giờ đừng có hòng giở ra làm ăn… Đời bây giờ người khôn của hiếm…” “Đời bây giờ” là nguyên nhân căn bản. Ba tiếng ấy lần hồi cũng len lách vào trong đám từ ngữ thông dụng của bà Ba Thê. Để cắt nghĩa lối sống của gia đình, cả hai vợ chồng đều nói tới “đời bây giờ”. Và đối với những ai ưa sự rành mạch thì cần phải chua rõ: “đời bây giờ” gồm một quãng thời gian dài một phần tư thế kỷ, trải qua các chế độ phong kiến, thực dân, Pháp thuộc, Nhật thuộc, cộng sản, cộng hòa v.v… Bấy nhiêu chế độ đề huề chia nhau chịu trách nhiệm về một sự thiếu nghề của ông đội Ba Thê.

Và “đời bây giờ” còn vui lòng kéo dài thêm một phần tư thế kỷ nữa.

Một buổi chiều chủ nhật đã xa lắm, hồi tôi chừng mười hai, mười ba tuổi, tình cờ tôi lạc bước tới trước cửa nhà ông Ba Thê.

Hôm ấy tôi đi chơi về phía Cầu Đôi, lúc trở về trời đã chạng vạng tối lại bắt đầu mưa lắc rắc. Tuy mưa không đến nỗi nào làm trở ngại sự đi lại ngoài đường, nhưng tôi vốn sợ hãi mưa gió. Mỗi lần trông thấy mưa mù bốn phía trời và nghe giọt nước từ trên cao mịt mờ gieo xuống người là tôi lo hãi, hoang mang, bối rối. Tôi ghé vào đứng núp bên hè một ngôi nhà bên đường.

Có những cảnh điêu tàn kín đáo, thoạt trông qua nó gây một cảm giác lành lạnh trong lòng mà ta không kịp rõ do đâu. Nhà ông Ba Thê có khu vườn khá rộng, trồng nhiều nhất là cây mãng cầu. Cây không tốt, lá nhỏ choắt, trái nhỏ, có nhiều trái khô đen đeo trên cành. Giọt mưa tụ ở các đuôi lá mãng cầu lá râm bụt trước rào, liên tiếp rụng xuống không một tiếng động trên thảm cỏ tràn lan khắp vườn. Phía sau nhà, rào rất thưa thớt, thành ra khu vườn gần như thông luôn với khu nghĩa địa có năm ba nấm mả vôi cũ kỹ xam xám, như những con trâu nằm to tướng. Lúc tôi bước lên hè nhà thì một con gà mái đang đứng mơ màng ở xó hè và có lẽ sắp nằm bẹp xuống ngủ ngay tại chỗ ấy, thấy tôi, nó liền kêu đánh “tót” một tiếng, bước đi “bịch bịch” nặng nề trên nền xi-măng, tìm một chỗ khác cách đó vài thước.

Nhà có ba phòng, nhưng người nhà xúm xít lại trong căn phòng ở đầu cùng, xung quanh một ngọn đèn, còn hai phòng nữa để tối. Chủ nhà không ai biết có tôi ngoài hè. Một mình tôi đứng ngoài tối chạng vạng, vừa lo sợ nhìn trời mưa, vừa bỡ ngỡ trước một cảm tưởng mơ hồ về sự tàn tạ quanh mình mà không biết do đâu: có phải do ở khoảng rào thưa sau nhà, ở những giọt nước tụ cuối đuôi lá mãng cầu, có phải ở tiếng kêu “tót” nho nhỏ, khiêm tốn, kín đáo của con gà mái, ở thái độ lạnh nhạt dè dặt của nó đối với tôi?

Trong lúc tôi còn hoang mang bỡ ngỡ thì một tiếng hát trong nhà làm tôi giật mình quay mặt vào. Cảnh lạ lùng bày ra dưới mắt làm tôi quên mất lo hãi. Ngọn đèn dầu lửa để trên một chiếc bàn gần bên cửa sổ. Hai bên bàn, hai vợ chồng. Vợ ngồi xỉa răng; người chồng thì đặt một bàn tay lơ đãng, xòe ra, đậy lên tách nước. Giữa bàn, chén dĩa, đũa bát ngổn ngang. Ở đầu bàn một lọ sứ cũ, trong lọ cắm năm bảy hoa sen đã úa. Giữa nhà, một đứa con gái vừa múa vừa hát:

“Rắn có chân rắn biết

Đau lòng gỗ, gỗ kêu.

Tủi nữ nhi oan chịu đã nhiều điều,

Cậy quân tử kế chi xin quyết một.

(Như may mà cứu sống đặng tôi cũng là…)

Như xuống nước vớt người trầm một,

Bằng vào rừng dẫn kẻ họa tai,

Thà cam thác xuống dạ đài,

Đâu chịu hổ nơi dương thế!

Thiếp dầu có sai lời vàng đá,

Trời đừng cho đứng giữa non sông!

(Chừ người liệu làm răng đây?)

Dù trăm phương chẳng vẹn cùng chồng

(Thôi thì):

Liều một bước cho đành với mạng”.

Đứa con gái nghiêng mình quơ hai tay lên cao quá đầu chới với, giả bộ gieo mình xuống nước. Người cha vẫn ngồi xếp bằng trên ghế, điểm trống bằng mồm: “Bum, bum… ầm!”, rồi vội vàng cất tiếng la lên:

(A, khoan khoan đã ma)

“Tình thậm hoảng, tình thậm hoảng,

Ý kham liên, ý kham liên!

Anh hùng này (mà) phụ ngãi thuyền quyên

(ở mô mà)

Nhứt đán nỡ (đi) liều mình thiên cổ?”

(cho uổng hè)4

Đứa con gái mấp mé mười tuổi, tóc chưa phủ kín ót, uốn mình, múa hai tay dịu nhuốt, và khóc và than, và liếc mắt đưa tình, thấp thoáng dưới ánh đèn mập mờ, kéo theo cái bóng dài múa động chờn vờn trên nền nhà và trên bức vách phía sau lưng, tạo thành một quang cảnh dị thường, chứa đầy bí ẩn đối với óc tưởng tượng của tôi thuở nhỏ. Tôi không hiểu nổi cái ý nghĩa vô luân trong cảnh cha làm Lã Bố con giả Điêu Thuyền, tôi cũng không hiểu nổi cái nghĩa buồn thảm trong cảnh túng quẩn của một người cha quen thói chơi bời, chiều chiều tập đứa con gái nhỏ uốn éo múa men nhắc lại những thú chơi ngày còn oanh liệt. Tôi chỉ biết ngẩn ngơ thán phục, mê mẩn nhìn theo đứa con gái ngâm nga một cách tài tình những câu hát mà tôi không tài nào hiểu nghĩa.

Trước cảnh ấy người đàn bà co một chân lên ghế, ngồi trông theo với đôi mắt lãnh đạm mệt mỏi. Thỉnh thoảng, người đàn ông cựa mình mạnh quá làm rung chiếc bàn và làm rụng xuống một cánh hoa sen. Người đàn bà từ từ quay mặt nhìn lại: một cánh hoa khác rụng tiếp theo, rơi lách giữa các cọng, mắc kẹt vào khoảng trên miệng bình. Và bà ta đưa hai ngón tay kẹp lượm những cánh hoa rụng, bỏ vào một cái hộp giấy nhỏ bên cạnh.

Đêm hôm ấy tôi ngồi học bài, thỉnh thoảng lại thấy các dòng chữ uốn mình múa trên trang vở những điệu múa uyển chuyển như một hình dáng Điêu Thuyền. Và trong giấc ngủ tôi mơ thấy lộn xộn từ những con trâu đen nằm sấp im lìm, những cái lá sen héo cuốn tròn lại như hình vỏ ốc cho đến ánh đèn phớt trên vầng trán đứa con gái bé nhỏ.

Về sau, khi mà một ý tưởng đầu tiên về chuyện vợ chồng thập thò xuất hiện trong trí óc trẻ thơ của tôi, tôi liền liên tưởng ngay đến cô con gái của ông đội Ba Thê. Nhưng đối với tôi, cô bé không có chút liên quan gì đến cái lon đội, đến hội Những Người Ăn Bê Thui, đến những tấm danh thiếp. Đối với tôi, cô bé ấy liên quan đến một thế giới huyền ảo trong đó có những Giáng Hương, Tây Vương Mẫu, Hà Tiên Cô… Thỉnh thoảng trí phiêu lưu và khí phách anh hùng của tôi có thả rông vào trong thế giới ấy một Tề Thiên đại thánh quấy phá chơi, nhưng riêng mình thì tự xét khó bề lấp ló đến lắm. Tôi nghĩ đến chuyện vợ chồng, rồi tôi thở dài.

Tuy vậy mà từ dương trần đến chốn thần tiên ấy không đến nỗi quá xa cách như lòng tự ti của tôi đã ước lượng. Mười năm sau thì tôi đã với tới tiên cảnh, níu được người tiên.

Mười năm chưa phải là dài, nhưng cũng đủ để thực hiện một đôi biến hóa: Ông đội Ba Thê đã hóa ra ông Ba Thê Đồng Thời!

Mỗi một thời kỳ người ta có một lối ăn nói đặc biệt rất dễ nhận ra. Nếu chịu khó bươi xới kho tàng ngôn ngữ của dân tộc như các nhà khảo cổ quật lên từng lớp đất, chắc chắn chỉ riêng cái cách ăn nói cũng giúp ta hiểu được nhiều về tâm lý, về cách sinh hoạt, về tổ chức xã hội, về đường lối chính trị, về sự hoạt động văn hóa v.v… của mỗi thời.

Riêng về trường hợp một cá nhân ông Ba Thê, tôi nghĩ rằng các từ ngữ cũng đã chịu khó đánh dấu cẩn thận từng giai đoạn riêng biệt trong cuộc đời ông ta. Tiếng “se a-mi” là thuộc về một giai đoạn huy hoàng có những cuộc vui suốt sáng trận cười thâu đêm dưới sự che chở của các quan cai trị người Pháp. Rồi những tiếng “đời bây giờ” và “thời buổi bây giờ” là sản phẩm của giai đoạn tiếp theo, tiêu điều hơn. Nhấm tới những tiếng ấy, ý vị chán ngán tiêu cực thấm ngay vào đầu lưỡi.

May mà ông Ba Thê không chịu gã gục xuống ngay giai đoạn ấy. Sau biến cố chính trị mùa thu năm 1945, ông Ba Thê liền đổi lốt, chọn một cuộc sống mới. Không phải rằng ông ta chịu nhận một nghề, nhưng chính là vì vẫn không có nghề nghiệp mà ông ta thành ra một kẻ hoạt động hăng hái theo lối mới. Hoạt động lối mới cần nhất ở cái mồm. Những người quen ăn không ngồi rồi thường lại khỏe mồm.

Nói cách khác, giai đoạn mới, ông đội Ba Thê ăn rồi toàn đi nói chính trị, khắp từ đầu làng tới cuối xóm. Nhân cơ hội ông ta há miệng ra, một vài từ ngữ mới lẻn vào dính ở kẽ răng lúc nào ông ta không hay biết. Chẳng hạn trước kia ông không chú ý đến cái “lý đương nhiên” mà từ ngày mùa thu về sau mỗi lúc ông mỗi nói về “lý đương nhiên”. Trước kia ông ta vẫn nói “tuyệt nhiên không có”, từ ngày ông đâm ra nói nhiều theo đà của quần chúng xung quanh thì các từ ngữ xô nhau lấn nhau gấp rút, gây ra nhiều sự lệch lạc: ông Ba Thê bèn nói “thản nhiên không có”! Trước kia ông ta nói: “Tôi tiếc…”, về sau ông ta văn hoa hơn: “Tôi tiếc thay…” Ông phàn nàn rằng: “Tôi tiếc thay thôn tôi ít con số…”, và như thế có nghĩa là thôn ông ta dân số ít oi.

Ở chỗ công cộng, những khi đăng đàn phát biểu ý kiến, ông Ba Thê, đang thao thao diễn giảng, nếu thình lình thiếu ý, lúng túng, ông ta liền quẩn xung quanh một vài khẩu hiệu thật rổng và thật rổn rảng; chính những lúc ấy ông ta càng gằng mạnh từng chữ, càng chú ý đến lối phát âm một cách trịnh trọng: zè zặc, cảnh zác v.v… Cũng chính vào những lúc hiểm nghèo như thế mà ông Ba Thê càng tỏ ra văn hoa: “Ta ziết zặc zữ nước, đồng thời ta xây dựng con người mới, đồng thời tiến về…”

Ông Ba Thê biến ra ông Ba Thê Đồng Thời trong trường hợp như vậy.

Tôi vốn có một ông bác già ưu thời mẫn thế. Nhưng tất cả sự đóng góp của người vào công cuộc cách mạng chung quy cũng chỉ trông cậy vào ba tấc lưỡi dùng để… động viên kẻ khác. Đối với kẻ hoang đàng nhác nhớn, người khuyên nên nghĩ đến đại cuộc. Đối với kẻ bủn xỉn ngần ngại trước những cuộc quyên góp, người cũng khuyên nên nghĩ tới đại cuộc. Đối với những cuộc xích mích chia rẽ giữa anh em, vợ chồng, người cũng ôn tồn hòa giải: vì đại cuộc quốc gia. Mỗi lần nhắc tới đại cuộc, trông người bác già có vẻ chân thành, thiết tha, trịnh trọng, và hơi nhuốm chút buồn rầu khả kính. Kẻ giỏi hoạt động về khoa ngôn ngữ rốt cuộc được đền đáp lại bằng ngôn ngữ: ông bác của tôi bèn mang thêm cái tên mới: “Ông Đại Cuộc”.

Ông Đồng Thời và ông Đại Cuộc sau mùa thu thường khi gặp gỡ gần gụi nhau. Nhờ đó mà tôi men theo gót ông bác, tìm đến gặp Loan. Nuôi giữ một hình ảnh tiên nữ trong mười năm, rồi được gần người tiên trong ba năm, như thế tôi được thời vận ưu đãi quá rồi. Ngày nay dẫu tôi không còn có Loan ở bên mình nữa, nhưng ông Đồng Thời vẫn còn đó ở Qui Nhơn thì một phần nào hạnh phúc của tôi vẫn còn có thể chiêu hồn được. Thậm chí tôi còn tin rằng đến khi xa rời Qui Nhơn, khuất mặt ông Ba Thê, mà mỗi lần nhắc đến tiếng Đồng Thời tôi cũng có hy vọng nhớ đến tình yêu của Loan. Bởi vậy tôi càng quý kho từ ngữ của mỗi người, mỗi giai đoạn, như các nhà khảo cổ quý những xương cốt, những từ khí tiêu biểu cho từng thời kỳ văn minh bị chôn vùi dưới các lớp đất. Một sọ người ở Bắc Kinh, một mảnh trống đồng đào được ở Đông Sơn nhắc lại thế nào về một nền văn hóa cũ, thì một tiếng “đồng thời” vùi lấp lẫn lộn trong ngôn ngữ ông Ba Thê cũng biết tỉ tê kể lại với tôi nhiều vui buồn của một đoạn đời.

Ông Ba Thê sống dài hơn nửa thế kỷ. Qua mỗi một giai đoạn có một danh từ riêng, một câu nói riêng, đánh dấu giai đoạn ấy. Đối với tôi giai đoạn Đồng Thời có nhiều liên hệ mật thiết hơn cả.

Trong thời kỳ kháng chiến tôi không ở Qui Nhơn, ông Ba Thê Đồng Thời cũng không ở Qui Nhơn. Thành phố ấy sát bên mép biển, dễ bị tấn công bất ngờ, nên dân chúng bị bắt buộc tản cư. Nhưng chúng tôi không đi xa lắm. Chúng tôi tản cư mà từ chỗ làng mới mắt vẫn có thể trông về Qui Nhơn thấy hai cái bồ treo trên đỉnh núi Chóp Vung. Sự sinh hoạt hàng ngày của chúng tôi, từ vật chất tới tinh thần, tùy thuộc rất nhiều ở hai chiếc bồ sơn đen ấy.

Khi nào có tàu giặc đi ngang qua ngoài khơi thì một chiếc bồ được kéo lên cao. Tàu quay mũi vào bờ thì một bồ kéo cao một bồ kéo nửa chừng: một bồ rưỡi! Tàu cặp bến thì kéo lên cao cả hai chiếc bồ. Giặc bắt đầu đổ bộ thì kéo hai bồ và đánh kiểng từng hồi ba tiếng: tiếng kiểng đầu tiên bắt đầu từ trên núi Chóp Vung, các làng kế cận nghe tiếng, đánh tiếp theo, cứ thế chuyền tin đi.

Một bồ rưỡi trên núi Chóp Vung là dấu hiệu cho Qui Nhơn và các miền thôn quê phụ cận chuẩn bị ráo riết. Hai bồ thì gánh xách đồ đạc mọi thứ phải sẵn sàng. Nghe tiếng kiểng, tất cả kéo đi tản cư về những làng xa, dưới sự hướng dẫn của cán bộ. (Ông Ba Thê Đồng Thời là một cán bộ hướng dẫn tản cư; đã hằng lâu ông mới có một công việc, tiếc thay đó vẫn chưa gọi được là một nghề.)

Một chiếc bồ tròn treo lửng lơ giữa trời, đối với binh sĩ trên chiếc tàu thủy đi ngoài cửa bể, là một mục tiêu hay hay. Nhiều lần họ quay súng nhắm vào bồ thi nhau bắn chơi. Vài lần họ bắn trúng đích, chiếc bồ phát hỏa, rụng xuống núi. Cả xóm làng xôn xao lo hãi như chứng kiến một điềm bất tường, như nghe tan vỡ vì sao chiếu mệnh. Nhưng liền hôm sau đó một chiếc bồ khác được thay vào kéo lên, trước sự kiêu hãnh của cán bộ: “Đồng thời giặc tấn công, đồng thời ta kháng cự hiệu quả tức khắc”, cán bộ Ba Thê giải thích như vậy.

Và cứ như thế, ngày ngày tất cả chúng tôi tin cẩn hướng nhìn lên hai trái bồ tròn tìm hiểu số phận của mình, suy đoán tình hình, tính toán chương trình làm ăn. Và ngày ngày hai trái bồ như hai con mắt tròn quay của cả một vùng nửa quận chúng tôi, mở thao láo nhìn ra ngoài bể khơi, lục soát, rình dò từng chút khói tàu phơ phất ở chân trời.

Đang làm lụng ngoài đồng, chợt có người trông thấy và la lên: “Một bồ rưỡi!”, tức thì ai nấy tiếp theo báo động chuyền miệng: “Một bồ rưỡi! Bà con ơi, một bồ rưỡi!” và tất cả chạy về nhà dọn đồ đạc vào bao gánh. Một bồ rưỡi thì tuần nào cũng có ít nhất một chuyến. Hai bồ thỉnh thoảng mới xảy ra, mỗi tháng đôi lần. Bất cứ làm việc gì, chúng tôi cũng dành một phần dự liệu cho sự thăng trầm của những chiếc bồ. Giữa đám táng cha, đám ma chồng: “hai bồ!”, tức thì quan tài phải khiêng mà chạy. Đang đám cưới: “hai bồ!”, tân khách liền rút hết lập tức, để chỉ còn lại vỏn vẹn có cô dâu với chú rể, bơ vơ như A Dong với E Và hồi chưa kịp phạm tội. Vợ chồng đang hờn dỗi, xóm giềng đang cãi cọ: “hai bồ”, tức thì xích mích dẹp hết, ai nấy đều líu ríu hợp tác như những “se a-mi”…

Trong hoàn cảnh như thế dĩ nhiên mối tình của tôi và cô Loan chịu ảnh hưởng thời cuộc rất nặng nề. Nặng đến nỗi đối với Loan nó không được phép tự cho là một mối tình. Mỗi lần gặp nhau nàng chỉ nói toàn chính trị, thật xứng đáng với cha nàng là ông Ba Thê. Khởi đầu sự quen biết đã đành là những cuộc hội họp bàn luận về công tác kháng chiến, về chính trị. Từ đó tiến tới ái tình nó se sẽ, từ từ, nó chầm chậm, êm ru. Tôi nhận có sự tiến tới ấy, còn nàng thì phủ nhận hoàn toàn: trong những cuộc họp vắng vẻ chỉ riêng có hai chúng tôi, nàng thản nhiên nói về nhiệm vụ, về tác phong đạo đức, về liêm chính, trong lúc ngón tay tôi luồn vào mái tóc rất dày rất tốt của nàng, len lỏi tìm tòi trên người nàng. Cứ như vậy, chỉ đơn độc có một mình tôi phạm tội cho tới khi ông Ba Thê Đồng Thời suýt có cháu ngoại. Lúc nào tôi cũng buồn rầu ân hận về một cảnh cô độc đơn chiếc ấy.

Có lần tôi lợi dụng sự thân mật, liều hỏi đố nàng một câu:

— Em có biết anh bắt đầu mê em từ lúc nào không?

Nàng vội vã nói:

— Mê là để cho cảm tình sai khiến mình rồi. Em không bao giờ mê ai cả.

Thấy tôi không nói nữa, nàng quay lại an ủi:

— Anh để ý em hồi nào?

— Từ buổi chiều chạng vạng em vừa múa vừa hát “Rắn có chân rắn biết” ấy. Như thế nghĩa là sao, hả em? Anh không hiểu gì hết, cho nên anh càng mê em. Anh trông thấy cái miệng rất xinh của em, cái thân hình và các bàn tay, ngón tay bé xíu của em, hai mắt thơ dại của em cố gắng diễn tả một thứ tình cảm ở ngoài tầm vói của chúng ta; hồi đó, anh suy nghĩ mãi, thán phục em ghê lắm!

Nàng cười lơ đãng:

— Em làm Điêu Thuyền đấy, anh không biết há? Hồi ấy phong kiến, xưa rồi, anh nhớ làm chi.

Phải như tôi không nghĩ lui về những chuyện quá xưa và không nghĩ tới những chuyện quá viễn vông thì chắc chắn tôi đã có thể tiếp tục hưởng mãi thứ hạnh phúc đơn chiếc bên cạnh nàng. Nhưng mà một hôm tôi đang đùa xoa mơn bàn tay dưới cằm nàng và nàng đang nghiêm chỉnh nói về nhiệm vụ phụ nữ thì “hai bồ” kéo lên. Trước khi buông nhau chạy, nàng còn nói với mấy câu, rằng nhiệm vụ thanh niên những lúc hai bồ là ở ngoài chiến trường. Tôi sực nhớ đến người anh trai của nàng, hỏi qua một câu:

— Anh Toàn có thư từ gì về không em?

— Có. Từ tháng giêng tới nay anh ấy dự bảy trận đánh ở Pleiku, Kontum rồi.

Tôi đùa:

— Còn em. Nhiệm vụ phụ nữ bảo em làm gì từ tháng giêng tới nay?

Nàng dẩu mỏ phản ứng:

— Anh tưởng em không làm gì được hả? Em sắp sửa đi cứu thương, không ở đây nữa đâu.

Nàng đi cứu thương, tôi ở nhà mà đan áo gởi cho nàng sao? Như vậy thì lại càng đơn chiếc lắm lắm, làm sao tôi chịu nổi? Tôi liền đánh liều quyết nhập ngũ trước nàng.

Như vậy là sau cuộc báo động “hai bồ” ấy tôi biến thành một tên lính. Tôi đi Cheo Reo, Kanack, Kamplong, Ban-mê-thuột…; đi tới đâu tôi cũng có ý chờ người cứu thương con gái ông Ba Thê. Nhưng không bao giờ tôi tìm ra nàng, vì “nhiệm vụ” lại buộc nàng ở nhà.

Nàng làm việc gì ở làng trong thời gian ấy? Nàng tiếp tục nói thao thao về tác phong đạo đức với ai? Những gì đã xảy đến trong đời sống chính trị và tình cảm của nàng? Tôi không bao giờ biết rõ được những chuyện đó.

Về sau này, có ý tra vấn tìm hiểu về số phận những người con trai con gái của ông Ba Thê, về nết na, hạnh kiểm của họ, về hành vi tư cách của họ, tôi chỉ biết rõ thêm một điều: là trên cuộc đời họ lúc nào cũng loáng thoáng những bóng dáng ám ảnh của các tấm danh thiếp và các người “se a-mi” của ông Ba Thê Đồng Thời.

Trên những tấm danh thiếp to bằng nhau, in những dòng chữ giống hệt nhau, mỗi khi gửi đến bất cứ người bạn nào ông Ba Thê cũng vung tay bắt đầu: “Cher ami”.

Se a-mi! Hỡi người bạn hữu thân ái! Tiếng xưng hô đẹp đẽ ấy, tiếc thay lại trừu tượng quá, khiến người ta không ngờ được cái chứa đựng phong phú của nó. Đối với ông Ba Thê, mỗi se a-mi là một kỷ niệm càng ngày càng xa thêm, càng hiếm, càng khó khăn nhọc mệt trong sự tìm nhớ thêm. Đối với bà Ba Thê, mỗi se a-mi là một chuyến đi, là một cuộc chờ đợi, một cơ hội rủi may vô danh, không hề có mặt mũi. Nhưng đối với các đứa con thì những “se a-mi” ấy lại có trăm nghìn bộ mặt khác lạ: những khu vườn khác nhau, những cổng vào khác nhau, những ngôi nhà khác nhau, phòng khách khác nhau, những cách mở cửa, cách tiếp đón khác nhau, những người chủ nhà và những cách đưa tiễn khác nhau. Nghề lám “phắc-tơ” miễn cưỡng lúc thiếu thời đã để lại trong tâm trí của ba đứa trẻ những ấn tượng không bao giờ phai nhòa.

Trước hết đứa anh cả lên mười ba tuổi bắt đầu đưa thư. Người bạn hữu thân ái đầu tiên của ba nó là một người gầy nhom, để hai vệt râu mép và đeo cái kiếng trắng gọng vàng. Toàn vào nhà ông ta liền trông thấy gần mười người khách tề tựu xung quanh một bàn ăn, mới vừa khởi sự dùng món xúp. Mọi người ngạc nhiên ngoảnh lại nhìn ra phía cửa, đứa bé sợ hãi không ngờ nó bước tới một cảnh linh đình như thế. Nhưng khi nó trao tấm danh thiếp ra, người bạn hữu thân ái của ba nó liếc qua một cái, đoạn cười ha hả: “A! đờ me-xừ Ba Thê!”. Trong đám tân khách nổi lên những tiếng phụ họa: “Me-xừ Ba Thê! Me-xừ Ba Thê! ha ha!” khiến nó không biết được có bao nhiêu là kẻ hoan nghênh. Nó ngẩng đầu lên ngó ngang một cái: có ông cười vui vẻ toác mồm, mắt nhìn nó ánh lên một sung sướng đầy đủ lạ thường, có ông chậm trễ còn húp rán một muổng xúp, vơ khăn chùi mép qua loa rồi ngửa mặt lên cười một tiếng lớn… Trong lúc ấy một người đàn bà hãy còn trẻ quá so với các ông cụ đồng bàn, người đàn bà ngồi ở tận phía đầu bàn đằng xa, mặc cái áo bông vàng giống như những bông cúc nhỏ, một tay đặt lên cái xắc để trên đùi, nhìn nó có vẻ lúng túng, thương hại, lo lắng. Toàn cảm thấy nếu nó đứng gần bà ta hơn nữa, có lẽ bà khách có một câu gì muốn hỏi riêng nó. Nhưng nó không dám nhích bước tới: xung quanh nó hãy còn sự ồn ào khó hiểu. Một bức thư “của ông Ba Thê” đối với các ông cụ ấy là một điều cực kỳ ngộ nghĩnh vui vẻ. Người ta trao đổi những câu tiếng Pháp vắn tắt để hỏi nhau những chi tiết mà nó chắc là thuộc về ba nó. Rồi người bạn hữu thân ái của ba nó gọi một đứa con trai cũng bằng tuổi nó, gầy nhom như bố, tóc chải rẽ, mặc đồ soóc, bảo đem lại một chiếc phong bì; ông bạn hữu thân ái móc túi lấy ra một tờ bạc năm đồng bỏ vào phong bì với sự giấu lén rất vụng về khiến cả bàn ai cũng trông thấy. Trong khi trao chiếc phong bì lại cho Toàn, ông ta nghiêm chỉnh nét mặt, dặn dò những người khách đồng bàn: “Những kẻ thất thế càng là bạn hữu… Không hôm nào là nhà tôi không gặp những trường hợp như thế… Tội nghiệp me-xừ Ba Thê”. Mọi người nổi lên hưởng ứng tán thành: “A, tội nghiệp me-xừ Ba Thê! me-xừ Ba Thê… Khá lắm, một tay chơi tài bàn khá lắm đấy!”.

Toàn về tới nhà, trao chiếc phong bì cho ba nó. Ba nó hé ra liếc một cái rồi xếp lại thản nhiên bỏ túi. Tờ bạc hôm đó, ngày hôm sau chuyển tới tay má nó.

Cũng như những dòng chữ “Se a-mi”, các tờ bạc giống nhau một cách tai hại. Theo nó, đáng lẽ trên mỗi tờ bạc phải vẽ riêng một cái hình. Và bao giờ nhớ tới tờ bạc của người bạn hữu thân ái đầu tiên của ba nó, Toàn cũng thấy rõ hình người cao nhòng đeo kính trắng, có râu mép, khuôn mặt dài như mặt ngựa, mặc chiếc áo dài trắng bên trong, và áo lương đen ở ngoài, đi giày hạ; nó cũng thấy cây gậy ngắn tiện bằng trắc mà ông bạn hữu gác trên một quyển sách để ở chỗ cửa sổ trông vào buồng ngủ; nó thấy lại những hạt “pơ-tí poa” bằng đầu ngón tay út nổi trong các đĩa xúp nóng hổi; nó thấy lại cái nhìn lo lắng của người đàn bà mặc áo bông vàng… Những hình ảnh lộn xộn và tiếng cười “ha hả” rần rộ ấy đón tiếp chuyến đi đầu tiên của nó, ban đầu làm cho nó bỡ ngỡ, nhưng về sau cứ dần dà mỗi lúc nó mỗi tìm thấy trong đó thêm một ý nghĩa xấu xa, xúc phạm đến gia đình mình.

Rồi tiếp tục lần dò tìm những địa chỉ mà ông Ba Thê đề trên các chiếc phong bì nhỏ xíu, Toàn đã gặp những cánh cổng buộc bằng một sợi dây xích rất nặng, gọi mãi thật lâu mới có người ra mở, mở xong sợi dây xích bị thả rơi đập mạnh vào cánh cửa gỗ vang lên một tiếng to và rỗng, lạnh lùng, tàn nhẫn. Nó đã bước vào buồng ngủ của những người đàn ông đứng tuổi sống độc thân, gian buồng hăng nồng nực mùi tro thuốc, chủ nhà giản dị gọi nó vào tận bên một chiếc giường rộng, nệm gối trắng tinh, và lục hết ví này đến ví khác, mở bóp soạn tiền ra ngay trước mắt nó. Nó cũng đã bước vào những gia đình mà người ta qua lại thản nhiên, không hỏi đến nó, người nào cũng chối từ trách nhiệm phải tiếp nó, để mặc nó dựa vào vách đứng đợi chờ hằng nửa giờ… Một lần Toàn gọi cửa một ông giáo sư. Một bà cụ già ra mở cửa, dẫn nó qua một gian nhà rộng, cao vút, có những cây cột to tướng mà không có người. Nó được đưa qua một khoảng sân nhỏ, giữa sân là cái bể nước với một hòn non bộ, hai bên góc sân có hai chậu cây đại tướng quân (cái tên kỳ cục!), tất cả thở ra một không khí mát lạnh. Một con bồ câu trắng quen với sự yên tĩnh thân mật đến nỗi bà cụ già và Toàn bước đi sát bên cạnh mà nó chỉ nhích tránh một tí, không chút hoảng hốt. Bước vào nhà sau, rộng và tối, Toàn có cảm giác từ những buồng hai bên lối đi có những cặp mắt nhìn theo nó, những cặp mắt dè dặt, kín đáo.

Đường đi dài quá, cảnh nhà trang nghiêm, êm đềm, có một vẻ gì hiền lành quá, làm cho thằng bé áy náy ngại ngùng. Nó thấy mình tự dưng mang một sự quan trọng không xứng đáng. Nó có cảm tưởng sau khi được đưa dẫn qua bao nhiêu lần cửa, bước qua bao nhiêu gian phòng rộng bát ngát, khuấy động bao nhiêu sự sống yên lặng, để rồi đưa ra tấm danh thiếp với những dòng chữ như nó đã biết, làm như thế nó có vẻ lừa bịp mọi người.

Bà già đưa nó tới trước mặt một ông cụ to lớn mặc áo vạt hò, ngồi xếp bằng, đọc sách. Bà vịn tay lên vai nó dúi tới một cái nhẹ để cho nó hiểu là đã tới người nó muốn gặp. Ông lão ngẩng mặt lên, trên khuôn mặt to tướng cặp kính trắng có gọng đồi mồi cũng quá to. Ông ta ngạc nhiên nhìn sững nó một lúc. Nó quay lại: bà cụ già đã rút lui tự lúc nào. Nó đưa chiếc phong bì ra, người bạn hữu thân ái của ba nó tiếp nhận và đọc quá kỹ lưỡng. Chưa bao giờ nó thấy ba nó được xem quan trọng như thế. Đọc xong ông giáo sư to lớn bỏ chân xuống đất quơ tìm đôi dép, đứng dậy vội vã đi vào nhà trong, nhưng vừa đi vài bước liền ngoảnh lại dặn nó: “Chờ tí. Chờ đó một tí nhé!”.

Ông giáo sư già thì thầm bàn tán với người vợ rất lâu, sau một tấm màn màu đỏ sẩm, trong lúc thằng bé một mình đứng lo lắng, nhìn hai chiếc đoản kỷ và cái bàn chạm trổ tỉ mỉ công phu, mũi ngửi phảng phất một mùi thơm lành lạnh không biết tiết ra từ phía nào. Rồi ông giáo sư vén màn bước ra, đưa cho nó một chiếc phong bì, đoạn vừa lấy vạt áo lụa lau cái kính, vừa nói ôn tồn:

— Mang về đưa cho ba. Cẩn thận nhé.

Bỗng bàn tay lau kính của ông ta do dự, ngừng lại, rồi ông ta nhìn thằng bé hỏi:

— Cháu là con ông Ba, phải không?

— Thưa cụ, phải.

Ông ta nhìn nó thêm một chút nữa, rồi từ do dự hóa ra bối rối, ông ta đổi ý kiến, lấy lại chiếc phong bì, trở vào phòng trong bàn tính thì  thầm với vợ một lần nữa. Cũng khá lâu. Một lát sau, ông ta trở ra đưa bì thư cho nó, lại vừa nói vừa lau kính, nhưng lần này ông ta lau lầm trên cái gọng đồi mồi to tướng.

Thằng bé không bao giờ biết được lúc trở vào buồng ông giáo sư già đã bàn tính và thêm vào hay bớt đi sự giúp đỡ là bao nhiêu. Nó cũng không đoán được sự quen biết giữa ông giáo sư và ba nó như thế nào. Nhưng nó thấy rõ hành động của cha nó đã gây một xúc động trong cuộc sống yên tĩnh của gia đình người bạn hữu tuổi tác và hiền lành ấy. Nó nghĩ ngợi về công việc mình làm.

Tiếc thay ông Ba Thê lại không nghĩ gì về công việc của ông ta. Bởi vì người ta không có sáng kiến vẽ trên mỗi tờ giấy bạc một cảnh khác nhau, ông Ba Thê làm sao hình dung được sự phân vân bối rối khổ sở của người bạn hữu thân ái lúc người ấy run run lau mặt gương? Toàn ái ngại hết sức khi phải làm phiền lụy đến một kẻ hiền lành, trịnh trọng như thế. Nhưng ông Ba Thê thì vững tin ở mình, ông tiếp tục viết thư cho các người “se a-mi”.

Một hôm khác, Toàn lại đem thư tới một ông cụ già, một công chức về hưu. Ông cụ này thấp nhỏ, bước từng bước ngắn mà nhanh, êm ru như lướt trên mặt đất. Tóc ông đã bạc phau, hớt ngắn. Mắt ông lem hem, trông rất kém. Nhờ vóc người vạm vỡ và dáng đi nhanh, ông ta trông có vẻ còn mạnh mẽ, nhưng nhìn kỹ vào cặp mắt, người ta thấp thoáng thấy được sự suy nhược tinh thần. Cặp mắt ấy nhìn sấn sổ vào mặt Toàn làm cho nó sợ hãi ngoảnh mặt tránh đi, nhưng cặp mắt vẫn tiếp tục lục soát trên mặt nó, từ mũi, tai đến cổ, ót, tự nhiên như ngắm nghía một chiếc đầu lâu. Mỗi người bạn hữu có một cách đọc danh thiếp khác nhau, có người liếc nhanh qua rồi bỏ vào túi ngay, có người đọc đi đọc lại đôi ba lần, nhiều người đọc xong lại nhìn qua thằng bé đem thư một cái như để kiểm soát, đối chiếu với tang vật. Sự kiểm soát của ông cụ già này kéo dài một cách vô lý, làm cho mồ hôi rướm ra dưới chân tóc đứa bé vì cảm tưởng nhục nhã.

Mãi ông ta mới lên tiếng hỏi: “Ông Ba Thê đang làm cái gì ở nhà?” Toàn đáp: “Dạ, ba cháu uống trà”. Ông cụ già gục đầu xuống càu nhàu: “Uống trà, uống trà. Lúc nào cũng uống trà, thằng cha tệ quá. Chẳng chịu làm một cái gì cả. Đã cơ cực rồi mà vẫn còn giữ thói đài các… Tao nghe ông Ba Thê không chịu điểm tâm ở nhà, sáng nào cũng đi ngót cây số, ra tiệm ăn bánh bao, uống cà-phê. Có không?”

— Không. Ba cháu vẫn ăn sáng ở nhà chứ ạ.

Ông cụ già tưng hửng như người chợt đánh rơi một cái gói đang hăm hở sắp mở ra. Ông ta cúi xuống nhìn lại thằng bé, hỏi:

— Mày… con ông Ba Thê hả?

— Dạ.

— Năm nay bao nhiêu tuổi?

— Mười bốn.

— Mười bốn. Tuổi thân. Sanh tháng nào?

Thằng bé ngạc nhiên: “Dạ, cháu không biết”. Ông ta lại càu nhàu: “Không biết, không biết! Sanh tháng nào cũng không biết là nghĩa lý gì? Ba mày không bao giờ nói cho mày biết à?”

Thằng bé ngẩn ngơ, sợ hãi. Ông cụ già bỏ mặc nó, nghiêng cái đầu tròn quay, tóc cụt, của ông ta xuống gần mặt bàn, giương cặp mắt lem hem khó nhọc tìm kiếm những hột cải đổ không biết tự lúc nào tản mác khắp trên bàn. Bàn tay mặt của ông xòe ra, đưa những ngón tay to, cụt ngủn và khô rốc, sần sùi, vụng về xoa trên mặt bàn để tìm hột cải.

Mãi thật lâu, đứa bé thất vọng toan cất tiếng chào để rút lui thì ông ta vùng quay lại, chụp hỏi về lá số tử vi mà ông ta đã chấm cho ba nó ngày xưa. Ông ta muốn biết lá tử vi ấy còn không, có đúng không? Ông ta còn cho biết bà Ba Thê cũng được ông cho một lá số. “Má mày còn giữ đó chứ? Cứ mở ra coi, làm gì mà chẳng đúng. Tao nhớ rõ mà: hai vợ chồng Ba Thê còn khó khăn hai năm nữa. Về bảo ba mày mở lá số ra xem. Hay là hôm nào xuống đây, tao coi lại cho. Nhá! Hả? Cháu cũng muốn chấm một lá số à? Ừ, cháu được mấy tuổi?”

— Mười bốn.

— Sanh tháng nào?

— Cháu không biết.

— À, không biết, không biết. Tao quên! Mày thì không biết cái quái gì cả.

Cứ thế ông cụ già lôi đứa bé quanh đi quẩn lại xung quanh mỗi vấn đề đôi ba lượt. Hết chuyện này đến chuyện kia, mãi không thấy ông ta đá động gì đến chuyện món tiền bỏ phong bì. Nếu không tin hiểu vững vàng như thằng bé Toàn tin ở ba nó thì người ta đã có thể ngờ rằng trong tấm danh thiếp lần này ông Ba Thê quên nói tới tiền bạc.

Có lúc ông già nói chuyện về ban trị sự hội Phật học, trong đó ông ghét người nào, ưa người nào, kẻ nào ngay thẳng có thiện tâm, kẻ nào lợi dụng tiền bạc của thập phương thiện tín trong việc cung chú Phật tượng. Có lúc ông cụ lại kể những dự định lập một sở nuôi gà ba trăm con của ông ta, bắt đầu từ năm mươi mái, trồng bao nhiêu cây thu đủ dầu, cho ăn mỗi ngày bao nhiêu lít hột ngô v.v… Ông cụ quay lại hỏi tại sao ông Ba Thê không làm như thế và dặn thằng bé về “bảo ba mày xuống đây tao vẽ cho”.

Cứ mỗi lần ông cụ già ngưng lại hơi lâu, chăm chú xoa tay nghẻo đầu tìm hột cải trên bàn một cách khó khăn, và thằng bé toan thừa cơ hội để rút lui, thì ông ta liền bất ngờ quay lại như vồ lấy nó, bắt nó nghe về một chuyện khác.

Một giờ, một giờ rưỡi, vẫn không thoát khỏi. Đứa bé cảm thấy mình rơi vào một trường hợp lố bịch và nhục nhã. Nó muốn khóc, nó ngó quanh quất chung quanh tìm một sự cứu viện. Vô ích, chỉ có mình nó trong phòng với ông cụ già quái gở. Không làm sao thoát được. Có lúc ông cụ giận và khinh ba nó (thằng cha Ba Thê) như không cần biết nó là ai, có lúc ông ta kể lể và công kích những người và việc nào ở đâu đứa bé chưa nghe nói tới bao giờ.

Lúc nó mỏi chân và đói bụng, toan liều bỏ chạy ra khỏi cửa không cần cáo biệt, thì ông cụ già đột nhiên ngẩng lên nhìn vào mắt nó như đoán ra một ý định gì, ngừng nói, vẻ nghi ngờ. Thằng bé cũng tự nhiên đâm ra lưỡng lự; hai con mắt của ông già có một lớp màng mỏng đục mờ kéo phủ bên ngoài, trông khờ dại như những con mắt chết, những con mắt giả, làm nó sợ hãi. Nhưng ngay lúc đó, ông già mở hộc bàn ra và bắt đầu đếm bạc trao cho nó. Không có thư trả lời, không có phong bì, ông cụ lấy ra tờ bạc nào đưa cho đứa bé tờ ấy, xong rồi ông ta bảo nó xòe tất cả ra cho ông ta đếm lại trên tay nó: tất cả mười tờ. Món tiền lớn hơn những món ủng hộ trước, của mọi người khác. Ông ta xô bảo nó về, cứ cầm nguyên nắm bạc như thế trên tay.

Đứa bé bước ra khỏi nhà, nhảy xuống sân, bắt đầu chạy. Nó nghe có tiếng cười rúc rích sau lưng, quay lại, trông thấy một người đàn bà và đứa con gái nhỏ hơn nó vài tuổi ngồi trong phòng bên cạnh phòng nó vừa bước ra, trông theo nó qua song cửa sổ. Mặt nó nóng bừng lên, nó xấu hổ muốn chết. Chắc chắn hai người này đã theo dõi tất cả cái thảm cảnh lố bịch của nó vừa rồi! Người ta xem nó như vừa đạp phải vỏ chuối trượt ngã, cái vỏ chuối mà họ vẫn thấy nhưng không chịu báo trước cho nó. Hai gương mặt đẹp đẽ sau cửa sổ có một vẻ nghịch ngợm không độc ác. Thế mà trên mười tờ giấy bạc của ông cụ già kỳ lạ hình như chỉ toàn vẽ có một khuôn mặt nhỏ bé, tóc cắt bông-bê trước buông xuống quá nửa trán và phía sau ôm lấy cổ, khuôn mặt cười lộ những chiếc răng trắng nhỏ xíu rất xinh.

Lần sau, lúc ba nó đưa tấm danh thiếp khác, Toàn cầm ra khỏi nhà rồi vò nát, vùi kỹ dưới đống cát gần bến xe bờ sông. Nó về, thưa lại rằng không có thư phúc đáp. Ông Ba Thê im lặng, đuổi nó đi chơi bằng một giọng không có gì nghiêm khắc. Ông ta biết cách “lau chùi thất bại” mà “đồng thời” giữ nguyên vẹn được thể thống.

Sau ba lần như thế, ông Ba Thê không sai đứa con trai đầu đi đưa thư nữa. Đứa con gái bắt đầu tiếp xúc với đời. Lần đầu tiên thấy Loan, em nó, cầm chiếc phong bì nhỏ ra đi, Toàn có những cảm tưởng khó tả, nửa thương nửa mừng.

Một hôm có người khách tới chơi, nhắc cho ông Ba Thê cái tin ông tham Hà qua đời, ông Ba Thê bất giác quay lại nhìn đứa con trai đang có mặt bên cạnh. Tham Hà là ông cụ già ủng hộ mười đồng. Nhân tiện, ông Ba Thê nói về tính nết của ông cụ: những năm sắp về hưu ông cụ đã bắt đầu lẩm cẩm. Điều khiển công việc thú y trong một tỉnh, trước mỗi lần đi công tác ra ngoài tỉnh lỵ ông cụ đều mở lịch coi ngày cẩn thận. Và trở về bàn giấy ông cụ bận rộn về hai công việc: việc thứ nhất là tính số tử vi. Tất cả những nhân viên dưới quyền ông cụ đều có một lá số tử vi cho mình, cho vợ, và cho mỗi đứa con. Mỗi lần có một nhân viên mang giấy khai sinh đứa con mới đẻ đến trình để xin tính thêm lương thì ông cụ vội vã bấm chuông gọi vào, hỏi kỹ lại cái giờ sinh, rồi cắm cúi chấm cho một lá số. Ông cơ quan trưởng có cảm tình nồng hậu đối với những nhân viên có con mới ra đời. Chỉ có những đứa bé sơ sinh mới làm cho ông ta vui mừng, còn những con bò giống Ấn-độ, những con gà quạ Orpington, những con gà cú giống Plymouth Rock barré, những con gà Leghorn… chúng sinh ra không có sao chiếu mệnh thì chú ý đến làm quái gì. Bởi vậy mà số gà giống, heo giống, bò giống của chính phủ giao cho ông trông nom đều gầy ốm còm cõi lắm.

Công việc thứ hai của ông tham Hà là đọc rất thong thả các công văn cấp trên gửi xuống, như là bình văn cổ nhân, rồi suy nghĩ, rồi thong thả vạch tìm tất cả những sở hở về cú pháp, từ ngữ, về sự lý, để viết những công văn dài trình lên thượng cấp. Nổi tiếng nhất là một trình văn dài tám trang của ông cụ, phản đối nha tổng giám đốc về một chỉ thị ngăn ngừa bệnh dịch trâu bò viết kém rõ ràng.

Đến khi ông tham Hà tới tuổi hưu, nghỉ việc, cả thượng cấp, cả gà và bò đều khoan khoái vui vẻ, duy những nhân viên có vợ đang mang bầu thì còn lưu luyến không nguôi.

Nói xong chuyện ấy, ông Ba Thê cười lớn: “Đấy, ông tham vẫn dở người như thế nhưng mà tốt bụng. Trẻ con có đứa không biết tính ổng lẩn thẩn, lại đâm sợ hãi, oán ghét … Hì hì!”

Toàn giật mình liếc nhìn lên mặt ba nó rồi lẩn ra ngoài vườn. Nhưng sự hối hận đuổi theo nó cho tới khi nó chết. Đứa bé không ngờ ba nó hiểu hết từ sự xấu hổ của nó tại nhà ông tham Hà cho tới việc vò nát các tấm danh thiếp sau đó. Nó thấy trong cái nhẫn nại tha thứ của ba nó có sự thú nhận tội lỗi một cách tội nghiệp, nhục nhã.

(Rồi nó lại biết người đàn bà mặc cái áo in hình bông cúc vàng trong bữa tiệc gia đình nọ là một cô đào hát đã từng dan díu nhiều năm với ba nó.)

Nó tự trách đã bỏ rơi ba nó một cách tàn nhẫn trong cảnh khốn cùng. Mười mấy năm sau, khi nó ôm cây súng nằm ngoài mặt trận, một mặc cảm tội lỗi mơ hồ vẫn chưa chịu tha thứ nó. Tội lỗi đối với cha, và đối với đứa em gái.

Loan không tự ý bỏ công việc đưa thư. Gia đình nhận thấy nó được việc hơn anh nó. Nhờ có đứa con gái, sự lân la tới các nhà “se a-mi” có nhiều cách xếp đặt hơn. Có khi bà đội Ba Thê sai con đi biếu một món quà, đôi ba món ăn khéo léo, như thế rồi mới đến lượt trao một tấm danh thiếp.

Ông Ba Thê mến chuộng sự thanh nhã và bặt thiệp, cho rằng những cái đó nâng cao phẩm cách con người lên nhiều lắm. Cho nên từ ngày ông được nâng cao nhờ một đứa con gái ông hiểu câu thơ Trường hận của Bạch Cư Dị là chí lý: thế gian lắm lúc phải trọng nữ hơn nam.

Còn Loan, mỗi ngày mỗi lớn, nó nhận thấy nhiều người bạn hữu thân ái của ba nó đổi nết một cách ngộ nghĩnh. Có một ông bạn làm việc ở sở Lục Lộ, góa vợ, có hai đứa con trai đang học trung học. Nhà ông ta ở chỉ có một gian phía trước là người giúp việc phải tốn công dọn quét: giữa nhà một bộ xa-lông, phía bên trái một cái giường rất rộng, nệm rất dày, có ngọn đèn nhỏ bên cạnh để đọc sách ban đêm, có cái quạt điện nhỏ để ngủ giấc trưa cho mát mẻ, phía bên phải là một chiếc đi-văng, người ngồi trên đi văng ngẩng lên sẽ thấy trước mặt mình một cây đàn tranh thiếu mất mấy sợi dây. Ông bạn hữu ăn ở phòng đó, ngủ ở đó, tiếp khách cũng ở đó. Tòa nhà còn rộng, phía sau có tới ba phòng nữa, rồi mới đến bếp.

Ông bạn hữu ít có dịp đi sâu về phía sau gian phòng của mình. Nước rửa mặt thì người giúp việc bưng trong cái thau lên để ở ngoài cửa sổ. Cơm thì dọn riêng cho ông một phần, đậy lồng bàn lại, có sẵn một chai bia bên cạnh; bao giờ ông về nhà, ông ngồi ăn ngay ở ghế xa-lông. Bữa nào ông đã ăn uống với bạn bè rồi thì gọi người giúp việc lên cất mâm cơm đi. Còn con cái, chúng có thể ăn trước hoặc ăn sau, tùy sở thích, ông không đòi chúng nó trình bày về chương trình sinh hoạt cho ông bao giờ. Cả những việc tống các vật thừa trong cơ thể ra sau khi tiêu hóa, sự tình cờ cũng xếp đặt cho ông thỏa mãn ở sở hay ở nhà bạn bè, cho nên ông ít khi biết đến cầu tiêu nhà.

Tuy vậy, thỉnh thoảng cũng có lần ông lạc ra ngoài thường lệ, đi tiểu tiện ở cầu tiêu nhà mình. Lúc trở vào, vừa đi vừa cúi đầu ngẫm nghĩ xa vắng, vừa cài mấy hột nút quần, ông bước lầm vào phòng ngủ của hai đứa con trong lúc chúng nó, mỗi đứa trùm lên đầu mỗi chiếc mền, đang quờ quạng tìm bắt nhau. Một đứa tông phải vào chân ông, khoát mền ra, kinh hãi. Ông ta càu nhàu mấy tiếng trong mồm, bỏ ngang mẩu tư tưởng đang nghiền ngẫm trong đầu, ngước mắt nhìn lên một cái, rồi quay đầu trở ra. Sau đó, ông ta có gọi lũ con lên xem qua mấy quyển sách vở của chúng nó, cảnh cáo vài lời, gây ra một xúc động sâu xa trong cuộc sống của gia đình.

Không mấy thuở đi xa về phía sau nên ông lạc lối như thế ngay trong nhà mình. Vì lạc lối ông lại càng cẩn thận, ít khi đi về phía sau. Cách sinh hoạt ấy làm cho đối với hai đứa con trai và người giúp việc ông ta có cái nghiêm khắc uy nghi khả kính của những bậc siêu phàm, cách xa cuộc sống tầm thường của thế nhân muôn vạn tầng lớp. Ông ta như một nhà bác học, một bậc thông thái, một nhà hiền triết sống lẻ loi bên cạnh những người thường.

Nhà hiền triết lâu lâu lại có chuyến kéo vài người bạn về nhà, dọn đồ nhắm và rượu, ăn uống nói cười tục tĩu đến nỗi lũ con và người giúp việc núp phía sau bức rèm nghe trộm phải bấm nhau cười rúc rích. Những lúc ấy nét mặt ông ta tươi sáng hẳn lên. Rồi cả bọn kéo nhau đi tới khuya. Hôm sau trở về, ông ta lại nghiêm khắc và tối sầm như cũ. Những ngày hôm qua bị thời gian chôn xóa đi một cách tàn nhẫn lạ!

Phía sau gian phòng riêng của ông bạn hữu thân ái, hai đứa con trai và một người thanh niên ở giúp việc sống trong sự hỗn loạn thường xuyên, trong tự do và bình đẳng tuyệt đối. Một hôm Loan đến nhà không gặp ông bạn hữu sở Lục Lộ, nó ngần ngại không dám một mình ngồi chờ ở gian phòng sang trọng phía trước, bèn bước ra phòng sau, ngồi trên một cái giường chỉ trơ có vạt không (chiếc chiếu thì mấy cậu con trai đã kéo trải trên nền xi-măng nằm cho mát). Vừa đặt đít lên vạt giường, đứa con gái bỗng nghe phát ra ngay ở phía dưới những tiếng kêu quác quác lạ lùng chưa từng thấy phát ra từ chỗ hạ bộ của bất cứ người con gái nào. Nó hoảng hốt đứng phắt dậy; tức thì có tiếng dậm lạch bạch, rồi hai con vịt từ dưới giường chui ra, quất quơ những cái cổ vô duyên. Đứa con gái liền hiểu duyên cớ vì đâu mà ở chỗ nó ngồi phảng phất một mùi tanh thối khó chịu.

Từ gian phòng khách đường bệ cho đến cái cổ vịt dưới vạt giường, tất cả đều tăng thêm sự sợ hãi rụt rè của đứa con gái.

Khi người bạn thân ái của ông Ba Thê về nhà, ông ta cầm lấy tấm danh thiếp, liếc qua, rồi ngồi vào mâm cơm, mở bia ra, uống và ăn chăm chỉ như không hề thấy có đứa con gái nào trong phòng. Hết nửa ly bia và hết một chén cơm, ông ta bớt hào hứng, ăn uống chậm lại, ngẩng mặt lên trông ra đường, nhìn vẩn vơ, nhàn hạ lơ đãng, đuổi theo vài ý nghĩ nhẹ nhàng. Chợt ông ta dừng mắt trên đứa con gái, lộ một vẻ ngạc nhiên thích thú. Loan cố gắng phiên dịch ý nghĩa của cái nhìn ấy ra thành ngôn ngữ thì nó có cái nghĩa đại khái rằng: “Hầy! con cháu thế mà đã lớn”. Thế thì cũng chẳng có gì đáng lấy làm lạ. Nó cúi mắt trông xuống đất. Phản ứng của người bạn hữu thân ái sở Lục Lộ là bắt chước theo nó: ông ta nhìn xuống tấm danh thiếp của ông Ba Thê Đồng Thời hãy còn vứt ngửa trên vành mâm. Lần này thì ông ta đọc và hiểu ngay rất nhanh ý nghĩa trong thư. Ông ta bắt đầu hỏi han về đời sống của ông Ba Thê, ông ta chép miệng mấy cái, tiếc một cuộc đời dở dang. Rồi khi người giúp việc bưng mâm cơm xong, ông ta bèn nhờ Loan khép kín tất cả các cửa sổ và cửa lớn cho bớt chói nắng.

Ngày ấy Loan chưa tới mười sáu tuổi, nhưng linh tính con gái kêu gọi vu vơ, báo cho nó biết rằng đạo đức không thích ở lâu trong những gian phòng thiếu ánh sáng. Nó tìm lời xin cáo lui, nhưng người “se a-mi” của ba nó cũng có thì giờ kịp đề nghị biếu nó ít tiền để tiêu riêng. Nó vùng vằng quay đi, nhưng ông ta đã nhanh nhẹn vỗ vào má nó một cái nhẹ, như một người lớn vỗ má đứa cháu bé, và cười hề hề. Lại phiên dịch cái cười ấy thì lộ ra cái nghĩa đại khái: “Con cháu thế mà còn khờ! Thôi được! rồi nó sẽ khôn dần”. Một ý nghĩa vừa khoan hồng vừa hy vọng dễ dãi.

Từ đó về sau, mỗi lần gặp nó, ngay cả trước mặt ba má nó, người bạn hữu thân ái sở Lục Lộ cũng vừa cười hề hề vừa nhìn vào mặt nó với một vẻ giễu cợt khoan hồng như đùa một tí với con cháu hãy còn khờ. Thái độ đó làm cho nó mặc dù nóng cả mặt mà vẫn cứ ngờ vực những lời kêu gọi vu vơ của linh tính.

Tuy vậy người “se a-mi” sở Lục Lộ chưa phải là người thô lỗ. Loan còn gặp những trường hợp khó khăn hơn mà không tiện nói ra với ai: anh nó và em nó đều là con trai, cha mẹ nó thì lâu lắm không hay cân nhắc bạn hữu về phương diện đạo đức nữa. Vả lại đứa con gái biết rằng công việc của mình là công việc nuôi sống cả nhà, không thể nghĩ đến một sự chống đối. Lâu ngày nó khôn ngoan, già dặn, đối với những lời chọc ghẹo nó không đỏ mặt bối rối, nó cũng có những câu ỡm ờ hư hư thực thực, và không sợ kẻ chai lì một cách quá đáng.

Nhưng một hôm nó gặp một người thật liều lĩnh. Không biết nó về tới nhà thì sự xúc động còn để dấu vết gì trên nét mặt mà lần sau, lúc ông Ba Thê sai nó mang thư đi một nhà khác, thì Toàn thình lình lên tiếng can thiệp:

— Con Loan đừng đi nữa.

Toàn là một người con trai ít lời, hơi cộc cằn. Anh ta không hay nói ý kiến của mình cho ai biết, cho nên nhiều hành động của anh ta có vẻ bất ngờ. Trong gia đình cảm thấy phía sau các quyết định bướng bỉnh của anh ta có những lý do quan trọng, nên thường làm theo ý anh ta trước khi tìm hiểu.

Ông Ba Thê nhìn lên mặt đứa con trai dò xét rất nhanh, rồi bỏ lơ câu chuyện đưa thư. Bà Ba Thê yên lặng như không hề biết có điều gì xảy ra. Chuyện thư từ đình lại ngót hai tháng trời, trong một không khí ngờ vực mập mờ giữa những người trong gia đình. Mỗi người đoán một điều mà không ai muốn đem ra để đối chiếu với nhau. Thế rồi một bữa Toàn và Loan vắng nhà, ông Ba Thê lấy cặp lấy thiếp ra. Bà Ba Thê chờ cho chồng viết xong, bỏ vào phong bì, bà lên tiếng dịu dàng: “Phong! Ra ba bảo đi con!” Bắt đầu từ hôm ấy đến lượt đứa con thứ ba tiếp xúc với những người “se a-mi”.

Còn Loan, chẳng bao giờ cô ta dám dò hỏi người anh đã biết gì về mình.

Như vậy về cuộc đời tâm tình và nết na của nàng, sự hiểu biết của người thứ nhất còn có chỗ đáng ngờ. Tôi có cái may vừa phải, là làm kẻ hiểu biết thứ hai mà thôi.

Tháng ba năm 1953, một đêm trước trận phục kích trên đèo Mang Giang, tôi nằm bên cạnh Toàn ở một nhà đồng bào dưới chân đèo.

Chúng tôi kéo đến làng khi trời chạng vạng tối, mở cơm ra ăn, họp, sinh hoạt, rồi dồn nhau lại ngủ ở ba nhà gần sát nhau. Ở miền sơn cước nhà cửa thưa thớt, nếu muốn có chỗ rộng rãi chúng tôi phân tán ra quá rải rác, không tiện. Vì thế, chỉ chọn ba nhà. Phần nhiều chúng tôi phải ngủ giữa trời, ở ngoài sân và vườn.
Toàn và tôi mượn được chiếc chiếu trải lên mớ rơm nằm khá êm. Tôi đánh một giấc đến quá nửa đêm, bỗng giật mình thức dậy. Có tiếng Toàn rọt rẹt cựa quậy bên cạnh. Tôi trở mình thấy anh ta bò lồm cồm, hỏi:
— Cậu làm gì vậy?
— Lạnh tổ mẹ. Tìm cái áo mặc thêm vào cho ấm.
Tôi tán thành:
— Dễ ghét lạ. Mới xế chiều còn nóng hầm hầm như nung, tối đến khí đá bốc ra đã lạnh ngay.
Tôi rút hai tay đang thu vào giữa cặp đùi ra, vuốt lên má: má và tai lạnh ngắt, lại ươn ướt hơi sương. Sờ tay lên chiếu, chiếu cũng ướt. Tôi ngồi dậy, nhân tiện ra ngoài rào đi tiểu rồi trở vào bắt chước Toàn mở ba-lô lục tìm cái áo trấn thủ mặc thêm.
Hai đứa nằm xuống bên nhau một lúc không nói gì. Tôi mỗi lúc mỗi thấy tỉnh táo, mở mắt yên lặng nhìn lên vòm trời đen sâu thẳm, chi chít những sao nhấp nhánh. Hồi lâu tôi quay nghiêng đầu và để ý đến ngọn lửa cháy núi ở phía tây. Miền quê tôi có nhiều núi, mỗi năm vào tiết trời nắng thế nào cũng có nơi bị cháy núi, nhà nông cho rằng năm nào cháy núi to thì năm ấy được mùa, bởi vì tro than trên núi theo nước chảy xuống ruộng thành chất phân bón tốt. Hồi tôi còn nhỏ, mẹ thường bồng tôi chỉ cho coi ngọn lửa đỏ di động trên những mỏm núi đen xa thẳm trong đêm mênh mông, kể những chuyện dị thường để dọa tôi những lúc tôi làm nũng. Và trí tưởng tượng của tôi vẽ thêm ra những điều ly kỳ xung quanh ngọn lửa huyền bí ấy. Mãi về sau này, mỗi lần trông thấy núi cháy — nhất là về khuya — tôi vẫn còn xôn xao bồi hồi nhớ về xóm làng và thời thơ ấu. Tôi nằm bên cạnh Toàn, theo dõi ánh lửa, nghĩ đến ngày xưa, nghĩ đến trận đánh ngày mai…
Bỗng một cái mo cau tách khỏi thân cây, rụng xuống kêu một tiếng bộp. Tôi giật mình ngoảnh đầu nhìn lại, trông lòng mo phơi ngửa trắng lờ mờ. Thình lình Toàn lên tiếng nói:
— Nhớ tổ mẹ!
Rồi anh ta thở ra một cái mạnh, xoay mình lại. Giọng Toàn tỉnh táo, ráo hoảnh: thì ra anh vẫn nằm thức từ lâu. Tôi vừa trở mình, anh ta liền hỏi:
— Cậu có nhớ “đứa” nào dưới đồng bằng không?
Tôi làm sao nói được! May mà Toàn chỉ hỏi qua loa rồì xoắn suýt trở về chuyện riêng của mình, không chờ trả lời. Anh ta lay vai tôi, nói:
— Mình lạ quá. Lúc ở nhà cứ như lạnh nhạt đối với vợ con, đôi khi muốn tỏ một cảm tình thì lại ngượng, đáng lẽ nựng nịu thì chỉ thành ra chế giễu. Đáng lẽ ôm hôn con chẳng hạn thì mình lại chọc ghẹo nó. Mình cũng hay giễu vợ, về kiểu áo cắt xấu, bức hình treo vụng, dĩa xào không ngon… Chế giễu thành ra một hình thức âu yếm. Vợ con mình có vẻ không bằng lòng như thế. Cậu nghĩ thế nào?
Tôi chưa kịp nghĩ thế nào cả, anh ta đã tiếp:
— Chế giễu chán rồi lại có lúc phát cáu lên gắt gỏng. Thế nhưng đi khỏi nhà, thường thường không cần lâu, chỉ vừa mamg ba-lô lên vai đi được chừng non cây số là mình lại đã hối hận, thương vợ thương con, tiếc sao lúc ở nhà không biết diụ dàng hơn, khéo léo hơn. Nhất là trước những trận đánh, mình càng ân hận. Mình thấy lại rõ ràng cái mặt bé tí tẹo của thằng con những khi nó khóc, nước mắt nước mũi tràn trề, trông thương quá… Dạo nọ đánh đồn Thượng An xong mình được nghỉ, ghé về nhà; mụ vợ dành dụm bấy lâu may được cái áo cụt lụa, bữa ấy lấy ra định mặc, mới thấy chuột khoét cho một lỗ to bằng cái miệng chén ở nách. “En” cầm cái áo kêu mình, đưa lên cho coi, miệng méo xệch, khóc như đứa trẻ. Lúc đó mình nhe răng cười, pha trò chọc cho “en” cười theo. Đêm nay tự nhiên mình nằm nhớ lại nét mặt khổ sở ngây thơ ấy. “En” biết đâu, cứ cho mình là khô khan. Ngày mai, đánh xong, nếu lại rút xuống đồng bằng thì thế nào mình cũng… hì hì.
Toàn vất cả hai chân gác lên người tôi, thân mật, sung sướng. Tôi hỏi:
— Cháu Hoàn nay được mấy tuổi rồi?
— Hăm ba tháng.
— Liệu moi óc tìm lý do mà xin về cho nhanh. Cháu nó chờ em đã trót năm trời rồi, sốt ruột lắm đấy.
Toàn lại cười hì hì. Chúng tôi chợt im lặng, lắng nghe tiếng cánh nặng nề của một con dũ dĩ bay ngang qua đâu đó ở bên ngoài khoảng vườn nhà trọ. Nó đậu lại và kêu hù hì, hù hì. Kế đó, có tiếng mang tác “bép bép” về phía trên núi.
Tôi không biết Toàn nghĩ gì trong khi yên lặng. Anh ta ít nói, những lời tâm sự bất thường vừa rồi đã là nhiều rồi, tôi tưởng thế là hết. Không ngờ khi tôi vừa hỏi:
— Ngủ chưa?
Anh ta liền sốt sắng:
— Cậu buồn ngủ rồi à?
— Không.
— Cậu biết vợ mình chứ?
— Sao lại không? Cháu cụ tham Hà chứ ai. Hồi mình học lớp nhất ở Nguyễn Trường Tộ thì vợ cậu học lớp tư.
Toàn lại cười bâng quơ hì hì, vẻ hiền lành.
Rồi anh ta kể lại cho tôi câu chuyện đem danh thiếp tới nhà ông tham Hà, bị giữ lại nghe vớ vẩn suốt buổi, lúc ra về vừa đi vừa xấu hổ vì tiếng cười rúc rích nghịch ngợm của cô con gái ở trong buồng, câu chuyện đã khiến anh ta nhất định chống lại cha.
Tôi tò mò hỏi:
— Như thế làm sao cô con gái ấy lại thành ra…
— À, thế mới ngộ. Lâu lắm lâu lắm về sau mình vẫn còn nhớ mớ tóc bông-bê rũ xuống cái cổ trắng nõn, càng oán giận càng nhớ, mới lạ chứ. Rồi không gặp nhau nhiều năm. “En” lớn lên, tới khi đối diện thì nhìn không ra nữa! Mình chỉ ghi nhớ hình ảnh cô bé hồi nhỏ mà tới năm mình hăm mốt “en” mười tám rồi, đối chiếu với cái người trong ký ức có còn dính líu gì nữa đâu. Hôm ấy mình về Qui Nhơn, về với một tiểu đội công binh để đặt mìn, ở ngoài bãi bể và trong mấy tòa nhà gạch mà chủ đã tản cư rồi. Buổi trưa, nghỉ việc, mình ra đứng phía bờ sông, chỗ trước ngôi chùa Triều Châu. Chỗ đó có một cây bàng to, hồi mình còn đi học thấy thợ cưa thường chở gỗ từng súc lớn về vất đó để làm việc cho mát. Gặp “en” ngay tại chỗ ấy. Mình đang nói chuyện với một người chệt bán thịt bò khô bên gốc bàng thì “en” đến…
— Gia đình cụ tham Hà không phải tản cư à?
— Mình cũng lấy làm lạ chỗ đó. Ở Qui Nhơn bấy giờ chỉ có toàn Hoa kiều, còn người Việt thì đi hết. Ai còn ở lại bị kiểm soát khổ sở lắm, mỗi lần đi chợ mua gạo mua thịt mỗi bị kiểm soát từng li tùng tí, khó khăn hết sức. Mình hỏi “en” tại sao ở lại Qui Nhơn. “En” trả lời vì gia đình không còn ai là đàn ông, tản cư không biết làm ăn ra sao, phải ở lại làm công cho mấy người Tàu quen biết để lấy cái sống. Dò hỏi thêm mấy câu nữa, mình bật ngửa, biết rằng đang nói chuyện với cháu gái cụ tham Hà ngày trước. Tự nhiên hơi nóng bốc lên mặt mình đỏ bừng. “En” liếc mắt để ý, ngờ vực. Trong lúc hai đứa ngừng nói, thì người chệt xắp xắp cái kéo to tướng trong tay để rao hàng, nét mặt thản nhiên vô tình… Rồi mình cố gắng mỉm cười, nhắc lại câu chuyện xảy ra hồi còn nhỏ, tới chỗ cuối mình lúng túng hỏi: “Cô còn nhớ chuyện đó không?” Hai mắt “en” chợt bừng lên một tia sáng mừng rỡ và ranh mãnh. “En” ngó nhanh về phía người chệt bán hàng sắp sửa bước đi, rồi nhìn mình nhoẻn cười: “Không nhớ!” Mình bạo dạn nói: “Chuyện đó làm tôi oán cô mãi”. “En” nói: “Bây giờ còn oán nữa không?” Tôi vội vàng đáp: “Còn chứ”.
— Trông cậu hiền lành ít mồm mép, thế mà lâm sự cũng biết xoay trở thế à?
Toàn cười hì hì hiền lành. Tôi đưa tay lên vuốt mặt một lần nữa: Sương lại ướt mặt nữa rồi, tôi kéo mép chăn lên chùi. Có một tiếng gì kêu đánh bộp rất nhẹ nhàng bên cạnh, không biết là bông cau rụng hay là một giọt sương ở đuôi lá rơi xuống đập lên mo cau nằm phơi ngửa cạnh gốc cây.
Câu chuyện tình của Toàn khiến tôi bồi hồi yên lặng nằm nhớ Loan. Toàn chuyển về đơn vị pháo binh đã ngót hai năm, anh đã dự nhiều trận đánh lớn, còn tôi thì nhập ngũ chưa bao lâu, một trận phục kích nhỏ cũng làm tôi suy nghĩ. Tôi hăng hái ra đi lính vì lời nói khích của một người con gái mau miệng, bây giờ tôi nằm đây nhớ về xóm làng, còn nàng, nàng làm gì ở đâu? Nếu người nằm bên cạnh tôi không phải là anh ruột nàng thì tôi đã không giữ nổi một câu hỏi thăm tò mò.
Nhưng Toàn nói tiếp:
— Chỉ nói với nhau bấy nhiêu, nhưng hình như cái tình hai đứa mến nhau nó đã âm thầm tích lũy tự lúc nào, chỉ chực khơi động đến là phát ra ngay. Trưa hôm ấy, mình trông thấy cái gì cũng rực rỡ huy hoàng. Nước sông sáng láy nháy lóng la lóng lánh reo vui. Một người chệt nữa bán trái cây đạp chiếc xe đi ngang qua, rao lố xố lố xố một hơi dài kỳ quặc. Mình tưởng như hai đứa đã là nhân tình rồi, yêu thương tràn ngập tâm hồn. Người chệt đi qua, mình cũng bắt chước đi theo. Cả buổi trưa mình đi ngang đi dọc, gần hết các con đường của Qui Nhơn: một con còng bị bánh xe cán nát trên đường thịt hãy còn tươi, dây antigone bò tràn trên vỉa hè, leo lên các cây keo tây, những cây dền gai mọc là sà trong các khoảnh vườn hoang, hoa đỏ nở giữa những gạch bể ngói bể của các ngôi nhà bị phá hoại, tiếng cát sạn kêu lup bụp dưới bánh xe đạp đang cưỡi và mùi cà-phê phảng phất đuổi theo mình qua hai ba con đường phố… tất cả đều tăng thêm cảm tưởng yêu đời vui sống. Uống một cốc nước lạnh, nghe tiếng cưởng sáo kêu lớn trên mái ngói, trông những con sẻ sà xuống giữa đường… mình sung sướng chơi vơi. Cả buổi chiều, mình làm việc đầy hứng thú, vừa đặt những trái mìn, cài những quả lựu đạn để chực gạt giết người, mình vừa vui vẻ huýt sáo luôn mồm. Chiều, làm việc xong, mình lại đi lang thang trong thành phố, mình không thích rủ ai đi theo vì không muốn bận trí óc đối đáp chuyện trò, để được tự do nghĩ về “en” bất cứ lúc nào mình muốn. Nhưng gặp ai mình cũng vồn vã chào hỏi, trái với thường ngày mình hay tránh mặt những người quen biết, gặp những cái không đáng chú ý mình cũng dừng lại tò mò xem xét, như thể hôm đó, với một cái nhìn khoan hồng, mình khám phá được khía cạnh mới mẻ của sự vật mà thường ngày không biết đến. Có lần mình trèo lên một tòa lầu bị đập phá lở dở, ra ngoài sân thượng, đứng nhìn bao quát quang cảnh kỳ lạ của một thành phố mà nhà xi-măng, đường trải nhựa hãy còn ngang dọc ngay ngắn cố giữ kỹ luật cứng rắn của một sinh hoạt xã hội văn minh, nhưng cây cỏ hỗn độn đã muốn tràn tới lập lại cái hỗn độn tự do của rừng rú. Gió thổi pheo pheo trên lầu cao, một mình mình chót vót giữa khoảng cao vắng vẻ, tự nhiên mình muốn hát lên nghêu ngao. Trông những viên gạch bể nhểu loang một vệt đỏ lòm chảy dài xuống bờ tường, trông qua những cánh cửa long bản lề khép không che kín một vài đồ đạc trong nhà lỏng chỏng, bừa bãi… mình lấy làm khoái thích được tự do rộng rãi giữa sự hoang vắng. Tối đến, trong giấc ngủ chiêm bao thấy “en” ẩn hiện nhiều lần, mình có cảm tưởng giấc ngủ của mình mỏng lắm, nhiều khi thoáng thấy “en”, giật mình tỉnh dậy, sắp kêu tên “en” thành tiếng. Hình ảnh của “en” lảng vảng như một thứ hương thơm phảng phất xung quanh giấc ngủ nhẹ nhàng. Mờ sáng mình đã thức dậy và thao thức mãi, có một lúc không cầm giữ được sự vui sướng, mình nhỏm dậy, lấy tay nắm vào chót mũi của thằng bạn nằm bên, kéo một cái, nó giật mình vùng dậy, mình nhăn răng cười không biết cắt nghĩa ra sao…
— Cậu chưa nói rồi làm sao…
— Mà thành vợ chồng?
— Nhưng mà mình đã thấy rồi. Mê như vậy thì muốn thành gì cũng thành.
Toàn khoát tấm “ra” ngồi hẳn dậy, vừa cười hì hì vừa nói:
— Hút điếu thuốc đã, lạt miệng lắm, không thèm tiếc giấc ngủ nữa. Ờ, mà còn chỉ có nửa giờ, ngủ nghiếc gì được nữa. Cậu hút không?
Tôi vừa lồm cồm ngồi dậy vừa nói:
— Không. Cho mình mượn ve dầu Nhị thiên đường xoa tí cho ấm.
Toàn ngồi hút thuốc, khoanh tay ôm gối lặng lẽ. Đêm khuya im vắng, thỉnh thoảng có một tiếng bộp nhỏ, không biết là sương rơi trong lá hay là hoa cau rụng bên cạnh. Tôi muốn hỏi về Loan, mon men bắt đầu:
— Độ này cậu có được thư nhà không? Chú Phong làm gì?
— Nó vào tù.
— Ủa?
— Trong trận Tây đổ bộ lên Qui Nhơn, nó lẻn về, lấy lọ bôi mặt giả làm lính Tây đen đi cướp giật lặt vặt. Tây rút lui, bị phác giác, bị tù. Cái thằng không thể nói được…
— Giả Tây làm sao? chú Phong thấp bé loắt choắt như thế, ai thèm lầm?
Toàn không trả lời, ngồi yên lặng buồn rầu. Câu chuyện mới mở về hướng ấy đã gặp việc chẳng lành, tôi bỏ ý định thăm hỏi về Loan. Một lúc sau, tôi nằm xuống kéo chăn lên cổ, co người lại cho ấm, im lìm nhìn theo ngọn lửa đỏ bí mật thao thức di động trên ngọn núi xa đen thẳm. Toàn vẫn ngồi phía dưới chân, hút thuốc, một mình nghe ngóng tất cả cái mênh mông của rừng núi.
Tôi nhắm mắt lúc nào không hay, mơ thấy Loan một tay sờ chót mũi tôi, một tay múa vẫy theo thân hình uốn éo, cánh tay của Loan mỗi lúc mỗi dài ra và mềm oặt như con rắn nõn nà. Tôi trông theo mê tơi và kinh ngạc, nhưng bàn tay bịt lấy chót mũi mỗi lúc một chặt thêm làm tôi sắp sửa bị nghẹt. Tôi toan đưa tay lên gạt Loan ra thì Toàn đập tôi, kêu dậy. Tôi nhận thấy một chéo chăn đã phủ lấp lên mũi mình.
Hai giờ sáng rồi. Đơn vị chúng tôi bắt đầu đi. Phải hành quân từ lúc ấy là để tránh sự quan sát của địch vì chúng tôi định đi tắt qua những vùng núi trọc.
Trong khi đi đường chúng tôi lạc nhau. Tôi đi trước xa hàng trăm thước, Toàn ở sau khệ nệ vác một khẩu súng máy. Đầu óc tôi hãy còn nặng nề vất vưởng, những lúc đứng lại chờ đợi kẻ đi trước dò tìm chỗ lội qua một dòng suối tôi muốn được ngồi sụp xuống tiếp tục ngủ. Trong lúc bước đều đều theo hàng ngũ có lúc tôi loáng thoáng nhớ lại một góc vườn ở nhà, một cái hộp bằng giấy đựng thư từ cất dưới đáy rương v.v…
Tôi không biết Toàn nghĩ gì về lúc ấy.
Đến giữa đèo, bố trí xong, mới hay tôi lại ở gần bên Toàn.
Mỗi đứa ngồi trong một hầm cá nhân đào xiêng vào sườn núi bên đường. Phía trước mặt, bên kia đường là thung lũng sâu thăm thẳm. Núi xanh mờ trên những ngọn cây cam xe, cây mằng lăng, trên lá xanh của các thứ dây bã mía, dây chôm chôm, dây dủ dẻ, dây chùm bìa… phủ trùm lên cây núi mênh mông. Chúng tôi định đánh hất địch xuống phía đó.
Sau lưng chúng tôi là núi dựng đứng, lá khô rụng xuống chất thành lớp dày trên mặt đất. Muốn trèo ngược lên, bước chân giậm lên lá cứ chùi xuống, tay phải bấm kỹ vào các gốc cây, rễ cây. Tôi nghĩ thầm nếu trận phục kích bị thất bại bất ngờ thì chuyện chạy lui lên núi thật là khó khăn. Tôi nhìn về phía Toàn, tìm gặp cặp mắt anh ta. Anh ta nhìn lại, thân thiện nhưng khó hiểu. Toàn đã trở lại ít nói như thường ngày.
Chúng tôi chờ đến quá muời giờ rưỡi. Tai nghe thoang thoáng như có tiếng động cơ nổ xa xa, rồi tắt mất. Sự chờ đợi bắt đầu hồi hộp trong không khí căng thẳng. Có lệnh chuẩn bị sẵn sàng. Ba phút, năm phút… vẫn chưa thấy gì. Tôi bẻ một cọng cỏ đuôi chồn trước mặt, tước ra, đưa lên miệng nhăm nhăm: ban đầu một vị ngọt lạnh thấm vào đầu lưỡi, rồi sau thấy lạt xạch. Tôi tiếp tục cắn đứt từng khúc cỏ đuôi chồn lụp bụp trong mồm mà không hay.
Đã bao nhiêu lần lâm trận, tôi bị bắn và bắn trả lại rất dữ, sau đó tôi dò ý tứ bạn đồng đội thì xem chừng dư luận chung không coi tôi có gì là khác với những chiến sĩ khác. Nhưng trong những lúc chờ đợi, tất cả những lúc chờ đợi, tôi một mình ôm báng súng ngẫm nghĩ, tự xét quả tình không có máu anh hùng.
Lệnh chuyển đi đã lâu quá mà vẫn không thấy gì. Tinh thần căng thẳng khó chịu. Xung quanh im lặng đè xuống khó thở. Một con kỳ nhông chạy lẹt xẹt trên lá khô, dừng lại nghểnh cao đầu, nhìn bậy một chút rồi lủi đi lẹt xẹt. Một con chích chòe ở đâu vụt đến đậu lên nhành cây trên đầu chúng tôi. Tôi nhìn con chích chòe, mắt khờ dại như chưa từng thấy thứ chim đó lần nào.
Thình lình tiếng động cơ lại nổi lên rõ rệt, rồi lớn lên rất nhanh. Tôi nuốt nước bọt đánh ực, quay mặt lại phía Toàn gọi nhỏ:
— Toàn!
rồi nhoẻn miệng cười. Anh ta ngoảnh lại, tự nhiên cũng nhoẻn miệng cười. Cái cười như có vẻ bảo nhau: “Toàn đấy chứ! Vui vẻ nhỉ! — Ừ, mình đây! Vui vẻ?” Cả hai đều không hiểu lý do vì sao lại bảo với nhau như thế. Tôi cảm thấy cái cười chết lạnh trên môi của mình.
Rồi đoàn xe của địch rầm rầm kéo qua. Quả mìn đầu tiên nổ lớn. Con chích chòe giật mình cất cánh bay vụt đi, lao mình xuống phía thung lũng trước mặt xanh thăm thẳm. Cuộc đánh nhau bắt đầu. Tôi bắn hăng và đến lúc thì cũng vừa hét vừa xung phong hăng như những người chiến sĩ khác.
Cuộc đánh kéo dài quá thời gian dự tính. Những người lính Tây đen kháng cự can đảm, liều lĩnh lạ thường. Có một lúc, một chiếc phi cơ bay lảng trên không rất cao, không biết có hay biết gì về chiến cuộc ở dưới này không. Chúng tôi nóng lòng kết thúc. Và rốt cuộc chúng tôi cũng toàn thắng.
Không có gì buộc tôi trở lại vị trí cũ, nhưng tình cờ đi ngang qua chỗ hầm đã nằm chờ đợi trước lúc đánh nhau, tự nhiên tôi quay đầu nhìn, và tìm lại được cả chỗ hầm của Toàn. Anh ta vẫn còn nằm đó, toàn thân chỉ thiếu mất một nửa cái đầu. Một viên đạn đại bác đã tung cả cái chân khẩu Browning nặng bảy ký-lô vào đầu anh ta; cả đầu cả chân súng đều văng xa.
Tôi đứng bàng hoàng nhìn cái thây nằm sấp, trong đầu không kịp có một ý nghĩ gì. Lúc tôi ngẩng lên, bên cạnh tôi, giữa cảnh lộn xộn, một người tù binh gầy lêu nghêu, cao hơn tôi cái đầu, cũng đang để mắt lướt trên cái thây của Toàn, dửng dưng. Mắt y gặp mắt tôi, y ngập ngừng, lo lắng, nhìn xuống cái thây một lần nữa như tìm xem có phải là trách nhiệm của mình không, rồi quay đi.
Chúng tôi rút lui qua những khu rừng dầu.
Trời nóng hầm, không gió. Khí oi bức và sự mệt mỏi làm cho bước chân thêm nặng nề. Đi chừng quá một giờ đồng hồ thì hết những câu chuyện ồn ào, tiếng chân giậm trên lá khô nghe rõ rộp rộp. Thứ lá dầu to chồng lên nhiều lớp gây một cảm giác êm êm buồn buồn dưới chân.
Cứ thế chúng tôi đi từ giờ này qua giờ khác, thỉnh thoảng né tránh cho một chiếc võng tải thương do dân công khiêng đi vượt tới trước. Mắt người lính đang bước đi lướt trên mặt người lính nằm trong võng không kịp biểu lộ gì. Có người bạn nằm nhắm mắt, có người còn đủ sức mở mắt nhìn trả lại chúng tôi, cũng thành ra lạnh lùng thản nhiên một cách buồn thảm.

Cái gì tăng thêm sự bực bội của người đi rừng buổi trưa nhiều nhất có lẽ là những tiếng kêu làm cho tê mê trí óc. Đuổi theo chúng tôi lúc nào cũng có tiếng ve ran lên, dồn tới từng đợt, từng đợt gấp rồi xuôi một hơi dài, như người đạp chiếc xe thật nhanh bỗng ngừng đạp thình lình, để cho xe chạy rè rè theo trớn. Những con đa đa kêu “cúc cúc cúc”. Thỉnh thoảng một con cuốc vùng kêu ồn lên như hốt hoảng.
Trong khung cảnh hừng hực ấy, trong sự tê mê mệt mỏi ấy, tôi vừa đi vừa nghĩ loáng thoáng về ông Ba Thê Đồng Thời, về tình yêu và nét mặt rạng rỡ của Loan, về cái thây nằm sấp của Toàn. Cái tang bất ngờ đó làm cho tôi tự thấy càng thêm gần gũi gia đình ông Ba Thê. Ve dầu Nhị thiên đường của Toàn hãy còn nằm trong túi tôi. Ý nghĩ của tôi quanh quẩn một lúc lâu xung quanh cái chết của người con trai mới vừa nằm vắt chân lên hông tôi đêm qua. Anh ta là một đảng viên. Lý do xui khiến anh ta ra mặt trận không phải là một tình cờ lếu láo như trường hợp của tôi. Tôi hiểu tất cả lòng nhiệt thành của người thanh niên chân thật và ít nói ấy. Bởi anh ta hiền lành nên tiếng cười ha hả ồn ào của người bạn hữu cao nhòng có râu mép, đeo kiếng trắng trong bữa tiệc đông đảo ngày xưa làm anh ta hoang mang hoảng hốt quá lâu, cho nên nỗi khổ sở lúng túng của ông giáo sư già xúc động anh ta quá sâu xa, cho nên sự lẩn thẩn của ông tham Hà làm anh ta xấu hổ không chịu nổi. Cũng bởi anh ta hiền lành ít lời nên mới im lìm xé nát những lá thư của ông Ba Thê. Sự hư hỏng sau này của hai đứa em, anh ta đau khổ tự quy lỗi về mình tất cả, anh không có can đảm tiếp tục xin cái sống cho gia đình nên đứa em gái mới phải lui tới tiếp xúc với những người đàn ông thừa cơ hội lợi dụng nàng. Tại anh cho nên đứa em trai lại phải đi xin xỏ từng cửa và mất hết ý niệm về liêm sỉ, đến nỗi ngày nay thành một đứa vô dụng. Trong nhiều năm anh ta âm thầm mang một mặc cảm tội lỗi. Rồi thời cuộc thình lình cung cấp cho anh ta những lý lẽ để biến hết thảy những người “se a-mi” đáng giận của ông Ba Thê ngày xưa thành ra những kẻ tư sản, thành những kẻ thù. Anh ta hớn hở đầu độc cuộc đời mình. Đảng xóa cho anh ta về trách nhiệm nặng nề về tính đàng điếm của Phong, về sự hư nết của Loan… Anh thở ra một hơi dài khoan khoái. “Đáng hận chỉ có là cái tính bủn xỉn của ông giáo sư già nọ, sự lẩn thẩn của những ông tham Hà v.v… Tất cả nguyên do là ở những cái đó, là những kẻ tư sản xa hoa, ích kỷ và sa đọa”.
Toàn vào đảng và chiến đấu với cái nhiệt thành của một kẻ chuộc tội.
Đêm hôm qua, tôi còn nằm bên anh ta, sát bên cạnh, như đụng chạm những nhớ thương ríu rít của anh ta. Trưa hôm nay, tôi nặng nề giậm từng bước trên lá dầu chất dày từng lớp, còn thây anh thì nằm lấp trong một cái hầm ở lưng đèo Mang Giang.
Cơ hội khiến anh bắt gặp người vợ yêu quí của mình do tấm danh thiếp của ông Ba Thê đem đến. Những thù hận làm động cơ chiến đấu của anh cũng là do mấy tấm danh thiếp của ông ta đem đến. Những tấm danh thiếp tai quái!
Rừng dầu thưa dần. Chúng tôi đi vào những vạt tranh lớn bị đốt cháy. Chân chúng tôi giậm lên tro bụi, đạp gãy rốp rốp những chân tranh khô dòn. Chỗ nào không có chân tranh thì mủ trùn đùn lên lởm chởm và cứng ngắt. Mùi tro xông lên mũi, lẫn với mùi nắng khét từ đất khô bốc lên. Tiếng ve ran ran vẫn đuổi theo, nghe nhỏ dần. Trên đầu chúng tôi có đến vài mươi con diều trôi dật dờ giữa trời cao chót vót.
Xế chiều, tới một làng thượng du, chúng tôi dừng lại nghỉ tạm. Tôi vất ba-lô dưới bóng cây, bên cạnh một ngôi nhà sàn, gối đầu lên, ngủ thiếp đi một giấc. Lúc giật mình thức dậy thấy một thiếu phụ thượng du ngồi ngay trước cửa đang dùng con dao dài cắt từng lát xoài núi, thứ xoài nhỏ chỉ bằng ngón chân cái và chua vô cùng. Vừa ăn chị vừa phân phát cho hai đứa con. Người mẹ cắt xoài đều đặn, chậm rãi, không thèm muốn; hai đứa con không vồ vập tranh giành; cả ba ăn xoài chua không có một chút nhăn mặt. Từ cử chỉ đến nét mặt đều một vẻ bình thản yên tĩnh lạ lùng, ngộ nghĩnh. Người mẹ chợt bắt gặp cái nhìn tò mò chăm chú của tôi, ngẩng lên mở một nụ cười biếng nhác, lạt lẽo.
Tôi tránh mắt, ngước nhìn lên trời: lá cây sống mả rớt lăng tăng trong gió. Mấy con bướm nhỏ bay lấn quấn xung quanh một cây găng trâu gai lởm chởm hồi lâu không tìm ra chỗ đậu. Đàn diều hâu đã hạ xuống thấp, xòe những cánh xơ, bay tán loạn…
Sau giấc ngủ xế chiều, tất cả sự xúc động của chiến trận, của cái chết người bạn bên mình tự nhiên chợt ùa về làm tôi dao động xôn xao. Từ cái lá bay với con diều hâu xòe cánh cho đến nét mặt thản nhiên vô sự của người đàn bà thượng du đều khiến tôi mủi lòng nhớ làng, nhớ nhà, nhớ Loan.
Tôi nhớ Loan vô số. Chao ôi! Đã bảo quả tình tôi không có máu anh hùng. Nếu chuyến này về được, tôi sẽ đề nghị Loan hãy nói với tôi những chuyện khác ngoài chuyện đạo đức, tác phong, dũng cảm v.v…
Nhưng mà sau trận đó tôi không về được. Cuộc chiến đấu đang chuyển tới giai đoạn rầm rộ hơn trước. Từ lối đánh núp đánh lén, chúng tôi bắt đầu cố gắng đánh những trận lớn, những trận tiêu diệt đồn. Trong hàng ngũ, từ trên xuống dưới người ta ra sức học tập, thúc đẩy nhau, rào rào thổi vào tai nhau ngày đêm những chuyện đạo đức, tác phong, dũng cảm. Thét rồi tôi cũng nói dũng cảm hăng như bất cứ ai. Tôi lẫn lộn trong hàng ngũ, nay đây mai đó, có lúc kéo xuống làng đào hầm đắp đồn giả để tập trận, có lúc lại kéo lên Cao Nguyên, theo anh em lao mình vào đồn địch. Những hôm bị sốt rét vì muỗi rừng tôi cuốn mình trong tấm chăn nằm queo lại một đống như cái bao. Hai lần bị thương ở chân, tôi được những người dân công bỏ lên võng, túm lại, khiêng đi tòn teng. Tôi cố hình dung ra trong trí hình dáng một người nữ cứu thương. Trí tôi bất lực không thể hình dung nổi, chỉ có bóng dáng một nữ cứu thương không chịu thành hình, là cô con gái ông Ba Thê dẩu mỏ nói:
—… tưởng em không làm gì được hả? Em sắp sửa đi đây.
Dù là đang nằm như cái bao một mình trên nhà sàn thượng du, dù đang bị khiêng tòn teng giữa rừng, dưới lưng và hai bên hông quẹt lạt sạt những ngọn lá, dù ở trong hoàn cảnh nào, nhớ tới cái khuôn mặt đầy vẻ khoác lác kiêu kỳ ấy, tôi vẫn cứ thấy nó đẹp, tôi vẫn nhớ nó. Khổ quá, không có ai cho tôi thảo luận thỏa thuê về sự hèn nhát của “chiến sĩ”.
Tới khi ngừng tiếng súng, tôi trở về làng, gặp ông Ba Thê: ông Ba Thê đã hết nói chuyện “đồng thời”. Tôi thăm chào bác tôi: cán bộ đảng theo nhau rút êm không lai vãng nữa, bác tôi cũng hết hiểu nổi đại cuộc rồi sẽ biến chuyển tới đâu. Tôi hỏi cô Loan yêu dấu: nàng đã có một con và bồng con theo chồng tập kết ra Bắc. Tôi chưa kịp liệu đến cái việc để cho một kẻ khác thay thế tôi làm chồng Loan, cho nên tôi buồn vô số.
Chúng tôi dọn về Qui Nhơn. Nhà cũ tôi ở, còn lại nguyện vẹn một cái nền. Cây sứ lớn nhất ở góc vườn đã chết rụi, còn một khúc gốc cao chừng một tấc tây. Cây trứng cá trước nhà lớn cao hơn nhiều lắm, những dây thép gai quấn chằng chịt xung quanh thân cây ăn lún sâu vào thịt. Tôi nhìn từng vết thương trên cây cối, từng dấu tích tàn phá sửa đổi trong vườn cố đoán ra những sự hoạt động đã xảy ra trong những năm tôi vắng mặt, lòng bùi ngùi. Tôi trở lại nhà cũ của Loan. Nhà Loan cũng còn trơ một cái nền, trên đó ông Ba Thê dựng lại một lều tranh. Vườn mãng cầu còn lại đúng ba cây, trên đó dính năm mười quả nhỏ, khô queo, đen như trái táo trong tiệm thuốc bắc.
Tôi đau khổ nhìn lên hai chiếc bồ đen trên núi Chóp Vung. Hàng ngày hai con mắt thao láo ấy đã rình mò theo dõi tận ngoài bể khơi, điều khiển mọi chi tiết trong cuộc sinh hoạt của miền quê chúng tôi, nó đã chứng kiến được những gì về sự bội bạc của Loan? Nó chối phắt. Nó không biết gì ráo. Hai con mắt đen thui, ngu ngốc, giữa trời xanh rộng rãi mênh mông, chúng bày ra cái lơ láo của những vật hết công dụng. Chúng chối hết về mọi hồi hộp, vui buồn, cao thượng và hèn hạ, của một thời đã qua.
Phải chi tôi cũng chối được hết như nó! Đàng này, thỉnh thoảng, tôi vẫn còn nhớ tới khuôn mặt rạng rỡ của nàng, nhớ xót xa. Đối với tôi có những khổ người, những khuôn mặt chỉ cần nhìn đến cũng đủ đem lại một miền vui tin ở cuộc sống, một cảm giác yên ổn hạnh phúc. Loan giống cha nàng ở nước da hơi ngăm ngăm đen, nhưng có cái ngực rộng rãi của mẹ nàng. Vẻ mặt của Loan cũng vừa có cái linh hoạt vui tươi của cha, vừa có cái hiền lành của mẹ, vẻ mặt giấu một khả năng hấp dẫn đặc biệt. Có lần tôi thực thà thú với nàng rằng không kể tới kỷ niệm hồi phong kiến — “xưa rồi” — thì tôi vẫn cứ mê khuôn mặt nàng. “Đang có gì bận rộn buồn bực, được nhìn tới mặt em, anh thấy dịu xuống và mát mẻ trong tâm trí ngay”. Loan chê tôi: “Anh chỉ chú ý tới hình thức ngoại diện. Quan trọng là ở sự hòa hợp của hai tâm hồn”. Đúng vậy. Nếu tôi chỉ biết chú ý tới những cái mà nàng cho là đáng chú ý: tâm hồn, nhiệm vụ, đạo đức, tác phong v.v… thì hay cho tôi biết mấy. Đạo đức của nàng đã đi đời mấy thuở rồi, nếu chỉ quí có nó thì tôi đã hết buồn khổ. Đàng này tôi cứ lẩn thẩn về những chuyện mưa chiều ướt át trên mấy cái mả vôi đen như lưng trâu, đến ý nghĩa điêu tàn kín đáo trong dáng bộ lãnh đạm khó tả của một con gà mái, đến một giọng hát, một vẻ mặt, đến những cái rất ít dính líu tới tâm hồn.
Loan có chồng có con và bồng bế ra đi không cần chờ gặp mặt tôi một lần chót. Người ta ít khi tưởng tượng nổi rằng mình lại ít quan trọng tới bực đó. Những lần ở mặt trận tôi hồi hộp vì thấy mạng mình quá quan trọng, lần này tôi gần bủn rủn chân tay vì bỗng thấy mình chẳng có một nghĩa lý gì cả đối với một người con gái. Từ đó tôi ngượng mồm ngượng miệng không dám nhắc đến tên nàng, bất cứ trước mặt ai.
Toàn tử trận, Phong trộm cướp bị tù; sau, được phóng thích thì lại không chịu về sống với cha mẹ mà cùng với người vợ không cưới hỏi mướn nhà ở riêng. Tôi chưa kịp lo lắng cho sự sinh sống của vợ chồng ông Ba Thê thì đã giật mình trước sự xoay trở khôn ngoan của ông ta. Ông ta tìm không biết ở đâu ra một người gọi là cháu họ, một cô gái mồ côi chê chồng, về ở với ông ta. Gia đình hồi cư về Qui Nhơn, bà Ba Thê chỉ vẽ cho cô ta khi thì nấu chè, khi thì nấu cháo gà, bún bò, khi thì gầy rượu nếp, gánh đi bán dạo. Vợ chồng Ba Thê yên tâm sống bằng tiền lời do cô cháu gái kiếm ra, để bình tĩnh suy ngẫm, tìm kiếm một nghề cho mình.
Tôi không được biết hồi cái tin Toàn bỏ mình ở đèo Mang Giang bay về tới gia đình thì vợ chồng ông Ba Thê và cô vợ xinh xắn của Toàn đón tiếp nó bằng sự xúc động ra sao. Khi tôi về thì đã có quá nhiều ngày tháng trôi qua trên một cái tin cỏn con đó. Nhiều cán bộ đã đến giải thích cho bà Ba Thê và chị Toàn hiểu rõ họ không nên buồn, chỉ nên căm giận trong vinh quang. “Đồng thời” ông Ba Thê cũng giải thích như thế. Cho nên chừng hơn một năm sau thì chị Toàn đã thôi buồn. Chị bắt đầu mến một hàng binh, người nước Áo, phục dịch ở một cơ quan đóng gần nhà chị. Người hàng binh trẻ tuổi ấy trước kia là một sinh viên vừa ở trường ra liền bị động viên đưa đi đánh giặc bên cạnh quân đội Đức quốc. Khi Đồng minh kéo tới giải phóng nước Áo, anh ta bị bắt làm tù binh; rồi chẳng biết trải qua những tình cờ như thế nào anh ta bị đưa sang chiến trường Đông Dương. Anh ta vô cùng chán nản, không muốn hết sự tình cờ này đến sự tình cờ khác cứ thay nhau dọa nạt tính mệnh mình mãi, cơ hội đến là anh giơ tay đầu hàng liền để tìm sự yên thân. Ngày ngày người ta sai anh làm những công việc vặt vãnh trong cơ quan ở hậu tuyến, còn thì giờ dư anh phải tham gia sản xuất: anh ta cuốc đất nhanh, chặt cây mạnh, việc gì anh ta cũng khá, chỉ trừ có việc gánh gồng. Anh ta không gánh được, lắc đầu ra dấu để người ta hiểu rằng ở bên xứ anh không có dùng phương pháp chuyển vận như thế. Tuy vậy lần hồi không làm thế nào khác được, anh ta cũng phải gánh, một cách khổ sở: anh ta cổi áo ra lót trên vai và lấy khăn quấn rất dày xung quanh cây đòn gánh; đã thế mà mỗi lần đặt gánh lên vai anh vẫn nhăn nhó và khom lưng xuống một cách vụng về ngộ nghĩnh. Một hôm, anh vừa gánh phân ra đến đầu đường bỗng nghe có tiếng cười rúc rích. Anh ta đặt gánh xuống, ngẩng đầu lên; giọng đàn bà bùng phá lên cười xòa. Anh ta trông thấy bên kia rào một người con gái đứng nhìn vào hai đầu gánh của anh ta, che miệng cười rũ rượi: giữa vóc người cao lớn của anh ta và lượng phân chút xíu trong gánh có một mâu thuẫn hài hước.
Ban đầu người hàng binh trẻ tuổi ngượng ngùng xấu hổ. Nhưng rồi anh ta hiểu rất nhanh rằng trong sự nghịch ngợm của người đàn bà có một vẻ hồn nhiên không ác ý, anh ta vui vẻ cười theo.
Đêm hôm ấy, ngồi nghĩ lại câu chuyện ngộ nghĩnh trong ngày, anh ta thấy thích, mỉm cười một mình; và mượn cây vĩ cầm của một nhân viên trong cơ quan, anh ta chơi mấy bản nhạc cũ bên xứ anh, nhớ tới một vài kỷ niệm hồi còn đi học. Ở bên kia rào, chị Toàn lắng tai nghe điệu nhạc lạ.
Lại một lần nữa, thêm một người đàn ông mê chị ta, bắt đầu bằng sự oán giận… Chẳng qua là ái tình có những sáng kiến trùng điệp… Đã không nỡ bắt tội ái tình thì thôi, chứ bắt lỗi chị Toàn làm sao được.
Tôi về Qui Nhơn được ít lâu, có được chị Toàn giới thiệu với người chồng mới. Họ đã sống công khai với nhau vui thú, chị có cái hồn nhiên cởi mở thích hợp với lối bạo dạn tình cảm của người Tây phương.
Một đêm tháng tám tôi đến chơi nhà vợ chồng chị, anh Áo (anh chọn một tên Việt Nam giản dị: Nguyễn Văn Áo. Nguyễn Văn là cái họ thường gặp nhất ở Việt Nam, và Áo là tên nước anh), anh vui mừng báo cho tôi biết cái tin anh sắp sửa được “trao đổi”. Trao đổi xong, anh tìm cách về nước ngay để thăm người chị mắc bệnh lao xương và một bà cô già đã nuôi anh từ nhỏ đến lớn, vì anh ta mồ côi. Anh nói tiếng Việt rất chậm, nhưng mà rõ (trong việc gì, từ việc “học tập lao động” cho đến học nói một ngoại ngữ, anh đều chăm chỉ, cần mẫn). Tôi nhìn về phía chị Toàn, ngần ngại. Anh ta hiểu ý:
— Nếu không cùng đi một lần được, thì về tới bên xứ tôi tìm cách rước nhà tôi về ngay. Tôi tin là chúng tôi bên đó sẽ tìm ra đủ tiền bạc…
Anh ta ngó vợ, nở một nụ cười đầy tin tưởng thành thực. Chị Toàn cũng nhoẻn cười. Cái cười của người đàn bà ngoài sự biết ơn sung sướng, còn tỏ một vẻ gì nhạo báng, coi cái việc mình đi qua tận bên nước Áo là một điều ngộ nghĩnh, khó tưởng tượng.
Hôm anh ấy anh Áo vui vẻ nói với tôi những cảm tưởng về cuộc kháng chiến của Việt Nam. Trước đó anh nhất định lảng tránh những câu nói có tính cách chính trị. Anh ta khen sự dũng cảm của người lính Việt Nam mà anh đã mục kích trên các mặt trận. Rồi anh khoe những kỷ niệm chiến đấu hồi anh còn ở trong quân đội Áo quốc. Chị Toàn nhắc cho anh mỗi khi anh ta tìm chữ một khó khăn. Đêm khuya, anh còn giữ tôi lại để đàn cho nghe mấy bản nhạc anh thích. Sau mỗi bản đàn anh bàn về nhạc, giải thích về đời sống tình cảm của người bên xứ anh, về phong cảnh bên xứ anh… Trong cái tưng bừng ấy anh ta quên để ý đến sự thay đổi trên vẻ mặt vợ mình. Khi người chồng bị lôi cuốn quá xa về bên quê hương xa lạ, thì người vợ như bị lạc rơi lại giữa một hoang mang.
Tôi cáo từ ra về. Anh Áo đưa tôi ra đến ngoài đầu sân rồi trở vào, nhưng chị Toàn tiếp tục theo tôi ra tận ngoài cổng. Người con dâu ông Ba Thê bước lặng lẽ bên tôi tự nhiên có vẻ hiền thục trong sự ưu tư. Tôi cảm thấy nặng nề vai trò của mình, vì đã trót chứng kiến cái chết của Toàn bên sườn đèo; tôi tìm cách nói bâng quơ một câu, gạt tránh cảm giác nặng nề:
— Anh ấy chơi vĩ cầm hay đấy chứ. Lam lũ vất vả bao nhiêu năm mà cầm đến đàn vẫn…
Người đàn bà lắng nghe tôi nói, không trả lời. Một lúc sau, đi đến cổng, chị gọi tôi:
— Anh.
Tôi dừng lại.
— Anh có cảm tưởng gì về cuộc… về chúng tôi?
Tôi chưa kịp trả lời. Mắt chị Toàn chăm chú nhìn thẳng vào mắt tôi, nóng nảy, giục giã. Rồi người đàn bà vụt có sắc giận. Chị hỏi nhanh:
— Anh cho là tôi hết nghĩ đến anh Toàn rồi chắc!
Những tiếng sau cùng run run. Hết câu nói, chị bật khóc.
Tôi vịn một tay lên rào, chờ trôi qua một chút thời gian, cho dịu sự ấm ức của người đàn bà, rồi nói:
— Chúng ta sống một thời buổi khác thường. Hoàn cảnh tạo ra nhiều cơ hội tình cờ oái oăm hơn là ở một thời phẳng lặng. Gặp cảnh nào, phải ứng xử theo cảnh nấy thôi, chị.
Chị Toàn không đáp. Có lẽ chị cũng không cần nghe nói và hiểu. Chị cần khóc bên cạnh một người có thể làm chứng cho tâm trạng của chị. Đã có lần tôi được Toàn kể cho nghe chuyện chị khóc vì một cái nách áo bị chuột cắn: trước kia cái khóc của chị dễ dàng hơn biết bao, như của một đứa trẻ con. Người con gái giản dị hồn nhiên ấy bây giờ đang nén tiếng khóc sau lưng chồng!
Tiếng sóng vỗ buồn bã vào bờ bể trước nhà càng lâu càng làm cho tôi thấy bứt rứt. Tôi ngoảnh mặt nhìn ra ngoài bể. Trăng bây giờ lên đã quá cao và bị mây che khuất, mặt bể không còn loang loáng ánh sáng nữa mà tất cả mặt nước rộng bao la xuống một màu xám lạt, chỉ có những con sóng cuộn lên gần bờ mới ánh lên một gợn vàng. Gió bể phất nhẹ vào, mát lạnh,
Một trái trứng cá chín mùi rụng xuống bàn tay tôi, bắn ra tí nước. Tôi nắm lấy trái trứng cá mềm mềm, vân vê một lúc trên đầu ngón tay mà không tìm được ý gì để bày tỏ với chị Toàn lúc này. Cuối cùng tôi nói:
— Trong sự hỗn loạn mọi người bị xô đẩy tư bề, gặp nhau, tiếp xúc nhau, va chạm nhau bất thường. Tình thế làm phát sinh ra lắm tình cảm bất thường. Đem những thành kiến thành hình trong các thời yên lặng mà suy xét chúng ta sao khỏi…
Tôi chán nản không tiếp tục nữa, vì thấy mình đang lặp lại một ý kiến đã nói rồi.
Ở trong nhà vừa có tiếng anh Áo đàn bâng quơ vài câu nhạc rời, không thành bài. Tôi giật mình, giục chị Toàn.:
— Chị nên trở vào nhà… Hôm nào anh ấy được “trao đổi” chị nhớ cho tôi hay.
Người đàn bà kín đáo liếc nhìn ánh đèn trong nhà rồi cúi đầu xuống, giấu một tình cảm khó đoán. Tôi quay về.
Thành phố bị phá hoại, gần hết nhà cao đều bị hạ xuống, tự nhiên như rộng thêm ra, nhất là dưới ánh sáng một đêm trăng. Con đường tôi đang đi như cũng dàn rộng thêm. Bước đi giữa sự hoang tàn vắng vẻ, một phần mình thấy bồi hồi, một phần lại thấy chơi vơi, một cảm giác mới lạ gần như là cái thích thú khó hiểu được tung hoành tự do hơn ngày thường.
Tôi nhớ lại buổi chiều anh Toàn trở về Qui Nhơn để đặt mìn và sống những giờ ngây ngất đầu tiên. Xung quanh tôi bây giờ dây antigone hãy còn mọc tràn lan trên các khu vườn trống, tràn ra đến ngoài đường, hãy còn dây thép gai rào chắn ở nhiều ngả đường… Quang cảnh chắc không khác xa ngày đó là bao.

Tôi ngừng chân trước cổng chùa Tịnh Quang, cửa chùa mở trống, để cho mình nhìn suốt sự tĩnh mịch từ trước ra sau. Trăng sáng. Tiếng dế kêu ran ran. Một mình đứng bên cái bóng đen đồ sộ của ngôi chùa ngã xuống đất trắng im lặng, đêm khuya không có một hơi gió, cây lá đứng im lìm trịnh trọng khó hiểu, tự nhiên tôi thấy bị uy hiếp bởi cái cảm giác rờn rợn lướt trên sự hoang tàn: “Loan đi rồi. Toàn chết rồi. Chị Toàn cũng sắp ra đi có lẽ đến tuyệt tích. Phong thành ra người bỏ. Sau khi cơn lốc hạ xuống, lẽ đâu chỉ còn lại mình tôi trơ trọi ở lại với vợ chồng ông Ba Thê Đồng Thời và ông bác già Đại Cuộc? Những người trẻ tuổi đầy khuyết điểm xấu xa lầm lạc, nhưng mà là một lớp trẻ, đã mang đi tản mác, có kẻ tận bên kia cuộc đời, hết cả sự ồn ào cuồng nhiệt!”
Tôi ngoảnh đi ngoảnh lại, lướt mắt trên cái thị xã vắng vẻ, trên đất trắng im lìm trước sau một ngôi chùa.
Trong những ngày mà các người cán bộ theo nhau, níu lưng nhau, kẻ trước người sau kéo nhau đi rầm rập như trước một đổ vỡ, thì ông bác già của tôi ngơ ngác trước đại cuộc. Người ngoảnh sang bên này hỏi một câu, ngoảnh sang bên kia hỏi một câu, và được giải thích qua loa. Nhưng chừng nửa năm sau ngày đình chiến thì tôi biết rõ người bác già đã quên hết những lời giải thích.
Lúc bấy giờ người có vẻ tần ngần ngơ ngẩn: người đã bám sát theo Đại Cuộc ngược xuôi hồng hộc trong chín mười năm trời rồi, nay theo dõi trận đánh này, mai hồi hộp vì trận đánh kia, tháng này học tập một chủ trương, tháng nọ phổ biến một chính sách, lúc kêu gào đoàn kết hy sinh, lúc reo hò tranh đấu…; đến nay dừng lại, người bỗng thấy mệt nhoài, bao nhiêu gân cốt trong người như dãn cả ra. Người có cảm tưởng như mình đã không tự lượng sức, trót nhảy lên lưng Đại Cuộc như nhảy lên lưng con ngựa bất kham để cho nó lồng lên mà tế mà phi, để nó tung hoành thỏa sức. Đến khi tuột xuống khỏi lưng con ngựa Đại Cuộc, người lắc đầu nhìn lại nó với một cái nhìn vô cùng ngao ngán.
Khi ấy, bỏ rơi chính trị và thời sự, người lần hồi trở về những câu sách thánh hiền, những chuyện khí tiết nhà nho v.v… như kẻ ngao du mệt mỏi quay trở về quê hương. Ông bác già của tôi rời bỏ cổ nhân mà đua chạy theo thời sự như thể cái dây cao-su bị kéo nhằng ra, đến khi buông thả nó, nó lại thun về chỗ cũ: bác tôi lại quay với cổ nhân. Nếu đức vạn thế sư biểu hiểu rằng bác Đại Cuộc của tôi lần này lắc la lắc lư bước về cửa Khổng sân Trình những bước nặng nề uể oải như thế nào thì chắc ngài cũng đâm phân vân trước cái danh dự của mình.
Dĩ nhiên cũng như năm nào tung hoành vì đại cuộc, lần này phục hưng thánh đạo, bác tôi cũng chỉ hoạt động bằng mồm. Như thế lại cần đến ông Ba Thê, vì thời giờ để phiếm đàm thì không ai có thừa thãi bằng ông Ba Thê. Chẳng hạn bác tôi chủ trương rằng nho học bao giờ cũng hợp thời, nhà nho thời nào cũng có kẻ sáng suốt; để chứng minh, người đưa ra ông Nguyễn Trường Tộ:
— Ông Nguyễn Trường Tộ là một ông thánh, ngài biết hết các thứ tiếng trên thế giới. Giả tỉ ông Trương Vĩnh Ký giỏi một lần, thì ông Nguyễn Trường Tộ giỏi mười lần.
Ông Ba Thê cũng là kẻ học thức, nhưng ông ta không phải đã học đến những điều như thế. Ông ta bày tỏ một sự tò mò khuyến khích. Và bác tôi giải thêm:
— Những tờ điều trần của ngài, ông đội không biết sao? Ngài nói một vạn lời thì sau này mở ra coi trúng hết vạn chuyện. Nhưng mà hồi đó không ai nghe theo nên mới mất nước. Lúc ngài chết cái bụng cứ chướng lên, chướng to lên mãi thành ra tròn vo, không làm sao đậy nắp quan tài được. Sau, có một ông bạn đồng liêu tới bên quan tài nói nhỏ rằng đó là thứ máu uất nó dồn lại bởi sinh thời ngài tâu phải mà vua không nghe. Trúng ý, cục máu uất tan liền; từ trong bụng xì ra máu ướt lênh láng, rồi bụng xẹp xuống…
Ông Ba Thê phác một cử chỉ vu vơ, tỏ một sự kính phục rất có chừng mực, điều độ. Bà Ba Thê kêu lên:
— Tội nghiệp chưa!
Rồi vội vàng đưa chéo khăn lên chùi nước trầu chảy leo ra bên mép, chùi rất kỹ lưỡng.
Bác Đại Cuộc của tôi nghĩ cần thêm một chú thích cuối cùng:
—Truyện ông Nguyễn Trường Tộ có trong sách.
Bà Ba Thê làm như vừa bắt gặp điều hệ trọng nhất trong câu chuyện:
— Thiệt vậy hả? Tội nghiệp!
Kỳ thực đó là sự lễ phép của bà ta. Khi nào sực nhớ tới, bà liền tỏ thái độ vồn vã với kẻ đối thoại mà không kịp chú ý đến câu nói của họ. Sự rủi ro nhiều lần khiến bà Ba Thê rơi đúng vào những câu lạt lẽo nhất của người khách: khách tỏ vẻ ngạc nhiên trước, bà Ba Thê ngạc nhiên sau, không bao giờ ngờ rằng cái ngơ ngác là do ở sự lễ phép của mình mà ra.
Nhưng ông bác Đại Cuộc lần này không ngạc nhiên. Người đang phát huy cái hay cái giỏi của một đấng tiền nhân khác:
— Nhật nó cố tìm ngôi mộ đức Quang Trung Nguyễn Huệ ghê lắm.
Ông Ba Thê hỏi:
— Chi vậy?
— Hồi năm 1944, nó qua Đông Dương lần đầu tiên là cốt để tìm mả Nguyễn Huệ đấy! Nó biết ơn lắm…
— …?
— Hồi trước, vua Quang Trung có cho quân qua giúp vua Minh Trị. Nếu không có thì Nhật bị Tàu lấy mất nước rồi còn đâu.
— Cụ cũng biết rõ chuyện đó nữa sao?
— Thì chuyện đó có ghi trong một quyển sách mà.
Trong sự hiểu biết mơ hồ của bác tôi, “có ghi trong sách” là có ghi chép đâu đó vào một nơi vô định mà chắc chắn, cũng tựa như số mệnh con người được ghi vào quyển sổ của Nam Tào, không sửa đổi được. Bác tôi chẳng phải là người nho học nhiều chữ nghĩa. Ít nữa cũng trên nửa thế kỷ người không có duyên hội ngộ với sách vở. Cho nên tất cả những điều người nhân danh sách vở đem ra quảng bá đều nhuốm một tính cách ly kỳ huyền hoặc.
Ông Ba Thê cũng hâm mộ những chuyện ly kỳ, bởi cái khiếu ham thích những tuồng tích hát bộ xưa kia còn sót lại. Nhưng ông ta không có một lòng tín nhiệm mơ hồ nơi sách vở theo kiểu ông bác Đại Cuộc: ông ta là người của thời thế, những kiến thức của ông ta toàn do ở thời thế cung cấp. Ngày nay, thay đổi một thời đại, rồi ông biết lựa chiều để chứng tỏ rằng mình hợp thời, ông tỏ bày sự hoài nghi rẻ rúng chế độ trước ra mặt:
— Hôm nọ, nghe bảo Hồ Chí Minh sang Nga họp hội nghị. Hừm! Hồ Chí Minh đâu còn? Ông ta bỏ mạng lâu rồi. Hồi còn kháng chiến ở Bắc Việt, trúng miếng bom ngang sườn, gãy ba chiếc xương, lủng bao tử một lỗ lớn, bác sĩ phải vá mãi không được. Trung Hoa có phái sang hai tay danh y: một bác sĩ Tây học với một y sĩ Tàu. Họ đi tới Vân Nam thì trông thấy vì sao chiếu mạng của Hồ Chí Minh lờ rụng đi, họ biết là tiêu rồi nhưng cứ đi gấp sang Việt Bắc, bí mật bày cho vài nhân vật tín nhiệm Việt Bắc giấu cái tin dữ đó, cứ tuyên bố là Hồ Chí Minh còn sống, rồi mài xương ông Hồ ra cho một người khác uống. Chẳng bao lâu người này giống hệt ông Hồ, ra mắt dân chúng không ai biết cả. Còn việc lãnh đạo chính quyền thì họ chia nhau nắm hết…
Ông Ba Thê Đồng Thời đã ghép ông Hồ Chí Minh vào một cái chết khủng khiếp. May mà đó không phải là trường hợp độc nhất. Cứ theo lời ông Ba Thê thì trước sau ít ra cũng có tới hai người Việt Nam bị mài xương. Người thứ nhất là ông Bảo Đại. Hồi còn nhỏ ông ta đi học bên Pháp, thực dân nó thấy rõ người có lòng yêu nước, nó ám hại, rồi mài xương cho một người học trò khác uống để thay thế Bảo Đại về làm vua. Ông bác già của tôi nghe qua, không tán thành, không phản đối, người chỉ lắc đầu ngao ngán trước những lộn xộn vô thường của Đại Cuộc. Hết thảy các tay trọng yếu trên sân khấu chính trị hiện đại của ta đều do ngoại quốc nó chế tạo một cách xảo trá, giả dối như thế cả thì còn nói làm sao được, còn luận bàn tin tưởng làm sao được? Muốn tìm ra những người thật, chắc chắn là thật, không giả mạo, chỉ còn cách quay về các đấng tiền nhân, có ghi rõ ràng trong sách vở.
Ông bác Đại Cuộc không cần giỏi chữ nghĩa, không cần am hiểu nho giáo, không cần đọc thông sách vở; ông là một người dân Việt Nam, đến già lần mò tìm về thánh đạo, về cổ nhân, giản dị như là những kẻ lang bạt làm ăn thất thế trở về từ đường, như cọp già về núi để gửi xương.
Bác tôi không còn được bao nhiêu sức lực nữa, người cũng không còn minh mẫn để xoay xở khéo léo như ông Ba Thê trên công việc sinh sống, cho nên người túng quẫn rõ rệt. Trong những buổi luận đàm viễn vông, nếu là vào buổi sáng thì người nhấm nháp chén trà của ông Ba Thê, nếu vào buổi trưa buổi tối người cũng có khi không từ chối một vài món quà, vẫn của ông Ba Thê: một tô cháo gà, một bát mì, bát phở v.v… Người cháu gái ông Ba Thê thỉnh thoảng bắt gặp chuyện như thế, nàng chiếu một cái nhìn đầy uy quyền lên những chén trà và tô cháo mà bác tôi đang dùng. Tuy nhiên bà Ba Thê vẫn còn là người trọng khuôn phép gia đình, cho nên bác tôi khỏi gặp sự nhục nhã nào ồn ào làm kinh động đến các đấng tiền nhân trong câu chuyện. Trong đôi ba năm liền sau ngày ngưng tiếng súng, thỉnh thoảng tôi ghé thăm gia đình ông Ba Thê, như thăm lại dĩ vãng của mình, thì tôi vẫn an tâm trông thấy có bác tôi ở đó: hai người vẫn được nhàn hạ trong sự thiếu thốn triền miên của họ.
Tôi có lỡ lời nhắc xa xôi đến những kẻ vắng mặt, đến cái chết của người này, đến sự lạc loài vất vưởng của người khác, trước kia đều là xuất tự gia đình này mà ra, thì bà đội Ba Thê thở ra một cách nhẹ nhàng như sợ hơi thở của mình thổi chạm vào thời thế, vì bà biết gia đình mình đã dính líu quá nhiều vào các biến cố chính trị phái đảng. Bà nói:
— Những chuyện chúng nó làm, mình biết đâu được. Nhưng thời nào thì mình cũng cứ thương cho số phần chúng nó được chứ cậu? Không lúc nào là tôi không nghĩ đến chúng nó, tội nghiệp hết sức vậy đó.
Bà Ba Thê đưa bàn tay áp vào bụng, nơi mà bà ta thương tiếc tội nghiệp lũ con dâu đã khuất.
Tôi nhìn lên nét mặt của bà Ba Thê để trộm ngắm hình dáng sự tiếc thương “hết sức”: nó lại chỉ có vẻ giống như sự bình thản hiền lành dịu dàng vậy thôi.
Gia đình ông Ba Thê còn lại chừng đó: một cô cháu gái lãnh phần nuôi sống mọi người, một ông chồng rảnh rỗi dồn tất cả hoạt động vào việc tán gẫu về thời sự, một bà vợ rảnh rỗi thong thả phát huy tấm lòng từ ái; thêm một ông bạn già kể những chuyện huyền hoặc vô hại về cổ thời. Thỉnh thoảng tôi ghé qua viếng thăm dĩ vãng của mình và yên lòng thấy nó cứ như thế khệnh khạng tiến về tương lai.
Nhưng phải chi lúc nào tôi cũng được yên lòng như thế thì mối quan hệ giữa gia đình ông Ba Thê với tôi đã dứt lâu rồi. Đàng này một đôi lần về ngồi trong nhà ông Ba, tình cờ gặp cơn mưa nhẹ, giọt nước rơi không tiếng không tăm trên hàng rào lá bụt dày sum sê trước nhà, trời không gió, lâu lâu một chiếc lá mãng cầu úa vàng ướt sũng thình lình rụng xuống im lặng và nhanh như một cái xắc tuột khỏi tay một người đàn bà rơi xuống đất, vài con gà trống trên hè cử động e dè chậm rãi… những lần đó tự nhiên tôi thấy ngùi ngùi. Tôi không biết có phải khung cảnh ấy làm cho mình ý thức được cái chật hẹp, tàn tạ, ngẩn ngơ của một cuộc sống biếng nhác, lây lất? hay có phải tại khung cảnh ấy đánh thức bóng dáng cô bé ngày xưa từng múa hát trong thuở ấu thời của mình?
Cảm tưởng ngùi ngùi thực là mênh mông mơ hồ, khiến tôi tưởng có thể nghi ngờ, không rõ đó có phải là cảnh sống ở đây tự nó phát sinh ra cái ngùi ngùi như thế? có phải là quá khứ của mình tự nó ngùi ngùi? hay chính là mình đang ngùi ngùi? Tôi nghi ngờ không rõ chính mình đang rưng rưng buồn bã, hay cái buồn bã ấy đã ngấm khắp quá khứ của mình.
Tôi ước được biết rõ chỗ đau của mình để đặt một bàn tay lên xoa qua, như bà Ba Thê đã biết áp bàn tay đúng vào chỗ bụng của bà.
Nhưng khổ cho tôi, những hôm mưa mù trời mà nhẹ hột như thế, tôi không biết đặt bàn tay mình vào đâu.
Ngày tháng trôi qua. Tôi không kịp để ý trong khi cuộc đời hiền lành khệnh khạng tiến về phía tương lai thì ông bác già của tôi và ông Ba Thê bắt tay chia biệt nhau từ chỗ ngã ba nào. Đến khi tôi ngoảnh lại thì mỗi người đã ra mỗi ngả.
Hồi mùa xuân năm Tuất tôi có việc ghé thăm, thấy bác tôi đã suy nhược lắm rồi. Người quên lần lần những chuyện cổ thời. Sau trận ốm kéo dài một tháng rưỡi, mắt người trở nên lờ đờ khờ dại, da thịt teo tóp, trông người nhỏ bé hẳn đi. Có điều đáng chú ý là người bắt đầu đổi tánh, không thích nói năng nữa. Người hoàn toàn lãnh đạm với thế cuộc. Ngay đến những chuyện xảy ra trong thành phố, có kẻ kể lại, người cũng dửng dưng ngồi nghe không thiết hỏi han. Người ta cho rằng các cụ già bỗng nhiên đổi tánh đi như thế là một điềm gỡ.
Tới đầu mùa thu năm ấy thì bác tôi hoàn toàn thành ra một kẻ dớ dẩn. Ngày ngày ăn xong, bác ngồi trầm ngâm gật gù yên lặng ở một góc nhà không mở miệng. Tối đến, khi đèn điện trước Hoàng Cung hí viện bật sáng và các ống loa oang oang phát ra vài câu của bài hát mở đầu là bác tôi đứng dậy, xách gậy ra đi. Có một vài tháng hí viện mở đầu đêm vui bằng bài “Gạo trắng trăng thanh”, vài tháng sau dĩa hát ấy cũ, lại thay bài “Chờ em”, kế đó đến bài “Tìm nhau”, rồi một bài hát Tàu v.v… Đối với ông bác già Đại Cuộc tất cả những bài hát đó đều có giá trị một tiếng kèn hiệu. Nhạc nổi lên: bác tôi tức thì đứng dậy, quơ lấy chiếc mũ dạ đen đã cũ chụp lên đầu, ra đường. Người thường mặc áo sơ-mi trắng và quần đen, trông hơi giống một người chệt già, đi lom khom, run rẩy.
Bác tôi đi thẳng đến Hoàng Cung hí viện, trèo lên bảy bực cấp, đến ngồi dựa bên một chân cột to tướng, một tay vẫn nắm cây gậy, một tay rờ rẫm sờ nắn vu vơ hai bên túi áo thăm chừng, kiểm soát, vài thứ vật dụng lặt vặt. Xong, người hếch mắt trông xuống đường.
Hoàng Cung hí viện là rạp chiếu bóng của người Tàu. Thành phố chưa có điện, nhưng ở đấy có riêng một máy phát điện 30 kw nên tha hồ dùng ánh sáng làm quảng cáo. Ngay trên đầu ông bác Đại Cuộc một hàng chữ Việt bằng ống nê-ông dàn ngang dài suốt mặt tiền của rạp. Lại một hàng chữ Tàu nằm dọc bằng ống nê-ông, xung quanh viền một mũi tên chỉ ngay vào rạp, hai chữ đỏ và hai chữ xanh thay nhau tắt sáng. Giăng ngang đường cái và ở hai bên hí viện có ba tấm băng vải quảng cáo cuốn phim đang chiếu, xung quanh mép băng vải treo bóng điện ngũ sắc.
Trước mặt hí viện, dựa theo mỗi trụ cột dựng mỗi tấm bảng vẽ những hình quảng cáo to tướng. Như thế có khi ông bác già của tôi ngồi bên cạnh hình vẽ một gã tướng cướp đeo băng đạn ngang hông, quàng ôm ngang cổ con ngựa, tay gã lăm lăm cây súng lục kê lên vai ông lão Đại Cuộc; có khi bên cạnh người là một hiệp sĩ trung cổ dạng hai chân ra khoa gươm ngang đầu; cũng có khi là một cô gái chỉ còn mảnh vải che vài chỗ kín, ngã ngửa ôm ghì một đầu người đàn ông v.v… Nhưng bất luận nhân vật bên cạnh mình là hạng người thế nào, bác tôi, mặc quần đen, áo trắng, đội mũ dạ đen, cầm chiếc gậy mây, vẫn một mực nghiêm chỉnh trong thế ngồi lim dim gật gù.
Xung quanh bác tôi: guốc, dép, giầy khua lộn xộn, vỏ hạt dưa, vỏ quít, giấy kẹo rơi bừa bãi như xác pháo. Trẻ con giỡn la lóe chóe. Những người đàn bà mặc đồ mỏng đi sát qua mặt bác tôi mà không hề bao giờ biết rằng như thế có một làn hương thơm phất vào mũi Đại Cuộc… Trên tất cả cái quang cảnh tưng bừng sặc sỡ ấy tiếng hát oang oang phát ra không ngớt từ hai chiếc loa đặt trên mái hí viện.
Bác tôi không lắng nghe nhạc, không ngắm quần áo chật, cánh tay trần, không hít mùi hương thơm, không nhìn xe hơi loang loáng lướt qua lại dưới ánh đèn. Người ngồi yên trên thềm hí viện, giữa sự tưng bừng ấy, người không hề chú ý đến cái gì, tất cả các giác quan đều bỏ ngõ cho sự xâm nhập tự do. Tiếng hát của Lâm Đại, tiếng guốc, tiếng dép, mùi nước hoa, ánh đèn chói chang, màu hạt dưa, giấy kẹo… tất cả gặp nhau trong ý thức của ông bác già Đại Cuộc như khách lạ tứ xứ thản nhiên gặp nhau tình cờ ở một ngã tư đông đảo, không ai phải cất mũ, ngả nón, không có một lời chào hỏi.
Và như thế ông bác già tìm được sự yên tĩnh.
Vì thực vậy, tối tối bác tôi lần mò đến đấy chính là để tìm sự yên tĩnh thảnh thơi! Người đến đấy như một ngày mùa đông con mèo đến nằm phơi mình dưới tia nắng ấm, duỗi hết gân cốt, để thân mình mềm oặt như tấm giẻ rách, im lặng hưởng một sự thư thái biếng nhác. Bác tôi tự phơi mình dưới ánh sáng giữa tiếng động và quang cảnh loạn xạ rộn ràng, để cho những cái đó làm bốc hơi tan biến khỏi đầu óc mình mọi suy tưởng lẩn quẩn, mọi ký ức vụn vặt, để cho đầu óc rỗng tuếch, bác chỉ còn là cái xác không hồn lơ mơ hưởng thú xuất thần.
Những lúc ấy bác tôi, ông già bảy mươi sáu tuổi, tựa hồ như đứa trẻ sơ sinh: người không còn có quá khứ nữa.
Ngồi chơi một lát, ông bác già buồn buồn nghẻo đầu dựa vào cây cột, há mồm ra ngủ như đứa trẻ, mấy ngón tay thỉnh thoảng bất giác cựa quậy sờ nắn vu vơ chỗ túi áo, do một thói quen cẩn thận lẩm cẩm. Tiếng ồn ào không làm trở ngại giấc ngủ ấy, chỉ khi nào một đứa bé chạy giỡn lao đầu vào bác tôi, người mới giật mình thức giấc.
Đến chín giờ tối, khán giả của xuất đầu ào ào kéo về, lớp khán giả của xuất thứ hai trong đêm lần lượt vào hết trong rạp rồi, bác tôi tỉnh giấc, mở mắt ra, thấy trước thềm hí viện vắng vẻ buồn hiu, người đứng dậy ra về.

Thỉnh thoảng có hôm ông bác già để ý đến một tờ giấy đỏ xanh in quảng cáo “điện ảnh cố sự” mà một khán giả vứt bên cạnh. Người tò mò lượm lên, lật bật xếp bỏ vào túi áo. Những tờ giấy ấy, mỗi lần giặt áo cho ông bác già, người nhà lục túi lấy ra, chọn những tờ còn tốt, vuốt cho thẳng thớm, đem dán vào những chỗ hở trên các bức vách ván, và các tấm cửa bằng phên khại. Như thế dần dần khắp bốn phía nhà bác tôi người ta trông thấy toàn những thứ giấy ngũ sắc in hình minh tinh màn bạc với những dòng chữ: “Đoạn trường nhất khúc, Biểu tận chân tình, Hữu huyết hữu lệ, Ca từ mỹ diệu, Cảm nhân phế phủ v.v…”

Thoạt mới để ý đến sự ra đi đều đặn chuyên cần của bác tôi mỗi tối và đến cách trang trí trong nhà, hẳn có kẻ phải cho rằng người bắt đầu nghiện xi-nê vào lúc tuổi quá thất tuần, tức thị là một ông lão mà năng khiếu về điện ảnh phát triển có phần chậm trễ muộn màng.

Giữa mùa đông năm Hợi, một độ tôi không thấy ông bác già ở trước hí viện Hoàng Cung. Hỏi thăm mới hay người lại đau nữa. Tôi bắt đầu ngờ rằng sự đổi tánh đột ngột của người già có thể là điềm gỡ thực chăng. Sức khỏe tinh thần của người xuống tới mức quá thấp rồi. Từ một kẻ hăng hái, ham ăn nói, tha thiết với đại cuộc, người bỗng cảm thấy tất cả sức nặng của cái quá khứ ngổn ngang vì sự rắc rối của đại cuộc, người lắc đầu nhắm mắt từ chối hết quá khứ của mình. Do một linh tính may mắn xui khiến, người tìm theo tiếng loa của hí viện Hoàng Cung lánh hưởng vài năm yên tĩnh.

Nhưng một ông già đã sống ngót bảy mươi lăm bảy mươi sáu năm có thể ngồi trên chỗ thềm cao bảy bậc cấp của một hí viện, rũ sạch dĩ vãng, lơ ngơ nhìn xuống cái hoang vắng không tin tưởng của đời mình mãi sao?

Ông bác già Đại Cuộc lại đau, tôi e lần này người không qua khỏi. Để gượng bám nổi vào sự sống, người ta cũng cần đến cái sức khỏe tinh thần.

Loại sức khỏe đó, ông Ba Thê Đồng Thời hãy còn thừa.

Hồi tháng bảy năm Tuất, chị Toàn từ bên xứ quê chồng trở về được một lần. Chị mừng rỡ quá sức. Người đàn bà đó từ bé tới lớn chưa đi đâu xa bỗng nhiên qua sống bên Âu châu gần bốn năm trời: chị nhớ quê hương, nhớ nhà cửa, nhớ bà con, không biết bao nhiêu mà kể. Nhưng lòng nhớ chồng cũ thì chắc là không hề có tăng thêm. Tuy vậy ngày trở về xứ, trong cái vui mừng ba hoa của kẻ đi xa mới về, chị Toàn đối với vợ chồng ông Ba Thê như một người con dâu hiếu thảo hiếm có. Bà Ba Thê ngó qua đứa con dâu bây giờ sang trọng xinh đẹp quá, bà nhẹ nhàng kéo chị lại gần bên mình một cách thân ái. Bà nắm lấy cánh tay trần của đứa con dâu; bàn tay gầy và lạnh của bà Ba Thê ôm lỏng cánh tay mơn mởn của chị Toàn rất lâu, vừa tỏ cái ý “tội nghiệp” cho cuộc tình duyên dở dang ngày trước vừa như thưởng thức một cách vô tình, lơ đãng, cái sinh lực đẹp đẽ của người con gái.

Không biết chị Toàn xúc động về điểm nào, mà rồi cả hai mẹ con cùng sụt sùi.

Người ta cho rằng trong chuyến về xứ ấy chị Toàn đã giúp đỡ vợ chồng ông Ba Thê một món tiền lớn. Tôi tin việc đó có thật. Ông Ba Thê Đồng Thời còn đủ sức khỏe tinh thần để bày tỏ một hoan hỉ đúng mức.

Chị Toàn lại ra đi. Lần này chị hãnh diện và nhẹ nhõm. Một lẽ là vì trông thấy chị về, đẹp đẽ và sang trọng, dư luận của người quen kẻ biết xung quanh đã ủng hộ chị, không còn coi cái việc gá duyên với anh lính lê dương rồi bỏ xứ ra đi là điều bất hạnh xấu xa nữa. Một lẽ khác, vì chị đã phân phát một món tiền khá lớn, bày tỏ lòng hào hiệp rộng rãi đối với bà con thân thích, và nhất là với vợ chồng ông Ba Thê, cho nên lương tâm của chị sau khi mục kích sự hoan hỉ lộ trên nét mặt những người này cũng vui lòng xóa hết mọi bứt rứt ân hận cho chị.

Hôm chị ra đi, ông Ba Thê có hỏi và ghi cẩn thận địa chỉ của gia đình chồng chị bên nước Áo vào một quyển sổ con bằng nửa bàn tay, bìa cứng, có hai sợ dây cao-su giằng chữ thập, rồi xếp vào giữa cái cặp giấy cất dưới đầu giường. Chị Toàn xuất ngoại được nửa tháng, bà Ba Thê nhỏ nhẹ nhắc chồng viết thư thăm chị, kẻo tội nghiệp. Ông Ba Thê đeo gương lên, ì ạch viết xong lá thư, lấy sổ, gỡ các sợi dây cao-su ra kêu “tách tách”, tìm xem địa chỉ, đề phong bì gởi đi. Thư gởi đi thì dày mà hồi âm thưa thớt lắm. Cho đến cái lần ông Ba Thê bạo tay viết một câu yêu cầu giúp đỡ về tiền bạc thì chị Toàn mất lặn.

Rồi sau bà Ba Thê có nói với tôi về sự bặt tin đó. Bà ta thở dài, ngụ ý trách móc phàn nàn. Tôi cũng thở dài: lại thêm một người nữa trong bọn dứt khoát giã từ quá khứ. Chị Toàn đã trở về một lần, đã đền ơn đáp nghĩa đầy đủ rồi, chị hóa ra nhẹ tênh tênh. Chị đi lần thứ hai như quả bóng khinh khí bay bổng lên cao. Ông Ba Thê chỉ giữ một sợi dây liên lạc mong manh như sợi chỉ mành nhỏ xíu; ông trót nóng nảy bạo tay giật mạnh sợi chỉ mành đó: dây dứt, quả bóng mất lặn vào trời xanh bát ngát!

Mất một người nữa, nhóm chúng tôi sa sút thêm, còn lại thỏn mỏn quá, quá khứ của chúng tôi gầy đi nhiều quá! Trong tình trạng thỏn mỏn gầy gò ấy, ông Ba Thê lần hồi gắng gượng, và cuối cùng ông ta tìm ra nguồn hứng thú trong cuộc sống mới. Ban đầu ông ngại ngùng, mang một mặc cảm tội lỗi đối với chính thể mới, cho rằng mình đã ba hoa mồm mép trước kia quá nhiều, thì bây giờ tốt hơn là mình nên dè dặt. Ông ta vẫn ham tiếp trục bàn tán về thời sự như nhiều kẻ ham bàn tán về các cuộc đấu quyền Anh, nhu đạo, đá banh v.v… nhưng đối với các nhân vật trong chính quyền mới ông Ba Thê đặc biệt cung kính trong cách xưng hô: “ngài thủ tướng”, “ngài tổng trưởng”, “ngài tỉnh trưởng”, “cụ ty Công Chánh”, “cụ ty Công An” v.v… Vướng víu vì sự cung kính đó, các cuộc đàm luận của ông Ba Thê mất đi nhiều hứng thú lắm.

Phải chờ thời gian một đôi năm trôi qua, ông ta mới dám bạo dạn thưởng thức quyền tự do của mình. Vì ngày nào cũng nói đến các nhân vật cao cấp, dần dần ông Ba Thê cảm thấy mình nhích tới quá gần các ông tổng trưởng lúc nào không ngờ; bây giờ trong khi luận bàn thời sự ông Ba Thê thân mật kêu các vị tổng trưởng, các vị giám đốc là “va”, là “giã, là “y”. Chẳng hạn ông ta nói:

— A! giám đốc nha Canh Nông hả? Ông thân sinh ra “va” hồi trước có làm án sát tỉnh này mà. “Va” thông minh có dòng, tôi biết. “Va” lanh lợi lắm. Nhưng “va” có chị vợ ghen quá trời… Ha ha… Ghen “te-ríp”!

Hoặc là:

— Luật trừng trị mạo hóa à? Anh tổng trưởng này muốn “chơi” bọn Hoa kiều làm rượu giả đó mà, tôi biết ý “giã” rồi. Nhưng “giã” không làm gì trị nổi gian thương đâu. Để rồi coi. “Giã” thiếu kinh nghiệm.

Cứ nghe ông Ba Thê nói, người ta tưởng ông ta có thói quen hay bá cổ vít vai các ông tổng trưởng trong chính phủ. Kỳ thực không có như thế: nếu những vị ấy là “se a-mi” của ông ta thực thì việc đầu tiên ông ta làm sẽ là gửi đi một tấm danh thiếp chứ không phải là xưng hô thân mật.

Ông Ba Thê cứ như vậy, mỗi ngày mỗi bạo dạn và tự do lần lần. Ông ta sỗ sàng với các nhân vật cao cấp không thấy có gì trở ngại, ông ta bèn sốt sắng xông đến các chính sách, len lỏi vào các dinh cơ để moi tìm những thâm cung bí ẩn. Đối với mọi chính sách, mọi quyết định của chính phủ, ông Ba Thê có cái khiếu giỏi tìm ra những chỗ ý ngoại, và lấy làm đắc ý tới nỗi ông ta không sao cầm lòng được, phải chạy đi kiếm người nghe mình trình bày. Theo sự trình bày của ông Ba Thê, phía sau mọi chủ trương, mọi quyết định đều có những lý do rất ít khi tốt đẹp và những câu chuyện rất ly kỳ. Thường thường người ta hay có dụng ý “chơi” nhau và bao giờ cũng bị ông Ba Thê thấy ý định của họ rõ như ban ngày. Người ta cũng hay mưu mô thủ lợi, nhưng rồi ông Ba Thê cũng vạch được mưu mô của họ dễ như bỡn. Chẳng hạn phóng một đoạn đường về ngã này là vì có một nhân vật định mua đồn điền về phía ấy, dựng một cái cầu ở chỗ kia là vì lại có một nhân vật muốn tìm việc cho cậu em vợ làm thầu khoán.

Ông Ba Thê mang vào sự luận đàm thời thế của ông cái ham mê của người theo dõi một ván cờ tướng. Cho nên lắm khi ông ta nhấp nhỏm muốn can thịêp vào lắm. Có lần ông tỉnh trưởng quyết định đuổi đi mười mấy ngôi nhà cất bất hợp pháp để nới rộng bến xe, tức thì ông Ba Thê tìm ra lý do ngay:

— Anh tỉnh trưởng này khôn thiệt. “Y” mở rộng bến xe, “y” có lợi. Phía tây bến xe còn một khu đất trống, “y” định cất lên một căn phố, dưới mở tiệm ăn trên làm phòng ngủ. “Y” đuổi mấy cái nhà phố bất hợp pháp bên này thì khách hàng dồn cả sang phía của “y”.

— Nhưng ông ta đã cất phố đâu?

— “Y” sẽ cất chớ, “y” dại gì mà không cất? Mình tính còn ra, “y” lại không trù tính ra à?

— Có thể ông ta không sẵn tiền, hoặc ông ta dùng tiền vào chuyện khác, hoặc ông ta sợ mang tiếng.

— Thì “y” để cho vợ đứng tên chớ. Tôi biết mà, thế nào “y” cũng cất phố chỗ đó. “Y” sẽ cất.

Ông Ba Thê ghét lối suy tưởng vất vả, ông cho mình cứ tính như thế là phải đúng cái thâm ý của “y”, là lấy làm đắc ý.

Rồi kế đến các chủ nhà bị đuổi kêu nài. Ông Ba Thê chăm chỉ theo dõi thái độ hai bên. Ngày nào ông ta cũng sang các nhà láng giềng bàn luận, phân tách lý sự phải trái của bên đuổi đất và bên bị đuổi. Cho đến một hôm ông ta nghe nói mấy người chủ nhà có viết cái đơn nhờ đăng trên nhật báo để xin cứ ở lại chỗ cũ. Ông Ba Thê đi tìm mượn tờ báo vể đọc, tấm tắc ngợi khen, và mang đi cho mọi người xem. Ông Ba Thê quyết định đứng hẳn về phe chủ nhà. Ông ta ra phố, đến tận bến xe, rồi trở về bảo với người này người kia rằng:

— Tôi đã trông thấy anh chủ tiệm vải Hòa Hưng, va cầm đầu hết thảy mười mấy người chủ nhà bị đuổi. Tay này cứng. Coi bộ va rành lắm. Nhất định va biết đường kêu. Nghe nói va đã gửi thư bảo đảm tới Quốc Hội, đồng thời tới bộ Nội Vụ, tới thủ tướng. Va còn mướn luật sư. Thằng cha cứng đầu “te-ríp”.

Bà Ba Thê nghe ông ta tiếp tục bênh vực ông Hòa Hưng, mà công kích phía đuổi đất mạnh quá, bà lo ngại nhắc nhở:

— Ông liệu lời nói cho dè dặt một chút, kẻo động thời thế…

Lúc đầu ông Ba Thê cũng có phần e dè, nhưng về sau ông cứ cọ xát mạnh vào thời thế, cứ động chạm bừa vào nó mãi mà vẫn không thấy gì, ông ta bèn say sưa với sự tự do. Ông ta bàn luôn tới cả những việc cải tổ chính phủ, tới tình hình kinh tế, quân sự v.v…

Cứ độ vài ba tháng ông Ba Thê lại thì thào báo cho mọi người biết một dự định cải tổ chính phủ. Toàn là những dự định còn giữ kín. Anh giám đốc này sẽ thay anh đổng lý kia, cụ nhân sĩ này sẽ ra đời tham chính, nhà cách mạng lão thành nọ đặt điều kiện… Những cải tổ gấp rút ấy lúc thì do Mỹ nó đòi, lúc thì do Pháp nó đề nghị, lúc thì do “tình thế đặc biệt”. Cứ thế không mấy khi ông Ba Thê chịu để cho chính phủ yên thân quá ba tháng liền. Lần nào cải tổ gấp quá, đột ngột quá, ông Ba Thê nóng ruột không thể ngồi nhà chờ bạn bè tới để báo tin, ông — chính ông — phải đi thăm hết người này tới người khác, hấp tấp vất vả. Trong sự tích cực sốt sắng ấy có một bi quan ghê gớm. Ông Ba Thê bĩu môi, lắc đầu nói về các nhân vật chính phủ: anh này rung rinh, anh kia lung lay, anh nọ bấp bênh… Và ông ta giơ lên một ngón tay đe dọa: “Chuyến này thì là thay đổi lớn nhé! Thay đổi căn bản đấy nhé!”

Ngừng một lúc lâu, ông Ba Thê chợt chép miệng mơ màng: “Te-ríp! te-ríp!” Tiếng kêu như dư vang vọng lại của cơn bão tố khủng khiếp đã qua. “Te-rip” là tiếng thông dụng của một thời kỳ mới, chuộng những cái giật gân.

Tuy vậy, sau mấy mươi lần ông Ba Thê tiên tri, căn bản chính phủ vẫn y nguyên mà ông ta cũng không hay tự ngờ vực mình. Ông Ba Thê cứ tiếp tục tỏ ra vô cùng tinh nhạy trong cảm xúc về thời thế, ông ta cứ đánh hơi đoán trước mọi biến chuyển rất xa xôi, ông ta lúc nào cũng hướng cả tai cả mắt của mình đón nhận tin tức tình hình. Sống gần ông Ba Thê thỉnh thoảng người ta bắt gặp một cơn sốt của thời thế.

Ông Ba Thê cứ như cái lá mỏng mà mỗi ngọn gió nhỏ phất qua đều làm cho nó lay động run rẩy. Và điểm quái dị là nó tìm thấy khoái trá trong sự run rẩy ấy. Những lúc ông Ba Thê lắc đầu kêu lên: “Chán ôi là chán, rồi còn thay đổi lớn, rồi còn xáo trộn nữa!” người ta thấy rõ ràng cái đau buồn của ông, nhưng đồng thời người ta cũng thấy ông thiết tha với nó hết sức.

Hai mươi năm về trước trong sự nhàn rỗi quanh năm ông BaThê chỉ thèm xem hát, thèm chọi gà, và đánh bạc. Các chính biến và những năm loạn ly đã tập cho ông chú ý đến một khuây khỏa mới: thời thế. Và ông Ba Thê Đồng Thời nghiện thời thế giữa lúc ông bác già Đại Cuộc nghiện xi-nê; trong buổi xế chiều của cuộc đời mỗi người bạn phát lộ rõ một xu hướng tinh thần.

Duy đối với ông Ba Thê, suốt mấy mươi năm, có một điều không thay đổi là “thời buổi bây giờ” kinh tế vẫn khó khăn. Mặc cho những thay đổi căn bản, vẫn chưa phải là thời buổi ra tay làm ăn được.

Những buổi chiều ở nhà ông Ba Thê, lúc trời chạng vạng tối, bóng bà Ba Thê trăng trắng đứng ở trong cùng gian phòng sờ soạng chậm rãi chùi cái bóng đèn, cô cháu gái đi chợ về muộn lom khom bên bếp lửa rang một mớ tép khô làm bay lên mùi khen khét, trong lúc ấy ông Ba Thê xếp cả hai chân lên võng đưa kẹt kẹt loáng thoáng trong bóng tối nhá nhem, tiếp tục nói hăng về thời thế, về các “giã” các “va”, về những biến đổi vô thường rất hấp dẫn kích thích của tình hình… với một vài người khách ngồi trong phòng, trông không còn rõ mặt. (Trong số cũng có ít nhiều người khách tới lui vì cô cháu gái ông Ba Thê đang còn chê chồng). Phía bên ngoài hàng rào dâm bụt thỉnh thoảng một chiếc xe gắn máy cũ kỹ lướt qua, tiếng nổ gắt gỏng nóng nảy tạt rè vào giữa câu chuyện của ông Ba Thê trong phòng.

Bác tôi chết vào cuối mùa đông năm Hợi ấy. Tôi không biết bác tôi  chịu rửa tội đi đạo từ lúc nào, mãi đến khi bác chết, trông thấy lễ nghi tống táng tôi mới hay.

Khi quan tài bác đưa tới nhà thờ làm phép xác tôi có thấy ông Ba Thê đến dự, và ông ta cũng tỏ vẻ ngạc nhiên như tôi.

Sáng hôm ấy, vì chủ chiếc xe vận tải hạng nặng thuê chở quan tài có lãnh một mối chở gạo đi Pleiku nội trong ngày nên vội vàng đưa bác tôi đến nhà thờ quá sớm. Mới bảy giờ, quan tài đã đến sân nhà thờ. Người tài xế lùi xe vào tam cấp hơi quá trớn một chút, tấm ván cửa phía sau xe mở lật xuống, chạm vào bậc cấp xi-măng, kêu một tiếng lớn, khô, như tiếng gỗ bị đập vỡ. Người lơ xe vừa khoa tay ra dấu vừa la to; tiếng la vang lên đột ngột, tự do, đem cái không khí hoạt động vô tình của chỗ bến xe vào trong khoảng sân rộng và vắng của giáo đường.

Quan tài khiêng xuống. Những cây nến cắm trên mặt quan tài ngã xuống, tắt cả. Các cây nến tiếp nhau ngã trên mặt quan nghe lộp cộp, ghê rợn. Quan tài xuống khỏi xe rồi, trong chiếc xe “poa lua” rộng lớn chỉ còn lại người vợ bé của bác tôi, già và gầy, mặc tang phục trắng toát, đứng nghẻo đầu, toát mồm ra, khóc ngất không ra tiếng, thành một hình tượng rũ rượi kỳ dị.

Mấy người phu khiêng quan tài vội vã đi vào nhà thờ. Nhưng một thầy câu chạy ra ngăn lại, yêu cầu lùi ra trước cửa, chờ linh mục làm lễ.

Độ năm bảy cậu học trò của trường tiểu học bên cạnh nhà thờ, đi học sớm, ban đầu rụt rè chụp ấn cái mũ trước ngực, dừng lại dưới tam cấp, tò mò đứng nhìn. Một lát sau, bạo dạn lần và tụ tới đông lần, chúng xúm nhau đùa giỡn xung quanh chiếc xe.

Gần bảy giờ rưỡi quan tài mới được đưa vào trong nhà thờ. Cùng với mấy kẻ thân quyến và một số giáo dân đến đọc kinh mai, tôi quỳ xuống một chiếc ghế, giữa ngôi giáo đường cao rộng thênh thênh và mát rượi. Những nét mặt yên lành kính cẩn, tiếng đọc kinh rền rền đem đến một cảm tưởng thanh thoát, yên ủi, trấn tĩnh. Chiếc quan tài phủ giấy đen choáng một chỗ nhỏ dưới nền, giữa ngôi nhà thờ cao vút; cái chết như thu nhỏ lại, như tự xóa đi giữa lễ nhạc trang trọng, mực thước, êm đềm. Cái chết lấy lại bình tĩnh và thản nhiên.

Tôi ngẩng đầu lên, đưa mắt lần lượt nhìn từ những ngọn nến trên bàn thờ hai bên tượng Đức Mẹ, cho đến cái ánh sáng buổi mai rực rỡ qua những tấm kính cửa màu vàng và xanh, đến hai con sẻ đuổi cắn nhau kêu chách chách dưới vòm nhà thờ… tôi ngẩn ngơ, quên lãng, không kịp nghĩ trong cái chết của bác tôi có gì đáng khóc.

Khi chúng tôi ra khỏi nhà thờ, nắng đã bừng sáng lên khắp các mái ngói của thành phố. Chiếc xe “poa lua” đi tới nghĩa địa hơi vội vã. Số thân quyến theo xe đưa bác tôi ít bớt lần. Đến huyệt chỉ còn lại năm người.

Lúc trở về, trời đã nắng gắt. Tuy còn là mùa đông mà đã thấy nóng. Tôi dừng lại bên đường, rút khăn lau mồ hôi rươm rướm trên trán, và uống một ly nước chanh. Vừa đưa ly lên môi tôi nghe một giọng nói quen quen sau lưng, ngoảnh lại, và thấy ông Ba Thê đang hoa tay kể chuyện quốc trưởng mới vừa cho một chiếc máy bay trực thăng ra thẳng Côn Lôn rước một chính khách bị lưu đày ngoài đó về gấp để bàn việc nước suốt đêm, chuẩn bị cải tổ quan trọng. (Dẫu sao như thế cũng không có gì hoang đường hơn là việc mài xương ông Bảo Đại).

Tôi mời ông Ba Thê một ly nước chanh.

Trong khi ông Ba Thê đứng bên cạnh, đội chiếc mũ cối vành rộng và mỏng, kiểu rất xưa, đánh phấn trắng toát, trong khi ông ta khuấy cái thìa trong ly nước làm kêu lên những tiếng lanh canh trong trẻo, tôi nheo mắt nhìn ánh sáng nhấp nhánh trên mặt nước biển xanh ngắt.

Ông Ba Thê và tôi: chỉ còn lại có chừng ấy. Tất cả cái dĩ vãng kéo dài từ thuở tôi đứng mấp mé ngoài hè nhìn trộm Loan làm Điêu Thuyền, đến những ngày thấp thỏm theo sự thăng trầm của hai chiếc bồ, những ngày nằm rừng và chịu bắn giữa lưng đèo… cho đến ngày nay, mỗi ngày mỗi gầy sút, rốt cuộc chỉ còn lại được vài người không nghĩa lý: ông Ba Thê vẫn là một kẻ ăn xin bằng danh thiếp như từ đầu chí cuối, và tôi, từ đầu chí cuối vẫn quấn quít xung quanh thân thế một kẻ ăn xin. Và đến nay thì tới lượt tôi sắp rời bỏ Qui Nhơn. Hai chúng tôi nhờ ông Sáu mà lại có cơ hội gặp nhau trịnh trọng giữa mâm rượu.

Vậy thì chiều hôm ấy chúng tôi cùng đi Phước Mai bằng ghe, có đem theo chú Tư Tái, y như lời ông Sáu.

Ra khỏi bờ chừng nửa cây số, chưa có cá gỏi, chưa có hàu, nhưng ông Sáu đã đề nghị mở rượu ra bắt đầu nhắp từng hớp trong khi chờ đợi. Ông Ba Thê không phản đối, lại cho rằng có thể bổ quả thơm ra nhắm với rượu cũng không đến nỗi dở. Chúng tôi có mời chú Tư Tái thử một hớp. Chú ta dìa cả hai tay về phía chúng tôi làm dấu xô chén rượu ra. Tôi ép:

— Chú nhắp một chút cho ấm để chuẩn bị lặn xuống lấy hàu.

Tư Tái giải nghĩa:

— Mời thầy! Xin mời thầy dùng trước. Em chưa dám đâu: gỡ hàu phải cho khéo léo, mà có rượu vào thì mình sinh ra dạn tay. Cho nên uống rượu gỡ hàu thường bị đứt tay. Để rồi em gỡ hàu xong, lên ăn nhậu một thể.

Ông Sáu mau mắn, tán thành:

— Thằng Tư nó nói trúng. Thôi ể dành phần nó lại sau… Với lại tôi biết tánh nó không uống ược mấy âu.

Tư Tái quét ngang qua mặt ông Sáu một cái nhìn khinh thị, rồi khoanh tay ngồi ngó lảng ra ngoài khơi, không nói nữa. Thằng bé Thành, con ông Sáu, một mình cầm hai mái chèo ngang, chiếc ghe lúc la lúc lắc tiến chậm chạp trên một mặt biển láng gió dọc theo bờ gành bên phía mũi Đèn. Những lúc dứt câu chuyện, tôi để mắt hững hờ nhìn từ con nha màu xám tro lỏng khỏng trên hai chân vàng vàng, đi len lỏi giữa những tảng đá lớn chạy doi ra mé nước, đến những con cò đen đứng cao nghều nghệu trên đá hoặc bay sà trên mặt nước, đến những đàn cá đối nhảy vượt trên sóng, sáng ánh lên dưới nắng chiều chiếu xiêng v.v…

Ghe ghé vào bờ, Tư Tái nhảy xuống nước gỡ hàu. Cứ một lúc chú ta lại trồi lên thở phì ra một cái mạnh, vung vung cái đầu để rảy nước, ném lên cho chúng tôi một nắm hàu rồi lại hụp xuống. Ông Sáu lăng xăng chăm chỉ như bất cứ lúc nào có món ăn. Thằng bé Thành chạy lên ngọn hải đăng mời ông Tám xuống. Cuộc ăn uống bắt đầu uể oải, hàu thì ít quá không kịp để ăn, chuyện đi chuyện ở lạt lẽo quá không có gì sôi nổi. Rốt cuộc ông Sáu nóng nảy đón một chiếc sõng đang chèo vun vút chở cá về Qui Nhơn để bán; hỏi cá trỏng không có, ông đành mua một con cá thu, luộc qua, cuốn với bánh tráng kẹp rau thơm. Lúc bấy giờ Tư Tái hết sợ đứt tay, cùng trèo lên ghe nhắp rượu.

Tuy nước da chú thợ lặn trẻ tuổi ấy đặc biệt tái ngắt, nhưng chỉ có hai chén rượu nhỏ là đủ làm cho nó đỏ ửng lên. Chú ta bắt đầu nói huênh hoang về tài lặn tám sải nước của mình. Ông Sáu lại tỏ ý ngần ngại, toan bảo Tư Tái bớt rượu lại. Lần này chú ta cự liền:

— Bác Sáu! Em giận bác đó. Bác sợ em say sưa, nói nhảm trước mặt mấy thầy đây phải không? Bác yên trí: em là người biết phải. Nói vậy cho quí thầy với bác biết chừng.

Ông Sáu bật cười, dễ dãi. Chúng tôi đồng ý cứ để Tư Tái tự do. Đám ăn uống do đó mỗi lúc mỗi huyên náo dưới chân gành, lôi cuốn chúng tôi vào một không khí cởi mở khá thích thú.

Tiệc tàn, ông Sáu, ông Ba Thê và tôi cùng kéo nhau lên nhà ông Tám tận trên mỏm múi. Đường đi ngoằn ngoèo quanh co và dốc ngược quá. Trèo lên đến ngọn núi thì vừa thấm mệt.

Mặt trời đã lặn. Dừng lại trên một quãng đường núi đầy đá dăm lởm chởm, dưới chân ngọn hải đăng, nhìn ra trời nước ngui ngút mịt mù, tôi tự nhiên buồn dịu dàng.

Vài chiếc sõng nhỏ chòng chành trên sóng nhấp nhô; đó là những chiếc sõng chở cá từ bên Sơn Châu qua Qui Nhơn bán, đang vòng quanh mũi Đèn để trở về. Một con chó rài đứng trên mỏm đá cao đầu gành sủa văng vẳng xuống bể rộng bốn bề. Tôi có cảm tưởng như là một Từ Thức xa trần thế đã lâu năm, nghe tiếng chó sủa tiếng gà gáy, nhớ về thôn xóm rất xa xôi. Tuy vậy mà Qui Nhơn của tôi chỉ cách có một eo biển hẹp. Tôi có thể nhìn thấy Qui Nhơn với khói chiều tỏa lên xanh mờ mờ. Tôi có thể phất tay vẫy chào Qui Nhơn được, mà Qui Nhơn đối với tôi như đã là dĩ vãng. Phất tay vẫy chào Qui Nhơn như là vẫy chào một dĩ vãng đang lùi xa.

Cũng trong cái ảo tưởng thoát trần của một lúc đứng cheo leo ngoài đảo hoang, tôi thương hại dịu dàng tất cả những say mê khổ sở cùng những ngày chán nản của tôi ở Qui Nhơn, những hăng hái quờ quạng và sự ngơ ngác thất lạc của bác tôi trong bao nhiêu năm, tôi thương hại số phận của người này, người khác… Và tôi thương cả ông Ba Thê với tất cả những bôn chôn rạo rực vô lối về thời thế của ông ta: thời thế chuyển mạnh trên đất nước như dòng sông trôi, và những chiếc lá mục bết bùn ở dưới đáy sông cũng cựa quậy ve vẩy. Tôi thấy lòng dịu dàng thương cả sự ve vẩy vô bổ của ông Ba Thê trước thời cuộc.

Cuối một quyển truyện tình nào đó của Tourguéniev, cô con gái xinh đẹp Zinaida từ từ cúi xuống đặt môi hôn lên cái dấu roi của một người tình già quất mạnh còn in rõ trên cánh tay cô ta. Tôi tưởng như mình cũng đang cúi hôn lên cái dĩ vãng gồm toàn những chuyện đau lòng, ngớ ngẩn. Vừa hôn vừa ngạc nhiên không hiểu tại sao mình làm như thế.

Gió chiều thổi mạnh làm cho mọi người nôn nao chơi vơi. Ngọn đèn pha trên đầu chúng tôi đã chiếu phóng ra ngoài khơi tối đen những tia ánh sáng vàng tai tái. Ông Tám lên tiếng mời mọi người vào nhà.

Và đến khi chúng tôi cáo từ vợ chồng ông Tám để trở lại ghe thì Tư Tái đã uống hết cả rượu trong chai, đã đánh rơi một cái dao xuống nước, đập vỡ mất một chiếc ly, đang cãi cọ om sòm với thằng Thành. Chúng tôi an ủi “người biết phải” mấy câu, và chèo ghe trở về Qui Nhơn.

Ông cụ Hoa Lan chọn cho tôi một ngày tốt đẹp dưới ảnh hưởng của sao Trương, một ngày nên làm nhiều việc: hội hữu, xuất hành, nạp tài, di cư, nhập thương, an môn, tu trù, tác táo, v.v…

Vậy thì một ngày “Trương tinh chi nhật”, vào giờ dậu có in bằng chữ đỏ kỹ càng trên quyển lịch Ngũ kinh đường của ông cụ Hoa Lan, chiếc đầu tàu Diesel huýt lên một tiếng ngắn, tôi bắt đầu xuất hành rời bỏ Qui Nhơn đi làm ăn một nơi xa.

“Nghi tác táo, nghi an môn”… dựng nhà cửa, bếp núc, như thế không ngầm có nghĩa là có thể lập nên một cuộc đời mới rồi sao? Tôi sẽ lập lại một cuộc đời khác, tôi mong sẽ sống một giai đoạn mới mà thời cuộc lạnh lùng không vung vẩy làm tan tác lần lượt ở dọc đường, ngay dưới mắt mình, những cuộc sống có liên hệ, để làm mủi lòng mình; tôi mong sẽ tránh được khuất mắt những ve vẩy hèn mọn bất lực trước cuộc đời luôn luôn xáo động…

Tôi sẽ…tôi sẽ… tôi sẽ thoát khỏi “thời buổi bây giờ”, tôi sẽ không kéo dài mãi hôm nay nữa, tôi trịnh trọng bắt đầu ngày mai.

Sài Gòn 11-1960

1 Nhân vật này cũng xuất hiện trên một số truyện khác của Võ Phiến.

2 Xem chú thích 1.

3 Xem chú thích 1.

4 Tuồng Tam Quốc của cụ tú Thận.

Bài Mới Nhất
Search