T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

đỗxuântê : Chuyện Bà Kim cư xá tôi

clip_image002

Picasso: Head of a woman (1960)

 Gọi bà Kim cho tiện vì cư xá tôi ai cũng biết bà, gọi tên thật có khi phiền phức cho người viết dù câu chuyện hư cấu và không ác ý. Cư xá này vẫn là bối cảnh của một loạt chuyện tôi hay viết, mà cư dân của nó có cả ông cộng sản nằm vùng sau trở thành phó TBT của một tờ báo lớn đến ông tập kết ở rừng về sau là một hàng xóm sát cạnh căn hộ tôi; chuyện một người đàn bà chuyên đi tố người khác, thùng thư tố giác gửi cả hai nơi trước là cảnh sát bên ta sau là công an bên nớ; đến một ông trung tá có vợ bé sau ‘giải phóng’ mới biết ông là người đeo lon giả, đi trình diện học tập cùng nhóm hạ sĩ quan, xong 7 ngày ông biến mất.

Cái đinh của cư xá vẫn là người ca sĩ nữ hoàng đi chân đất, từ ngày cô dọn đi một nơi khác khang trang hơn sau khi chia tay với người chồng là một đại úy biệt kích, thì có hai người đàn bà mà dân cư xá chúng tôi ai cũng biết mặt biết tên.

Đó là một thiếu phụ trung niên đã qua thời xuân sắc, không chồng một con, có tiệm tạp hóa nhỏ nhưng không lo bán buôn lại luôn gây chuyện với hàng xóm nên chết tên với danh xưng Mụ Chó. Bà kia thân hình phổng phao nhưng trẻ hơn, có đôi mắt và nụ cười hễ liếc ai nếu là phái nam thì kẻ đó chỉ có chết.

Tôi mới về cư xá này chưa đầy một năm thì Sài gòn tắt thở. Hai con bé người làm sáng mồng một đã xin phép cô chú cho chúng con về …Củ Chi. Tiền công tính toán xong bà xã tôi cho cả tiền về xe, tôi lúc này tự nhiên lại hỏi thêm, mấy năm ở với cô chú, mấy đứa có ‘phiền’ gì không, con chị mau mắn, dạ không, chúng con đội ơn cô chú. Sau mới biết chẳng phải gia đình tôi mà đa phần ô-sin đều quê Long an Hậu nghĩa, chúng biết cư xá này ít xét sổ gia đình, vừa tránh được bom đạn vừa có chút tiền về nuôi gia đình, còn chuyện theo dõi nằm vùng không phải việc của tụi nó.

Hơn tháng sau tôi đi học tập lưu lạc ở ngoài Bắc suốt 12 con giáp, chỉ khác khi đi là năm mèo trắng khi về thì đã mèo đen. Đến năm dê tôi ra hải ngoại và đến dê này vừa đúng 24 cái xuân…tha hương.

Trở lại chuyện cư xá, nhiều cái hay hay mà lắm cái cũng chướng mắt, nhưng vui là có nhiều nhân vật và chuyện lạ để bàn. Bà Kim lần này trong tầm ngắm của người viết truyện, xét về tính cách nhân vật mang nhiều kịch tính hơn.

Năm Sài gòn mất tên, bà Kim khoảng trên dưới 40, có khuôn mặt và dáng dấp của một mệnh phụ, dù chồng là một sĩ quan cấp tá hơn bà cả mười tuổi. Không biết ông làm ngành gì, nhưng bà chỉ ở nhà trông mấy đứa con, chơi hụi và lo việc nội trợ. Bà vốn dân Hà nội, gốc gia đình khá giả, sau 54 hai đứa em kẹt lại đều đi dạy Bách khoa.

Có một giai thoại chính bà kể cho vợ tôi nghe, là sau 75 một cậu em mau mắn vào thăm chị mang theo một tấm ảnh Bác Hồ, tặng chị tưởng chị treo trong nhà cho công an đỡ để ý. Bà Kim xách thẳng vào phòng tắm treo trên tấm gương đối diện bàn cầu, khiến thằng em tá hỏa. Bà viện lẽ, treo chỗ đó để mỗi ngày đều nhìn thấy Bác.

Thằng em vội vã dỡ xuống nhét vội vào ba-lô, có trách chị sao dại dột nhưng cái hay là họ không hề tranh cãi và hồn ai nấy giữ, cậu em càng hiểu thêm tính khí của chị mình và tâm trạng phụ nữ miền Nam vốn chẳng mặn mà với chế độ mới, nhất là những gia đình có chồng con đi tù nơi rừng sâu núi thẳm, có người thân vượt biên bỏ xác trên biển khơi.

Nói vậy không hẳn bà thù ghét những người cộng sản, dù chồng đi tù cải tạo, bà vẫn ham vui nhận đóng mấy vai phụ trong các loại phim ‘thừa thắng xông lên’ cho truyền hình thành phố, do giới thiệu của một nam diễn viên khá nổi tiếng thời chế độ cũ. Chẳng hề diễn xuất nhưng nhờ dáng dấp và biết lột tả nét kiêu sa của mấy mệnh phụ thời Sài gòn vang bóng nên bà rất nhập vai vợ các ông lớn cỡ đại tá hoặc cố vấn, lại không cần lương, dù lương chết đói, mà có khi bà còn đãi ăn sáng cho mấy diễn viên cùng nhóm, chưa kể còn đi xa hơn mức tình cảm với vài diễn viên nam kém tuổi bà, chuyện này bà cũng chẳng dấu xem như ‘văn nghệ’ cho vui.

Dân cư xá khi xem phim bộ nhiều kỳ dù chỉ là vai phụ, vẫn có người trách sao đi hợp tác với mấy chuyện phim nói xấu chế độ mình. Bà chẳng quan tâm lại còn đánh tiếng tụi nó bảo có lao động diễn xuất càng có thêm công điểm chồng bà mới sớm được về! Trước mắt so với mấy bà cùng cảnh, bà được miễn đi lao động thủy điện Trị an, đỡ vất vả dãi nắng dầm mưa. Lại nữa da bà trắng và mỏng bà rất sợ nắng, chẳng còn thuốc dưỡng da tự thân bà phải lo lấy, nhất dáng nhì da vốn là điểm mạnh của thân thể bà, tha hóa đàn ông bất kể bên ta bên cộng bà chỉ cần dùng mắt.

Cứ vậy làm sao mà sống trong cảnh chồng đi tù các con còn nhỏ, dù có đứa gái lớn quán xuyến dùm bà. Chuyện này khỏi lo, bà rất giỏi xoay sở. Chỉ một năm sau bà đã có một nghề tạm gọi là nghề, ngồi chầu rìa các sòng bài nhỏ hoạt động lén lút cuối tuần mấy chỗ bà quen trong cư xá Chí Hòa. Cư xá này trước của các ông lớn bên cộng hòa, giờ chuyển chủ lại là các ông bự bên quân quản.

Chẳng hiểu sao chế độ mới tiếng là tiêu diệt các tàn dư bài bạc đĩ điễm hút xách, nhưng sao vẫn có chỗ cho dân chơi bài, chủ nhà lấy xâu, người chơi yên tâm có bảo vệ. Bà Kim chỉ ngồi xem, mang theo ít tiền thủ sẵn nếu ai thua ai thiếu bà cho vay tạm tiền tươi, phân lời cắt cổ, vốn lời phải thanh toán trong ngày, tất nhiên có đồ cầm cố lót tay. Bà cũng thích đánh bài nhưng không dám chơi, nay làm ăn kiểu này vừa có tiền chợ, lại đỡ nhàm chán khi ông xã xa nhà.

Hình như bà còn để dành đươc nhiều vàng lá, con cái không cho vượt biên nên chẳng bị lừa, chẳng có con trai nên khỏi lo lót tay để trốn nghĩa vụ, nên cũng có người không ưa khi bà hay khoe với chị em hàng xóm, tớ chẳng hề ăn vào vốn, số tớ là nhàn ngồi mát ăn bát vàng, để xem tụi này nó có cải tạo được tớ không.

Còn bây giờ nếu công an có khám nhà định kỳ, xét hộ khẩu các ngày lễ lớn đặc biệt các đối tượng có chồng đi cải tạo, thì cũng phải lé mắt khi thấy cái phòng ngủ của bà với đồ bài trí, mùi nước hoa, cái gương thật lớn và chiếc giường bà nằm, dấu vết tàn dư còn nguyên vẹn không hề nhạt phai theo năm tháng. Công an cũng chẳng làm gì được bà khi bà có tên trong Hội nghệ sĩ yêu nước, có thẻ của hội điện ảnh thành phố, con cái không làm phiền hàng xóm, gia đình anh em ở Hà nội lại là đảng viên, chưa kể công an khu vực mỗi lần về Bắc bà đều ‘mua hộ’ quà cho người thân bà coi như tặng phẩm lót tay. Các chú công an khi xem bộ phim Ông Cố Vấn còn khen bà đóng hay và không ngại cho bà quá giang đến địa điểm công tác mỗi lần khó kiếm xích lô.

Tất nhiên cả ngàn người chưa chắc đã có một mẫu người như bà, nhưng trong xã hội không phải không có những người như bà, bất kể chế độ nào khi tình tiền và những quyền lực của nó vẫn còn làm tha hóa tha nhân. Bà Kim phải nói là mẫu đàn bà khá độc đáo, khi viết về bà tôi vẫn hình dung sao có người đàn bà chi lạ. Với con mắt nhạy cảm hình như bà biết tôi cũng trong số đàn ông thích bà, nhưng không nằm trong tầm ngắm của bà vì bà rất thân với bà xã tôi, dấu ai chứ với vợ tôi bà khai báo thành thật, làm như có chỗ để bà tâm sự hoặc trút những bực dọc từ đâu đưa đến, nhờ vậy mà chuyện viết đành rằng hư cấu nhưng rất thật so với ngoài đời.

Cũng may bà vốn ham vui, lạc quan bất kể tình huống, bên nào cũng chơi, nhà nào cũng ghé, có chút khoe khoang, ăn nói ít giữ ý (nếu là đàn ông chắc đã vào Phan Đăng Lưu), hay nói về tiền bạc, rất kỵ họp tổ mỗi đêm, bà chửi chỉ làm khổ dân, mà họp bà hay nói chuyện đóng phim riết rồi tổ trưởng phải lờ đi cho bà trốn họp. Chỗ chị em thân bà hay nói chuyện tình, nhờ vậy tôi mới biết diễn viên họ Huỳnh mê bà như điếu đổ, đến khi tôi về 12 năm sau vẫn thấy dáng anh chàng này thập thò trên hành lang có căn hộ của bà. Chuyện tình dục gần như với bà là một nhu cầu. bà lại có ngón nghề ai đã đến một lần nhớ đời. Nghe đồn hồi ông xã ở nhà bà vẫn có tính lẳng lơ, thích giao du, nhảy đầm, phô trương hết công suất sắc diện và thân thể của mình.

Ông xã của bà căn bản là một người đàn ông vừa hiền vừa lịch thiệp, họ sống với nhau có hai mặt con và một thằng con nuôi lai Pháp ông nhặt về hồi đi chiến dịch ở khu 5. Có giá thú hẳn hoi nhưng cuộc sống hiểu ngầm như một giao kèo. Họ vẫn tôn trọng nhau, nhưng không xen vào chuyện của nhau. Cách biệt tuổi tác có bất lợi cho ông nhưng bà lại lệ thuộc ông về nguồn thu nhập. Ấy vậy mà chẳng hề bỏ nhau, thậm chí gia đình bà ở ngoài Bắc vốn dòng nho giáo, nên thư từ qua lại lúc nào cũng khuyên bà đừng bỏ ông trong lúc đi tù. Thằng con nuôi đi diện con lai mỗi lần gửi quà từ Pháp, biết tính lẳng lơ của ‘mẹ’, nó chuyên viết câu thòng ở phía cuối thư, ‘xin Dì đừng bỏ bố con’.

Tôi vẫn thắc mắc chuyện này, khi ra hải ngoại có lần tôi gặp một nhà thơ vốn nhiều kinh nghiệm về chuyện ân ái, hỏi ông sao có hai nhân vật khá nổi ở Cali, ngành nghề khác nhau dù vá víu từ hồi di tản họ vẫn sống chẳng hề bỏ nhau, mà xem chừng còn hạnh phúc hơn nhiều cặp nghệ sĩ khác. Nhà thơ hay viết lời cho nhiều bản nhạc không tên mỉm cười nói kiểu lững lờ, ‘chúng nó sống với nhau như một…giao kèo, bền hơn cả giá thú, cứ thế hai bên tôn trọng nhau, việc ai nấy làm nương nhau mà sống dễ hơn kiểu ghen tuông thương yêu cải lương như chú thường nghe’.

Phục ông thầy và nghiệm lại tôi thấy ông bà Kim không thể bỏ nhau. Khi ông đi tù về do bảo lãnh của gia đình bên vợ có sớm hơn với bạn bè cùng cấp, nhờ có vàng bà Kim lại lo cho ông vượt biên an toàn đến bến bờ tự do.

Mấy năm sau vô quốc tịch ông bảo lãnh cho bà và hai con về sống ở một tiểu bang xa Cali, nơi ông làm trưởng toán bảo vệ cho một công ty khá lớn. Có được job này cũng nhờ lý lịch là cựu sĩ quan và đã tu nghiệp khóa an ninh tình báo 6 tháng ở Mỹ. Bà đòi về quận Cam nắng ấm, tiện cho bà về mặt ăn uống và ngôn ngữ. Ông bảo nắng có ấm, cuộc sống có vui, nhưng cũng có cái phức tạp của nó, ở tuổi ông tìm việc lại cũng khó, thôi lâu lâu sang ăn Tết với đồng hương xem diễn hành dưới Bolsa là vui rồi, chờ khi nào bình thường hoá sẽ để bà về thăm quê mỗi năm.

Bà xã tôi có lần liên lạc lại được biết họ vẫn sống hạnh phúc, hai con gái đã lấy chồng, một Việt một Mỹ đời sống ổn định, có điều lúc này ở tuổi về chiều bà Kim lại thiếu tôn trọng ‘giao kèo’ hay tỏ ra ghen ngược với ông xã.

Đỗ Xuân Tê

bốn mươi năm nhìn lại

 

 

 

©T.Vấn 2015

Bài Mới Nhất
Search