T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Phạm Đức Nhì : ĐỌC BÀI THƠ PHƯƠNG XA BẰNG ĐÔI MẮT BÌNH PHẨM NGHIÊM TÚC

clip_image002

 

Tính tính tính tình tang tang tang
Cuộc đời mình như chiếc thuyền nan
Trôi nó trôi bềnh bồng
Ði tới Tô-Ky-Ô
Mình xách tay chiếc dù
Mặc áo ki-mô-nô
Tô-Ky-Ô Tô-Ky-Ô
Dù là dù với ki-mô-nô.

……………………..

Trên đây là một đoạn của Chiếc Thuyền Nan, một bài hát vui mà các thành viên của Hướng Đạo, Gia Đình Phật Tử, Thiếu Nhi Thánh Thể … thường hát trong các buổi sinh hoạt. Bài hát diễn tả niềm hạnh phúc  được đến các vùng đất lạ, học thêm được những kiến thức mới bổ ích cho cuộc đời. Khoảng cuối những năm 30s,  đầu những năm 40s thế kỷ trước (1) có một thi sĩ cũng bước lên thuyền ra khơi nhưng với tâm trạng và mục đích hoàn toàn khác. Đó chính là thi sĩ Vũ Hoàng Chương trong thi phẩm Phương Xa.

Phương Xa

Nhổ neo rồi thuyền ơi! Xin mặc sóng

Xô về Đông hay giạt tới phương Đoài

Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng

Lòng cô đơn cay đắng, họa dần vơi.

 

Lũ chúng ta, lạc loài dăm bẩy đứa

Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh

Bể vô tận sá gì phương hướng nữa

Thuyền ơi thuyền! Theo gió hãy lênh đênh.

 

Lũ chúng ta, đầu thai lầm thế kỷ               

Một đôi người u uất nỗi trơ vơ

Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị

Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ.

 

Men đã ngấm bọn ta chờ nắng tắt

Treo buồm cao cùng cao tiếng hò khoan

Gió đã nổi nhịp trăng chiều hiu hắt

Thuyền ơi thuyền! Theo gió hãy cho ngoan.

VŨ HOÀNG CHƯƠNG

 

Hai Khổ Thơ Tuyệt Vời 

Người đọc dễ nhận thấy hồn cốt của bài thơ nằm ở 2 khổ giữa, gồm mấy ý chính như sau: có sự khác biệt quá lớn giữa thi sĩ và xã hội, khó có thể dung hợp nên ông muốn “bỏ đi thật xa” để khỏi phải sống, phải nghe, phải nhìn những cảnh đời ngang tai, trái mắt.

          Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa

          Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh

Dù thể xác vẫn là hình hài con người, hơn nữa, lại là con người Việt Nam máu đỏ da vàng, nhưng ông có cảm giác như một kẻ lạc loài, và vì thế nên bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh khi.

Bể vô tận sá gì phương hướng nữa

          Thuyền ơi thuyền! Theo gió hãy lênh đênh

do đó mới có tâm trạng chán chường đến cùng cực, chỉ muốn lênh đênh trên biển cả, chẳng cần biết đâu là bờ, đâu là bến hết.

Khổ thơ kế tiếp được nhìn dưới góc cạnh thời gian:

Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ

          Một đôi người u uất nỗi trơ vơ

Người đời thường nói “sinh bất phùng thời”, câu nói đã cũ rích, khô cứng. Thi sĩ của chúng ta, cũng cái ý ấy, đã sáng tạo một câu thơ độc đáo, ngôn từ mới, hình ảnh mới, vóc dáng mới:

          Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ

phải nói là một câu thơ hay tuyệt. Ông (và một nhóm bạn nào đó) mang tâm trạng vừa cô độc, trơ trọi vừa bơ vơ, không có chỗ bám víu, nương tựa bởi vì:

          Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị

sự vận hành của cuộc đời hoàn toàn khác, không thể dung hợp với cách suy nghĩ, cách nhìn cuộc đời của ông. Và ông đã yêu cầu:

Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ

để được thoát hẳn cái khung cảnh xã hội mà đối với nhịp suy tư của tâm hồn ông chỉ là “cung đàn lạc điệu”

Như vậy ý chính của bài thơ có thể tóm tắt như sau: tác giả và nhóm bạn của ông là những kẻ “lạc loài” lại “đầu thai lầm thế kỷ,” không hợp với xã hội đương thời nên bị ruồng rẫy, rẻ rúng, chỉ muốn lênh đênh trên biển cả, không cần biết phương hướng bến bờ, hoặc trôi giạt vào một hoang đảo nào đó để khỏi phải tiếp xúc với cuộc đời “kiêu bạc.”

Trên bề mặt chữ nghĩa là như vậy, nhưng thực tế thì hoàn toàn khác. Vũ Hoàng Chương la toáng lên là:

“Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa

Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh.”

Nhưng khi tự nhận là “lạc loài dăm bảy đứa” thì chính ông (và nhóm bạn nào đó) mới là những kẻ đã đoạn tuyệt với dòng giống, chối bỏ quê hương. Mẹ VN, thời nào cũng vậy, vẫn dang rộng vòng tay chứ nào có ruồng rẫy, rẻ rúng đứa con nào. Ông còn bù lu bù loa “Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị,” nhưng thật ra chính cái bản tính kiêu kỳ, cao ngạo của ông mới là thủ phạm của sự “bất dung hợp” với cuộc đời; ông không muốn “hạ cố” hòa nhập với cuộc đời chứ không phải cuộc đời không chấp nhận ông.

Đó là tâm trạng của ông, cái nhìn chủ quan của ông đối với cuộc sống. Đúng hay sai xin nhường cho bạn đọc tự phán xét. Đối với thái độ ngông nghênh, xa lánh cuộc đời của ông tôi chỉ “kính nhi viễn chi”. Nhưng trong thơ, đặc biệt là bài thơ Phương Xa, chữ How (thế nào) quan trọng hơn chữ What (cái gì) rất nhiều. Chắc một số bạn đọc cũng như tôi, không thể không khoái tài thơ của ông trong cách ông diễn tả tâm trạng và thái độ của mình. Một nhà thơ đã viết: “Nói là nói cái gì; làm thơ là nói để được cái thú nghe lời mình nói”. Đọc Phương Xa, cái thú “nghe” ông nói lớn hơn cái thú được biết ông nói gì rất nhiều. Điều thi sĩ nói có người đồng ý, có người không, nhưng cái cách ông nói thì hấp dẫn quá, ngôn ngữ của ông cao sang quá; qua tài thơ độc đáo của mình ông đã đưa ý tưởng vào 2 khổ chính của bài thơ, tạo nên một khung cảnh thơ rất đẹp, hình ảnh lãng mạn, nên thơ, gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Cấu Trúc Thơ hay Trận Địa Chữ Nghĩa của Phương Xa

Về hình thức, đây là bài thơ bát ngôn (8 chữ) trường thiên gồm 16 câu được chia làm 4 khổ, mỗi khổ 4 câu. Vần gieo gián cách (1/3, 2/4) rất chân phương, nghĩa là tác giả áp dụng cách gieo phần của thơ mới (ảnh hưởng Pháp) rất đúng nguyên tắc, rất cứng:

Khổ 1: sóng rộng, Đoài vơi.

Khổ 2: đứa nữa, khinh đênh.

Khổ 3: kỷ dị, vơ sơ.

Khổ 4: tắt hắt, khoan ngoan.

Có thể nói món chè Phương Xa được nêm hơi nhiều đường; bài thơ có vần khá đậm.

Khuyết điểm chính của bài thơ là Phân Bổ Lực Lượng Không Cân Xứng

Tứ thơ được gói ghém, cô đọng ở khổ 2 và khổ 3. Khổ đầu và khổ cuối chỉ làm nhiệm vụ mở đề và kết luận. Như vậy mở đề và kết luận hơi dài, không cân xứng so với phần chính của bài thơ. Và vì hơi dài nên đã sinh ra môt số khuyết điểm khác:

  • Khổ thơ đầu tiên có đoạn:

“Nhổ neo rồi thuyền ơi! Xin mặc sóng

       Xô về Đông hay dạt tới phương Đoài”

ý trùng lặp với khổ thơ thứ 2:

“Bể vô tận sá gì phương hướng nữa

               Thuyền ơi thuyền! Theo gió hãy lênh đênh.”

  • Khổ đầu có hai câu thơ hơi khó hiểu:

Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng,

Lòng cô đơn cay đắng họa dần vơi.

Tại sao lại họa dần vơi? Nếu cho rằng chung đụng với xã hội là một tai họa thì khi đã ở trên thuyền “Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng” thì tai họa sẽ tự động biến mất chứ làm sao mà “dần vơi” được? Theo tôi, đọc đến “họa dần vơi” người đọc hơi bối rối, không biết tác giả muốn nói gì. Nhóm chữ ấy đã tạo một khoảng tối trong khung cảnh thơ trong sáng.

  • Khổ cuối chỉ có câu “Thuyền ơi thuyền! Theo gió hãy cho ngoan” là cần thiết (ý nói thuyền vẫn tiếp tục trôi); ba câu trước được đưa vào, theo tôi, chỉ để cho đủ số câu, số chữ, cho đủ một khổ thơ của thể thơ bát ngôn trường thiên, không giúp ích gì nhiều cho bài thơ.

Tóm lại, Phương Xa là một bài thơ hay, được đông đảo những người ham chuộng văn chương (đặc biệt là ở miền nam, trong đó có tôi) yêu thích. Thuở còn học Đệ Nhị (lớp 11 bậc trung học) tôi đã có lần làm một bài nghị luận văn chương trong kỳ thi lục cá nguyệt (nửa niên học) mà đề tài liên quan đến bài thơ Phương Xa. Lúc ấy tôi đã nổi hứng luận bàn, lý giải và đã được thầy giáo cho điểm cao nhất lớp. Nhắc đến tâm trạng chán chường, lánh xa nhân thế người ta thường trích những câu trong khổ 2 hoặc khổ 3 của bài thơ, coi như là những chứng cớ hùng hồn, đắt giá. Tôi chợt liên tưởng đến một đội banh có một nửa là những cầu thủ siêu sao, kỹ thuật cá nhân điêu luyện, lối chơi hấp dẫn. Hễ banh đến chân họ là khán giả reo hò vang dậy, cổ vũ nhiệt liệt; hình như khán giả không để tâm lắm đến các cầu thủ khác trong đội. Nhưng dưới con mắt của người am tường túc cầu thì đội banh ấy có đội hình vá víu, phân bổ lực lượng không hợp lý, đấu pháp toàn đội không chặt chẽ, bộc lộ nhiều sơ hở, nếu so sánh với những đội banh cùng đẳng cấp khác chắc chắn sẽ không được đánh giá cao. Bài thơ Phương Xa cũng thế. Hai khổ thơ chính gồm những câu thơ gây ấn tượng mạnh mẽ, đọc rồi sẽ rất khó quên. Đó là những câu thơ hay tuyệt, có khả năng hớp hồn độc giả. Nhưng nếu xét bài thơ một cách tổng thể, toàn diện thì thế trận chữ nghĩa của bài thơ còn lỏng lẻo, ý trùng lặp, có nhiều câu chữ dư thừa.

Nhà văn Mai Tú Ân trong bài Phương Xa – Thơ Vũ Hoàng Chương (2)  – Giới Thiệu Những Bài Thơ Việt Nam Hay Nhất đã mạnh miệng khen rằng; “Và bài thơ này cũng là bài thơ ‘Tổ’ được đọc nhiều nhất, được thuộc nhiều nhất trong cộng đồng oversea hải ngoại.” (sic) Theo tôi, Mai Tú Ân, với cảm xúc chủ quan của mình, không phân tích kỹ lưỡng, cho Phương Xa là “bài thơ Tổ”, là đã tán dương bài thơ quá lố.

Trong một bài khác, Giới Thiệu Bài Thơ Phương Xa Của Vũ Hoàng Chương (3), Mai Tú Ân còn viết:

Bài thơ được viết theo thể thơ mới 8 chữ, và cũng trở thành một bài thơ kinh điển của thể thơ này. Với chỉ 16 câu bình dị, đậm đà luyến lái (4) nhưng lại thống thiết làm sao với các vần điệu cứ đưa cao cao (TRẮC TRẮC) lên mãi. Những câu thơ không gọt rũa (4), bình thường nhưng lại đắc địa đến từng chữ một.

Như tôi đã phân tích ở trên, Phương Xa ở khổ đầu tiên có đến 11 chữ trùng lặp ý với khổ 2, ở khổ cuối thì 3 câu (24 chữ) được đưa vào chỉ để “đứng chơi” chứ không có đóng góp gì đáng kể cho tứ thơ. Bởi vậy khi nhà văn Mai Tú Ân phán một câu xanh rờn: “Những câu thơ không gọt rũa (4), bình thường nhưng lại đắc địa đến từng chữ một thì tôi chỉ còn biết cúi đầu thán phục, bởi đó là một lời bình “quá ư liều mạng.”

Kết Luận

Vũ Hoàng Chương di cư vào nam nên mặc dù “đa mang nghiện ngập” lại có cái nhìn về xã hội, con người rất “ngược đời”, có thể là chướng ngại vật cho sự đào tạo thế hệ trẻ trong xu hướng phát triển mới, nhưng vì thi tài của ông, vì vẻ đẹp cao sang, lộng lẫy của thơ ca, vì giá trị nghệ thuật tự thân của tác phẩm, thơ của ông vẫn được Bộ Giáo Dục xếp vào chương trình giảng dạy ở bậc trung học. Ông từng là Chủ Tịch Trung Tâm Văn Bút Việt Nam, mấy lần được trao giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc, được đại diện các thi sĩ Việt Nam tham dự Hội Nghị Thi Ca Quốc Tế, được đại diện Văn Bút Việt Nam tham dự Văn Bút Quốc Tế, được vinh danh là Thi Bá Việt Nam và được văn thi sĩ và những người yêu chuộng văn chương hết mực quý mến, thương yêu. Ngoài việc dạy Việt Văn ở Chu Văn An (một trường trung học công lập danh giá ở Sài Gòn) ông còn dạy thêm ở vài trường tư thục khác. Tôi có cơ may được nghe “ké” ông giảng văn mấy buổi ở trường Hồng Lạc (đường Trần Quốc Toản) và được trò chuyện với ông. Nhưng phải đến lúc qua cái tuổi “tri thiên mệnh” tôi mới thực sự cảm và “thấy” được cái hay, cái đẹp, cái độc đáo, cái hồn trong một số bài thơ của ông. Bài thơ hay nhất của ông, theo tôi, rất xứng đáng với danh hiệu “tuyệt tác thơ ca”, đã đưa ông vào vị trí của vì sao chói sáng nhất giữa vùng trời thơ mới. Có điều Phương Xa không phải là bài thơ đó.

TEXAS 09/2015

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

CHÚ THÍCH:

1/ Tập Thơ Say (có bài Phương Xa) được xuất bản năm 1940.

2/ http://ma-tu-an.blogspot.com/2014/07/phuong-xa-tho-vu-hoang-chuong.html

3/ http://www.haingoaiphiemdam.com/Gioi-thieu-bai-tho-Phuong-Xa-cua-Vu-Hoang-Chuong-Mai-Tu-An-50694

4/ luyến lái: đúng ra phải là luyến láy. Gọt rũa: đúng ra phải là gọt dũa.

THAM KHẢO:

https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9_Ho%C3%A0ng_Ch%C6%B0%C6%A1ng

http://www.vinhhao.info/Doctho/u-y/vuhoangchuong.htm

http://nhavantphcm.com.vn/vu-hoang-chuong-%E2%80%9Cnguoi-cu%E2%80%9D-trong-tho-moi.html

http://www.chungta.com/nd/nhan-vat-van-hoa/vu_hoang_chuong.html

 

 

 

©T.Vấn 2015

Bài Mới Nhất
Search