T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

T. VẤN: Mặt trời không bao giờ có thực và ký ức Sài Gòn

Triết gia Phạm Công Thiện và hình bìa quyển sách tìm thấy ở Thư viện (Wichita-Kansas)

Hôm nay, trong lúc ghé qua một chi nhánh Thư Viện (Mỹ) gần nhà để tìm vài quyển sách cần thiết cho công việc, tôi tình cờ phát giác ra một điều: cái thư viện nhỏ xíu bằng lỗ mũi này cũng có một kệ dành cho những quyển sách bằng tiếng nước ngoài (tức không phải tiếng Anh – đến khổ, sinh sống ở hải ngọai, viết cái gì về “nước ngoài” cũng phải ghi phụ chú).

Ở một góc khá khiêm tốn của những kệ sách đầy ụ (đó là lí do mãi đến hôm nay tôi mới biết đến), tôi thấy một ngăn là sách tiếng Pháp, một ngăn là tiếng Tây ban Nha, và một ngăn nữa – ít sách hơn – là tiếng Việt. Ngồi bệt xuống đất (vì ngăn sách tiếng Việt ở dưới cùng), tôi lật từng quyển sách. Sách chưởng Kim Dung, Gia Cát Thanh Vân, sách dậy học tiếng Anh, sách văn học in ở trong nước, sách cũ miền Nam do nhà xuất bản Xuân Thu “copy” lại từ hồi những năm 80s ở Cali v.v.. Bỗng một quyển sách nhỏ đập vào mắt tôi: Mt tri không bao gi có thc của Phạm Công Thiện, sách do Trần Thi xuất bản năm 1987 tại California, USA. Thế là tôi ngồi dựa lưng vào một góc tường (kín đáo), lần giở từng trang sách.

Cái tên Phạm Công Thiện chẳng xa lạ gì với một tầng lớp sinh viên học sinh thành thị miền Nam cỡ tuổi tôi. Dạo ấy, cùng với những món văn chương thời thượng là Jean-Paul Sartre, Albert Camus v..v.., những tạp chí văn học kiểu Văn Học, Văn, Trình bày, Khởi Hành, Bách Khoa, Vấn Đề, thì những quyển sách của Phạm Công Thiện là những thứ không thể thiếu của những cậu, những cô (Cậu chiếm đa số, còn Cô chỉ là ăn theo) áo sơ mi xanh nhạt bỏ trong quần, mắt hấp háy đôi gọng kiếng cận thị. Quyển sách bán chạy nhất của Phạm Công Thiện là quyển: Ý Thc mi trong Văn ngh và Triết hc, do nhà An Tiêm của thầy Thanh Tuệ xuất bản, đã tái bản tới lần thứ 4. Quyển sách dầy cộm, cầm vừa đầy một bàn tay, được nhìn thấy bất cứ chỗ nào có ly cà phê đen (đắng nghét), có gói thuốc Bastos xanh (khét nghẹt), có nhạc Trịnh công Sơn liên tục rỉ rả (đến phát ngán) và tất nhiên, những khuôn mặt tuổi trẻ trầm tư về thân phận con người, về cuộc chiến dai dẳng, về tuổi trẻ đi hoang, về tình yêu chưa hề được nếm…Ngần ấy những ưu tư đè nặng lồng ngực lép kẹp vì thiếu dinh dưỡng nên chàng nào cũng muốn “buồn nôn”.

Thế nên, thuở ấy, cùng với những thứ thời thượng khác, đọc Phạm Công Thiện cũng là một thứ thời thượng. Giở những trang sách của Phạm Công Thiện, (tôi) đọc mà không hiểu ông ta viết gì, nhưng trong những câu chuyện cà phê đàm bên quán cóc, (tôi) vẫn say sưa nói về những điều “không hiểu” ấy trong sách của vị Triết Gia thần đồng lỗi lạc (1). Thuở ấy, ai không từng biết đến cái tên Phạm Công Thiện, ai không từng đọc (cái tên) sách Phạm Công Thiện, kẻ ấy chính thị là tên lạc hậu, là người không-trí-thức.

Thuở ấy, hầu như đi đâu cũng nghe được những câu thơ “chấn động mặt trời” của Phạm Công Thiện, kiểu:

tôi giao cu mt tri sinh ra mt trăng
tôi th
dâm thượng đế sinh ra loài người
cho quê h
ương nm nhà thương điên ca trí nh
m
t tri có thai!
m
t tri có thai!
sinh cho tôi m
t đa con trai mù mt

(Trích: Ngày Sanh của Rắn – Phạm Công Thiện . Ấn bản điện tử. Nguồn: Tiền Vệ)

Ai cũng thuộc thơ PCT (nhưng chỉ thuộc mấy câu đại lọai như vậy thôi, vì giá trị “chấn động mặt trời” chăng, chứ nếu bảo rằng hiểu, thì, như tôi, hiểu . . . chết liền (tại chỗ).

Thuở ấy, PCT viết: Phùng Pht sát Pht. Phùng Miller sát Miller (Henry Miller, nhà văn Mỹ, được PCT nhắc tới rất nhiều trong những tác phẩm của mình [2]). (Chúng) tôi cũng “thời thượng” đặt bút: Phùng Phm (Công Thin). Sát Phm (Công Thin). Phạm Công Thiện đã gặp Miller ở California, nhưng, tất nhiên, ông không giết Miller. Hãy nghe ông kể: “Năm 1965, tôi được gp Henry Miller ti Pacific Palisades California. Tri đt đã sp đt cho tôi gp Henry Miller ti Huê kỳ đ được ông “đim đo”. Chứ không phải để “sát”. Hiện nay, tôi được biết Phạm Công Thiện cũng ở Mỹ. Dù ở Mỹ cũng đã lâu, cũng đã từng đi đây đi đó, nhưng tôi chưa bao giờ gặp ông, để tôi có thể “sát Phạm Công Thiện”. Thực ra, cái ý nghĩa “sát” trong câu “Phùng Phật Sát Phật” , như chính PCT giải thích: “giết Pht đây không có nghĩa là giết Pht, mà có nghĩa là giết ông “Pht” mà ta đã chp trong trí ta.” Tôi cũng muốn mượn cái nghĩa “sát” ấy để “sát Phạm (Công Thiện)” vì đã hơn 40 năm qua đi, sống gần hết một đời, đã cay đắng kinh qua cái thân phận buồn thảm của con người, đã đi vào chiến tranh và ra khỏi chiến tranh, đã đi vào thù hận và ra khỏi thù hận (tôi hy vọng như vậy), đã nếm được vị ngọt (và đắng) của tình yêu, vậy mà cứ mỗi lần đọc cái tên Phạm Công Thiện là cả một ký ức của Sài Gòn năm xưa cứ đội mồ sống dậy. Vì thế, tôi muốn – một lần và mãi mãi – gặp Phạm Công Thiện để thanh toán cho xong “cái quá kh đã chp trong trí tôi”.

Như hôm nay, ngồi thu lu trong góc khuất một thư viện tỉnh lẻ, lần giở từng trang viết Phạm Công Thiện của một thời (3), như lần giở từng trang đời của một thế hệ. Ngày xưa, chưa bao giờ tôi đọc xong một quyển sách nào của PCT, dù lúc nào cũng cầm một quyển trên tay. Có lẽ vì tôi chưa đủ “nội lực” để hiểu. Vì thế, những trang sách mù mờ dang dở nối tiếp nhau làm chứng cho những dang dở của cuộc đời. Ngày nay, tôi cũng có đủ những quyển sách của PCT trong tay (dù dưới hình thức e-book), chỉ cần một cái nhấp chuột, là quyển sách (điện tử) lại nằm gọn trong tầm mắt. Và tôi cũng chưa bao giờ đọc xong bất cứ tác phẩm nào của ông. Tại tôi vẫn chưa đủ nội lực? (có lẽ vậy) hay mỗi khi mở sách PCT là những trang sách mù mờ của quá khứ cứ đè trĩu tâm tư, nhắc nhở tôi những dang dở mà chắc là tôi sẽ không bao giờ hoàn tất. [T.Vn]

(1)Hãy nghe chính vị triết gia nói về mình trong lần tái bản thứ tư của quyển YTMTVNVTH: “Tôi thc s bt đu viết quyn Ý thc mi trong văn ngh và triết hc vào năm 1960 (thc s khi t năm 1959), nghĩa là lúc tôi được mười tám và mười chín tui. Bây gi tôi gn 30 tui. Bao nhiêu nước chy trôi phăng qua cu trong mười năm tri. Bây gi nhìn li chng đường xưa, tôi không ng lúc 18 – 19 tui tôi li thông minh d thương như vy, ri nh li lúc 13-14 tui cho đến lúc 16 tui, tôi đã xut bn mt quyn, sách v ngôn ng hc và đã viết trên 20 quyn sách v văn hc quc tế và ngôn ng hc (trong đó có mt quyn mà Nguyn Hiến Lê đ ta gii thiu và ngc nhiên không ng tôi mi 16 tui), sau này khi tôi được 18 tui thì tôi đt sch hết tt 20 quyn y!” (n bn đin t . Ngun: Talawas )

(2)Một đọan trích trong YTMTVNVTH , Phạm Công Thiện viết về Henry Miller: “ . . .Hãy đt hết. Ch cha li nhng quyn sách ca Henry Miller. Đt hết và ch cha Henry Miller. Hãy đc Henry Miller đi. M rng đôi mt ra mà đc. M rng trái tim ra mà đc. Khi đc xong ri thì đt luôn Henry Miller. Đt hết. Không cha gì c, đt luôn c trái tim lnh lo ca ta. Đt luôn c cuc đi cht hp ca ta… C thế gii s ngùn ngt la khói. Tt c thư vin đu bc cháy đ rc, tt c nhng quyn sách ca nhân loi s thành tro bi. Hi loài người, hãy cười ngt lên, hãy thc tnh, hãy đng dy, hãy dang hai tay lên tri, ngn la thiêng ca thế gii s lan tràn khp nơi. Khi tt c nhng quyn sách ca trn gian đã biến thành tro bi; lúc by gi, hi loài người, ta hãy đng im lng, trang trng ngm nhìn mây trng bay v ngút tri xanh và lng tai nghe tiếng chim kêu vang ca trái đt: Triêu Dương ca Mùa Xuân Vĩnh Cu bt đu ng trên trn gian; mt đoá hoa trng bng n rung rinh trên đng tro tàn điên lon… Khi viết chương này, tôi chưa tng gp Henry Miller. Năm 1965, tôi được gp Henry Miller ti Pacific Palisades California. Tri đt đã sp đt cho tôi gp Henry Miller ti Huê kỳ đ được ông “đim đo”. Sau khi được đim đo thì tôi lên sng ti Nu Ước, sng t đa ngc này đến đa ngc khác, ri li lang thang lê lết Paris t quán cà phê này đến quán cà phê khác, đ ri mt ngày h do đó được gp mt Krishnamurti ti Paris dưới bóng nhng cây marronnier xanh đm, trn ln vi tóc trng ca mây và màu xám ca nhng đường ph lót gch.” (n bn đin t . Ngun: Talawas )

(3)Quyển “Mặt trời không bao giờ có thực” mà tôi đang cầm trên tay (Trần Thi xuất bản năm 1987 tại California, USA), có những chi tiết khá thú vị, khiến tôi không thể không nói đến.

Thứ nhất, ngay trên trang đầu tiên, một độc gỉa nào đó – trước tôi – đã dùng bút chì ghi hàng chữ: “tất cả triết gia đều là những kẻ bị ung thư tinh thần- 12-10-94”. Kẻ viết những dòng này, dường như cũng mang một tâm trạng nào đó đầy những uẩn khúc.

Thứ hai, nhiều phần trong tác phẩm được minh họa bởi những bức vẽ của một người tên Trần Thị Loan, những bức vẽ mà ông nhận xét rằng: “Nhng bc tranh v thơ mng trong Mt tri không bao gi có thc do Trn Th Loan thc hin mt cách linh đng man mác đ đánh du mt ngày và mt đêm nào đó đã đi vào chiêm bao vn đi.” (Sđd- không có số trang ). Quả thật, xem những bức vẽ và đọc lời nhận xét của ông, tôi cứ như người đi lạc vào sương mù. Tôi không thấy lối ra.

T.Vấn

©T.Vấn 2010

Bài Mới Nhất
Search