T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Hòai Nam: NHỮNG CA KHÚC NHẠC NGOẠI QUỐC LỜI VIỆT (80 – phần I) – NHẠC PHIM – Eternally (Terry’s Theme, Limelight), Chaplin & Parsons, Turner, Ánh Đèn Màu

Bài thứ nhất trong phần viết về những ca khúc trong phim, hoặc từ nhạc phim được đặt lời Việt, chúng tôi xin giới thiệu bản Eternally, một ca khúc do Charlie Chaplin soạn nhạc, Geoffery Parsons và John Turner đặt lời hát, được Nguyễn Xuân Mỹ, Phạm Duy và nhiều tác giả khác đặt lời Việt với tựa Ánh Đèn Màu, Tình Tôi, Đời Ca Nhi

Thực ra, theo sự phân định trong bài Dẫn Nhập về Nhạc Phim của chúng tôi, ca khúc đầu tiên trong phần này lẽ ra phải là bản Les Feuilles Mortes, do Joseph Kosma phổ thơ Jacques Prévert, được Yves Montand trình bày trong cuốn phim Pháp Les Portes de la Nuit (1946), sau đó được Johnny Mercer đặt lời Anh với tựa Autumn Leaves, đã được ít nhất năm tác giả đặt lời Việt (Những chiếc lá úa, Lá mùa thu, Lá rụng, Tình như lá rụng, Tình khúc mùa thu).

Tuy nhiên, vì tính cách bất hủ cũng như mức độ phổ biến của Les Feuilles Mortes/ Autumn Leaves, chúng tôi đã giới thiệu ca khúc này ngay trong phần đầu của loạt bài, xem đó như một trong những ca khúc điển hình nhất của đầu thời kỳ hiện đại, cùng với La Paloma, Besame Mucho…

Eternally nguyên là nhạc khúc Terry’s Theme trong cuốn phim Limelight của Charlie Chaplin, được Geoffery Parsons và John Turner đặt lời hát.

Limelight được thực hiện năm 1952 nhưng mãi tới năm 1973 mới  được dự tranh Oscar, và đoạt giải cho phần nhạc phim bi kịch (best original dramatic score).

Tại sao phải đợi hơn 20 năm sau ngày phát hành Limelight mới được dự tranh giải Oscar?

Để trả lời câu hỏi này, thiết nghĩ cũng cần sơ lược về cuộc đời ly kỳ, sự nghiệp rực rỡ, và mối quan hệ cay đắng với người Mỹ của Charlie Chaplin – mà người Việt thường gọi là “Vua hề Charlot”, một trong những tên tuổi lớn nhất, và cũng gây tranh luận nhiều nhất trong lịch sử điện ảnh.

Sir Charles Spencer Chaplin, KBE, thường được gọi là Charlie Chaplin, ra chào đời ngày 16 tháng 4 năm 1889 dưới một ngôi sao xấu. Không ai nhớ đích xác nơi sinh của ông, chỉ biết đó là một vùng ngoại ô phía nam thủ đô Luân-đôn.

 [Cách viết tên họ chính thức “Sir Charles Spencer Chaplin, KBE” cho biết Charlie Chaplin đã được Hoàng gia Anh phong tước hiệp sĩ (knighted) và ân thưởng huân chương KBE (Knight Commander of the Most Excellent Order of the British Empire), huân chương cao quý hạng nhì trong số năm huân chương của Đế quốc Anh, gồm GBE, KBE (DBE cho nữ giới), CBE, OBE, và MBE]

Vào lúc Charlie Chaplin ra chào đời, cha mẹ ông đều là nghệ sĩ “music hall” (ngày nay gọi là “variety” – tạp lục): bà mẹ Hannah là một nữ kịch sĩ không tên tuổi, ông bố Charles Chaplin Sr. là một nam ca sĩ khá ăn khách.

Khi Charlie Chaplin lên 2 tuổi, cha mẹ ông chia tay (mặc dù hai người không bao giờ chính thức ly dị). Trước khi lấy Charles Chaplin Sr., Hannah đã có một con trai ngoại hôn, Sydney John Hill, và một năm sau khi chia tay chồng, bà lại có thêm một con trai ngoại hôn khác, George Wheeler Dryden, với nam đồng nghiệp Leo Dryden; mấy tháng sau, bé George được ông bố Leo đem về nuôi, còn người anh Sydney thì gắn bó với Charlie Chaplin suốt đời.

Vì không được ông Charles Chaplin Sr. chu cấp, Hannah và hai con trai (Sydney, Charlie) sống trong nghèo khổ. Từ năm Charlie lên 7, cậu và người anh trai Sydney đã được mẹ gửi vào viện tế bần nhiều lần.

Tháng 9/1898, do hậu quả của bệnh hoa liễu và thiếu dinh dưỡng, tình trạng rối loạn tâm thần của Hannah trở nên trầm trọng, phải đưa vào nhà thương điên Cane Hill Asylum ở Luân-đôn. Sydney và Charlie được cơ quan hữu trách đưa tới sống với ông Charles Chaplin Sr. (cha ruột của Charlie), nhưng vào thời gian này, ông ta đã trở thành một tay nghiện rượu nặng, đối xử tàn tệ với hai cậu bé khiến cơ quan bảo vệ trẻ em (National Society for the Prevention of Cruelty to Children) đã có lần phải can thiệp.

Hai năm sau, ông Charles Chaplin Sr. qua đời vào tuổi 38 vì xơ gan,  Sydney bỏ đi đăng lính Hải Quân, còn Charlie về sống với mẹ, lúc này đã được xuất viện, sống trong một “workhouse”.

[Tại Anh quốc và xứ Wales, “workhouse” có nghĩa chung chung là “cơ sở an sinh xã hội do nhà nước thiết lập để cung cấp chỗ ở và việc làm cho những người không thể tự lực cánh sinh”]

Nhưng tới năm 1903, bệnh tâm thần của Hannah tái phát và bà bị đưa trở lại nhà thương điên Cane Hill Asylum. Charlie Chaplin, khi ấy mới 14 tuổi, phải sống một thân một mình cho tới lúc Sydney, người anh cùng mẹ khác cha đã đăng lính Hải Quân, trở về. Tám tháng sau, bà Hannah được xuất viện, nhưng tới đầu năm 1905 lại bị tâm thần trở lại, và lần này là vĩnh viễn; bà sống trong nhà thương điên cho tới cuối đời (1928).

Tuổi niên thiếu bi thảm của Charlie Chaplin về sau đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới khuynh hướng sáng tạo, xu hướng xã hội và lập trường chính trị của một tài năng xuất chúng. Khuynh hướng ấy là khôi hài cay đắng, xu hướng, lập trường ấy là thiên tả.

* * *

Charlie Chaplin tỏ ra có năng khiếu kịch nghệ từ nhỏ. Sau này ông hồi tưởng có lần được mẹ đưa lên sân khấu vào năm mới lên 5. Với sự khuyến khích của mẹ, Charlie Chaplin ôm mộng trở thành một diễn viên hài kịch, nhưng không có người hướng dẫn, giới thiệu. Năm 10 tuổi, qua sự quen biết của ông bố, Charlie Chaplin trở thành một thành viên của nhóm nhảy “clog-dancing” Eight Lancashire Lads, trình diễn tại các music hall trong 2 năm 1899, 1990.

Mặc dù nhóm Eight Lancashire Lads khá ăn khách, Charlie Chaplin cũng không bỏ mộng diễn viên hài kịch. Năm 13 tuổi, cậu rời nhóm này đồng thời bỏ học, vừa làm đủ mọi thứ nghề vừa tìm cách tiến thân trên sân khấu West End của Luân-đôn (tương đương Broadway ở Nữu Ước).

Năm 14 tuổi, sau một số vai trò không đáng kể, Charlie Chaplin được trao vai cậu bé giúp việc Billy trong vở (thám tử) Sherlock Holmes khi lưu diễn ở các tỉnh lẻ. Sau ba chuyến lưu diễn, nhờ tỏ ra xuất sắc, Charlie Chaplin đã được cho thủ vai này trên sân khấu West End cho tới khi vở này chấm dứt 2 năm rưỡi sau đó…

Tới năm 18 tuổi, Charlie Chaplin đã được xem là một diễn viên hài kịch đầy khả năng, và được Sydney Chaplin, người anh cùng mẹ khác cha lúc đó là một diễn viên trong đoàn kịch nổi tiếng Fred Karno, giới thiệu.

Chẳng bao sau, Charlie Chaplin đã trở thành một trong những diễn viên chính của đoàn kịch này, và tới năm 1910 đã được tuyển chọn vào nhóm lưu diễn Bắc Mỹ, trong đó có cả chàng Stan Laurel của cặp bài trùng “Laurel and Hardy” sau này.

[Các độc giả cao niên hẳn còn nhớ “Laurel and Hardy”, cặp hài nổi tiếng nhất thời tiền chiến, gồm Stan Laurel (1890–1965) của Anh quốc và Olivier Hardy (1892–1957) của Mỹ quốc. Hai người đã đóng chung trong 107 cuốn phim dài và phim ngắn. Sau này, cặp Dean Martin và Jerry Lewis của Mỹ đã bắt chước Laurel and Hardy, tuy có đạt thành công thương mại nhưng về mặt nghệ thuật, không thể sánh với “Laurel and Hardy”]

Qua chuyến lưu diễn này, Charlie Chaplin đã được ca tụng là “một trong những diễn viên kịch câm (pantomime) tài ba nhất xưa nay”!

Chuyến lưu diễn kéo dài 21 tháng, và sau khi trở về Luân-đôn vào tháng 6/1912, tới tháng 10 cùng năm đã trở lại Bắc Mỹ theo yêu cầu của người ái mộ.

Chính trong chuyến lưu diễn thứ hai này, cánh cửa điện ảnh đã mở rộng đón chào Charlie Chaplin.Trước hết, Charlie Chaplin được hãng phim New York Motion Picture Company mời ký hợp đồng với thù lao 150 Mỹ kim một tuần (tương đương 3,714 Mỹ kim hiện nay).

Tháng 12 năm 1913, chàng diễn viên 24 tuổi tới phim trường Keystone Studios (của hãng phim New York Motion Picture Company) ở Los Angeles, và trong thời gian chờ đợi vai trò đã tự học hỏi cách làm phim.

Tháng 2/1014, Charlie Chaplin đóng cuốn phim đầu tiên trong sự nghiệp của mình, Marking a Living, một cuốn phim câm (silent movie) dài 13 phút, mà ông không thích một chút nào, nhưng qua đó đã được một nhà bình phim ca tụng là “nhà hài kịch đầu tiên của thế hệ mới”!

Khi chuẩn bị đóng cuốn phim thứ hai, Mabel’s Strange Predicament,  dài 17 phút, Charlie Chaplin nảy sinh sáng kiến tạo cho mình một hình ảnh độc đáo mà sau đó đã trở thành “cầu chứng” của ông: cái quần rộng thùng thình nhàu nát, cái áo khoác chật ních, cái mũ quả dưa quá nhỏ, đôi giày thật rộng, cái gậy chống cong cong, vẽ mặt như một tay hề, và đeo bộ ria mép giả giống như cái bàn chải đánh răng.

Thế nhưng, cuốn phim thứ ba của Charlie Chaplin, một cuốn phim dài 6 phút dành cho nhi đồng tựa đề Kid Auto Races at Venice lại ra ra mắt khán giả trước cuốn phim Mabel’s Strange Predicament hai ngày.

Trong Kid Auto Races at Venice, Charlie Chaplin thủ vai nhân vật “the Tramp” (có người gọi là “Little Tramp”), vì thế hình ảnh độc đáo của ông đã được mọi người gọi là “the Tramp”, còn ở các quốc gia nói tiếng Pháp, chịu ảnh hưởng văn minh Pháp gọi là “Charlot”.

[“Tramp” trong tiếng Anh nghĩa đen là một người đi chân đất lang thang khắp nơi để kiếm việc làm, hoặc ăn xin. “Charlot” tiếng Pháp danh từ riêng là tên phái nam, bắt nguồn từ tên con trai Hoàng đế Charlemagne: (Charles + ot = Charlot, cậu Charles nhỏ), phái nữ là “Charlotte”; trường hợp là danh từ chung có nghĩa là thằng hề]

Cuốn phim kế tiếp, Caught in the Rain, dài 16 phút, thực hiện vào tháng 4/1914, do chính Charlie Chaplin đạo diễn, đạt thành công rực rỡ. Từ đó, Charlie Chaplin được trao công việc đạo diễn tất cả mọi cuốn phim ngắn của ông ở phim trường Keystone Studios, trung bình mỗi tuần một cuốn.

Tháng 11 năm, đó, Charlie Chaplin đóng cuốn phim dài đầu tiên, rất thành công về mặt tài chính và tạo thêm tên tuổi cho chàng diễn viên trẻ. Nhưng vì Keystone Studios không chịu tăng lương, tới cuối tháng 12, Charlie Chaplin đầu quân cho hãng phim Essanay Film Manufacturing Company.

Tại hãng phim mới, Charlie Chaplin được trao phần lớn trách nhiệm trong việc thực hiện các cuốn phim của mình; đồng thời việc khám phá ra “nàng thơ” (muse) Edna Purviance đã thay đổi chiều hướng  sáng tạo của chàng diễn viên hài kịch.

Nguyên trong lúc đang tìm một nữ diễn viên trẻ cho cuốn phim A Night Out, Charlie Chaplin tình cờ gặp cô thư ký văn phòng Edna Purviance 20 tuổi trong một quán cà-phê, và mặc dù cho rằng cô quá nghiêm chỉnh để trở thành một diễn viên hài kịch, Charlie Chaplin đã bị nhan sắc của cô chinh phục.

Trong thời gian thực hiện A Night Out, Charlie Chaplin và Edna Purviance bắt đầu quan hệ tình cảm. Dù cuộc tình chỉ bền được 2 năm, Edna Purviance đã trở thành “nàng thơ” trên màn bạc của Charlie Chaplin trong suốt 8 năm trời qua 35 cuốn phim.

Cùng thời gian, Charlie Chaplin bắt đầu chuyển hướng từ thể loại hài kịch bị phê bình là “độc ác, thô bạo, thiếu nhân bản” chuyển sang thể loại êm đềm, lãng mạn hơn.

Từ năm 1915, Charlie Chaplin đã trở thành một hiện tượng, cửa hàng nào cũng bày bán hình nộm “the Tramp”, và chàng diễn viên 26 tuổi được ghi nhận là “ngôi sao quốc tế” đầu tiên của kỹ nghệ điện ảnh.

Khi hợp đồng với hãng phim Essanay chấm dứt vào cuối năm 1915, Charlie Chaplin đã được hãng Mutual “mua” với thù lao 10,000 Mỹ kim một tuần, cộng với 150,000 bonus khi ký hợp đồng, vị chi một năm Charlie Chaplin bỏ túi 670,000 Mỹ kim (tương đương 15.1 triệu ngày nay) và trở thành diễn viên điện ảnh có thù lao cao nhất thế giới!

Năm 1919, thời gian đã mãn hợp đồng với Mutual Film Corporation và đang đầu quân cho hãng First National, Charlie Chaplin đã cùng với ba tên tuổi lớn của điện ảnh thời bấy giờ là diễn viên kiêm nhà sản xuất phim Douglas Fairbanks, đạo diễn kiêm nhà sản xuất D. W. Griffith, nữ diễn viên kiêm nhà sản xuất phim Mỹ gốc Gia-nã-đại Mary Pickford đứng ra thành lập hãng phim độc lập United Artists, về sau quy tụ một lực lượng nghệ sĩ hùng hậu bậc nhất.

[Mary Pickford (1892-1979), được mệnh danh là “America’s Sweetheart”, là một trong 36 thành viên sáng lập Hàn làm viện Nghệ thuật và Khoa học Điện ảnh (Academy of Motion Picture Arts and Sciences) vào năm 1917]

Việc thành lập hãng phim độc lập United Artists là một bước ngoặt trong sự nghiệp của Charlie Chaplin, đồng thời manh nha một sự đối nghịch giữa chàng diễn viên kiêm nhà làm phim gốc Anh với kỹ nghệ điện ảnh Hoa Kỳ.

Cùng khoảng thời gian nói trên, Charlie Chaplin trải qua một cuộc hôn nhân bất đắc dĩ với nàng tiểu minh tinh Mildred Harris xinh đẹp.

Viết là bất đắc dĩ bởi Charlie Chaplin chỉ muốn cặp kè chứ không muốn tiến tới hôn nhân, nhưng sau khi Mildred Harris cho biết nàng đã có thai, Charlie Chaplin đã phải âm thầm kết hôn với cô bé 16 tuổi để tránh rắc rối với pháp luật. Sau đó mới biết mình bị Mildred Harris “xí gạt”, nhưng rồi cô cũng có thai thật và tới tháng 9/1918 cho ra chào đời một bé trai bị dị tật, Norman Spencer Chaplin, chỉ sống được ba ngày. Charlie Chaplin và Mildred Harris chia tay tháng 4/1920.

Cái chết của đứa con trai đầu lòng cùng với hồi ức về tuổi ấu thơ bất hạnh của bản thân đã thúc đẩy Charlie Chaplin thực hiện cuốn phim The Kid đầy tính chất nhân bản, trong đó “the Tramp” trở thành người bảo vệ một cậu bé lạc loài 4 tuổi.

Đây là cuốn phim bi hài kịch đầu tiên và cũng là cuốn phim dài nhất của Charlie Chaplin (68 phút) tính tới lúc đó. Trình chiếu vào tháng 1/1921, tới năm 1924, The Kid đã được chiếu tại trên 50 quốc gia – một kỷ lục vào thời phim câm.

Năm 1922, không còn bị ràng buộc bởi hợp đồng với các hãng phim,

Charlie Chaplin quyết định thực hiện một cuốn phim tình cảm lãng mạn tựa đề A Woman in Paris, nội dung nói về một cuộc tình sớm tan vỡ.

Mục đích của Charlie Chaplin khi thực hiện cuốn phim là để lăng-xê “nàng thơ” Edna Purviance, người tình cũ của ông; vì thế ông đã không xuất hiện trong cuốn phim này, sợ Edna Purviance bị lu mờ.

A Woman in Paris được giới bình phim ca tụng, nhưng lại thất bại thê thảm về mặt tài chính, bởi chẳng ai muốn đi xem “một cuốn phim của Charlie Chaplin mà không có Charlie Chaplin”!

Thất bại này khiến Charlie Chaplin vô cùng chán nản bởi vì đã từ lâu ông chỉ mong ước thực hiện một cuốn phim bi kịch qua đó hậu thế sẽ nhớ tới tên tuổi của mình. Vì thế ông quyết định thu hồi tất cả mọi ấn bản của A Woman of Paris, xem như không có cuốn phim này trong sự nghiệp của mình!

Charlie và Edna Purviance

Thất bại với A Woman of Paris, Charlie Chaplin trở lại với thể loại hài kịch, và quyết định cuốn phim sắp tới của mình sẽ là một cuốn phim để đời. Cuốn phim đó chính là The Gold Rush (1925), trước năm 1975 chiếu tại Sài Gòn dưới tựa đề tiếng Pháp La ruée vers l’or (Đổ xô tìm vàng).

Charlie Chaplin nảy sinh ý định thực hiện The Gold Rush khi thấy một tấm hình chụp “Klondike Gold Rush”, tức cuộc di dân ồ ạt của hơn 100,000 người Mỹ ở Seattle, San Francisco tới vùng Klondike ở tây bắc Gia-nã-đại sau khi vàng được khám phá tại đây. Kết quả, trong khi một số nhỏ trở nên giàu có thì đại đa số dở sống dở chết, thậm chí bỏ mạng nơi vùng băng tuyết buốt giá.

Cảnh để đời trong phim The Gold Rush, như nhiều độc giả có thể còn nhớ, chính là cảnh “the Tramp” đói quá phải luộc đôi giày của mình để… ăn, được gợi ý từ câu chuyện lịch sử bi thảm The Donner Party, kể về cuộc hành trình gian khổ đầy bất trắc của đoàn di dân từ Missouri tới California vào giữa thế kỷ 19, bị kẹt trong vùng núi tuyết Sierra Nevada trong mùa đông buốt giá; trong số 87 người tham gia cuộc hành trình chỉ có 48 sống sót, trong đó có những người đã phải ăn thịt xác chết đồng loại.

The Gold Rush là cuốn phim thực hiện mất nhiều thời gian nhất (15 tháng) và cũng là một trong những cuốn phim tốn kém nhất (1 triệu Mỹ kim) của thời phim câm. Đồng thời cũng là một trong những cuốn phim có số thu cao nhất (5 triệu), và quan trọng hơn cả, trở thành cuốn phim đi liền với tên tuổi của Charlie Chaplin như ông đã mong ước.

Trong thời gian thực hiện The Gold Rush (1924), Charlie Chaplin, lúc đó 35 tuổi, kết hôn lần thứ hai; cô dâu cũng là một nàng tiểu minh tinh mới 16 tuổi, Lita Grey, được chọn để thủ một vai phụ trong phim, nhưng phim chưa kịp thực hiện thì cô có đã có bầu với Charlie Chaplin. Để tránh bị truy tố về tội “hiếp dâm trẻ em” theo luật tiểu bang California, Charlie Chaplin đã phải đưa Lita Grey sang Mễ-tây-cơ để làm thủ tục kết hôn vào cuối năm 1924.

Đầu tháng 5/1925, bé trai Charles Spencer Chaplin Jr. ra chào đời; và cuối tháng 3/1926 tới lượt cậu em Sydney Earl Chaplin.

Tám tháng sau, Lita Grey đem hai con bỏ nhà ra đi. Tiếp theo là cuộc ly dị cay đắng và đầy tai tiếng. Chẳng hiểu bằng cách nào mà báo chí biết được nội dung đơn ly dị của Lita Grey, trong đó Charlie Chaplin bị cô vợ trẻ tố cáo ngoại tình, hành hạ vợ, và “có những khao khát tình dục phản đạo đức” (perverted sexual desires).

Vụ xì-căng-đan này đã khiến Charlie Chaplin bị khủng hoảng tinh thần trầm trọng, phải ngưng công việc thực hiện cuốn phim The Circus trong tám tháng trời; đồng thời nhiều tổ chức gia đình ở Mỹ lên tiếng kêu gọi tẩy chay phim của ông.

Sau đó, để tránh việc bị báo chí, dư luận đào bới thêm, các luật sư của Charlie Chaplin đã phải dàn xếp trả cho Lita Grey 600,000 Mỹ kim, số tiền bồi thường ly dị lớn nhất trong lịch sử tòa án Hoa kỳ, tính tới lúc đó.

Mặc dù bắt đầu bị nhiều người Mỹ tẩy chay, phản đối, trong giải Oscar lần đầu tiên được tổ chức vào tháng 5/1929, Charlie Chaplin đã được trao tặng giải Oscar Danh dự (Honorary Oscar) qua việc diễn xuất, viết kịch bản, đạo diễn, và sản xuất cuốn phim The Circus. Rất có thể nhờ ảnh hưởng của nam diễn viên kiêm nhà sản xuất phim Douglas Fairbanks, một người bạn của Charlie Chaplin, lúc đó đang giữ chức Chủ tịch Hàn làm viện Nghệ thuật và Khoa học Điện ảnh, tổ chức sáng lập giải thưởng Oscar.

Sau đó, sự bất đồng và bất hòa giữa Charlie Chaplin và người Mỹ càng gia tăng khi ông ra sức chống lại việc thực hiện phim có đối thoại (talking pictures, talkies).

Xin được nhắc lại, vào ngày 21 tháng 6 năm 1929 tại Luân-đôn, đạo diễn Anh Alfred Hitchcock đã trình chiếu Blackmail,  cuốn phim đầu tiên có đối thoại, tạo tiếng vang lớn và đạt thành công rực rỡ về mặt tài chính.

Charlie Chaplin chống phim có đối thoại vì cho đó là hình thức phim kém nghệ thuật diễn xuất, và, cho dù ông không nói ra điều này, nếu nhân vật “the Tramp” của ông mà nói trong phim (tiếng Anh dĩ nhiên), mức độ phổ biến trên thế giới chắc chắn sẽ bị suy giảm!

Vì thế, cuốn phim tiếp theo đó của Charlie Chaplin, City Lights (Ánh đèn đô thị), vẫn được ông thực hiện dưới hình thức phim không có đối thoại, nhưng có nhạc phim.

Nội dung City Lights là một “hài kịch làm rơi lệ”, trong đó “the Tramp” yêu một cô gái mù bán hoa ở góc phố, đồng thời kết bạn với một tay triệu phú lúc say lúc tỉnh, đã tìm cách lợi dụng tiền bạc của ông ta (vào những lúc ông ta say) để giúp cô gái giải phẫu mắt; sau khi cô được sáng mắt thì lại không biết ai là ân nhân của mình…

Đặc biệt, đây là lần đầu tiên, Charlie Chaplin đảm trách việc soạn nhạc phim. Cũng nên biết, Charlie Chaplin say mê âm nhạc từ nhỏ, và đã tự học dương cầm, vĩ cầm và trung hồ cầm (cello). Khi soạn nhạc, vì không biết ký âm pháp, Charlie Chaplin đã phải nhờ các nhà soạn nhạc chuyên nghiệp giúp đỡ. Với phương thức đó, Charlie Chaplin đã soạn nhạc phim cho City Lights và tất cả mọi cuốn phim sau này của ông.

Theo các nhà phê bình, phần nhạc phim trong City Lights phải được đánh giá là bất hủ. Tuy nhiên, vì phương tiện thưởng thức tại Việt Nam ngày ấy còn rất hạn chế, đã không có mấy người biết tới tài soạn nhạc của Charlie Chaplin.

Vừa trình chiếu, City Lights đã được các nhà bình phim hết lời ca tụng, thu vào 5 triệu Mỹ kim. Hiện nay, City Lights  đang được trang mạng bình phim IMDb xếp hạng 25 trong danh sách 500 cuốn phim hay nhất xưa nay, và trang mạng The Greatest Films (tổng hợp mọi danh sách) xếp hạng 46.

Riêng Viện Phim Ảnh Hoa Kỳ (AFI: American Film Institute) vào năm 2007 đã xếp City Lights  đứng hạng 11 trong danh sách Những cuốn phim Mỹ hay nhất xưa nay. Trước đó, vào năm 1991, Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đã liệt City Lights  vào danh sách di sản văn hóa.

Về phần Charlie Chaplin, cho tới cuối đời, City Lights  vẫn là cuốn phim ông ưng ý nhất.

City Lights

* * *

Mặc dù City Lights  đạt thành công rực rỡ, Charlie Chaplin cũng cảm thấy lo ngại cho những cuốn phim (không có đối thoại) sắp tới của mình. Một mặt ông cho rằng hình thức phim có đối thoại không thích hợp với chiều hướng làm phim của mình, một mặt ông lại lo sợ bị khán giả chê cười là người lạc hậu!…

Trong tâm trạng hoang mang ấy, Charlie Chaplin tạm ngưng mọi công việc để làm một chuyến nghỉ hè vô hạn định, du lịch nhiều quốc gia Tây Âu, lâu nhất là ở Pháp và Thụy-sĩ, nơi ông gặp gỡ những nhà tư tưởng (thinkers) cấp tiến, và bắt đầu chịu ảnh hưởng khuynh tả của họ.

Sau khi trở về Los Angeles, Charlie Chaplin có ý định giải nghệ vĩnh viễn và tới sống ở Trung Hoa, nhưng tất cả đã thay đổi khi ông gặp gỡ nữ diễn viên Paulette Goddard vào tháng 7/1932; tuy đã qua một đời chồng nhưng chỉ bằng nửa số tuổi của ông (21/42).

 [Paulette Goddard (1910-1990) tên thật là Marion Levy, xuất thân là một người mẫu trẻ con kiêm diễn viên thần đồng trên sân khấu kịch nghệ Broadway. Paulette Goddard lấy chồng bốn lần và ly dị đủ bốn lần; đời chồng thứ tư của bà là văn sĩ Đức Erich Maria Remarque, tác giá cuốn truyện nổi tiếng được dựng thành phim: All Quiet on the Western Front – Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh]

Ngay sau khi cặp với Paulette Goddard, Chaplin Charlie bắt tay vào việc thực hiện một cuốn phim hài kịch để nàng thủ vai chính: Modern Times (chiếu tại Việt Nam dưới tựa tiếng Pháp Les Temps Modernes).

Cốt truyện của Modern Times kể về cuộc mưu sinh vất vả của “the Tramp” và nữ nhân vật chính trong cuộc Đại khủng hoảng (Great Depression) thập niên 1930, mà Charlie Chaplin quy trách cho chế độ tư bản và phương pháp sản xuất dây chuyền đã gây ra nạn thất nghiệp trầm trọng.

Cũng giống City Lights, Modern Times được Charlie Chaplin thực hiện dưới hình thức phim không có đối thoại, nhưng có nhạc phim, trong đó có một ca khúc do “the Tramp” hát; đó là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất “the Tramp” cất tiếng.

Modern Times là một trong những cuốn phim thực hiện lâu nhất của Charlie Chaplin; mãi tới đầu năm 1936 mới được trình chiếu. Về sau, Modern Times cũng được các nhà phê bình đánh giá rất cao, chỉ đứng sau City Lights, tuy nhiên ngày ấy cuốn phim đã nhận được những khen chê lẫn lộn. Những người chê cho rằng Charlie Chaplin đã cường điệu trong việc đả kích chế độ tư bản, và đi quá xa trong việc châm biếm những tiến bộ kỹ thuật.

Cho nên cũng là một điều dễ hiểu khi Modern Times không được công chúng Mỹ đón nhận nồng nhiệt như những cuốn phim trước của Charlie Chaplin.

Một chi tiết thú vị về Modern Times là 18 năm sau ngày trình chiếu, cuốn phim mới được nhiều người biết tới, hoặc yêu thích hơn nhờ một nhạc khúc trong phim nay được đặt lời hát. Đó là nhạc khúc “chủ đề lãng mạn” (romance theme) do Charlie Chaplin sáng tác từ cảm hứng khi nghe vở opera Tosca của Puccini.

Năm 1954, nhạc khúc này được Geoff Parsons và John Turner đặt lời hát với tựa đề Smile.

[Geoff Parsons (1910-1987) và John Turner (1932- ) là hai nhà đặt lời hát của Anh quốc; hai ông thường hợp soạn lời hát cho những ca khúc ngoại quốc nổi tiếng, trong số này có bản Hymme à l’amour (If You Love Me, Really Love Me) của Édith Piaf, và O Mein Papa (Oh! My Papa) của Paul Burkhard]

Sức thu hút của ca khúc Smile, và cũng là biệt tài của Geoff Parsons và John Turner là hai ông đã đặt lời hát dựa theo đối thoại và chủ đề trong cuốn phim thực hiện 18 năm về trước, ngụ ý khuyên người nghe hãy vui lên, bởi vì ngày mai sẽ luôn luôn tươi sáng hơn, một khi chúng ta biết cười (smile).

Smile được Nat King Cole thu đĩa năm 1954, đứng hạng 10 trên bảng xếp hạng Billboard ở Hoa Kỳ và hạng 2 ở Anh quốc.

VIDEO:

 Nat King Cole ft Nelson Riddle’s Orchestra – Smile (Capitol Records 1954) Video

 

Hòai Nam

(Còn Tiếp Bài 80 -Phần II)

 

 

 

©T.Vấn 2018

 

Bài Mới Nhất
Search