T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không : Ngồi ở nhà quàn

clip_image002

( Nén hương lòng gởi theo  Người Đi Trên Mây. NK/PNH)

Lão có người bạn trẻ vừa chết!

Chết chả hẳn là hết chuyện, bởi nhẽ các cụ nho gia ta xưa có câu kinh điển “sinh vi quá khách, tử vi quy nhân, thiên địa nhất nghịch lữ, đồng bi vạn cổ sầu” mà người bạn trẻ của lão diễn nôm với sinh là khách qua đường, chết là người trở về, đất trời chỉ là quán trọ, thương thay cho hạt bụi ngàn năm. Người bạn trẻ còn góp nhóp thêm rằng cuộc đời ngoài là quán trọ, thân phận lữ khách trong nỗi thăng trầm được hay mất, đứng giữa hai con đường, tha nhân không thể cùng một lúc đi hai ngả mà phải chọn một.

Giữa hai con đường với địa táng và hỏa táng, nguời bạn trẻ chọn…lò thiêu.

Bạn đọc ngẫn ngẫn rằng “người” là giống giuộc gì mà nhiễu sự quá thể vậy!

Lộng ngôn về người bạn trẻ ư, đại loại người thượng thông thiên văn, hạ thức địa lý, trung trí nhân sự. Văn sách thêm chút nữa, đại thể người bạn trẻ là dân làm văn, làm báo. Thế nên bạn đọc cho là có hơi nhiễu chuyện cũng chả sai quấy là bao.

Bạn đọc lễnh đễnh thêm “người” thông thiên bác cổ thế nào chăng?

Ừ thì như tháng trước, người bạn trẻ ghé thăm, nhân năm hết Tết đến, bèn đốt điếu thuốc, tiện tay khui chai rượu lỳ một lam làm một ly. Nho táo, nho nhe với chữ nhất bẻ đôi không biết! Vậy mà câu “tửu lạc vong bần”, lão phang ngang bửa củi là uống rượu với “phá-xa”, chạy trời không khỏi nắng là nghèo lõ đít. Người bạn trẻ ngoác mồm với lão…lạc đây là lạc thú chứ chả phải là…lạc rang. Lại mới đây non tuần, ngồi ngoài vườn chén tạc chén thù. Khi không lão đan lồng nhốt kiến bằng vào sự thể ai cũng phải chết qua câu “hạc nội mây ngàn”. Người bạn trẻ nhấm nhẳng rằng ý câu này là nay đây mai đó, không biết bao giờ mới gặp nhau. Bạn dỗi, không tửu lạc vong bần với lão nữa và cút về. Người bạn trẻ về rồi, lão điện thoại hai, ba ngày chả thấy tăm hơi đâu.

Đang khi vui lọ đàn phách mà đã sớm về với thiên cổ, lão khăn gói gió đưa thăm người bạn trẻ chết…trẻ ở nhà quàn. Bước vào tiền sảnh, lão đang lụng bụng ba điều bốn chuyện bạn là dân làm văn, làm báo với danh vị nhà thơ, nhà văn bự sự quá thể, chả thấy nhà quàn, nhà xác đâu…Đâu đó cũng đến “làm thầy đất ta, làm ma đất người” thì va vào mắt tờ “Cáo phó” với pháp danh: Chân ngã. Lão ngã ngửa người chịu chết nghĩ không ra mới hôm nào chân nam đá chân xiêu, vừa nằm xuống chưa nóng chỗ. Chưa kịp để tha nhân cái quan định luận đã thửa được cái pháp danh lên niết bàn ngay. Hay thật chứ đâu có đùa. Bước tới bàn thờ, nhìn bức di ảnh người bạn trẻ đeo kính trắng bự sự trông cũng kinh điển lắm. Chợt nhớ năm xưa người bạn trẻ dặn dò lệ cúng bái của người Khổng Khâu là vái người sống ba vái, vái người chết hai vái. Nom dòm thấy chết chắc rồi, bèn kính cẩn vái hai vái cho chắc ăn. Bước qua nơi bạn nằm an giấc nghìn thu. Dòm nom thấy người bạn trẻ đội mũ vàng, mặc tăng bào nhà Bụt cũng mầu vàng. Lão có “cảm giác” người bạn trẻ của lão chả…văn nhân, văn vẻ tí nào.

Không những thế lão còn bị tra tấn chữ nghĩa với pháp danh Chân ngã. Chả là vì đau chân há miệng, lão há miệng thở ra như trâu hạ địa vì lão tuổi Thân nên đeo cái “ngã” của Tôn Ngộ Không: Ngã chấp, ngã mạn, ngã tham, ngã ái, ngã dục, ngã sân, ngã si…ngã gì đi chăng nữa, chung sự vẫn là…vô ngã. Nên lão cứ an nhiên tự tại để mình phiêu lãng quên mình lãng du. Với vô ngã, hậu sự lão chả vất vả với cái pháp danh. Đang phiêu bồng đến nơi chốn này, hiền thê bạn đi tới đưa xấp giấy nói là “Di cảo” mà bạn trăn trối đưa tận tay lão. Ủa chuyện tha ma mộ địa gì thế này? Lão trở ra tiền sảnh ngồi xuống bộ sa-lông tụng như tụng kinh. Hóa ra, di mặc của bạn dẵm lại lối mòn xưa cũ với tử vi quy nhân, hiểu theo người bạn trẻ là…người chết trở về ngay đây.

Và di cảo của nguời bạn trẻ với tử vi quy nhân như thế này đây, thưa bạn đọc.

Tôi đã chết, và chết thật rồi, vì mấy ai tới nhà quàn vào ngày Tết nên tiện nội tôi eo sèo nhân thế với họ hết sức mà không đổi được qua tuần sau. Nếu tôi còn sống, tôi sẽ nói với tiện nội rằng thôi, đáo giang tùy khúc, người Việt ta đâu khúc mắc chuyện Tết tiếc. Vả lại, từ lễ nhập quan đến lò thiêu, nhà đòn phải tống táng người chết trước đi trước, hậu sự với người sau đi sau. Chịu thôi. Với lại, ai đó nói rằng mơ thấy chết là may, thấy đẻ đái mới sợ. Tết nhất, tới nhà quàn ngắm người chết mà thấy mình còn sống nhăn răng cạp đất, thì may mắn là cái cẳng.

Khách khứa lục tục đến, đúng lúc tôi đang ngứa ngáy với bộ “com lê” còn mới. Bởi nói vãi thì lại nói vơ theo nhà Bụt người chết không nên mặc quần áo mới. Vì người chết làm như còn luyến tiếc đời tục lụy nên chẳng chịu về cõi cực lạc cho khổ cái thân. Cũng như đừng có gào tướng lên khóc lóc như níu kéo người chết. Vì làm vậy hương linh người chết bị vướng víu không siêu thoát được mà ở lại cũng không xong. Vẫn chưa xong, tôi đang muốn đục tụi nhà quàn một quả, bởi thằng người tôi nằm trong áo quan tự thấy dị hợm gì đâu. Chẳng là nhà quàn họ tô son đánh phấn thằng tôi như đàn bà con gái ấy nên chẳng giống ai. Họ lại còn đeo kính lão cho tôi nữa. Chết rồi còn nhìn khỉ gì nữa đây. Khách đến viếng, nhìn tôi đeo kính nằm chết như mơ nên tọc mạch tôi ngỏm củ tỏi thế nào? Tiện nội được thể vun chuyện nào là có điềm báo trước hay sao ấy nên tôi cứ giở quẻ nói gở thế này thế kia, rồi đột dưng…trúng gió chết quay cu đơ. Với ngẫu sự ấy, người nào cũng buồn nhiều hơn vui lnhư nhà mình có đám không bằng nên ai nấy đều ngậm ngùi và…ngậm tăm.

Trừ hàng ghế cuối, có hai ông đang rì rầm nói chuyên văn chương thiên cổ sự:

– Ông đã đọc Chiến tranh và hòa bình của Léon Tolstoi chưa?

– Hơ! Chiến tranh đã chấm dứt năm 75 rồi mà!

Hai ông yên ắng, ngồi thẳng, hai tay trên gối, mặt nghiêm và buồn.

Ha! Nói chuyện văn chương thiên cổ sự còn ai trồng khoai đất này. Tôi đây chứ ai. Theo tôi đọc Chiến tranh và hòa bình chưa đủ, còn phải đọc di bản cuối cùng “Tự bạch của Léon Tolstoi”. Tiểu luận về sự sống và cái chết của ông từ thuở thiếu thời cho đến khi…chết tại ga xe lửa ở Moscow, với đoạn dẫn nhập như sau:

“…Tôi cảm thấy chán ghét cuộc sống, tôi không thể cưỡng nổi thôi thúc tìm cách chối bỏ cuộc đời. Ý định tự tử đến với tôi cũng tự nhiên như trước kia tôi đi tìm ý nghĩa của cuộc sống. Tôi là nhà văn, bị ám ảnh bởi cái danh và bởi những lời tâng bốc người đời, rồi thì cái chết cũng sẽ đến và hủy tiêu tất cả…”

Khiếp! Người bạn trẻ di quan, di ngôn gì mà hành ngôn, hành tỏi hàn lâm quá thể. Thấy người ăn khoai cũng vác mai đi đào, lão bèn đào sới với Tolstoi, với Chiến tranh và hòa bình, lão chỉ thấy dài lê thê, có chương chả ăn nhập gì tới cốt truyện. Ấy là chưa kể những khúc, những đoạn nhẩy cóc cứ lung tung cả lên. Nào khác gì cụ Ngộ Không với tạp bút Một chút dối già, hoặc như văn cách của nguời bạn trẻ thế này đây:

Trên bàn thờ cạnh áo quan, ảnh chân dung một tôi …lộng kiếng thếp vàng. Chẳng giống thằng người tôi nằm trong áo quan tí nào. Chẳng biết khách vãng lai có bản lai diện mục thiên cổ chi mê tôi không. Vì có tới ba cái tôi: “tôi” xác chết trong áo quan, “tôi” trong chân dung, và “tôi”, người chết rồi nhưng vẫn còn âu sầu nhân thế với nhất hữu ly biệt, thiên lý tống tiễn…Chẳng biết “tôi” nào là tôi thật, tôi giả.

Hơ! Lão ngộ chữ tới…thăm viếng. Ha! Tôi đã câu đọng chữ thừa với lão rồi: Thăm viếng là đi thăm người sống. Viếng là đi viếng người chết. Lại nữa, viếng người chết không nên vác cái máy ”Canon” to đùng. Vì rằng tiện nội tôi thấy cái ống kính như nòng súng “cà-nông” như lân thấy pháo. Y chang, tiện nội tôi nói lão bắt vào ống kính vài tấm nơi vãng cảnh, vãng phần. Tôi nghe lão ngộ chữ bấm “tách…tách…”

Ngó lão ngộ, tôi nhớ tuần trước ngồi ngoài vườn chén chú chén anh nghe lão búi xúi về “hạc nội mây ngàn”, không biết lão đọc khúc này của L, Tolstoi chưa:

“…Tôi được rửa tội theo Kitô chính thống. Từ thơ ấu, người ta dạy tôi tin theo đạo, nhưng tôi không tin những gì được dạy bảo. Thêm nữa khi anh trai tôi Dmitri, đang học đại học. Bỗng nhiên trở nên mộ đạo và bắt đầu chăm chỉ đi lễ nhà thờ, ăn chay, chúng tôi chế giễu gọi anh là một Noah. Anh không nói gì, mấy tháng sau anh mất nên tôi không đi lễ nhà thờ nữa. Từ 16 tuổi tôi đã thôi không cầu nguyện, nhưng tôi vẫn tin vào một cái gì đó mà không nói được tôi tin vào cái gì. Tôi không phủ nhận người cõi trên, nhưng người cõi trên nào thì tôi chịu. Tôi không phủ nhận Kitô với học thuyết, nhưng học thuyết ra sao thì tôi hồ nghi…”

Như L. Tolstoi, khi không người bạn trẻ nhẩy cóc qua chuyện nhà quàn, nhà táng…

Sư cụ áo vàng và đoàn hộ niệm lục tục tới đọc kinh cầu siêu cho tôi được siêu thoát để lên niết bàn. Đang nằm chết dí trong áo quan, đang đeo kính, nhắm mắt tôi cũng nom dòm thấy các bà mặc áo lam, mang tràng hạt có 108 hạt. Tôi còn biết các bà phải ăn chay, tắm rửa sạch sẽ trước khi đến đây hộ niệm đọc kinh. Các bà đọc kinh kể công ơn bậc sinh thành, kể cả về những sự gian nan của một kiếp người. Trong khi tôi nằm đây và đang phiêu diêu với “sinh ký dã, tử quy dã”. Vậy chứ quy về đâu?

Hay là hãy bản lai diện mục với những người vãng phần trước. Thế là hồn vía thiên cổ chi mê tôi chui tọt qua tường sang phòng bên cạnh để thăm hỏi. Ông phòng bên cạnh cho biết vừa “lâm sàng” đã có “Người cõi âm” đợi sẵn, nắm tay ông bay trong hành lang ngập ánh sáng xanh lè, trắng lóa mắt. Ông lạc một vùng quá độ, vừa là đời này, vừa là một nơi nào khác. Nơi nào khác là căn nhà cũ của bố mẹ ông vào đời trước. Lúc này ông mới nhìn toàn bộ cuộc đời mình với cảnh giới này nối tiếp cảnh vật nọ, theo dòng thời gian với sự việc xảy ra. Rồi “Người cõi âm” đưa ông tới nghĩa địa chỉ nơi sinh phần của ông. Ông hỏi gì cũng không nói vì “Người cõi âm” mặc áo chùm từ đầu đến chân như muốn dấu mặt. Lát sau, “Người cõi âm” đưa ông về phòng, vừa lúc tôi chui qua nên “Người cõi âm” hãi quá …biến mất tiêu.

Thế là tôi để hồn đi hoang lẽo đẽo đi theo mấy cụ ông, cụ bà đã quy tiên từ đời Tam hoàng Ngũ đế nào rồi và đang vất vưởng quanh đây như tôi. Trong đó có một cụ ông nhằm vào cái tuổi chín tầng mây trời, phong thái rất an nhiên tự tại và thoáng đãng. Bèn làm lễ vấn danh, cụ cho hay cụ là Thần hoàng bản thổ làng Xũ. Tôi lẫn ngẫn trông thấy nhưng cũng kịp thưa thốt rằng cụ đã lên niết bàn chưa? Trên ấy có vui chăng? Cụ thong dong trả lời lên mãi, nhưng ở lâu không được vì chán lắm. Chán như đám ma này, nhà đám và khách hết đi vào phòng ăn nhà quàn lại đi ra. Bởi tang ma điếu đám ở làng quê xưa khác bây giờ vì có phường bát âm tò te tí te. Tang gia thuê người khóc mướn tỉ tê, tê tái…vui lắm. Thuờng thì những người khóc mướn đã nặng lòng với cuộc đời, họ khóc và kể lể cuộc đời người đã khuất như…thật. Như họ khóc dùm bà chị có cậu em mới mất với bài bản thì: “Thế là từ đây xa rồi, mỗi người đi mỗi ngả, v…v…”. Và họ lên bổng xuống trầm, gần như hát, có điệu, có vần với: Xa quá rồI em, người mỗi ngả – Bây giờ không biết nhớ thương nhau của nhà thơ Nguyễn Bính…nhớ người tình. Tiếp đến tang chủ ngả con sề đánh chén ngay cạnh áo quan, tiết canh lợn, lợn luộc chấm mắm tôm, rượu đế làng Vân uống tì tì…Uống đến say khướt, nhiều khi mấy bác đạo tỳ đánh nhau u đầu sứt trán đâu vào đấy rồi…rồi mới chịu khiêng người chết ra cánh đồng làng chôn.

Đoàn hộ niệm lao xao sửa soạn đi về. Sư cụ áo vàng là đồng môn với lão, đi qua chỗ lão ngồi dừng lại nói: “Anh Hùng về cố viết truyện đám tang này và tập tục tang ma người Việt để dành cho mai hậu”. Lão dạ vâng vì đang ôm khư khư tập di cảo…

Và rồi với nhật mộ hương quan hà xứ thị, yên ba giang thượng sử nhần sầu, cụ thần hoàng dẫn tôi về con đường mòn của làng Xũ gần Hà Nội xưa cũ. Vừa đi cụ vừa chín đụn mười trâu là chết cũng hai tay cắp đít, cụ tuế tóa xong là tới cổng vuờn nhà ai đấy, trên cành cây ngoài vuờn buộc miếng vải hay tờ giấy bản trắng để cây cối cũng nhớ thương tiễn nguời đi. Vừa lúc nhà đám đi ra, vì ngõ trúc ao sâu nên không len chân vào được, tôi chỉ thấy người dẫn đầu tay cắp cái rổ, tay rải tiền âm phủ và những thỏi vàng trắng. Cụ cho hay ấy là tục rải vàng bạc trên đường đi để đánh dấu cho người chết biết lối mà trở về nhà. Ra khỏi ngõ, đô tuỳ nhà đám hạ quan tái vừa chạm đất là nhấc lên ngay, tất cả ba lần. Mỗi lần vậy, họ hàng tang gia mặc áo tang luơm nhuơm, không may lại với nhau mà chỉ có mấy cái dải buộc, đầu tóc để bù xù không chải. Họ quỳ đập đầu xuống đất vái ba lạy. Cụ giảng giải quan tài nhấc lên hạ xuống là người chết chào từ biệt gia đình về với ông bà tổ tiên. Ra đến cổng làng, linh cửu phải quay đầu lại để nguời chết được nhìn cái cổng làng lần cuối.

Trên con đường ra gò mả đồng làng, cụ chỉ cho tôi bốn đô tuỳ. Lúc này thiên cổ chi mê tôi mới chuối sau cau trước là họ đầu quấn khăn đầu rìu, gấu quần xắn móng lợn, và “minh tinh nhà táng” là giây chão võng áo quan bằng hai đòn gánh tre gộc. Vịn quan tài có một anh trai đội khăn vành quấn rơm như cái rế đội nồi, áo sô gai vải bố, thắt dây lưng lá chuối, chân trần, chống gậy gỗ vông. Bèn ớ ra. Cụ dậy bố anh trai mới chết, còn nếu như mẹ chết thì chống gậy tre. Bỗng có chị gái chùm khăn mấn, áo lộn sống sổ gấu, lăn đùng ra giữa đường, giãy đành đạch như đỉa phải vôi, khóc lóc thảm thiết và níu áo người ta không cho bước qua. Thấy lạ nên sắc mắc. Cụ cho biết ấy là con dâu hay con gái nằm cản người ta đem bố mình đi chôn. Bèn ngẫn ngẫn chôn ở đâu? Cụ hóng mắt tít mù trên gò mả, khật khưỡng đi trước là mấy bác đô tuỳ nát rượu vai xẻng, vai cuốc để đào huyệt. Trong khi chờ đợi mọi người vực chị gái dậy đi tiếp. Bỗng thấy có người dắt theo con chó đen đi theo đám tang từ đằng sau. Lại đú đậm cho rõ. Cụ cười cái hậc là chó đen quen ngõ, là nhà đám có chó đen dẫn theo thì sau ngày mở cửa mả, đêm về hồn vía người chết theo hơi hướng chó tìm về nhà thì sẽ không bị lạc. Thế các cụ ta xưa có câu “quáng quàng như chó nhà táng” là thế. Nhưng đừng dẫn chó trắng, bởi hồn người chết sợ lắm vì “chó trắng cắn ma”. Bèn gặng hỏi tới nữa với lễ động quan với mở cửa mả.

Mà cớ sự này lão ngộ chữ cũng chẳng hay biết. Ủa mà từ nãy giờ lão ta đi đâu vậy? Tôi không thấy! Mà tiện nội đưa cho lão tập lai cảo chưa? Tôi cũng không hay! Tôi phải đi tìm lão mới được, chắc lại ra ngoài ngắm khói huyền bay lên cây đây…

Khi không miệng lưỡi lão ngứa ngáy. Đợi người bạn trẻ ra, lão sẽ rủ ra ngoài để nhớ nhà trong điếu thuốc. Nhưng đợi mãi không thấy tăm hơi đâu, nên hặm hụi tiếp…

Cụ cho hay tập tục chôn cất tùy theo thổ ngơi, làng cụ ma chay là thỉnh thầy cúng. Lễ động quan, thầy lấy dao bầu mổ lợn thọc vào trong quan tài gạch ba khía vẽ bùa. Mỗi đầu quan tài chém nhẹ ba nhát nữa vì gỗ mang từ rừng về hôn ma còn vất vưởng nên chém cho ma rừng chết luôn. Nhòm thầy cúng cầm dao bầu, lật đật như ma trật đám quải cách mấy, tang chủ biết ý thầy đòi cái sỏ lợn. Con lợn bỗng dưng bị mang ra ngả thịt, vì vậy mới có câu “trơ trơ như sỏ lợn nhìn thầy cúng” là thế.

Quan tài được võng xuống huyệt từ từ, nhịp nhàng theo thầy cúng cầm hai mảnh tre đực gõ vào nhau gọi là “gõ xinh”, âm thanh “cách, cách” đến buồn thảm. Hạ huyệt lấp mộ rồi, thầy cúng đi quanh mộ vừa đọc thần chú vừa nhúng cành cây nhỏ vào bát nuớc vẩy xung quanh mộ gọi là nước “cành dương”. Để tránh cái nhiễu sự mồ cha không khóc lại khóc cái tổ mối, người nhà đánh dấu đầu ngôi mộ để ba ngày sau trở lại làm lễ mở cửa mả. Với lễ mở cửa mả, thầy cúng bày bộ tam sên gồm trứng, con cua luộc, miếng thịt lợn. Và một con gà sống thiến còn…sống. Con gà được thầy cúng buộc giây vào chân, dắt đi quanh mả rải gạo cho gà mổ, tay vung vẩy bó nhang, tay bắt quyết va tụng “Hồn nay ở chốn non bồng, qua đây hồn hãy vui lòng ghé chơi”. Sau đó nhà đám đi về, bỏ mặc gà muốn đi đâu thì đi. Gà đợi làm lễ lâu mệt khờ người, lại bơ vơ giữa đồng không mông quạnh, nên ngơ ngơ không biết đi đâu. Thấy mặt tôi ngáo ệch trông thấy, thấy vậy cụ diễn nghĩa câu văn ngữ trên chỉ người lúc nào cũng ngơ ngáo như thiên cổ chi mê tôi, như…”gà mở cửa mả”.

Chôn cất theo các cụ tuế toái thật. Lão ngước mắt lên cáo phó để nhớ ngày, giờ lễ hỏa táng. Tiếp, lão lúi húi với những chữ là chữ…

Từ hồi sinh tiền, tôi nói với tiện nội tôi rằng chết đem thiêu rẻ, gọn và sạch. Có người bảo nóng quá, 4000 độ F chứ đâu có bỡn. Nhưng chết rồi, nóng, lạnh khỉ gì nữa.

Không cần biết nóng lạnh ra làm sao, hai ông cuối dẫy hàng ghế lại râm ran:

– Ông đã đọc Anh em nhà Karamazov của Dostoevsky chưa?

– Vâng, mới đi xem “lúy” ra mắt sách tháng trước ở Canvas Bistro.

Mặt nghiêm và buồn, ngồi thẳng, hai tay trên gối, hai ông yên ắng.

Hơ! Tôi cũng buồn hiu và đang hiu hắt với “Tự bạch của Léon Tolstoi”…

“…Tôi đã từng giết người trên trận địa, thách đấu súng, thua bạc, nát rượu, quan hệ luyến ái với đàn bà có chồng. Vào thời kỳ ấy tôi bắt đầu viết vì hám danh, và tự mãn. Trong viết lách tôi cũng hành xử như trong đời sống. Để có được tên tuổi, tôi che giấu cái tốt lành, phô trương cái xấu xa. Và tôi đã dùng đủ mọi cách để tạo ra cung cách từng trải cho cuộc sống và người ta ca tụng tôi…”.

Trộm thấy cuộc đời L. Tolstoi thác loạn quá thể, thế là lão được thể ngập ngụa với cuộc đời của Dostoevsky: Năm 1846 Dostoevsky đọc sách báo cấm, bị bắt, lãnh án tử hình nhưng được ân xá tại pháp trường. Ông bị kết án bốn năm lao động khổ sai tại Tây Bá Lợi Á. Các tác phẩm tiêu biểu gồm Tội ác và hình phạt, Thằng ngốc, Anh em nhà Karamazov….Đậu vào mắt là tử hình với pháp trường, chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, lão chợt nhớ ra mình đang ở nhà đám, và đám ma đang ở tao đoạn thế này đây:

Tôi chết rồi quớ quáo không biết đi về đâu, nên lụi đụi theo người muôn năm cũ. Vừa vặn người nhà đòn đẩy ông phòng bên cạnh tới lò thiêu. Cụ thần hoàng dẫn tôi đi theo cái hòm đem đốt thuộc thế loại khá đắt tiền. Cụ “vén tay áo sô đốt nhà táng giấy” chỉ cho tôi thấy: Phu nhà đòn đẩy linh cữu vào lò. Người trong lò lôi xác ra nhét vội vào hòm “foam”. Người bên ngoài bấm nút. Với người ngợm mỗi ngày rơi rụng lác đác như lá mùa thu, hôm nay đốt thêm một khách vãng lai nữa. Phu nhà đòn bèn bày bia rượu ra nên vui như Tết. Vui hơn nữa có hai gã đạo tỳ thuộc diện Bắc kỳ 2 nút bỉ thử thằng tôi chẳng ra làm sao cả. Gã đạo tỳ “mặt cúm chó” khơi mào:

– Thằng mà em làm thịt hôm qua là tù cải tạo miệng cứ ngoác ra. Em sợ nó nói nhiều, nói dai không bằng…nói dại nên em lấy kim chỉ khâu bố cái mồm nó lại.

– Khiếp bỏ mẹ! Ngụy chống phá cách mạng bị biệt giam là đúng quá rồi. Cả năm bị cùm nên nhòm thấy “cái hàng” như cái conex là cứ co rúm chân lại. Bố phải lấy rượu xoa bóp hai đầu gối nó mới chịu nằm yên ngay ngắn cho.

– Cái hàng là cái gì hở.

– Hở hang gì. Cái hàng là…cái hòm.

Im ắng một hồi lâu, gã mặt non choẹt mặt “bức xúc” thấy rõ:

– Bác tin có địa ngục không?

Thiên cổ chi mê tôi nhìn cụ mắt tròn dấu hỏi. Cụ thần hoàng làng Xũ cười mủm mỉm và…lắc đầu. Gã đạo tỳ “mặt hoa trâu tháng đẻ” xưng “bố” ra mặt dậy bảo:

– Dào, vẽ chuyện. Bố dậy cho mày nghe nhá, mày cứ tống nó vào lò thiêu là nó biết ngay, chết rồi còn nóng lạnh chó gì nữa. Ngay cả chôn xuống đất rồi lớ ngớ chui xuống địa ngục bị Diêm vương nhúm nhét vào vạc dầu cũng vậy thôi. Mày cứ nốc thoả mái như bố đây, chết hết chuyện, làm chó gì có âm ty với địa ngục.

Trộm thấy hai gã đây ăn nói ngang phè phè nên biết quái gì với niết bàn, địa ngục, và cái chết với co quắp, há miệng. Nên thiên cổ chi mê tôi thưa với cụ thần hoàng là nhà Bụt đã thực chứng “Hiện tượng khi người sắp chết” rất thần thức từ thần khí tới diện tướng. Nếu nhắm mắt lìa đời nhẹ nhàng như đi vào giấc ngủ bình thường thì sẽ lên niết bàn. Còn người chết một là mắt mở, hai là miệng hả, ba là mũi bầm đen, bốn là người ngợm co quắp thì chắc như cua gạch là sẽ…bò xuống địa ngục.

Cụ lắc lắc đầu, mở mắt, hả miệng mà rằng khi nào tôi ra ngoài thông khói, cụ sẽ thông hanh cho tôi tường mọi nhẽ của nghiệp chướng trong cõi nhân gian.

Chợt nhớ lại ngày nào, thiên cổ chi mê tôi cưỡng từ đạt lý với lão ngộ chữ, với ngã hữu thốn tâm vô dự ngữ, tạm hiểu là ta có tấc lòng chưa ngỏ được. Ấy là “sinh ra là khách qua đường,…thương thay cho hạt bụi ngàn năm”. Khi không trong nhà quàn văng vẳng từ nhạc cổ điển êm dịu sang điệu sa mạc nghe chỉ thấy toàn là cát bụi: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi để một mai muôn hình hài lớn dậy – Ối! Cát bụi ngập đầy, vết chân nào xóa bỏ một kiếp rong chơi – Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi để một mai tôi trở về làm cát bụi…”.

Lão ngẩng đầu ngó chừng chả thấy máy móc nào đâu, nên ngẫm ngợi người bạn trẻ có hoang tưởng quá chăng!? Rồi đành cơm niêu nước lọ tiếp với tập di cảo:

Chẳng lẽ thằng chết cãi thằng khiêng, tôi bỏ mặc hai gã đạo tỳ trước cửa tử với mấy loong bia. Lạng quạng thế nào chẳng biết nữa tôi gửi thưa với cụ là qua kinh A di đà nếu thiểu dĩ thiện căn, phúc đức nhân duyên khó sanh bỉ quốc. Kinh viết rằng nếu thần thức xuất đầu gối tái sinh là súc sinh. Nếu như hiện tướng xuất thần ở bụng thì kiếp lai sinh về cõi người. Thấy cụ im thin thít như thịt nấu đông, tôi sa đà tiếp: Nếu như thần thức xuất thần ở đầu thì vãng sinh về cõi Bụt.

Như sợ ai nghe thấy, cụ háy háy mắt rủ rê tôi ra ngoài. Cụ nhón một điếu thuốc của tôi hút lấy hút để. Vừa thở ra khói cụ vừa cụ lậu bậu với luân hồi, nhân quả qua giấc ngủ rồi khơi khơi lên niết bàn. Hoặc giả người mắt mở, miệng hả rồi nháo nhào xuống địa ngục, cụ có nghe qua. Ngoài ra cụ cũng hóng hớt được thêm rằng: Nghiệp lành, dưới lạnh trước nên thân xác chết từ bụng lên. Còn nghiệp dữ trên lạnh trước, thân xác chết từ đầu xuống. Còn trúng gió chết ngay tức thì như thiên cổ chi mê tôi…thì chẳng cần đọc kinh siêu thoát làm quái gì vì tôi đã…thoát rồi.

Thông hơi thông điếu hết điếu thuốc chùa có mùi nhang cho đã điếu xong, cụ tiếp: Sau 49 ngày, hồn xuất để đầu thai là súc vật, là người, hay là Bụt. Tất cả mọi sự do Ngô Thừa Ân mang vào truyện Tây Du Ký: “Chuyện là vào đêm cuối đi thỉnh kinh, ngày mai vào yết kiến đức Như Lai để lên kiếp Bụt. Đường tăng trằn trọc không ngủ được, giờ đây sắp bỏ kiếp người, ông bỗng thấy day dứt, như níu kéo ông lại. Tôn Ngộ Không nằm bên thấy vậy cười khẽ: Thầy dối lòng vì thầy đang sợ chết đấy thôi, nhưng chậm quá rồi”. Và cụ bép một cái là từ Tây Du Ký, ngừời sau gánh bùn sang ao bởi do tu nghiệp mà ngài Tam Tạng Trần Huyền Trang đưa vô lượng kiếp vào Tam tạng kinh. Chứ vô khả vô bất khả ấy không có trong kinh kệ nhà Bụt! Bèn vấn cụ với tích 49 ngày. Cụ dậy là thần hoàng như cụ cũng không hay biết nữa là. Mà đâu cần đợi đến thất thất lai tuần, vi có người đầu thai trong vài tiếng đồng hồ sau khi chết, nhất là lính thú chết ngoài trận địa. Vì họ không chịu được cảnh hồn họ lang thang ngoài chiến địa với máu me. Họ muốn nhập xác liền. Lý do này giải thích được hiện tượng chúng sinh …sinh đẻ nhiều sau chiến cuộc là thế.

Thế là lưỡi đá miệng, tôi bẩm với cụ: Xũ là lý sự gì? Cụ cười cái bép: Xũ là…cái hàng. Rồi cụ thăng. Văng vẳng, lửng lơ giữa đất trời như sáo diều cốc: Hàng là hòm…Hòm là quan tài…Quan tài là áo quan…Áo quan là….

Vào lại nhà quàn, thiên cổ chi mê tôi lại loáy nhoáy đến L. Tolstoi với nhân sinh bách tuế vi kỳ, là đời người lấy trăm năm làm hạn. Không như chuyện ruồi bu vừa rồi, nhưng lại ruồi bâu kiến đậu tới những cái chết…

“…Thuở ấy bản thân tôi không hiểu biết về cuộc đời và cái chết. Như khi ở Paris, cảnh tượng xử tử hình lột trần trước mắt thấy cái đầu của tử tội rời khỏi thân thể rơi xuống hòm, tôi đã không hiểu ra. Tôi chỉ nhận ra tính bất toàn của đời sống là cái chết của anh trai tôi Dmitri. Là một người tình cảm, anh tôi chết trẻ không hiểu được mình đã sống để làm gì và lại càng ít hiểu hơn nữa, chết rồi thì sẽ đi về đâu?. Tôi biết rằng tât cả chỉ là hư ảo. Bởi vì tôi đoán được nó là cái gì. Ấy là: Cuộc sống là vô nghĩa. Cuối cùng đi đến một vực thẳm và trông thấy rõ dưới đó không có gì cả, ngoài cái chết. Tất cả mọi người đều biết như tôi. Nếu không bệnh tật, cái chết cũng sẽ đến một ngày nào đó không xa, không còn gì ngoài lũ giun dế!

Từ lâu tôi được nghe kể một chuyện ngụ ngôn phương Đông về một lữ khách giữa thảo nguyên bị một con thú tấn công. Chạy trốn con thú, lữ khách nhảy xuống cái giếng cạn, nhưng trông thấy dưới đáy giếng một con rồng đang há miệng chờ. Anh bám chặt bụi cây mọc từ khe giếng. Tay lữ khách yếu dần, anh ta cảm thấy sắp phải nộp mình cho thần chết đương chờ anh ta từ hai phía. Anh thấy hai con chuột nhắt, một trắng, một đen, bò đến và gặm bụi cây. Chỉ một lát nữa bụi cây sẽ đứt, anh ta sẽ rơi vào miệng rồng. Lữ khách nhìn thấy tất cả và biết rằng cái chết không thể tránh khỏi. Bỗng thấy trên lá cây mấy giọt mật ong, thế là anh thè lưỡi ra liếm chúng.

Cũng thế, tôi đang bám lấy cuộc sống, biết rằng sự chết không thể tránh khỏi. Tôi cũng liếm những giọt mật là những ly ruợu trước đây, nhưng không còn làm tôi vui thích, Vậy mà con chuột trắng và chuột đen, ngày và đêm, vẫn tiếp tục gặm nhánh cây mà tôi đang níu lấy. Tôi chỉ thấy hai con chuột và không thể nhìn đi chỗ khác. Đây không phải là truyện ngụ ngôn, mà là sự thật, và ai ai cũng thấy…”.

Bỗng dưng người bạn trẻ mang ruợu ra bày cỗ, mà nào ai biết ma ăn cỗ bởi lẽ lão biết chuyện này là công án Thiền có tên: ”Một ngụ ngôn”. Nhòm xuống trang giấy, người bạn trẻ lại bày biện hàng mã như hoá vàng với nhang đèn hương khói nữa:

Trong một cõi đì về, tôi như thấy thiếu vắng một cái gì ấy? Chợt nhớ ra từ nãy đến giơ lão ngộ chữ…vắng mặt, dục dặc thế nào chẳng biết nữa lại hồi cố nhân tới cụ thần hoàng bản thổ làng Xũ với 49 ngày, 100 ngày…Nếu có lão ngộ chữ ôm đồm với Chữ nghĩa làng văn ở đây thì cụ thần hoàng vỡ bọng cứt ra ngay là từ thời Đông Hán, người Tàu dậy dân ta lễ nghĩa như lễ cưới vợ, gả chồng và…tang gia bối rối. Đại thể như người dẫn đầu quan tài cắp cái rổ rải tiền âm phủ ở trên: Tích này từ cụ vua Văn Vuơng đời Chu chết mấy ngày rồi sống lại do sai sót sổ sách của Nam Tào và Diêm vuơng. Trở lại dương thế, cụ vua cho thần dân hay ở dưới âm phủ thiếu thốn trăm bề và đề xướng đốt tiền giả gửi xuống để người thân…đi chợ.

Từ đấy người làng Mái, Đông Hồ, tỉnh Bắc Ninh với nghề làm hàng mã như tiền âm phủ, những thỏi “vàng” làm bằng nan nứa gấp lại, ngoài bọc giấy mầu trắng tang chế rải trên đường cho đám ma hay nhà táng giấy để đốt trước khi hạ huyệt. Ngành thủ công nghệ này lan tới phố Hàng Mã, Hà Nội với sập gụ, tủ chè, nồi niêu, bát đĩa, áo quần, giầy dép và chẳng thể thiếu hình nhân là nguời hầu với điện thoại cầm tay.

Trở về với tang lễ theo Kinh lễ nhạc của người Khổng Khâu làm quan chức “Tư chức lại”, lại lo việc nuôi dê cho việc cúng bái, nghi lễ nơi miếu đường. Khi người mất, xóm gừng láng tỏi ở xứ Bưởi để tang 100 ngày. Riêng trưởng môn là thầy Tử Lộ để tang 3 năm. Từ việc thờ cúng với quả trứng, mâm xôi, dân gian ta có câu ca dao anh có sống khôn chết thiêng ngồi dậy ăn xôi nghe kèn để em đi lấy chồng. Nhưng ấy là chuyện hai, ba trăm năm sau Khổng Tử với Trang Tử. Cũng từ nhạc lễ trong miếu đền của người Khổng Khâu ta có phường bát âm cho đám ma,

Phường bát âm gồm tám nhạc cụ là hồ, nhị, hồ gáo, sáo, đàn tứ, trống cơm, tiu cảnh, kèn. Nguời chết đuợc liệm vào áo quan, khi này phường kèn cử lên bài Lâm khốc, Con nhạn lạc đàn. Khi có nguời đến phúng điếu, nhạc bắt qua Điếu quân, Mã đáo. Lúc hạ huyệt, phường bát âm ò e í e với Kim tiền, Lưu thủy, v…v…

Hơ! Khi rày lão mới thông hanh “sống dầu đèn, chết kèn trống” là nghĩa lý gì. Mà nghĩ cho cùng, người bạn trẻ của lão cũng chả hay hớm gi cho mấy, bởi bị cụ thần hoàng lỡm mà không hay vì làm quái gì có…làng Xũ. Vì chết kèn trống, sống dầu đèn thì từ thời Lê, khu Kẻ Chợ 36 phố phường ở phố Hàng Kèn phía nam Hồ Gươm. Phố này có một phường kèn trống bát âm chuyên phục vụ đám ma. Còn đòn đám ma và người khiêng đòn nắm ở phố Hàng Hòm làm quan tài vì nghe thô kệch nên sau đổi tên là…phố Lò Xũ. Xưa, ở đấy mấy bác phu nhà quàn ngồi trên chõng tre tì tì đánh chén mộc tồn với rượu Kẻ Mơ, chuyện “làng Xũ” cụ thần hoàng là thế đấy. Còn chuyện tì tì đánh chén, lão gà gật với gái có tang…gà mái ghẹ và trở lại với chuyện đánh chén…

Trở lại chuyện ăn xôi nghe kèn để em đi lấy chồng với Trang Tử qua Sử ký của Tư Mã Thiên, chương Trang Tử liệt truyện, với chữ nghĩa tam sao thất bản như sau:

Một bữa ngoài đồng ruộng, Trang Tử đang phe phẩy quạt, thấy một người đàn bà cũng đang cầm quạt quạt một nấm mồ. Ông hỏi thì nàng nói khi chồng nàng chết có dặn dò là ráng đợi mồ khô, xanh cỏ hày đi lấy chồng. Nay vừa đúng 49 ngày. Trang Tử về nhà thuật lại cho vợ nghe, vợ cười mà rằng: “Sao lại có chuyện vội vậy!”.

Trang Tử có phép thuật bèn giả chết để thử vợ. Trước khi chết dặn vợ quàn mấy ngày rồi hãy chôn. Những ngày ấy, “chủ phụ” dựng xạp, bày rượu chè ê hề cạnh quan tài cho khách phương xa thăm viếng nghỉ ngơi, chè chén. Trang Tử mới hiện ra một chàng trai trẻ trong đám khách ấy. Vợ Trang Tử thấy chàng trai trẻ nên phải lòng. Nửa đêm chàng gõ cửa phòng giả bộ đau bụng rên la như sắp chết. Vợ Trang Tử hỏi đau vậy uống thuốc gì hết. Chàng trai trẻ nói nếu có sọ người mài ra uống thì hết bệnh. Vợ Trang Châu mở quan tài, lấy búa…búa vào đầu Trang Tử một búa…”.

Thiên cổ chi mê tôi hết ngẫm ngợi phải chăng từ mấy ngày điếu đám thịt heo quay, Mai quế lộ ở bên Tàu nên sau này Ta có tiết canh lòng lợn, rượu làng Vân chăng? Lại nhang đèn hương khói đến quả trứng, con gà. Ngẫm chuyện gà đẻ ra trứng hay trứng đẻ ra gà với 100 ngày của Khổng Tử hay 49 ngày của Trang Tử đây? Bỗng không thiên cổ chi mê tôi lại ôm rơm rặm bụng với giảng thuyết 49 năm, với Kinh Đại Niết Bàn, trước khi nhập diệt, Đức Phật nói: “Như Lai thường không thuyết pháp…vì pháp vốn vô tánh. Như Lai dầu giảng nói tất cả pháp nhưng thường không chỗ nói.” (Phẩm Quang Minh Biến Chiếu Cao Qúy Đức Vương Bồ Tát, thứ 22).

Ngôn từ không bao giờ chính xác để nói lên điều gì. Nói chỉ là nói tạm, vì chẳng cách nào khác để truyền đạt tư tưởng cho đa số người. Vì vậy, dù là Phật đã giảng thuyết 49 năm, nhưng không có lời nào là tuyệt đối đến mức mọi người cứ khư khư nắm giữ nó. Tùy nghi liệu thế mà hiểu. Cho nên, giảng thuyết nhiều mà lại chẳng nói lời nào là thế. Muốn đắc ngộ, phải rời bỏ văn tự, không mắc kẹt vào ngôn từ: “Vì Như Lai và chánh giải thoát rời danh tự. Do đó nên đức Như Lai đối với tất cả pháp, không chướng ngại, không đắm-trước mà đặng chơn thật giải thoát.”

(Kinh Đại Niết Bàn, Phẩm Văn Tự, thứ 13)

Tụng đến đây lão chỉ hiểu được là: Tùy nghi liệu thế mà hiểu của nhà Phật. Vì thế lão không biết…hiểu gì hơn là dán mắt vào trang di bút của nguời bạn trẻ…

Nhìn ra ngoài sân có cây đào kwansan Nishiky, tôi lại rối rắm nữa với L. Tolstoi:

”…Dù có nói bao nhiêu: anh không hiểu được ý nghĩa cuộc sống đâu, nên đừng nghĩ nữa, hãy sống đi. Bây giờ tôi không thể không nhìn thấy ngày và đêm đi qua và kéo tôi đến gần cái chết. Mỗi bước đi trong nhận thức đều dẫn đến nó. Chân lý ấy là sự chết. Mà sự khởi đầu và kết thúc của nó ta không thể biết. Giống hệt khoa học thực nghiệm với những mơ hồ khi họ nghiên cứu những hiện tượng mang tính nhân quả với tiền kiếp, hậu kiếp qua những hiện tượng, thì ta sẽ có ngay cái mơ hồ.

Triết học cũng chẳng hơn gì, thay vì trả lời, họ có vẫn câu hỏi ấy, dưới hình thức phức tạp hơn bằng một câu hỏi khác: Tôi tồn tại để làm gì?. Triết nhân trả lời: “Không biết”. Hoặc biết thì: Ý nghĩa cuộc sống của tôi là gì?. Trả lời: “Không là gì cả”. Hay: Cái gì có từ cuộc sống của tôi?. Trả lời: “Không cái gì cả”. Hoặc: Tất cả những tồn tại thì tồn tại để làm gì, và tôi tồn tại để làm gì? Trả lời: “Tồn tại vì tồn tại”.

Khiếp! Người bạn trẻ của lão di ngôn, di chúc gì mà tối như hũ nút thế này. Thấy ăn khoai vác mai chạy quấy, lão lại quấy quá với bài điểm sách quyển “Thằng ngốc” của Dostoevsky cho rằng cái gọi là hiện thực và tồn tại của tác giả chỉ là một sự méo mó lệch lạc. Cuốn “Anh em nhà Karamazov” cho thấy ông là một trong những người bàn luận độc đáo về tôn giáo. Với “Tội ác và hình phạt”, Will Durant trong cuốn Lạc thú của triết học nói Dostoievsky là một trong những cha đẻ của trào lưu triết học hiện sinh.

Trong khi ấy người bạn trẻ của lão vẫn tối như đêm, dày như đất:

”…Còn đâu là triết học chân chính vơi hiện tượng tồn tại mà câu trả lời đã được đưa ra từ lâu bởi Socrate, Salomon, hay Đức Phật. Socrate nói: “Chuẩn bị ra đi”. Vì “Ta suốt đời tìm kiếm cái chết, vì thế cho nên với ta cái chết không đáng sợ”.
Salomon nói: “Phù vân, tất cả chỉ là phù vân” với luận thuyết mặt trời mọc rồi lặn, mặt trời ngả xuống nơi nó đã mọc lên. Gió thổi về phía nam, rồi xoay về phía bắc, gió xoay tới rồi gió qua đi. Mọi dòng sông đều xuôi ra biển, nhưng biển chẳng đầy.

Thêm nữa với Ecclésiaste, tôi đã làm vua cai trị Israël ở Jérusalème. Tôi đã khảo sát những gì diễn ra dưới bầu trời: đó là công việc nhọc nhằn mà Thiên Chúa bắt con người phải thực hiện. Tôi nhận ra: Tất cả chỉ là công cốc, Tôi tự nhủ: Này, tôi đã thu thập được nhiều điều khôn ngoan, hơn tất cả các vị đã cai trị Jérusalème trước tôi. Tôi đã phân biệt đâu là hiểu biết. Nhưng chỉ là công dã tràng. Bởi vì càng nhiều khôn ngoan, càng nhiều phiền muộn; càng thêm hiểu biết, càng thêm khổ đau…”.

Theo đóm ăn tàn với triết lý củ khoai, lão…hiểu biết thêm thế này đây:

“…Vì những khảo cứu khác nhau về Dostoevsky như: Dostoevsky người Thiên Chúa giáo, Dostoevsky nhà hiện sinh, Dostoevsky triết gia…Sự thực Dostoevsky không thể là một triết gia vì Anh em Karamazov, Tôi ác và hình phạt…không phải là những cuốn sách triết học, như Hữu thể và hư vô (L’être et le néant) của J.P Sartre chẳng hạn.

Nhiều nhà nghiên cứu gán cho Dostoevsky những tư tưởng, những ý nghĩa mà chưa chắc ông đã nói thế. Tiểu thuyết của ông rất khó hiểu và viết thừa nhiều hơn L. Tolstoi. Nhiều độc giả thưởng thức văn ông một cách vất vả tại vì nó…khó hiểu, họ đọc vì muốn tỏ ra mình hiểu biết. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ông thể hiện nhân vật biểu tượng khác L. Tolstoi là hiện thực. Giống như cổ nhân bên Trung Hoa nói vẽ ma dễ, vẽ người khó vì ma không ai thấy, người thì ai cũng thấy vẽ sai sẽ bị chê ngay…”.

Khi ấy, người bạn trẻ của lão lại vẫn cái thói giờ mẹo trèo qua giờ tý để leo trèo với những chuyện của thiên hạ sự:

Như tôi đây sống chưa chót đời, đên khi nằm xuống mới biết được chuyện đời thường. Thì ra chỉ người sống mới lắm chuyện: Lễ lạc, thủ tục, nghi thức, khóc lóc để vuốt ve người chết. Người chết tôi thử hắt xì một cái. Chẳng ai thèm nghe. Vừa lúc tôi nghe ở cửa ra vào có hai thí chủ chào nhau: A Di Đà Phật. Từ sự thể vái chào nhau của Phật tử trong giao tế, đâu đó thiên cổ chi mê tôi hong hanh rằng “A Di Đà Phật” từ mảng chữ “Vô lượng thọ Phật” là tiếng Phạn, đúng nghĩa là lời niệm mong khi nào…viên tịch được trở về cõi cực lạc từ. Vậy chứ sau khi thiêu đốt xong, nhúm tro tàn của tôi sẽ về đâu? Thiên cổ chi mê tôi lại hong hanh đến câu kệ: “Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát”. Với hai chữ “Ha Ma” không thôi cũng nhức đầu không phải là ít. Như có ai đấy nói “Ha Ma” là con sông Hằng tinh khiết, tro người Ấn Độ sau bao tục lụy được thả xuống sông Hằng để trở về với tinh khôi. Cũng có ai đó lại nói “Ma Ha” là tên một con sông ở Ấn Độ, tương truyền các sư sãi tắm ở sông này sẽ tẩy hết bụi trần, trở nên thanh tịnh. Và được dẫn chứng trong bài Sãi vãi của Nguyễn Cư Trinh có câu “rửa bụi trần, sãi vui nước ma ha”. Với sông Hằng lại lềnh bềnh tới Tolstoi qua Salomon thì mọi dòng sông đều xuôi ra biển.

Ôi thôi chuyện chết rồi không hẳn là hết chuyện với sống vô gia cư chết vô địa táng thì…thủy táng. Ngoài ra tuỳ theo địa giới với phong tục tập quán, người miền núi bỏ xác vào chum rồi bỏ…lăn lóc ngoài đồng. Hay treo xác lên cây…lửng lơ giữa đất trời. Hoặc bằm xác cho kên kên ăn để linh hồn theo chim…bay về trời. Gần đây nhiều người chết xác được đông lạnh đợi vài thiên niên kỷ sau nhét vào phi thuyền phóng không gian,,,bay vòng vòng. Còn nhiễu sự của một tôi là sau khi ở lò thiêu ra, tro được nhét vào tiểu sành mang vào chùa. Hay rắc xuống sông, trôi ra biển về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Trước khi về quê, quê ta xa mãi bên kia biển, chỉ thấy tơi bời mây trắng vương tôi đoán chừng chuyện thiêu đốt qua “Thiêu táng ký sự” đã có từ hơn hai ngàn năm bên kia Ấn Độ Dương vi nơi ấy là đất Phật.

Nằm dài người như Bụt mọc nghe Salomon qua L. Tolstoi luận về gió máy…với gió thổi xuống nam, rồi xoay về bắc, gió xoay tới rồi gió qua đi cũng chán. Hay là…

Thế là tôi vù qua Đại Tây Dương, tới tận bên trời Tây, mò đến làng Mai để hỏi thầy Nhất Hạnh. Đúng là thiền sư có khác, thiên cổ chi mê tôi chưa kịp há họng thì thiền sư đã luận chứng rằng: “Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ niết bàn là sinh tử. Niết bàn và sinh tử là một. Không có cái này thì không có cái kia. Thí chủ nghĩ rằng có niết bàn rồi thì không còn sinh tử nữa là kẹt vào cái lưỡng nguyên”. Bèn hỏi: “Vậy chứ đệ tử phải tìm niết bàn ở đâu?”. Thiền sư đáp: “Thí chủ hãy đi tìm trong sinh tử”.

Thiên cổ chi mê tôi ngọng trông thấy vì bị lạc vào bờ mê bến ngộ nên để cái đầu phiêu diêu với “Thiêu táng ký sự”. Như vừa rồi vầy vò với thiêu đốt từ phương đông. Ở phương tây, một số giáo phẩm tòa thánh Vatican tin có luân hồi và thiêu táng, trong đó có đức cha Origin, ông thánh Augustin. Năm 533 sau Tây lịch, vì triều đình La Mã cứ đường xưa lối cũ với cát bụi trở về với cát bụi nên vua Rex và hoàng hậu cấm không cho nói đến luân hồi và thiêu táng nữa. Hậu quả là sau đấy có hai giáo hoàng bị giết vì muốn giữ đoạn nói về luân hồi trong kinh sách.

Với kinh sách, kinh điển thì hồn ma bóng quế L. Tolstoi lại hiện về với: Tất cả mọi người đều biết như tôi. Nếu không bệnh tật, cái chết cũng sẽ đến một ngày nào đó không xa! Đang ngồi ở quán Les Deux Magots trên đường Saint Germain nơi sinh thời Jean Paul Sartre vẫn ngồi. Chợt nhớ lại hồi sáng thiền sư Nhất Hạnh dậy rằng thì là: Muốn đi tìm niết bàn phải tìm trong sinh tử. Bèn được thể lay lắt qua J.P Sartre với: Ta suốt đời tìm kiếm cái chết, vì thế cho nên với ta cái chết không đáng sợ. Là kẻ vô thần nên J.P Sartre ngả ngớn: Muốn lên thiên đàng phải chết trước đã. Dostoevsky dẫn chứng cụm từ La tinh “iam mortuus”là “sinh thì” là…Chuẩn bị ra đi. Ha! Bởi ăn mày chữ nghĩa của triết gia lẫn thiền sư nên thiên cổ chi mê tôi túm tó lại: Một là cứ theo văn sách thì thiên đường, niết bàn có thật. Hai là phải chết ngay cu đơ cái đã. Ba là ngỏm củ tỉ rồi không phải lo chuyện tắm rửa, ăn uống, đi đâu chẳng cần xe cộ, máy bay mà chỉ bay vù một cái là đi, là về. Thế là tôi vù về nhà quàn.

Người bạn trẻ vê nhà quàn để làm thể thống gì, lát nữa sẽ biết vì còn đang ở Paris. Trong khi chờ đợi, lão ngửa mặt lền trần nhà quàn, lão ngớ ra vì chuyện nhạc sa mạc với cát bụi là có thật, chứ người bạn trẻ của lão không hư cấu. Vì với một thước hai thước như hồn ma bóng quế ám ảnh hay sao ấy, ở đâu đó góc nhà quàn, dàn máy chuyển từ nhạc Beethoven, Mozart âm ỉ sang nam ai nam oán với trăng tà nguyệt tận: Đôi khi ta lắng tai nghe! Bao nhiêu năm làm kiếp con người, rồi chợt một chiều tóc trắng như vôi – Lá úa trên cao rụng đầy, cho…trăm năm và…chết một ngày.

Vừa nghe xong khúc nhạc, cũng vừa lúc người bạn trẻ từ Paris về và leo vào quan tài nằm. Chưa nằm nóng chỗ đã ngóc cổ tìm hiến thê. Lão lại hặm hụi tiếp…

Tiện nội tôi đang điện thoại về Việt Nam báo tin cho người nhà biết ngày, giờ tốt để…thiêu. Tôi muốn nói với tiện nội tôi đôi lời trước khi vĩnh viễn rời bỏ khỏi thế gian này. Thảng như “tiêu nhiên nhi lai, tiêu nhiên nhi vãng, kỳ nhập bất cụ, kỳ nhập bất hà”. Chung sự với mọi sự trong cõi nhân gian phù thế này là hãy thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi, khi vào không lo lắng, khi ra không ngần ngại. Hay nói theo văn sách thời ai chẳng nhắm mắt buông xuôi về với mười đất chín trời. Thế nhưng tôi cứ nháo nhác vì không biết sau khi chết mình đi về đâu? Nói cho cùng về đâu cũng vậy thôi, vì theo như cụ vua Văn Vương dưới âm phủ đói khổ lắm. Đốt vàng mã chỉ…ăn khói, cả năm đợi đến ngày rằm tháng bẩy có lễ cúng cô hồn để húp cháo lá đa. Còn niết bàn hay thiên đường có thật đấy, nhưng cứ theo cụ thành hoàng làng Xũ lên chơi thì đuợc nhưng ở lâu chán lắm. Vì vậy được sống trong cõi tục lụy này vẫn suớng hơn. Vậy mà đức Lạt Ma dậy rằng có nhiều người không biết sống như lão ngộ chữ với ruợu và thuốc lá tràn cung mây. Vì vậy theo ngài họ đã chết khi còn đang sống. Thế nên mặt tôi ngáo ra hệt như gã đạo tỳ mặt hoa trâu tháng đẻ…Ha! Lão ngộ chữ nếu không ngộ “mặt hoa trâu” là gì thì hãy hỏi thằng xưng “bố”. Vi nó đã ngoác mồm ra khi tôi thấy cái hòm như bò thấy nhà táng là co rúm người lại.

Người chết co cụm trong vùng câm nín của mình…Ừ biết nói thế nào đây! Ngay cả người sống cũng vậy, như sư cụ áo vàng, đồng môn đồng tuế với lão ngộ chữ muốn gửi gấm một chút…tang gia bối rối cho…hậu thế. Vì vậy hậu sự là tôi gửi cho lão xấp di cảo, trong đó tôi ngập ngụa với rượu làng Vân, tiết canh lòng lợn bên cái hòm. Phu đòn say bí tỉ đánh nhau sặc gạch. Sau đó mấy bác đô tuỳ gánh cái hàng ra gò mả đồng làng. Ở đấy có con chó đen quen ngõ, có gà mổ gạo lộp bộp như gà mổ mo. Rồi thì như gà mắc tóc, lại vướng mắc đến chuyện được tin Dostoevsky mất, Tostoi bật khóc. Khi Tolstoi chết tại ga xe lửa ở Moscow, người ta thấy ông nằm ôm tập lai cảo Anh em nhà Karamazov. Chẳng cần đợi hai trăm năm sau với ai đó khóc Tố Như, thiên cổ chi mê tôi cứ động não là lão ngộ chữ nằm trong phi thuyền bay lên niết bàn hay thiên đường, lão có ôm theo tập di cảo của tôi chăng?

Chuyện tất cả chỉ có vậy và không hơn.

***

Tiện nội về rồi, mai là ngày thiêu, nằm một mình trong hai tấm ngắn bốn tấm dài. Khắc lậu canh tàn, thiên cổ chi mê tôi trằn trọc khắc khoải, nửa đêm về sáng nhìn ra ngoài. Sân nhà quàn hoang lạnh, hiu hắt vắng hiu, đất trời se se lạnh. Ngày Tết không có xác pháo hồng, hoa tàn nguyệt tận, sân cỏ vắng tanh vắng ngắt.

Gió lắt lay, hoa đào Nhật kwansan Nishiky lay lắt rụng rơi. Mưa lâm thâm.

Thạch trúc gia trang

Thu phân, Ất Mùi 2015

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

 

Nguồn: Võ Đình, Lý Khắc Chung, Phạm Cung Thông, Trần Kiêm Đoàn

Trọng Đạt, Phạm Vĩnh Cư, Dương Leh, Hazel Denning, Raymond Moody.

 

 

 

©T.Vấn 2014

Bài Mới Nhất
Search