T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Đỗ Xuân Tê : Ông già khu tượng đài

(Tượng Đài – Hình : Lưu Na )

Baì hát vơí âm điệu của thể nhạc tiền chiến vẫn dỗ ông vào giấc ngủ hàng đêm. Ông thích loại nhạc này vì nó gợi nhớ cho ông thơì còn mặc aó the, đi guốc mộc của Hà nôị hồi thập niên ba mươi. Nay ở thập niên đầu của thế kỷ hai mươi mốt, ông đang ngụ trong một cư xá dành cho ngươì già gần khu tượng đaì Việt Mỹ, thành phố Westminster. Khi ông mơí dọn đến đây khoảng hai chục năm trước thì chưa có tượng đaì, phố xá còn yên tĩnh, xe cộ không đông đúc như bây giờ. Nhưng mấy năm gần đây, cảnh quan có thay đổi, tất nhiên sinh hoạt có phần khởi sắc, khiến cuộc sống của ông cũng vui lây.

Có người gọi ông là ‘ông già Hát Ô’ vì hình như ông có đi tù cộng sản và quá khứ cũng một thời vang bóng.Về mặt thu nhập thì lúc này tuôỉ ông là tuổi ăn tiền già, sinh hoạt thường nhật thì tập dưỡng sinh, ăn uống ba bữa nấu lấy, kiêng mỡ và đồ xào, khám bệnh định kỳ có xe đưa rước, uống thuốc trị cao máu, cao mỡ, bổ xương môĩ ngày. Chuyện thời sự thì hàng ngày đọc đủ ba tờ báo Việt có đông độc giả nhất quận Cam, hàng tuần thì có thêm tờ Sàigòn Nhỏ hoặc một tuần báo Mỹ. Ông không có xe, vì mắt kém họ không cho ông lái chứ không phaỉ không đủ tiền mua xe, nhưng ông cũng đóng thêm mươì đô/tháng cho cư xá để giữ một chỗ đậu xe cho khách đến thăm. Có bạn bè đến chở thì ông tham gia mấy cuộc họp mặt chiến hữu hoặc sinh hoạt cộng đồng trên đường Moran, tất nhìên chỉ họp hành thôi, còn chuyện biểu tình, mít tinh ông đi không nổi, chuyện mặc lại đồ nhà binh lúc này già rồi ông không quen. Có con đến chở thì ông về thăm bà xã bị tiểu đường đang sống chung vơí cô gaí lớn cách đó vài chục phút. Muốn đi đâu đã có xe bus tiện đường cho moị tuyến chẳng phaỉ phiền ai.

Ở tuổi 77, ông trở laị cuộc sống độc thân, tuy cô độc về chốn ở nhưng không đến nôĩ cô đơn trong những năm tháng cuốí đời. Căn phòng ông ở nằm trên lầu ba của khu apartments nhìn ra tượng đaì. Ban ngày cũng thấy vui vui vì khách tham quan, đặc biệt là ngươì Việt tị nạn, già có, trẻ có, mặc thường phục có, mặc quân phục có, đủ mọi binh chủng. Thỉnh thoảng laị có cờ quạt, vòng hoa, có ngươì đeo huy chương, có vị mặc đaị lễ, rồi baó chí, ký giả, quay phim, truyền hình, thậm chí có lúc có cả mấy chục ứng viên hoa hậu hải ngoại với xiêm y mùa hạ cũng đổ về tượng đaì làm cho khu ông ở vừa đông, vừa vui, vừa sáng lên. Quả thật các hoạt cảnh này có làm lịch sinh hoạt của ông bị chi phối, nhất là vào những ngày chào cờ đầu năm, đầu tháng, ngày di tản buồn, ngày quân lực, ngày giỗ cụ Diệm…, vì vậy cơm nấu chậm, thuốc uống trễ, đọc chưa hết ba tờ báo, cũng tại cửa sổ phòng ông nhìn ra tượng đài có lợi thế như là một ban công bao quát toàn cảnh. Nhưng khi đêm về, khu tuợng đài trở nên thinh lặng thì hình ảnh hai người lính trẻ Việt Mỹ lại trở thành gần gũi với ông khi ông tản bộ quanh khu. Gần gũi đến độ ông cảm thấy mối quan hệ giữa họ với ông giống như trong tình hàng xóm. Ông thầm cám ơn người nghệ sĩ tạc tượng đã nhân cách hóa khá tài tình hai chàng trai Mỹ, Việt dù ở hai phương trời cách biệt, nhưng vì chung lý tưởng nên họ trở thành tri kỷ cùng đứng bên nhau trong tư thế của những người lính trở về nhà sau khi hoàn thành nhiệm vụ nam nhi thời chiến.

*

Nói về ông thì ít cô đơn không có nghĩa là không cô đơn. Ở tuôỉ ông, dĩ vãng đôi lúc cứ đổ về, có lúc như triều dâng thác đổ, thôi thúc con tim mơí thông của ông như đập mau đập mạnh hơn. Có lúc laị như suối mát ven rừng nhẩn nha khơi laị từng cảnh đơì đứt quãng. Giấc ngủ của ông không trọn vẹn, ngon giấc như truớc đây, mà môĩ đêm, cứ nửa đêm về sáng laị có những thổn thức, xao động trong tiềm thức đánh thức ông dậy,giống hệt như cuốn “Thức Giấc Nửa Khuya” của nhà văn Song Linh, bạn nôí khố của ông đã viết từ hôì đầu 60. Hôì đó do thân tình được tặng một ấn bản đặc biệt có chữ ký của tác giả, nhưng ông chỉ đọc lướt qua vì nghĩ thằng cha này đã bạc đầu đâu mà viết chuyện của ngươì già, nay ngẫm laị các nhà văn, nhà thơ bao giờ họ cũng đi trước người thường một hai thế hệ. Ông thầm tiếc nếu bạn ông, một nhà văn Thủy quân Lục chiến năm xưa nếu không hi sinh khi trực thăng đổ quân xuống vườn dừa Bến Tre thì bây giờ đã trở thành một nhà văn lớn. Laị noí về tình yêu, một đề tài muôn thuở, thì hình như không có biên giới bất luận tuổi tác, xúc cảm dạt dào không nhất thiết chỉ có ở tuôỉ thanh xuân. Con người ông vốn là một sinh vật từng trải, biết yêu caí đẹp biết ghét cái trớ trêu của cuộc đơì, đã từng có một quá khứ may mắn hơn nhiều ngươì đồng thơì đồng khóa, laị traỉ qua những cuộc tình vừa công khai có khi vụng trộm từ lúc trẻ đến tuôỉ trung niên. Con người như vậy bảo sao khi về già mà không có những tiếng thở daì trong đêm, không có những thức giấc nửa khuya một mình in bóng?

Nói vậy chứ tuổi tác vốn dĩ không thể quay ngược được thơì gian, quá khứ có vọng laị cũng chỉ là aỏ ảnh, thân xác ở tuôỉ cổ lai hy buộc ông phaỉ đầu phục qui luật của thiên nhiên. Nhiều cái ông muốn nhưng không làm được, nhiều cái ông tránh nhưng nó vẫn tới, chưa nói đến phạm trù tâm linh vừa cao sâu vừa huyền bí ông chưa hiểu nôỉ. Nhưng ông phaỉ nhìn nhận moị sự có Thượng đế xếp đặt, moị số phận có sự an bài, có hạn chế bất biến của nó. Bản thân ông không phaỉ là người bi quan, khép kín. Ông thích sống có bạn bè, có đàn bà, có hàng xóm. Ông it khi buồn lâu, ngay cả những nôĩ buồn đòi ông phaỉ nhớ nhưng ông vẫn giả vờ quên. Ông rất thật thà, đôn hậu vơí những ngươì ông kính, ông quen, nhưng vơí những kẻ muốn haị, muốn diệt ông thì ông cũng có đủ nôị lực, mánh khoé để đương đầu, đối phó. Chẳng thế mà trong suốt thơì gian đi tù caỉ tạo, trong khi nhiều người đau ốm thật mà cán bộ họ cũng không tin, thế mà ông đóng kịch giả ốm thế nào dù là cấp tá ông vẫn được tha đợt đầu cùng diện vơí những ngươì chưa kịp về nhà đã ra người thiên cổ.

Có người hỏi sao ông không về ở chung vơí con caí hoặc vơí bà vợ già cho đỡ cô đơn, vì ông cũng có vợ, có con, mà không phaỉ một đứa mà tơí bảy đứa. Caí gì cũng có nguyên nhân, lý do của nó. Trước hết là khi ông sang tơí Mỹ thì tuôỉ đơì đã sáu muơi, ông là người cuối cùng trong gia đình tơí đất này để xum họp vơí vợ con. Đầu thập niên 80, bà xã ông cùng sấp nhỏ đã vượt biên đi trước. May mắn thế nào mà chỉ hai chuyến là đi thoát cả mẹ lẫn con. Sang đất Mỹ học hành làm ăn con ông đứa nào cũng có chân đứng vào thơì điểm này. Ở chung ít lâu, các con ông ra riêng yên bề gia thất. Vợ ông theo đứa gaí lớn nhất vì thằng rể sống có tình, còn ông không chịu theo ai bèn bảo thằng lớn xin cho housing. Tuôỉ ông lớn, lại chỉ một ngươì đứng đơn, ông được cấp ngay một căn hộ khang trang khu trung tâm thành phố. Nói cho ngay ở tuôỉ về già ông thích sống một mình, laị quen cảnh cu ki ở Việt nam tù trong tù ngoaì hơn mười lăm năm, nên nhân lúc sang đây được cấp nhà, được cấp bảo hiểm y tế, được sống giữa cộng đồng người Việt, được gần bạn bè, đồng đôị ở tuổi cao niên, tình cảm riêng tư chăn gối thấy chẳng cần thiết thì “vạ” gì ở chung vơí đám con vốn đã xa ông khá lâu laị có vợ có chồng, tổ ấm riêng của nó. Chưa kể bà thì bệnh họan đau lên đau xuống, laị chỉ thích ở vơí con, không có cháu bà thấy thà về Việt nam vui hơn. Có điều ông chưa nói hết là trong quan hệ tình cảm, ông có phần lỗi vơí bà và hình như bà vốn thù dai nên chưa sẵn lòng tha thứ những chuyện xảy ra cả mấy chục năm.

*

Chuyện đơì của ông thì khá lòng vòng. Ông laị ít tâm sự vơí ai một cách trọn vẹn, cho nên cứ phaỉ nghe đi nghe laị hoỉ tới hoỉ lui, rồi chăp vá sắp xếp laị mới thành một bức tranh tổng thể. Ông quê Ninh Bình, đất Hoa lư địa danh lịch sử, xuất thân gia đình nho giáo, có ruộng đất, ngươì ăn kẻ ở. Bố ông có tơí ba bà, ông con bà thứ ba. Hỏi ông sao cụ lắm vợ như vậy, ông trách ngươì hỏi sao móc họng, nếu không nhiều thì làm sao có ông. Hết hỏi. Lớn lên ông cùng một ngươì anh được gưỉ lên Hà nôị học. Thi đậu vào trường Bươỉ, học chưa hết tú taì thì cũng là lúc hết tuổi, bị động viên khóa 3 Sĩ quan Thủ đức.

Ra trường, ông tình nguyện về một đơn vị lưu động, hành quân khắp vùng châu thổ sông Hồng. Được hai năm thì đình chiến, ông quyết định vào Nam cùng đơn vị, mang theo bà vợ bố mẹ cưới cho ở quê cùng thằng nhỏ ba tháng tuôỉ. Toàn bộ gia đình ông ở laị miền Bắc, bố ông nói hai năm nữa laị thống nhất mất công bỏ cơ ngơi đi sao đành. Sau này, dù vợ con bên cạnh ông vẫn cảm thấy cô đơn khi nhớ mẹ nhớ cha.

Vào Nam, ông quyết chọn con đường binh nghiệp, tình nguyện theo phò xếp lớn Big Minh đi dẹp Bình Xuyên, được cụ Diệm cho lên đaị úy sớm nhất khóa. Đầu năm 60, Big Minh bị thất sủng, ông xin đi Mỹ học khóa Bộ Binh cao cấp. Đang học ông nhận được giấy phạt hai mươi ngày trọng cấm vì “gây rôí loạn trong khóa học” từ Phòng Tùy viên Quân lực VNCH ở Washington D.C. Ông bất mãn vì ông đâu có gây rối, ông chỉ phản đối việc goị ông thông dịch viên cho khóa là “giảng viên”. Ông phản đôí vì translator không thể là instructor, chỉ ngươì Mỹ dạy ông mơí có tư cách giảng viên. Về nước, ông khiếu naị caí chuyện “vạ miệng” lên Bộ Tổng tham mưu, nhưng hình phạt thế nào laị được gia tăng thành ba mươi ngày trọng cấm. Lần đầu tiên trong đơì, ông thấy có “bất công” trong quân đôị. Ông nuốt hận, biết là chuyện tiến thân coi mòi lận đận, ông xin chuyển sang ngành tiếp vận, dễ có bổng lộc, laị đỡ đụng chạm vì người ta cần mình hơn mình cần người ta.

Ít năm sau, chuyện đời có đổi có thay, Big Minh tái xuất giang hồ, đời ông laị lên hương. Ông lên cấp Tá sau dịp đảo chánh cụ Diệm, được biệt phái sang Tòa Đô chánh làm giám đốc một ngành chuyên chở công cộng. Cuộc sống gia đình ổn định, sung túc. Bà laị sanh thêm cho ông đứa con thứ năm. Chẳng bao lâu, con bài Big Minh laị mờ nhạt trên bức tranh chính trị miền Nam, ông thầm trách xếp mình thiếu tài đảm lược bỏ lỡ nhiều cơ hôị làm cho đất nước khá hơn. Ngày xếp ông lên đường đi Đaị sứ cũng là ngày ông được trả về bên quân đôị. Phương vị mơí là một sư đoàn đóng ở Tây nguyên. Đời ông có đặc điểm là có số “khẩu thiệt”(vạ miệng), nhưng laị đào hoa (phụ nữ họ mê) và có quí nhơn phù trợ (xếp lớn nâng đỡ). Khẩu thiệt thì thấy rôì, quan trên nâng đỡ thì hai lần lên lon sớm đều có sao chiếu, nhưng đào hoa thì chưa có sự trải nghiệm. Ông vốn thương vợ, dù hai người chẳng thương nhau theo kiểu tình yêu lứa đôi vơí cái nghĩa thông thường của nó, nhưng bà là một mẫu người chỉ biết có chồng con, quán xuyến gia đình như bao phụ nữ cùng thế hệ, cho nên trong thâm tâm ông mong chuyện ‘trăng sao’ đừng đến vơí ông. Lần này xa Saì gòn, laị lên miền rừng nuí, ông quyết định không mang vợ con theo. Ông đã có đủ thâm niên tác chiến, cùng lắm vaì năm ông quay laị đồng bằng. Nhưng moị chuyện laị không theo ông tính. Xếp lớn tư lệnh laị chọn ông coi ngành tiếp vận, ông không vui lắm vì ý ông là chân trong chân ngoài, chức vụ laị có phần nặng nề vì chiến trường Tây nguyên trở nên sôi động. Ông đành tìm quên trong công việc một ngày như moị ngày, bất kể ngày thường hay cuôí tuần cho đỡ nhớ vợ con.

*

Chiều cao nguyên vào những ngày cuôí thu trời se lạnh làm những kẻ xa nhà có phần trống trải cô đơn. Phố nuí cao, phố nuí buồn tênh, ông chẳng biết đi đâu. Chợt ông nhớ ra một địa chỉ, chỗ ở của một cô giáo ngươì Saìgòn nhưng laị tình nguyện lên dạy ở miền nuí. Hai ngươì mơí hôị ngộ trong một buổi trường cô nhận đỡ đầu cho một đơn vị tác chiến trong chương trình hậu phương yểm trợ tiền tuyến. Cô còn độc thân, còn ông cũng đang trong hoàn cảnh đơn chiếc. Do sự đồng cảm, laị gặp cảnh gái cần trai, trai thơì chiến, hai người không biết là đã đi xa hơn mức bình thường. Tất nhiên cảnh sắc và tiết trời cao nguyên có phần nào đồng lõa với cuộc tình vụng trôm của họ. Chỉ biết ông vốn trai Bắc kỳ có lôí noí chuyện khá hấp dẫn, chưa kể ngoaị hình, lon lá khá ăn khách ở tuôỉ sấp xỉ bốn mươi. Còn cô dù kém ông cả chục tuôỉ, laị biết ông có gia đình ở Sài gòn nhưng cũng chẳng mấy quan tâm. Cô chỉ biết cô đã tìm được một tình yêu khả dĩ thay thế, noí đúng hơn là chôn vuì môí tình đầu một lần dang dở. Họ gặp nhau thường xuyên hơn và qua hết mùa đông thì cô cho biết cô đã có thai. Cô còn thổ lộ cô muốn có con vì cô thích có con vơí ông. Ông trong hoàn cảnh khó xử laị không muốn mất nguơì yêu lẫn mất con, nên theo lao đành bước theo lao.

Công tác trên cao nguyên đã hơn ba năm, lon lá của ông đã lên thêm một cấp, chưa kể huy chương, tưởng lục đủ loại. Thằng nhỏ lấy họ mẹ có caí tên rất tây nguyên cũng đã lên hai. Dù hoàn cảnh một chốn đôi quê, ông vẫn cảm thấy ấm áp vì quả thật ‘may mà có em đời còn dễ thương’ nên ông đôỉ ý chưa muốn xuống nuí. Cô giáo hàng ngày vẫn đi dạy, lúc này đã lên hiệu phó, trông cô đang độ gái một con càng ngày càng đẹp ra.Vợ ông ở Sai gòn vẫn nhận đủ hàng tháng số luơng của ông. Bà vẫn chăm lo cho các con, chẳng thắc mắc gì chuyện của chồng. Có một lần bà lên chỗ ông để bàn một công chuyện gấp cho thằng con lớn du học, bà thấy ngươì ta xưng bà là bà giáo, bà đính chính nhưng nhân viên họ vẫn không tin.

Đầu 72 trong một cuộc hoán đôỉ phương vị các tướng lãnh cho phù hợp với tình hình mơí, tư lệnh trực tiếp của ông được điều về coi một quân đoàn, bản doanh đặt taị Biên Hòa. Xếp muốn kéo ông theo, ông chẳng có lý do gì để từ chôí, ông chẳng hay đòi về gần Sài gòn là gì? Tạm để cô giáo ở laị, ông quay về miền xuôi. Cô đâu có chịu, gửi đơn về Bộ xin thuyên chuyển vì đã quá thâm niên taị vùng sương lạnh nuí cao. Đơn được chấp thuận, cô về dạy taị Thủ đức. Chuyện gì tơí nó phaỉ tơí. Bà biết, ông cùng chẳng chôí. Bà ra điều kiện nếu chịu bỏ con ấy bà sẽ tha thứ hết, kể cả bắt thằng nhỏ về để bà nuôi cho đủ tám đứa cũng không sao. Cô giáo vừa được chồng yêu, chồng mình bây giờ đang lúc gặp thơì, có bổng lộc, hoạn lộ thênh thang. Lại không muốn kéo dài cuộc sống trong cảnh vụng trộm, cô buộc ông chọn giữa hai người, nếu chọn cô thì phaỉ… ly hôn bà lớn. Thân mình chẳng xẻ làm đôi, ông dùng kế hoãn binh, cứ tạm giữ nguyên tình trạng, ai ở đâu ở đó. Tất nhiên, con ông bảy đứa, vợ cái con cột ông đâu bỏ được, nhưng từ chốn sâu thẳm của con tim, ông thầm cám ơn cô giáo đã cho ông hiểu thế nào là vị ngọt của tình yêu, một điều ông chưa được nếm traỉ từ khi ông phải lấy vợ theo sự sắp đặt của gia đình.

Chuyện nhà chưa giải quyết xong, tình hình đất nước laị đang hôì phức tạp. Tây nguyên bắt đầu di tản, mấy tháng sau đến các tỉnh địa đầu miền Trung, chỉ còn lãnh thổ vùng ông là chưa xaó trộn. Nhưng đất nước đến hôì mạt vận, chuyện di tản là chuyện bàn ra tán vô công khai ở chốn công đường. Cơ quan ông thuộc ngành tiếp vận, có lệnh chuẩn bị phương tiện cho vợ con các vị lớn đi trước. Còn ông thì đang phân vân, vì hai “gánh” phaỉ chọn một, chuyện có chỗ thì lúc nào cũng ở diện ưu tiên. Lúc này dinh Hoa Lan (tư thất Big Minh) laị nhộn nhịp.Tình cũ nghĩa xưa, ông vẫn giữ liên lạc vơí ông Thầy. Thầy ông khuyên không nên “đi”, vì sắp có giải pháp chính trị, xấu nhất thì cũng trung lập. Dù có mất đất thì cũng chẳng xén tới lãnh thổ của ông. Ông đâm do dự không chịu cho gia đình lên danh sách chuyến bay. Về sau tìm hiểu sâu mơí biết ông chần chờ vì hy vọng gặp laị bà mẹ còn ở miền Bắc, laị nữa sang Mỹ là chuyện đôí đế chứ cũng “chua” lắm, ông đã đi Mỹ ông biết. Đêm 29 tháng 4, ông vẫn giữ liên lạc với chánh văn phòng của ông Thầy, tình hình xem ra còn vớt vát vì Đaị sứ Pháp vẫn đoan chắc vơí Thầy ông là có “giải pháp”. Nhưng rạng sáng 30 thì bạn ông bên dinh Hoa Lan báo cho ông liệu tìm đường mà… đi! Ông sững sờ, lúc này ông có là tướng thì cũng chịu.

*

Trong những ngày đầu “giải phóng”(?) vợ ông chẳng hiểu tại sao gia đình ông kẹt lại, nhưng thấy tội nghiệp cho ông, biết ông buồn nên tuyệt nhiên không đả động gì đến chuyện phòng nhì. Cô giáo cũng là đàn bà nên nhạy cảm, hiểu là những ngày tháng sắp tới thân ông còn lo chưa xong, nên tốt hơn cô phaỉ tính chuyện lo cho cô và thằng con của cô. Cô thả nổi chuyện tình và không đặt điều kiện gì làm phiền ông nữa. Để danh chính ngôn thuận về mặt hộ khẩu ông về ở với bà lớn. Tạm yên, ông quay sang thăm hõi tin tức ở quê. Bố đã mất hồi cải cách, mẹ còn nhưng hay đau yếu, các anh em chị em, người mất kẻ còn, mấy con bà cả có người làm lớn vì hồi xưa đi kháng chiến. Định bụng có dịp về quê thăm mẹ một lần, nhưng số không gặp mẹ, ông phaỉ trình diện “học tập” với chính quyền mới.

Ông được chuyển ra Bắc cải tạo, chuyến xe lửa bít bùng có đi qua địa phận quê ông. Nhìn cảnh quê qua kẽ hở thân tàu, ông khóc, đây là lần duy nhất ông khóc kể từ ngày chập chững biết đi. Trong lúc ông đi thì ở nhà sẵn có số vàng dành dụm, bà lớn dẫn con tìm đường vượt biên. Cô giáo ở lại, vẫn chưa nghỉ dạy, nên tình cũ nghĩa xưa cô lo tiếp tế cho ông chu đáo. Mấy năm sau không thấy ông về như nhà nước hứa, cô giáo nhẹ dạ đi theo một anh luật sư, đang lúc vợ bỏ cũng có một con, hai ngươì mang theo con riêng tìm đường xa xứ. Mơí đến đảo được một năm thì ông về. Ông nghe chuyện, đâm thù cô giáo sao nỡ bạc tình. Đợi cô và đứa con nhập Mỹ, ông gửi cho cô một lá thư giã từ với lời lẽ khá nặng nề trách cứ kẻ vô tâm. Bà lớn nghe phong phanh cô ta đã lấy chồng, lòng bà thơ thới bắt đầu tiếp tế thường xuyên cho ông xã. Ở quê nhà, cuộc sống cu ki tuy có buồn, rồi dần dà cũng quen, laị có tiếp tế đầy đủ xem ra sống được. Tuy có trách thầm cô giáo, ông nhìn nhận là lửa lòng vẫn chưa tắt, nhưng dứt khoát chia tay. Ít lâu sau có chương trình bảo lãnh cho thân nhân, ông cũng chẳng mặn mà cho lắm. Ông chần chờ cho đến khi đi diện H.O. về định cư taị Cali.

*

Lúc này càng về khuya càng khó ngủ, xương cốt hay nhức mỏi, có khi phải dùng cả thuốc an thần. Nhưng vốn giàu nghị lực không thích phụ thuộc người khác, ông cứ sống một mình, ăn uống sinh hoạt đều đặn khi nào yếu quá đã có nursing home. Mỹ họ rất chu đáo đốí vơí ngươì già và điều này làm ông như được an ủi. Có điều buồn là ông không còn đi sinh hoạt, gặp gỡ bạn bè như mấy năm xưa, bù lại ông giải khuây bằng các hoạt động cộng đồng quanh khu tượng đài mà mấy năm sau này xem ra nhộn nhịp hơn xưa.

Mấy bữa rầy người ta hay nghe có tiếng thở dài trong đêm phát ra từ căn phòng ông, nhất là từ hôm có chàng thanh niên trạc tuổi ba mươi ghé nhà ông, dù chỉ một lần, nhưng có làm tâm tư ông xáo trộn.Theo một người bạn già học laị thì chàng trai trẻ đó là con riêng cuả ông ở bang khác sang mời ông dự đám cưới của cậu ta. Ông bố ghẻ của cậu đã mất, chỉ còn người mẹ hình như là cô giáo nay cũng đã yếu. Gần ba mươi năm gặp lai, qua phút bỡ ngỡ ban đầu, hai cha con chuyện trò trao đôỉ với nhau khá thẳng thắn. Khi trao tấm thiệp, cậu ta xin lỗi từ ngày nhập tịch Mỹ đã đổi tên sang họ của ông, nhưng không biết ông ở đâu để xin phép trước. Ông xúc đông ra mặt, cám ơn thằng con rơi còn nhớ đến cha, nhưng xin cậu con thông cảm vì ông không thể có mặt trong tiệc cưới của cậu. Ông gưỉ lời thăm mẹ cậu và nhờ trao một kỷ vật trả lại cho bà. Chàng thanh niên cầm kỷ vật trên tay, buồn, lặng lẽ bước ra khỏi phòng. Hai người, một già một trẻ laị trở thành xa lạ như khi mới đến. Không ai đoán được tâm trạng của ông những tháng ngày kế tiếp, có chăng là âm hưởng điệu nhạc tiền chiến vẫn văng vẳng hằng đêm và thỉnh thoảng có tiếng thở dài trăn trở lúc nửa khuya…

Đỗ Xuân Tê

 

 

©T.Vấn 2011

Bài Mới Nhất
Search