T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không : Tác Giả và Tác Phẩm – Đỗ Kh.

 

 

Tiểu Sử : Sinh năm 1955 ở Hải Phòng, nguyên quán Nam Định. Lớn lên ở Sài Gòn. 1966, thực tập sinh đánh giày vỉa hè Lê Lợi – Tự Do (ra tới bến tàu). 1975, tốt nghiệp (hạng xoàng) khóa an ninh bảo vệ động bình khang trước cửa Trung tâm 3 Chỉnh hình. Hiện sống ở Mỹ. (Nguồn : Talawas)

Tác phẩm : Cây Cầu Lầm Mưa (truyện) – Thơ Đỗ Kh (thơ) – Có Những Bực Mình Tức Không Thể Nói (thơ) Ký Sự Đi Tây (truyện)

 

Đọc văn Đỗ Kh.

Ngày 30 Tháng Tư của tôi

Tôi nheo mắt lại, ngả người vào trưa rất nắng. Biển sẫm lăn tăn một chút sóng, trời xanh không gợn một chút mây. Chiếc Skyhawk A4 trắng nghiêng mình xuống sát tàu, thấy rõ mặt người phi công Mỹ, tưởng như là đọc được hàng chữ kẻ tên ở trên nón bay. Anh rà qua một vòng, miệng lẩm bẩm như là đang đếm, tôi nghe Khang, đứa em tôi từ phía sau lưng nói với người con gái đứng bên.
“Pilot Việt Nam bay đi được hết, hình như chỉ kẹt lại có mỗi một người!”
Tôi đoán là Nhung cười, không nghe thấy tiếng. Chiếc phi cơ của Hải quân Hoa Kỳ bay mất. Chung quanh đây hẳn là lúc nhúc hạm đội 7 và chập chờn tàu chiến tàu hàng lớn nhỏ của miền Nam một lần chót ra khơi. Nhưng vào lúc 4 hay 5 giờ chiều này của của ngày 30.04.75 biển thì vẫn mênh mông như thường lệ. Bốn hướng chung quanh chiếc dương vận hạm Bun hak (LST 815) của Đại Hàn tôi đang nằm duỗi, trong tầm mắt với không thấy một bóng tàu.
Trong cái chói chang thường lệ, thành phố có dấu hiệu đầu khụt khịt. Bên hông Toà Đại sứ Mỹ và mãi không thấy hết, kéo dài trên cả vài trăm thước, người ta ngoan ngoãn và trật tự xếp hàng. Đó là thân nhân và gia quyến thật, giả của công dân Hoa Kỳ mặt không buồn giấu lo âu như sắp sửa vào phòng ứng thí, táy máy tập hồ sơ với lại giấy chứng minh lần đi lần lại ở trên tay. Họ vào diện ưu tiên, sắp sửa ra đi hợp pháp, so với những người mới đây ở Đà Nẵng, Huế giẫm lên nhau mà chạy quả có đặc quyền.
Tôi nói Hoàng chở tôi vòng xe lại, rà chầm chậm bên cạnh hàng người này, rõ ràng là có cả tiểu thư, mệnh phụ đang nỗ lực lẫn vào với thiếu nữ bán bar.
“Đù mẹ, Việt cộng đến đầu đường kia rồi mà còn xếp hàng!”
Cứ 30, 50 thước tôi nhắc lại “Mau lên!Chạy đi thôi!” nhưng không ai tin tôi nói, trả lại những cái nhìn không hiểu đẫn đờ. Chẳng ai bực và cũng chẳng ai cười mà tin tôi thì không ai buồn tin nổi. Trước cửa rạp Rex, bảng mới vừa niêm yết 10 bài top hit mới nhất chớp nháy ở Hồng Kông. Trong 3 bài đầu, có The Night Chicago Dies của Paper Lace và Sài Gòn thì chưa chết, chưa hấp hối chưa ngắc ngoải, chỉ mới có vợ con của những người quyền thế ngượng nghịu ôm tay một người Mỹ lạ đứng bồn chồn ngoài nắng trước toà Đại sứ Hoa Kỳ. Mùa mưa cho đến hôm nay vẫn chưa chịu tới.
Hai anh phi công nhảy xuống khỏi xe hổn hển nói với bà mợ tôi “Chúng cháu mới ở Đà Nẵng vào!” Đây là họ hàng phía bên bà, tôi không biết, cũng đồ bay cẩn thận lắm túi và nhiều dây kéo, cái phù hiệu thêu to bằng bàn tay “A37 Dragronfly” tiếng Mỹ. “Tức thời đây!” Hai anh này cất cánh thì thấy hết xăng, phải đáp vòng trở lại thì phi truờng đã bị tràn ngập. Một anh chạy đi tìm ra một xe xăng, vừa đổ vào vừa bắn nhau với địch đã lố nhố đường băng. Nếu hai anh này có anh chân không, có anh quần đùi thì dễ tin hơn, đây là lần đầu tiên tôi nghe nói phi công lên tàu mà không kiểm đồng hồ xăng. Nhưng các anh mặt vẫn còn nhợt nhạt và đây cũng là lần đầu tiên… Đà Nẵng mất. Tôi thấy vui vui, hai chàng lập cập, đánh nhau với địch thay vì bằng bom 500 cân Anh, hoả tiễn 2.75″ và đại bác liên thanh 20 ly 30 ly gì đó, thì phải đánh bằng súng ngắn, loại dành để gia ân lần cuối vào sau gáy cho tử tội bị hành quyết. Cho mà biết, tôi ăn sáng tiếp.

***

Người đàn ông mặc đồ bộ dân sự lòng thòng leo lên giường tôi khi tôi chưa kịp dậy. Tôi không hiểu sao ông lại vào tận đây thay vì ngồi trong phòng khách, cho dù ông có mới đi thẳng đến từ miền Trung bằng đường bộ, đường thủy. Ông thọc tay vô phía trước quần ông lục lọi, lôi ra khẩu súng sáu đặt xuống cạnh bên rồi bật khóc, mỗi lần há miệng lớn ra thì lại nghẹn ngào. Tôi ngạc nhiên là ông làm sao giấu được 1 khẩu súng to như vậy, riêng cái nòng đã dài đến 6 phân Anh. Nhưng hỏi thì ông chỉ lắc đầu rớt rãi không nói lên lời.Tôi đã thấy một người đứng tuổi như ông khóc không kém phần thê thảm, nhưng đó là trường hợp người ta có con vừa tử trận và không có súng lận giữa hai đùi.

***

Hùng mỗi ngày hỏi tôi mấy bận “Chừng nào mình tái chiếm lại Nha Trang?” mà tôi đâu phải là ban 3 Bộ Tổng tham mưu. Mỗi sáng Hùng lên Tân Sơn Nhất trình diện, mặc xi-vin ra đường ôm theo cái túi đựng quân phục, vào đến căn cứ an toàn rồi mới chịu thay vào. Những ngày chót ở Nha Trang, lính Không quân ưa bị lính các đơn vị khác gây. Tôi đeo ba lô chạy bộ còn anh không những chạy lén trước mà còn gầm thét ồn ào mấy trăm cây số giờ ở phía trên đầu. Tôi nói “Ở Sài Gòn, máy bay lên chưa có ai bắn với theo đâu.” Hùng nói, thì cũng phải “Tụi nó ác thật, đi không chở người, tôi thấy nguyên một tàu tụi nó chở toàn đầu máy Honda.” Cái đêm Hùng vào trại ngủ, đã định ôm theo đứa con trai nhỏ nhưng sợ cô vợ mè nheo bèn vào có một mình. Sáng ra, đơn vị chạy, Hùng lên tàu theo, nhặt được một khẩu P38 si kền nhưng bỏ lại cả vợ lẫn con. Được mấy bữa, đài vẫn nói Nha Trang Việt cộng chưa vào đến, đang còn bỏ ngỏ, Hùng ngẩn ngơ đòi tình nguyện, trong đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu để trở về.

***
Từ nhà ở phía sau, buổi trưa nào cũng vẳng tiếng dương cầm lác đác của bài Hạ Trắng. Chắc hẳn đó là một thiếu nữ, chơi đàn như hài nhi tập trở mình, còn cô bụ bẫm ra sao thì tôi không được thấy. Biệt thự của cô dựa lưng vào phòng tôi, cách một bức tường cao và một khoảng lớn vườn.
Tôi ở chung phòng với người em của ông dượng, dân Võ bị [1] và từng là Thiếu tá trẻ nhất của quân lực. Anh này hơn tôi mươi tuổi, thì vẫn Thiếu tá, sau cái lần bị lột lon vì đánh cố vấn Mỹ, nhưng không còn “trẻ nhất” nữa tuy cũng chỉ đâu đó 30. Anh ít nói, mới có con đầu lòng sơ sinh nhưng lại rắc rối gì với cô vợ nên đến đây ở một mình. Trưa, căn phòng nóng không có điều hoà, anh nằm ở giường bên nhìn trần mà thở dài không ra tiếng trong khi cô bé hàng xóm đều đặn lên đàn mà gọi nắng ngập ngừng. Anh đang đáo hạn phép và tìm đường giải ngũ, chán chường ra hẳn khỏi quân đội, dĩ nhiên là Thiếu tá như anh không ở trong cái hoàn cảnh binh nhì của tôi, chán ngũ thì chỉ việc giản tiện đào. Vợ bỏ hay là bỏ vợ, của tùy thân ngoài cái xe máy ra, anh chỉ có một cặp ống nhòm rất tốt, hưởng từ thời làm tiền sát pháo binh. Cặp ống nhòm này có la bàn và độ ngang độ dọc để định phương hướng và khoảng cách quan sát, anh có chỉ cho tôi cách sử dụng nhưng tôi cũng không buồn leo lên mái mà nhìn ra đằng sau, cô gái văng vẳng đâu có cởi truồng mở toang cửa ra mà ngồi đánh đàn. Mấy hôm một bận, anh lên Lai Khê trình diện Bộ tư lệnh (Sư đoàn 5), trở về tôi có hỏi cũng chỉ nói ngắn gọn là chẳng có chuyện gì mới lạ. Cái ngày tướng Hiếu “tử nạn trong khi đang chùi súng”, tôi mới thấy anh đổi cái sắc chán đời đôi chút, ông Hiếu từng là thày của anh ở 1 đơn vị trước, anh buông sẳng, làm gì có chuyện ông tai nạn, hay là người ta “tự sát” [2] ông!
Những buổi trưa này, tôi đặt cặp ống nhòm trước mặt, ngồi trên giường mà làm thơ lính:

Đêm một mình ngồi ngong tiếng pháo
Sặc sụa cơn buồn lên thật cao trong khi cô gái vườn sau lãng đãng mà đệm nhạc làm nền.

***
Ông dượng trao cho tôi một cái radio và nhiệm vụ phải nghe đài tiếng Anh của quân lực Mỹ 16/24. Khi nào đài phát Bing Crosby hát bài I’m dreaming of a white Christmas, sau đó có dự báo thời tiết, câu “Nhiệt độ Sài Gòn đang 105 Fahrenheit và vẫn còn tiếp tục gia tăng” thì phải gọi cả nhà.
Tôi bị ông dượng tôi làm khó, đã không đi đâu xa được mà còn lúc nào cũng phải ôm một cái đài. Khó nhất là Bing Crosby tôi không hề biết, chẳng phải là The Jefferson Airplane hay Janis Joplin, Jethro Tull. Nhạc Giáng sinh Mỹ tôi chưa từng nghe qua giai điệu, mỗi lần có giọng đàn ông không phải là Bob Dylan hay Johnny Cash cất tiếng là tôi phải để ý đến ca từ. Sài Gòn vào tháng 4 thì lúc nào nhiệt độ cũng quanh quẩn 100 Fahrenheit, không 104 thì 106 cho nên lại cũng phiền. Ngồi quán nước thì nhạc ầm ĩ, ra xe hủ tíu thì xe cộ lại ồn ào. Vậy là cô sữa dâu đỏng đảnh thì cho là tôi lập dị, ở càfé nhạc mà lại nghe đài, chị bò viên hiền lành thì phục tôi chuyên cần học tập Anh văn. Nhưng trong khi chờ đợi chiến dịch Frequent Wind mở màn để di tản những người có sẵn trên danh sách Mỹ thì vỡ tuyến Phan Rang, tướng Nghi bị bắt sống [3] .

***

Tôi đã nghĩ đến ở lại. Ở lại thì phải trốn gia đình, bố tôi phải đi tìm, mất cơ hội lên trực thăng và em tôi cũng sẽ bị kẹt lây. Tư tưởng “ở” này tôi không hào hứng quá 30 giây. Việt Nam, tôi mệt mỏi đến độ ra đường nhìn gái, tôi phải lên Chợ Lớn để ngắm thiếu nữ người Hoa sóng sánh nhịp nhàng cùng với mì sủi cảo. Tôi đâm ra kỳ thị ngược, đồng ý với các vị đời Đường là thiếu nữ tàu chân nhỏ và không có bắp chuối. Nhưng tôi chưa được hưởng các thú đế vương vẫn nghe nói tới, chẳng hạn như như lắp đít vịt (tàu?) và khi gần “tới”, để các cô con cháu Khổng tử nằm sẵn hai bên chặt cổ con vật cho nó dẫy tê tê. Tôi theo hai thằng bạn thuộc dạng 3 sắc lính 7 lần đào vào đây không phải để ăn vịt tìm (không đầu!) mà để tìm việc.
Nam Vang đã bị hoàn toàn vây hãm, đường tiếp tế duy nhất là bằng đường thuỷ. Ông cai tuyển mộ hề hề, nhưng mà sông rất rộng, cả hàng cây số lận, và thương thuyền đến giờ theo xác xuất đi 7 chiếc chỉ có 1 chiếc bị bắn chìm. Tôi hỏi 1 trên 7 là có tính cả khứ hồi, ông nói là 2 chiều chứ bận đi mất 1 bận về lại mất 1 thì sao mà có lời! Đến chỗ nguy hiểm, tàu tụ lại một đám qua cái ào, đông quá tụi nó bắn không kịp, trúng thằng nào thằng đó chịu, còn chuyện có dừng lại vớt dừng lại cứu hay không thì tuỳ lòng nhân đạo và tùy hoàn cảnh. Tôi thấy thích vì ông này nói chuyện ngay thẳng hơn là các cấp chỉ huy trong quân đội. Tôi hỏi có M60 (đại liên cá nhân) có M72 (hỏa tiễn), đâu tốn kém bao nhiêu, cái tàu và hàng chuyên chở mới là tiền. Ông ngần ngừ, trước giờ hình như đánh thuê hộ tống các đoàn tàu chưa ai đặt vấn đề này, chỉ nhận tiền rồi đi nhậu bí tỉ. Nhưng thấy hợp lí (điều này lại càng rõ doanh gia Chợ Lớn hơn hẳn lãnh đạo Sài Gòn) ông hứa là sẽ cho. Tôi nói trước, tôi đi có một chuyến, đến Nam Vang tôi ở lại còn anh em thì về, ông cũng chịu, tới đó sẽ thanh toán cho tôi 50.000. Tôi về cân nhắc chuyện xuất ngoại này, không phải vì sác xuất 1 phần 14 cơ may bì bõm lội dọc Cửu Long mà là đối với gia đình.
Tôi mới nói với bố “Con có đường ra nước ngoài“, trúng ngay ý. Ông bảo bố đã lo rồi, đợi có chuyến chở người Hoa trốn lính (!) từ Vũng Tàu ra biển gặp tàu lớn chở thẳng đến Hồng Kông. Tôi cụt hứng mạo hiểm, cam chịu đánh đổi một tương lai Suzie Wong váy sường sám xẻ với lại Apsara ngực trần để làm 1 đứa con dễ bảo.

***
Nguyễn Ngọc Linh, Phạm Kim Ngọc là những người đầu tiên ra đi bất hợp pháp. Báo chí loan tin các vị này cùng gia quyến thuê một chiếc Boeing đi Phú Quốc nhưng lại đáp xuống Singapore xin tị nạn [4] . Mấy ngày trước, nhà tôi có phi công trưởng, phi công phụ Air Vietnam ra vào đầy vẻ trầm tư. Tôi nghe loáng thoáng, chuyện ra trường bay cầm vé khứ hồi đi du lịch (?) đâu đây trong nước (!), chẳng hiểu đây có phải là dự tính trùng hợp, song song, cạnh tranh hay hùn vốn với nhóm trên nhưng bất thành, chỉ thấy sau đó bố tôi ngậm tăm không hề bình phẩm về việc này một tiếng.

***

Ông cậu, trước giờ trong họ nổi tiếng là sát gái và sát cộng, công tác với tình báo Mỹ trong chương trình Phượng hoàng [5] , gọi tôi ra một chỗ và trao thêm cho một trọng trách khác. Ông đưa tôi khẩu súng ngắn, bảo “Khi mình đã lên tàu rồi, thì chỉ có đi, không đi là bắn“. Lần này là tàu biển, đang đổ dầu ở cảng Sài Gòn. Tôi cũng “ok” (sau mấy ngày liền phải nghe đài Mỹ 16/24) tuy không biết là phải bắn ai, một nhóm khác cùng tổ chức nhưng đổi ý vào giờ chót hay là bắn thủy thủ đoàn nổi loạn, bắn thuyền trưởng đòi thêm tiền hay là bắn lái tàu không chịu quay tàu ra biển. Tôi không rõ thế nào, nhưng nghe thì cũng đã thích, oai hơn là ngờ nghệch giả dạng khách hàng không. Khẩu súng này lại bảnh, của Tây đức, là loại tôi chưa từng thấy, hàng hiếm CIA 9mm chứ không phải hàng thông dụng của cảnh sát Smith &Wesson 38, quân đội Colt 45. Tôi mang về phòng tháo gỡ ra và lau chùi, cây súng lạ như đã nói nên đỏ cả mặt mãi tôi mới ráp lại được, may mà không có ai chứng kiến. Giờ thì tôi đã có đài, lại có súng.

***
Ông cậu đi ngã DAO [6] bằng máy bay và chẳng phải ra lệnh ra hiệu cho tôi bắn ai hết. Bố con tôi sang nhà một người bạn ông ở Đa kao. Bố tôi thì thận trọng, nhà của ông bạn này chính là điểm hẹn của chương trình di tản và có đường dây điện thoại riêng đến thẳng sứ quán, ở ngay đó thì khỏi phải đi đâu và không sợ bị mất liên lạc với… Hoa Kỳ. Tôi được thoải mái hơn đôi chút, và nhà ông này có sẵn cô con gái, nếu không muốn nghe Hạ trắng thì chỉ việc cười duyên mà yêu cầu bản Diễm xưa. Cả miền Nam còn lại lúc đó đợi mùa mưa, năm nay mãi mà chưa thấy đến, chẳng phải để dài tay hay là xanh xao mắt ai hết mà vì Xuân Lộc oai hùng mấy cũng đã phải bỏ và chỉ còn mùa mưa mới chặn được đường tăng.

***

Ông Thiệu đã từ chức, lên TV than thân và trách… Mỹ, nhưng ông vẫn chưa đi. Người bạn trong Đại đội Cận vệ Phủ Tổng thống kể “Sáng nay tonton còn ra sân đánh tennis.” Anh liếc trước liếc sau rồi vỗ vỗ vào cái túi thể thao lúc nào cũng mang theo chứa cây XM 16 bá xếp và nòng ngắn “Ổng mà chạy là tụi moa cũng mần, anh hạ giọng, ổng… luôn.” Tôi cũng biết chẳng ai ưa anh Tám thẹo nhưng để đến đám cận vệ của ông còn bất mãn như vậy thì hẳn là ông chỉ được lòng có mỗi…Hoa Kỳ.

***

Giới nghiêm được ban hành vào 8 giờ tối. Sài Gòn khoá cửa lại, lính tan hàng không còn vào được. Tôi ăn cơm xong thì súng nổ đì đoẹt cạnh ngay nhà. Tôi leo lên sân thượng xem, có người cháu của gia chủ vội vã vác cây Garand [7] lên nạp đạn. Anh này sinh viên Võ bị, mấy hôm trước về cùng với quân trường từ Đà lạt, còn mang theo cả khẩu súng. Giờ anh ở phía bên trong “tuyến”, còn ngoài kia đang bắn vào Quân cảnh, Cảnh sát đang gác chốt là những người đi lạc, không còn đơn vị và chạy hụt hơi về đến cổng nhưng lại bị ngăn. Tôi đứng ở tầng 4, xem màn ciné dưới đường này thích thú, bắn qua bắn lại chẳng biết phải trái phía bên nào. Nếu tôi đang ở bên ngoài kia, thì tôi cũng muốn vào Đa Kao mà… ăn bánh cuốn, ai chắn thì tôi chắc cũng bắn thôi, nhất là lính có bao giờ ai thương Quân cảnh.

***
Mỗi ngày bố tôi vẫn đến bàn giấy. Tối 25, ông gọi anh em tôi vào phòng riêng, hớn hở đưa cho xem một chi phiếu của Công ty Thành tuy hạ. Chi phiếu này 13 triệu [8] , là lợi nhuận đầu tiên ông nhận được từ khi ông làm chủ tịch của đồn điền cao su này mới mấy tháng nay. Ông mở cặp, cho tôi và Khang mỗi đứa 130.000. Tôi cũng không cần lý do để nhận, định bụng sáng ra lên Lê Lợi mua cái máy chụp hình Nikon F2 mới, chứ tiền nhiều thế này, sức người có hạn, làm sao mà chơi cho hết đĩ [9] .

***

Tôi chịu khó dậy sớm, đang ăn sáng ở quán trước nhà và mơ màng Photomic chứ không phải mơ màng nhà thổ thì Khang xuống tới.
“Ông già mới gọi điện thoại về. Mình đi”
Tôi nhìn cái đài vẫn còn chịu khó mang theo và đặt ở trên bàn. Chẳng lẽ tôi lỡ mất dịp chính tai tôi được nghe bài hát và câu mật hiệu.
“Không phải đi với Mỹ mà mình đi đường khác. Bố nói bố về đến là đi.”
Tôi quyết định thật nhanh.
“Mày chở tao lên Thuý”
Thuý ở ngay trung tâm, bên hông Quốc hội. Văn phòng của bố tôi ở xa hơn một chút, đường Nguyễn Công Trứ. Bố tôi đi xe con, tôi đi xe máy, bây giờ ông có rời bàn giấy, tôi chạy đi chạy về vẫn còn kịp, sáng hôm nay thứ bảy, Thuý phải có nhà.
Tôi đứng ở dưới đợi.
“Nhà em có vải đỏ không?” tôi hỏi.
“Để làm cái gì?”
Thuý đứng trong sân, thành phố vẫn như mọi ngày thứ bảy, mọi người qua lại, Khang ngồi trên xe cách đó mươi thước nhưng không tắt máy.
“Để may cờ mới!”
Câu này tôi trả thù cái ngớ ngẩn của nàng lúc mới quen nhau “Thế anh đi lính có bao giờ thấy Việt cộng không?” Em ở lại mà nhìn tận mắt, còn anh đi. Thuý không hỏi đi đâu, mà tôi làm sao biết? Tôi cũng không nắm tay, xin quà kỷ niệm, trước đây thể-theo- lời-yêu-cầu Thuý đã có tặng tôi một cái quần lót bé xíu của nàng bằng polyester màu xanh. Tôi có nhân đó mà lại làm thơ, lần này là thơ tình, “Màu xanh của Thúy“.

***

Sứ quán Đại Hàn đã có vài ba trăm người đợi sẵn, dân sự và đàn bà con nít cả Hàn lẫn Việt. Ba anh mặc đồ bay đen nổi bật Thần-phong-hiên-ngang-chẳng-biết-sợ-gì nấn ná tiễn một gia đình có 4 cô con gái lớn. Bố tôi dẫn anh em tôi vào bàn giấy ông Đại sứ, ông khép cửa lại, chính tay ông lấy ảnh dán vào giấy thông hành của sứ quán, tự tay đóng mộc và ký tên. Tôi thấy ông liều nhỉ, làm giấy không phải giả nhưng mà bất hợp pháp tuy ông chỉ mới biết bố tôi qua loa, sau mới có vài tháng nhậm chức. Ông gia ân này vì sự gửi gấm của ông Đại sứ tiền nhiệm, một vị mà ngay cả cô con gái vào trạc tuổi lúc mười mấy tôi đã có giao du khá thân tình. Hạm đội Đại Hàn đang có mặt ở Tân Cảng, mang muối gạo viện trợ gì sang và di tản Hàn kiều về nước, anh em tôi cầm giấy trên tay là giả thuộc dạng này. Nhưng trước tiên, họ phải chở nhờ dân từ miền Trung tị nạn đến Phú Quốc định cư và bố tôi chỉ mới quyết định “Chưa rõ ra sao, cứ lên tàu trước đã, đến Phú Quốc hãy hay.” Tôi thì chưa kịp mua cái Nikon F2, tiền còn nguyên trong túi đeo vai với một cây thuốc lá vơ vội và mấy vỉ Nautamine chống say sóng tôi đã phòng hờ từ hôm dự tính cướp tàu dầu.

***

Đoàn năm bảy cái xe buýt Mỹ được toà Đại sứ Đại Hàn mượn đang ở trên xa lộ thì có một chiếc Corolla bảng tư nhân hớt hải đuổi đến. Chiếc xe chở tôi ngừng lại, cái Corolla đổ ngay xuống mép ruộng bên đường. Một cặp vợ chồng trẻ đẹp như diễn viên người mẫu lôi 2 cái Samsonite to tướng nhào lên. Cặp anh hùng thuyền quyên Việt này tí nữa thì lỡ chuyến, bỏ lại ngon lành cái xe con 4, 5 triệu, hai cửa còn mở toang và chổng đít ở bên lề. Anh râu quai nón to lớn còn đang hổn hển, cô vợ chân dài mặt vẫn nhợt còn hơn là đánh phấn thì xe lại ngừng. Đây là cổng vào cảng, cửa xe buýt mở, một anh quân cảnh trang phục tề chỉnh leo vào. Bằng ấy người trên xe đứng ngồi, anh nhìn ngay vào tôi mà hỏi giấy.
Tôi đẫn người ra không có phản ứng. Tưởng là xe sứ quán bảng quân đội Mỹ đã an toàn, nếu không thì cặp kia đã không vất đi cái xe con đời mới để đổi lấy hai chỗ đứng. Con gái ông Đại sứ tiền nhiệm chưa hề dậy tôi một câu Hàn ngữ và tôi còn đang ú ớ chưa ra một chữ tiếng Anh thì ông nhân viên sứ quán đi kèm đã nhanh trí… ngoại giao. Ông lôi từ đâu ra một nắm tiền, giấy 500 Trần Hưng Đạo dúi vào tay anh Quân cảnh. Anh này một tay còn cầm súng, một tay không đủ để cầm tiền, cả tập rơi ra sàn vương vãi, anh lom khom nhặt nhét vào túi trên, túi dưới, túi quần ngang. Cả đời anh có lẽ chưa bao giờ thấy nhiều tiền như vậy, ngệch cả mặt mày. Ông Đại Hàn ác ôn được thể bồi thêm một nắm nữa làm anh Quân cảnh thiếu điểu hốt hoảng vì không còn chỗ chứa. Anh lùi ra ngay khỏi cửa nhưng nghĩ sao không chịu xuống hẳn mà còn đu vào thành, tay kia phất súng ra hiệu với các bạn gác ở bên dưới.
Đoàn xe vào cảng có tiền mở đường máu qua khỏi trạm 2, trạm 3, đỗ trước bến anh Quân cảnh còn đứng đó nhìn trước nhìn sau bảo vệ cho mọi người xuống. Ở cầu tàu, cặp sẵn chiếc Dương vận hạm, cả một trung đội Thuỷ quân Lục chiến Triều Tiên chắn hàng ngang. Mấy anh này dang chân đứng tấn, súng gác trên hông, mắt nhìn thẳng, dây quai nón sắt ở dưới cầm như là duyệt binh lên truyền hình vào ngày Quốc khánh. Suốt mấy tháng trời không có giấy tờ hợp pháp, tôi đã được qua bao nhiêu là trạm kiểm soát ngày đêm, phải đợi đến lúc ngồi trên xe buýt của sứ quán Đại Hàn mới phải nhìn thẳng vào mặt một chàng Quét chợ [10] .

***
Miền Nam, với 18 triệu dân số, có 1000 bác sĩ. Trên tàu tôi, không kể thành phần chính đáng Hàn kiều và gia quyến hồi hương, số quá giang lánh nạn sớm hơn người vào khoảng 200. Chẳng hiểu vì lý do nào, trong số này có đến 11 hay 13 bác sĩ, tức là một tỉ lệ cao hơn cả nước từ 500 đến 1000. Bác sĩ đi nhiều như thế, người ở lại chỉ cần cảm cúm cũng chết, chẳng cần đợi Việt cộng đánh đến. Một ông từng làm chỉ huy trưởng Tổng y viện Cộng hoà [11] , một ông đương kim Giám đốc Trung tâm Bài trừ Hoa liễu chắc phải còn bỏ lại con bệnh đang rên la vì phong tình-lậu mủ-giang mai, mào gà-sang độc-hột soài-hạ cam . Có vài luật sư, bên xã hội có bà Chủ tịch Hội Hồng thập tự, phía tôn giáo có một Đại đức cánh của thày Tâm Châu, ôm theo một bà vãi đội tóc giả. Ít ra là có một linh mục công giáo Bắc kỳ hung hãn, ông này có lúc tiến đến tôi túm áo hỏi “Em có phải Nhảy dù? Tôi trước đây là sĩ quan tuyên uý trong binh chủng!” Tôi nghĩ, thôi đi “cha”, giờ này còn nhận họ, nếu tôi Nhảy dù chẳng lẽ ông với tôi về chiếm lại… Bùi Chu. Vào lúc 5 giờ, khi đi ngang bến Sài Gòn, tôi thấy trên bờ vẫn có tình nhân đi dạo, xe qua lại bình thường, nhiều người đứng hóng mát nhìn con tàu đi ngang vẫy tay chào. Sài Gòn thứ bảy vẫn ngàn hoa trên đường, một người lính trẻ rời xa quê hương. Người lính chiến ấy là tôi! Lần đi khi nắng lưng đôi, chiều 26.04, chúng tôi là những người ra đi đầu tiên.

***
Cảnh yên hàn này còn kéo dài được một hai tiếng đồng hồ nữa. Hạm đội Hàn quốc gồm chiếc LST 810 chở tị nạn miền Trung đi trước, tàu tôi LST 815 cũng là soái hạm đi nhì. Chiếc thứ ba, tàu yểm trợ kỹ thuật, còn đang ở Tân cảng thì bị pháo. Đạn trúng tàu sơ sài, không chết anh Đại Hàn nào, tôi chỉ lo là chết anh Quân cảnh Việt trước khi anh kịp sài nắm tiền vừa mới có thì định mệnh quá là tàn nhẫn. Dấu hiệu pháo địch đã về đến vòng đai, đã cách mấy giờ tàu, tôi không được chứng kiến, chỉ thấy trên tàu tôi nhốn nháo, đại đội Thuỷ quân Lục chiến từ trong khoang chui lên vào vị trí tác chiến, thuỷ thủ đoàn lăm lăm quay Bofor và 12 ly7 hướng bờ.
Đêm như mực thì thầm nhưng hành lang ra Vũng Tàu vô sự, đến 2 ngày hôm sau khi Nguyễn Thành Trung dắt A37 vào ném bom Tân Sơn Nhất thì chúng tôi đã bập bềnh ngoài khơi ngang Côn sơn. Biển lặng lờ nên mọi người ngủ ngay ở trên boong đón gió, ngay bên cạnh “nhà” tôi là 1 gia đình có bốn cô con gái tuổi từ 17 đến 25, mỗi vẻ một người. Tôi không nghe đài theo dõi biến chuyển chính trị và quân sự, chỉ lo theo dõi sát 4 cô này. Họ giữ thói ở trên bờ, tối đi ngủ đồng loạt thay đồ bộ, đến sáng lại chuyển qua quần áo đi dạo phố. Ba cô đứng ba góc cầm một cái trải giường mỏng khúc khích cho một cô đứng giữa từ từ mà thay đổi xiêm y. Gió thì có khi phần phật và đằng nào thì cũng nắng để ngồi ngược mà ngắm, cảnh nghệ thuật này tôi không lần nào bỏ qua.
Cũng vui nhưng kém phần hấp dẫn, là ngay đêm đầu tiên căng thẳng trên sông, ông Đại đức với bà ni cô vẫn trùm mền thực thi bài tập của bí quyết phòng the bất kể các thí chủ nằm bên. Cặp này đã lớn nhưng nhìn nhau mặn nồng như trai gái dậy thì, bà vãi thì mỗi lần di chuyển hai tay phải ôm đầu chỉ sợ mái tóc giả bị gió cuốn. Có lẽ trên đất liền họ chưa từng có cơ hội gần gũi, lên đến tàu họ là 2 người nếu không được Cách mạng, thì cũng đã được hoàn cảnh giải phóng.

***

Tôi lân la làm thân với lại “Cởi quần áo tứ nữ anh hào”, Mai-Nhung-Nga-Tiên, ngay lúc đầu đã cợt nhả kiểu “Sao, đến giờ chưa, thay đồ đi chứ“. Ở Sài Gòn, ông Hương xuống, ông Minh nhậm chức, trên tàu cặp uyên ương tăng ni đêm bảy ngày… nhịn. Tôi lo tán gái và có thoáng chút lo cho đơn vị cũ, chẳng biết còn ở Đồng dù hay co cụm về Sài Gòn giữ tuyến cận thủ đô. Cuộc chiến tàn Sư đoàn tôi bị Sư đoàn 18 [12] qua mặt, Xuân Lộc tướng Đảo chơi đẹp làm tôi cũng hết ý, tuy đã đào ngũ nhưng vẫn phải có phần ganh tị. Chuyện màu cờ tôi không quan tâm lắm nhưng sắc áo thì cũng có một tí, thằng 25 cũng ra gì nhất là Đường sơn Đại huynh Lý tòng Bá, anh em đều nể, đến độ ông bay thị sát ở Trảng bàng không biết trực thăng có trúng mấy viên đạn mà tự động trong quân thêu dệt thêm huyền thoại là ông bị thương chân. Dĩ nhiên là ông cũng phải thế nào mới có cái tiếng đó chứ tướng lãnh nhiều ông thì lính chỉ có đồn đại là đã bỏ chạy.

***
Tối ngày 29, vào lúc phần lớn những lời đồn này đã có căn cứ hẳn hòi thì tàu tôi đến Phú Quốc. Chiếc 810 đã đổ người tị nạn lên bờ trước mấy tiếng, riêng 815 thì Đại tá chỉ huy hạm đội cho mời mấy trăm người thuộc diện đặc biệt họp riêng vào một chỗ trước đài. Hai ba trăm người này chúng tôi, chẳng phải là tị nạn định cư ở đảo, cũng chẳng phải kiều dân liên hệ gì đến Nam hàn. Ông Đại tá nói, tuy cùng một hoàn cảnh chiến tranh và chia cắt nhưng đất nước của các bạn giờ thống nhất và hoà bình, là điều ngay cả chúng tôi đây vẫn còn đang mong ước. Đây là cơ hội chót để các bạn quyết định. Tương lai của các bạn ở Đại Hàn ra sao không thể biết, và mùa đông ở đó lạnh đến nỗi con sông ngang Hán thành đóng băng. Đại khái ý ông là gia đình nào sợ lạnh hơn sợ cộng sản thì ông sẽ cho ghe đưa vào bến, còn ai nhất định bỏ xứ thì Triều Tiên sẽ đón tiếp đàng hoàng.
Sau diễn văn tình cảm rất là chân thật này, có tình đất nước và có tình đồng minh, chỉ có một gia đình nhận xuống. Họ đi một vòng không phải để nhận tuyên dương về lòng yêu nước từ những người ở lại mà để bán đô la. Bình thường, hối đoái là 300 đồng tiền Việt, hôm rời Sài Gòn mới lên đến 500 đồng. Trên bờ thì không biết ra sao nhưng họ đòi 1000 mà họ cũng chẳng có mấy tiền đô để đổi lại. Đến khi bố tôi kịp mở cặp ra thì họ đã hết sạch tiền Mỹ. Tôi thấy trong cặp ông có đâu đó gì một triệu trở lại, toàn là tiền Việt, bảo ông sao bố không nhanh, giữ cái này làm gì. Ông móc ví ra cười, có đúng 20 USD và 100 quan Pháp còn lại từ lần cuối xuất ngoại, tuyệt đối trên người không có 1 chỉ vàng. Tôi cũng cười vậy, biết sao, sắp đến giờ trình diễn thay đồ đi ngủ của 4 cô con gái.

***
Tôi ngủ say dậy trễ, nên cái giờ trọng đại của lịch sử tôi chỉ mở được có một mắt.
Mọi người lao xao tụ tập quanh mấy cái đài mở to khọt khẹt.
“Ông Minh tuyên bố đầu hàng rồi!”

Người ta nhắc nhau, nhắc đi nhắc lại. Tưởng ông tuyên bố tử thủ Sài Gòn, tái chiếm…Quảng Trị, di tản xuống quân khu 4 lập phòng tuyến mới, dời chính phủ kháng chiến về Phú Quốc… thì mới lạ chứ đầu hàng thì ai cũng đã chờ đợi. Không có ai ôm mặt khóc, không có ai nhảy xuống biển tự sát. Mấy nhà quân sự nghiệp dư ở trên tàu tính kế hộ tướng Nam, đánh Kampuchia hướng Tây và giữ phà Mỹ thuận ở miệt Bắc [13] . Tôi chấp hành nghiêm chỉnh quân lệnh cuối cùng của Tổng Tư lịnh Quân lực là giữ nguyên vị trí… đang nằm. Cho tới khi lần này thì nhốn nháo, tiếng chân thình thịch, thuỷ thủ đoàn nai nịt áo phao, gỡ vỏ khỏi đại liên, đại bác, hạ nòng.
Đại tá chỉ huy hạm đội xuất hiện, áo giáp súng ngắn đường đường. Ông cho biết những người một giờ trước còn là quân đội đồng minh của ông, các đơn vị VNCH Phú Quốc, và giờ là tàn quân ô hợp, đang đòi lên tàu này. Tôi nhìn ra mé tàu, bên dưới vài cái tiểu đỉnh chập chờn trên sóng, phần lớn là lính tráng đang ngóng cổ nhìn lên tràn trề hy vọng. Tôi cứ tưởng thả thang cho họ rồi lên tàu tước vũ khí, đại đội Thuỷ quân Lục chiến trên tàu thừa sức giữ an ninh cho việc nhân đạo này. Nhưng ông Đại tá tuyên bố, quý vị an tâm, giờ nào tôi còn sống, không có quân quan lính lạ nào leo được lên. Có lẽ kinh nghiệm di tản người tị nạn từ miền Trung vào khiến ông quyết liệt như vậy mặc dù hoàn cảnh lần này có khác. Tàu đã hết chỗ chứa, họ chỉ việc chịu khó chạy ra vài mươi hải lý nữa, đã có hạm đội Mỹ, đến 4 chiếc Hàng không mẫu hạm và cả trăm tàu đủ loại đợi sẵn, hộ tống họ về đến Subic Bay [14] . Biển Nam Hải đang nườm nượp như là Ngã tư Bảy hiền vào giấc sáng, việc gì mà sợ lạc.
Ở trên bờ, phi trường Dương đông tấp nập không kém, trực thăng là đà bốc thẳng, phi cơ quân sự hết chiếc này đến chiếc khác ra đường băng. Tôi thấy rõ nhiều xe máy nhỏ, chở cả gia đình đuổi ra đến tận nơi, vất xe cái bẹt để bồng bế nhau lên tàu. Từ vị trí đã an toàn trên biển tôi điềm nhiên mà theo dõi, nhưng nếu tôi đang ở trên bờ và không có phương tiện ra đi thì tôi cũng vẫn hai tay thọc túi mà nhìn. Ở lại thì ở, chết thì chết tại chỗ cho đỡ… tốn sức chứ tôi không chen lấn. Tôi chẳng có nghĩ ngợi, tôi nhìn, nom những hàng cây xanh lơi lả mát bên trong mà bỗng dưng thèm một cốc dừa. Nhung, quần áo đã diện như là đi mua sắm, đứng cạnh tôi hướng về sân bay đờ đẫn.
“Giờ này anh ở đâu?”
Tôi buột miệng Chàng lái trực thăng hay là phản lực?”
“Phi đoàn vận tải Tân Sơn Nhất”
“Vậy thì lo gì,”
súyt thì tôi ôm luôn Nhung vào lòng “phi công đi là cái chắc, mà phi công vận tải thì đi còn mang theo được cả bàn ghế, giường tủ.”
Tàu lầm lì từ từ quay ra hướng biển, mấy cái tiểu đỉnh vây quanh dãn ra nhường kiểu ngập ngừng vẫn còn tiếc nuối, theo như ông Đại tá nói, hạm đội 2300 hải lý nữa sẽ đến cảng Busan, Nam Triều Tiên. Vài ngày nữa, nếu Nhung hết quần lót sạch, tôi sẽ đề nghị cho mượn cái kỉ vật của Thuý mà tôi mang theo dằn trong túi.

Nàng tên là Níc

Mùa mưa ở Thái đến trước mùa Hè ở châu Âu và con đường dọc bãi biển Jomtien vắng lặng, vài chiếc song theo lúc lắc học sinh tan lớp trễ giấc chiều. Mỗi quán một trăm cái ghế dài và ô che nắng, vài ba khách nước ngoài, những nhân tình farang duỗi chân tay uể oải. Tôi ngồi ở lề bãi còn sẫm cơn mưa cuối, nhai nhóp nhép kẹo cao su nicotine.

Mặt trời xuống, nhá nhem con lộ đi ngược lên về hướng Jomtien Complex, mấy xe ăn quà lên ánh đèn trước bãi ra vào Family Mart, các beer bar bàn ghế kéo ra lề, một hai ông tây già dạng expat định cư địa phương quanh năm thất thểu, cùn chân cuối thủa đăng trình quẩn quanh. Các vị này thì cuối thủa thật, phục viên miền nắng ấm với đồng lương hưu trí của các nước phát triển, thay vì chống gậy thì chống một anh hay là một cô bồ nhí thổ dân. Cờ Thụy Sĩ, Na Uy phai màu đong đưa trước mấy cái chái, bảng quảng cáo « Dental Cafe » mới tinh có hình ông tây bà đầm cười nhăn răng, one stop laser cleaning, crown, veneer. Nghe đâu là vào tháng này, cả khu vực từ Pattaya đến Rayong chỉ có các gia đình Hàn quốc trong khách sạn Palm Beach, ông bố bà mẹ và các con ở trên phòng hát karaoke với nhau, các cặp mới cưới người Nga trăng mật trong Ambassador đóng kín cửa và độc thân Ả rập thì tụ tập tại V.C. Hotel trên phố, không bén mảng ra khỏi Walking Street đêm cũng như ngày. Nói tóm lại, đây là mùa vắng nhất của vịnh Xiêm, nhiều những cơn mưa và vắng khách bia ôm.

Trên hè, thì con gái cũng như ghế dài ở bờ biển, một trăm cô chổng chân ra héo úa nhìn trời. Coyote Disco, Gogo, Lucky Irish Pub nhợt nhạt, quán đồng phục nữ sinh đã đóng cửa hẳn, quán tiếp viên không mặc quần lót mỗi cô váy thun che đùi bằng một cái khăn tắm gác chân lên ghế mà ăn dế nướng xiên que. Ở bên kia là phố đồng tính, cũng buồn hiu không kém, Street without Joy. Anh khách lạ đi lên đi xuống, vòng qua vòng lại, đột nhiên trong những cái đầu lô nhô cửa quán, tôi bỗng thấy Trang, nhìn nghiêng và loáng thoáng, tôi sợ hãi quá đi thẳng.

Tôi đếm một, tôi đếm hai, tôi đếm ba năm bảy tiếng.

Đến đêm. Đêm thật, đêm đen, tôi trở lại. Dưới ánh đèn hắt ra nửa xanh nửa vàng, cặp môi dầy và cái mũi cong cớn tẹt, tôi thấy Trang vẫn ở Lucky Bar One. Tôi không hiểu làm sao, định mệnh đeo đuổi, một trăm con gái ngồi bar ấy của ông Nguyễn Bính, mà tôi lại thấy, lại thấy được, lại thấy ra và chỉ thấy có Trang. Trang ở Huế nhưng quê Quảng Bình mà lại má đầy và da ngăm, từ đâu ra mà trườn vào sông Hương. Trang bảo, em chắc có máu Hời. Đôi mắt Trang to buồn Tây Phương, đôi mắt người… Quảng Bình. Những cung phi bị đày ra bắc, những Huyền Trân Chân Lạp, Hận Đồ Bàn. Còn Trang này, Trang ở trong bar, phải là Isan, từ Udon Thani trôi dạt chân gầy (và dài).

Tôi ngồi ở quày bar, cho đủ xa chứ không phải là cho thật xa, cho thật xa thì tôi đã ở nhà. Tôi liếc lén, Trang chân dài và có một vết xẹo xe máy ở đầu gối, như là đa số thiếu nữ (hay là cả thiếu nam) của những tỉnh lẻ Thái Lan. Trang mặc váy ngắn, và áo ngắn, nghĩa là hở cả đùi lẫn rốn, tóc lúc lắc trên trán và nách cạo lông sạch. Trang gặp ánh mắt tôi thì cười hồn nhiên nhưng mà u uất một khóe mép. Tôi cười ngượng ngập và u uất cái gì thì tôi không biết. Tôi làm lơ. Tôi quay sang cô gái vừa đến bên bắc ghế. Mặt tròn và trắng, cũng dễ thương vào lúc đã nửa đêm.

Vài dăm ba câu chuyện giới hạn bởi từ vựng, tôi cầm chừng nghe Trang qua lại nhột nhạt phía sau lưng. Thì nước cam, bia Sỉng. Singha, your country my beer, tôi nói một câu đùa nhàm chán với cô gái ngồi cạnh. Trang ngồi trên ghế cao ở đầu kia quày nhìn. Thì nhìn tôi, trong quán không có đến một khách khác. Một bạn tiếp viên đi ngang kéo cái váy của Trang xuống nhưng tôi nào thấy gì đâu, tôi nhìn Trang bằng một đuôi mắt ra vẻ hờ hững. Trang nghiêng người qua quày, với cho cô bạn một chai nước, lộ hẳn đáy lưng có hình xâm và một bờ mông không có hình gì hết. Tôi nghẹn ở cổ họng, Trang ơi tôi nói thầm. Tôi nói ra tiếng với cái cô ngồi cạnh, giờ mình đi về chưa, Noi bảo, tùy anh.

Tôi hỏi bao nhiêu. Noi nói, 300 tiền chuộc bar và 1.000 qua đêm.

***

Tôi khen kiểu lịch sự:

Em đẹp quá!

Thì là sự thật. Phụ nữ thì ai cũng đẹp hết, đó là chuyện phải biết nhìn thôi. Noi đẹp ở nụ cười, ở mi mắt và ở hai đầu vú nhọn. Nhìn một lát nữa biết đâu lại kiếm ra khối cái đẹp tẩn mẩn khác. Vả lại, hai đầu vú tròn hay dẹt, hai đầu vú lồi hay lõm thì cũng đẹp vậy. Mông to và đùi lớn thì có người lại cho là xấu, nhưng Vệ nữ Willendorf thì cũng là vệ nữ. Noi nói:

Em không đẹp. Khách Tây không thích.

Tây mà biết gì!

Khách Á đông cũng không thích.

Á đông mà biết gì. Tôi thích.

Up to you.

Phòng tôi có hai giường đơn. Noi cởi cái khăn tắm ra.

Em nằm giường nào?

Tùy anh.

Có sáng quá không, để tôi vặn nhỏ bớt đèn.

Tùy anh.

Tôi vặn nhỏ bớt đèn. Tôi bề Noi cho có, đi vô đi ra, không hổn hển thì rồi cũng tới. Xong rồi, thì là một cô gái nằm trong phòng của tôi, trông như là một bức tranh tối om trường phái cổ điển Hà Lan. Noi lại nằm trên cái giường tôi vẫn ngủ. Giờ tôi lên nằm giường kia thì hơi kỳ, đâm ra ngăn cách. Nhưng tôi không muốn chung giường ôm Noi qua đêm chật chội, một cái tranh thế kỷ thứ 17 bảo tàng, tuy là khung mềm 1m50 co quắp.

Mai tôi phải dậy sớm, em muốn ở đây hay là đi về thì được ngủ đến trưa, chứ không lại lỡ giấc.

Tùy anh.

Tôi đưa Noi ra đến thang máy.

***

Tôi choàng dậy, thôi bỏ mẹ. Đầu óc đâu đâu toàn là những Trang, thảo nào, tôi móc túi ra đếm lại tiền. Tôi đếm đi đếm lại, thôi đúng rồi. Hồi nãy mới lấy một tập tiền ra từ trong cóp sắt, tòan giấy chẵn, một ly bia khách 60 baht, một ly nước tiếp viên 90. Tôi mặc quần, xuống đường hối hả, Lucky Bar cách phòng tôi có một con đường. Hai giờ sáng thì vẫn thế, Trang vẫn ở đó, và nếu quay lưng lại ưỡn người thì vẫn lộ hình xâm ở đáy lưng, nếu cúi xuống thì vẫn lòi mông váy ngắn. Tôi hỏi:

Noi còn đây không?

Mọi người nhìn nhau. Anh quản lý đồng tính nheo một mắt dọ hỏi coi rất là dễ mến, kiểu chỉ có nam đồng tính mới nheo được như vậy chứ ngay cả phụ nữ mà bắt chước làm thì cũng chỉ có thể thấy vô duyên.

Có chuyện gì vậy?

Noi từ trong trở ra, nàng chưa lên phòng, theo luật lao động khách trả về còn phải ở hết ca trong quán cho đến năm giờ sáng, mặc dù vắng hoe vẫn chỉ bằng ấy tiếp viên.

Không có chuyện gì đâu. Tôi quên.

Anh quên gì? Mọi người xúm lại xem sự cố thế nào.

Tôi xin lỗi, tôi quên. Tôi quên không trả tiền, tôi trở lại đây thanh toán.

Lúc nãy, khi đưa Noi ra cửa, tôi đãng trí chỉ đưa có 500 tiền quà thêm, hẳn như là trong bài hát:

Đi vô đi ra là mất năm trăm

Vậy mà Noi cũng vái cám ơn rụt rè khi ra về, chắc nàng nghĩ là vì short time và về sớm nên tôi trả chỉ có một nửa. Đây là Thái Lan, tôi trộm nghĩ về bản sắc dân tộc, phải ở Việt Nam mà lơ mơ trả tiền gái thế này đã bị cào mù mắt, bo thêm bao nhiêu cũng vẫn còn thiếu phần anh cho em tiền về xe. Nhưng nói thế cũng không phải với lại nòi giống tiên. Đây là Noi, không ai thích, có chăng là tôi, và cái gì cũng tùy được hết.

Tôi bẽn lẽn, và có lẽ là Noi cũng ngạc nhiên.

Anh quên..

Thì tùy anh.

Tôi đưa tiền nhanh, hơi xấu hổ nhưng lại được nhìn trộm Trang một lần nữa mà thổn thức từ xa ở trong lòng.

***

Thật ra, tôi lắm chuyện, chứ chỉ cần vẫy tay thì mông Trang tôi cũng úp mặt vào được ngay, đã muốn thổn thức thì sao không thổn thức ngay tại chỗ cho tiện, từ xa để làm gì. Nhưng tình cảm con người không có đơn giản như vậy, cho tôi diêm dúa một chút chứ. Người ta thích chó thích mèo, vì tình cảm nó đơn giản. Người ta thích đàn ông đàn bà, vì tình cảm nó phức tạp. Jomtien lại nhớ Tràng Tiền, ngày hôm sau, vì ở gần, rất gần, nên Lucky Bar tôi phải tránh đi ngang và đánh một đường vòng vào lúc phố sắp sửa lên đèn và các chị em lục đục ra ngồi ngoài hiên quán. Đợi đến về khuya, sau khi lấy được thanh thản trong tâm hồn, tôi mới dám lần mò đến. Nhờ nghĩa cử đêm qua, cao lâu không ăn quịt / thổ đĩ phải trả tiền (và trả liền), lần thứ nhì tôi đã trở thành khách quen có giá. Nói thế để tự đề cao, chứ trong lúc vắng lặng ế ẩm này như đã kể, thì khách nào mà chẳng có giá.

Và đến Lucky Bar đúng là lắm chuyện, vì nhu cầu xác thịt tôi đã để quên ở chỗ Khip, trong PiPi Masage trên một cái nệm bơm hơi có sà bông trơn tuột. Hay ở phòng cho thuê giờ với Rut dưới ánh đèn nê ông đỏ của cái bàn phấn. Để quên chỗ nào tôi không biết, trên ghế quay quay của một quán nước, quay quay đến chóng mặt với Leila người Tajik quê ở Dushanbe.

Tôi mới để quên đây, Khip quê ở Chieng Mai trắng bóc và đầy đặn (điều kiện cần thiết để hành nghề cọ sát body body), Rut “Sao tụi em năm đứa đứng đây mà anh lại chọn em, em rất gầy”, và Leila đồng chủng với cố Mãnh sư vùng Panshir là lãnh tụ Masssoud, Leila farsi vành mi Ba Tư tím ngắt những phương trời. Nhu cầu sinh lý tôi cần gì.

Tôi trở lại Lucky Bar là để nhìn Trang.

Tôi nhìn lộ liễu, nhưng vẫn từ một khoảng cách. Tôi cụng ly với Nóc đẫy đà, 30 tuổi và ở đây đàn chị. Nóc có bồ Pháp, nói được mấy câu ngôn ngữ của Voltaire và Anh văn lưu loát. Hè tới, anh Tây này có hẹn sang đây để dẫn Nóc đi chơi Việt Nam. Nóc tíu tít, đã làm sổ thông hành mất 1090 baht, điều nghiên du lịch ở trên Internet, Hà nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang. Ngày trước lúc còn làm kế toán trong một công ty xây dựng, Nóc từng có bạn đồng nghiệp theo một phái đoàn chính phủ sang thăm Hội An mang về cho nàng một cái nón lá rất xinh làm quà. Nóc bảo, ngay ở đây cũng có một tiệm ăn Việt Nam cao cấp, trên Pattaya Hills Resort tầng 23 và nhìn thấy được cả hai vịnh. Bảng quảng cáo vẽ một cô nón lá, thì ra, nhưng tôi ậm ừ không dám hứa sẽ mang nàng đến đó ăn trưa. Bàn tôi có Nóc làm thông dịch, các cô còn lại quây quần nghe buôn chuyện hương xa. Chỉ có Trang là vẫn đỏng đảnh, vờn quanh với cái vẻ của phụ nữ bất cần.

Mỗi một cái liếc thăm dò, tôi uống thêm một chai Singha.

Chai thứ tư thì Trang trở về da diết, đây là Trang Vỹ Dạ, còn Trang trước mặt thì đang trong tay của một anh Tây tương đối trẻ và đang cười nắc nẻ, “trong tay” là một cách diễn tả vì tay kia chàng cầm bia còn tay này thì chàng để lên mông nàng nắn bóp. Tôi không dằn được nữa, mới kể với cả bàn là cái cô đứng đó, tuy trẻ hơn 15 tuổi và cao hơn 15 phân, cùng với Trang của tôi một cái nhìn cho đến vóc dáng, từ sống mũi, làn môi đến cách cái áo đầm rơi nhẹ ở bờ hông. Tuy mới nhìn qua nhưng đã có thể, xin gọi nhau là cố nhân.

Cả bàn gật gù chia sẻ, vì chị em lao động ái tình ai cũng nhiều tâm sự, họ đều là những người từng trải qua những dằn vặt tình cảm, những khúc mắc thương đau. Cô nào mà ngồi đây chờ khách, thật ra thì cũng vì một lần dại trai. Nhại một chi tiết trong truyện ngắn Phan thị Vàng Anh thì ai cũng có thể trương bảng “Ở đây nhận làm tình giả, làm mổi ngày”. Khách thường thì thuộc loại nhởn nhơ, mấy ai lộ giữa những trận cười thâu đêm này niềm đau dỉ vảng. Nhưng tôi quỳ xuống tôi đầu hàng, tôi lạy mọi người và tôi tâm sự, đến đoạn chị em rơm rớm mắt (Trang về nhà chồng, gửi lại cho tôi một lọn tóc kẹp ở trong thiệp hồng), tôi quay người lại, thì cô Trang của quán đã biến mất, theo anh khách Tây kia mà về nhà trọ của chàng, chỉ để lại trên quày hóa đơn đã thanh toán bar fine 300.

Tôi gục đầu xuống chai thứ sáu. Đến khi ngửng đầu lên thì trăng khuya đã tàn trên hè phố. Quán vắng lặng và cả con đường cũng vắng lặng, bàn ghế các quán bên đã kéo vào, tôi lại uống bia chai cầm cổ nên chẳng có đến một cái cốc để Trang của tôi thơ thẩn những bước chân Thành Nội mà hiện về trong đáy. Bên tôi chỉ còn Nóc ân cần:

Are you OK?

I am OK, tôi đứng dậy cầm tay Nóc kéo. Trước mặt tôi còn có Khuẩn, tay vân vê váy trên hai đùi đầy. Tôi nhìn chung quanh, mọi người đã biến đâu hết. Tôi nhìn Khuẩn. Khuẩn đầy tàn nhang, vai tròn và mặt ngang, đôi răng đều và trắng như là người mẫu cho hãng kem hay là cho quảng cáo của nha sĩ thẩm mỹ. Tôi nói với anh quản lý ở quày, tôi trả bar fine cho cả hai.

***

Một chàng, một nàng, thì em có rồi. Một chàng mà hai nàng thì chưa bao giờ, Khuẩn đỏ bừng hai má.

Còn một nàng và hai chàng thì sao?

Chưa hề, Khuẩn lắc đầu.

Cái gì cũng có một lần đầu, tôi nói.

Khuẩn khư khư cái khăn trên ngực bằng cả hai tay. Lúc nãy giờ, Khuẩn nấp trong phòng tắm, cửa đóng kín chứ không ra mà học hỏi thính thị những ngón nghề vành trong vành ngoài (và cả vành trên vành dưới, vành trước vành sau) của chị Nóc. Khuẩn xúc động đến độ run lập cập. Nóc đã đẩy hai cái giường đơn lại gần, thấy không xong, bèn đề nghị đến lượt mình vào trong phòng tắm ẩn thân tạm. Tôi giải quyết gọn hơn:

Có sao đâu, tại thấy em ngồi lại một mình nên mới rủ theo thôi cho em đỡ buồn. Em mặc lại quần áo đi.

***

Giờ thì tôi đã dạn. Năm giờ chiều bar vừa mở là tôi đã xà vào. Tôi đưa ảnh của Trang in ra từ máy tính để cho mọi người xem làm chứng, Trang này có giống Trang kia thật chứ không phải là tôi vô cớ đặt điều. Nhiều khi giữa người Phi người Âu hay người Á còn có những kẻ giống bất ngờ, nói gì giữa Quảng Bình và Udon Thani. Mọi người gật gù đồng ý, Trang cũng cầm lên xem không nói gì. Hôm nay, Trang đeo chéo ngực một cái ví nhỏ xíu lại càng giống tợn, tuy cái túi này China chứ chẳng được Kipling. So sánh mãi, tôi hơi ngượng, sợ thế là xúc phạm nên cũng phải nói một câu:

Giống thì thì gợi nhớ. Nhưng ai thì cũng duy nhất thôi, và em cũng vậy.

Trang cầm mấy tấm ảnh nhìn lần nữa, bảo “Vợ anh rất đẹp” và mời tôi chung với nàng tô hủ tíu đang ăn dở.

Nhưng nào có phải vợ tôi.

Trang ngồi cạnh chồng nàng, ánh đèn mờ của hộp đêm, bên ngoài là trăng sáng Phú Văn Lâu, chợ Đông Ba, cửa Thượng Tứ hay Đêm tàn Bến Ngự gì không biết, Trang nghiêng người ra phía sau vai chồng, đốt điếu thuốc và nhả khói lên. Bên ngoài là Jomtien, líu ríu gái những bar bên cạnh, phía bên kia bùng binh là bảng hiệu Seven-Eleven mở suốt đêm. Trang ngồi giữa hai cô đồng nghiệp, một chân xếp trên ghế đằng sau mông, Trang nghiêng người ra phía sau vai cô bạn gái, đốt điếu thuốc và nhả khói lên, khói thuốc xanh giòng khơi lối xưa, môi dầy cong và mũi tẹt cớn, sống mũi từ trán đổ xuống như một đường trượt tuyết cấp nguy hiểm chết người, tôi thấy cờ đen ở những trạm núi Alps phất phới.

Và nhói ở trong tim.

Uy ngay bên cạnh không nói gì. Tôi nói với Uy, em có cái sống mũi đẹp thật. Uy bảo:

Đây mới xong có phần giải phẫu đầu, bác sĩ hẹn năm tháng trở lại mới làm được nốt phần sau.

***

Trưa ngày hôm sau là tôi phải lên đường, tôi không có ở Pattaya mãi mà ngắm xem Trang này Trang kia khác nhau ở đâu những bảy điểm. Đồng hồ thì cứ chạy, tôi đi ăn đồ biển ở Bangsarai với mấy người bạn mà nhìn ra biển vắng không yên. Vừa thả tôi về đến khách sạn là cũng điểm xế nửa đêm. Tôi sà thẳng vào bar, trên bàn là năm bảy chai bia lớn, dưới đất là vỏ lỏng chỏng nằm trong bịch. Đây là cuộc nhậu của chị em, trong quán không có bia chai lớn, họ đi ra tiệm mua về để uống riêng. Trang nói nhưng không nói thì tôi cũng biết:

Em uống bị nhiều.

Trang mời tôi ăn mực xào. Mấy năm về trước, tôi ở Chieng Mai một mình đêm ăn mực nướng, chẳng có bằng ấy gái vây quanh, tôi ăn rau muống và nhớ về một người khác, đời tôi cô đơn nhưng mà lắm chuyện. Miếng mực làm tôi quên cả Trang này lẫn Trang kia trong giây lát mà thả hồn mịt mùng phố núi chiều mưa. Chieng Mai phố núi chiều mưa.

Đột nhiên Trang nắm lấy tay tôi.

Em thích anh. Em uống bị nhiều, nên em nói thật đấy.

Tôi được Trang nắm tay tôi muốn ngất.

Tôi đụ Trang thì dễ thôi, ở đây ai tôi cũng có thể đụ hết, cả cái quán này lần lượt rồi sang cả cái quán bên cạnh, và dự tính này cũng hay đấy. Nhưng tôi bất ngờ khi được Trang cầm tay. Trang đã bắt đầu say, Trang cầm tay tôi mà lắc lắc.

Em thích anh. Hôm nay em có chuyện buồn với bạn trai. Thì là một người em không phải là yêu nhưng em thích mak mak. Một người em thích nhiều. Em buồn nên uống rượu, nhưng em thích anh, Trang bóp chặt tay tôi lại.

OK, tôi nói. Bôcu thích thì Dinkcaidau, hóa ra chẳng phải chỉ có mình tôi là phức tạp, cuộc sống ai thì tôi không biết nhưng cuộc sống tôi và cuộc sống gái bar thì muôn màu. Nóc kể công:

Mấy đứa đây coi em như chị. Em với con này nằm chung một giường mỗi ngày, Nóc chỉ vào Trang, em biết anh là người tốt và thành thật, em kể cho nó nghe.

Mấy hôm đầu, anh nhìn em chằm chằm, em không hiểu là vì anh ghét em hay là vì anh thích, Trang nói.

Em giống một người, được thể tôi ra chiều đau khổ thêm một tí.

Phụ nữ nào cũng vậy, chẳng riêng gì phụ nữ bán bar, tình thương rất là quảng đại và đàn ông được họ mến phải là những người có vết thương lòng chứ học giỏi con nhà giàu đầu trơn như váy lĩnh cũng không ăn cái giải gì hết. Tôi đâu có giả dối, tôi cũng đau khổ thật vậy. Trang bóp tay tôi thật mạnh. Tôi vừa đau khổ vừa đau tay.

Tôi bối rối, quay sang Uy mà hỏi, còn em thì có vấn đề gì với bạn trai không mà cũng uống rượu nữa.

Bạn trai hả ? No have, Uy nói.

Tại không có nên em mới buồn ngồi uống rượu?

Nhưng Uy không biết đùa hay đây không phải là chuyện để đùa. Uy bảo:

Em đi làm đã chín tháng rồi, chỉ mong kiếm ra một ông farang chăm lo cho cuộc sống mà nào có thấy.

***

Vậy là cũng đủ cho tôi hả hê, một thắng lợi tinh thần an ủi, tôi được Trang cầm tay. Tới đây thì cũng có thể kết thúc một cách nếu không đẹp thì cũng là giáo khoa. Nhưng khoan, chưa hết, vì cuộc đời đâu có dễ thế và tôi vẫn còn bồn chồn, đọc gỉa thì cũng chưa thấy Trang động đậy cái quần cộc ngắn bằng vải trắng và mỏng hôm nay nàng mặc để làm nhân vật chính cho màn Tạ từ trong đêm.Từ biệt nhau đi giữa mùa trăng xẻ đôi, lúc tình mới thành lời
Trông nhau lần cuối, nước mắt tuôn mặn môi, nước mắt chia đôi đời.

Cái quần cộc trắng này vẫn nằm yên trên mông, chỉ để lộ hai bờ mềm bán nguyệt chia đôi đời ở phía dưới, lúc Trang đứng dậy thì đôi đời này nhúc nhích chút xíu rung rinh. Trang đứng dậy vì Trang có khách gọi, một khách quen nhưng Trang còn giải thích, không phải là người “bạn” mà Trang đã nói tới.

Nhưng bạn gì, thì ông Tây này cũng lại đứng vuốt cái đôi đời của Trang. Tôi giận tôi, cười mếu máo chắc trông thảm hại. Khốc như thiếu nữ vu quy lệ, tiếu tự nam nhân bị phỗng gái.

Are you ok? Nóc lại phải hỏi. Đã là công việc thì phải vậy, Nóc nhìn về phía Trang đang lơi lả. Bán bar thì phải tiếp khách, anh hiểu chứ, Nóc ái ngại.

Tôi hiểu nhưng mà tôi ngu, tôi tự trách mình, chợt nhớ lại cảnh chứng kiến một lần nào đó tại Soi Nana, ở Bangkok trên Sukhumvit. Nana Plaza vài ba trăm cô mặc váy ngắn nữ sinh, mặc áo tắm, mặc đồ ngủ dạ hội và đồ lót dạ lạc tràn ra đến bên ngoài của các bar ồn ào, một thanh niên Mỹ đứng ngoài hớt hải trên di động hét to có điều gì như là tuyệt vọng “Nó đã đi rồi! Mấy thằng nào mới đến ẵm con bé đó đi rồi!” Ai bảo ở đó mà chần chừ suy nghĩ, giờ thì un seul être vous manque et tout est dépeuplé, chỉ thiếu một người mà vắng cả thế giới, hay chí ít cũng là vắng cả một Soi.

Thúy đã đi rồi và Trang còn đứng đó tuy là trong vòng tay lông lá của ngoại nhân. Lỗi ở tại tôi, ngay ngày hôm đầu, hay ngày hôm sau, tôi đã có thể bao Trang trọn gói. Đến ngày hôm nay, tìm hiểu từ xa và dặt dè e thẹn hai hôm thế cũng đã đủ, tôi đã có thể rủ nàng đi theo tôi đi ăn tối ở Bangsarai với các bạn. Ghẹ bờ cát trắng đêm khuya, ngêu sò ốc hến lê thê, trời cao níu bước tôm he. Tôi đã không phải ở một trạng thái bồn chồn như lúc nãy khi ngồi nhìn những chiếc ghe đánh cá bập bềnh trong vịnh dưới ánh đèn le lét của nhà sàn trên biển và nghĩ đến, ngày mai tôi đi.

***

Tôi dìu Trang qua thị trấn,

Nghiêng bóng dài đèn soi bước chân

Dìu em qua thị trấn, sau những ngày đánh trận…

Thật ra chỉ một hai con hẻm dọc ngang Jomtien Complex, vào giờ nắng vắng hoe, một con chó hoang mắc bịnh khó ngủ đứng vẫy đuôi giữa lộ. Trận mạc gì vào đây. Trang bước ngả nghiêng lại càng có duyên, nhắc đi nhắc lại

Em uống bị nhiều…

May sao cho tôi, anh Tây lúc nãy không giữ nàng qua đêm, chỉ đi short time và tuy lông lá như vậy anh chắc là thuộc dạng xuất tinh sớm nên chỉ độ nửa tiếng sau tôi đã thấy Trang trở về ngồi vật ra trên ghế và úp mặt xuống mặt bàn. Đây là cơ hội chót, tôi nói, thôi để tôi đưa Trang về đi ngủ. Trang bảo

Em đợi mãi, em tưởng là anh không muốn mang em về …

Tôi biết giải thích sao, tôi nói, Trang say rồi, Trang về phòng tôi mà ngủ.

Trang nằm trên giường, Trang không say, đây là Trang kia, không phải Trang này, và Trang chỉ mệt sau chuyến bay. Trang nằm vật ra ngủ, tất nhiên là khuôn mặt của một người nằm rất khác với cũng khuôn mặt đó lúc đứng ngồi, lúc nói lúc cười, tóc Trang đổ về phía sau tai, Trang ngủ lặng yên phải tìm mãi mới nghe ra hơi thở.

Giờ em không có boum boum được, Trang nói như xin lỗi, để sáng ra.

Trang kéo chăn lên không cởi quần, cái quần cộc trắng và mỏng đã nói, tôi không kịp giúp nàng tụt ra. Nàng vỗ tay lên gối, anh nằm đây với em, và thiếp ngay đi.

Tôi ngồi nhìn Trang. Tôi ngồi nhìn mặt nàng. Tôi cầm cổ tay. Trang cũng ngủ lặng yên, và phải tìm mãi mới nghe mạch đập. Trước giờ tôi chưa từng làm tình với ai vô thức, tôi làm tình với ai tôi cũng xin phép trước, đệ đơn. Tôi chưa từng đụ người nào đang say, nhưng nghĩ đến thì cũng thấy hay hay, cái gì cũng phải có lần đầu.

Anh quản lý đồng tính nhíu mắt khi thấy tôi vừa mới đi khỏi đã trở lại quán.

Có vấn đề gì?

Chả có vấn đề gì. Nàng đang ngủ, tôi ra đây uống chai bia nữa.

Anh đang tính sổ sách của một ngày làm việc, quán không còn ai, Uy ngồi trong một góc giơ cao cái sống mũi chỉ mới hoàn thành giải phẫu có giai đoạn đầu.

“Để sáng ra”.

Giờ thì cũng gần sáng rồi nhưng chưa sáng hẳn và Trang thì ngủ như chết. Tôi có về phòng tụt quần nàng ra để nhìn cái hình xâm trên đáy lưng và úp mặt vào giữa mông thì Trang cũng không biết trời đất.

Nhưng Uy thì còn ngồi đây, hay là tôi rủ Uy về trong khi chờ đợi trời sáng vậy.

*

Nàng đâu có tên Trang. Nàng tên là Níc.

Giờ nếu nhớ Trang nhiều, thì tôi nhớ thêm Níc một chút xíu.

***

Phụ đính:

Một ngày như vậy

Thì có những ngày như vậy, và tất nhiên thôi, lâu lâu mới được một lần.

Tôi phải đợi đến năm tôi ngòai 50 tuổi, đi xuống hầm tàu điện mua bánh nhân sôcôla và được một cô gái 15 hay 17 liếc mắt cười. Đó là vào buổi trưa nhưng tôi ăn sáng trễ, mới chạy ba công việc trên khu đại lộ Champs Elysées và còn ba công việc khác ở khu Auteuil. Đời tôi, tam giác Neuilly-Auteuil-Passy chẳng mấy khi, dại thế mà không biết, thảo nào. 11 giờ trưa, trời tháng Bảy đang nóng, tôi ngưng lại trước Khải hòan môn năm phút, biết đâu bắt gặp một cái váy mùa hè ngược nắng nhưng tòan là du khách Hoa kỳ quần cộc và du khách Trung quốc quần dài. Ờ thì vài cái rốn Bắc Âu, Tây Ban Nha, tôi đi cầu thang cuốn xuống hầm nên không thấy cô nào váy ngắn chân dài nhảy ba bước bậc thang (hay là chân ngắn cũng chẳng sao, nhảy một bước cũng được miễn là lòi quần lót).

Nhưng tôi biếng, vui mắt mà lại phải mất công rình rập thì thôi, việc tôi tôi phải chạy, ngưng lại mua một cái bánh đỡ dạ. Cô bé ở cửa hàng đứng cách tôi ba khách, líu lo với cô bạn và một bà có vẻ như là bà nội hay là bà ngọai. Họ người Pháp, nhưng đến đây mua sắm, hay là ở tỉnh lên chơi cũng nên. Tóc vàng ngắn lúc lắc và bờ vai lẳng, cô ta xinh cái xinh bình thường, và vậy cũng đủ rồi, của những thiếu nữ dậy thì. Ba mươi năm trước, chắc tôi không buồn liếc, đồ con nít còn hôi mùi nước tiểu. Nhưng ba mươi năm sau, thì dê trẻ thành gìa và nước tiểu thiếu nữ vừa sưng đầu ngực trở thành hương, tôi liếc và liếc kỹ chứ sao. Cô bé quay phắt người nên phản ứng thế nào tôi không thấy, cô vượt qua tôi trong khi tôi cúi đầu. Tôi đếm nhẩm như vừa rút chốt lựu đạn, một ngàn lẻ một-một ngàn lẻ hai-một ngàn lẻ ba… rồi quay lại nhìn theo. Cô bé cách tôi bảy bước cũng ngóai người lại nhìn tôi mà cười cái duyên 16, vậy là thắng lợi bất ngờ! Tôi cúi đầu xuống trở lại, đếm tiếp hai giây nữa, giờ cách mười bước cô vẫn còn liếc tôi tín hiệu rành rành. Tôi toan chạy theo, thì hòan tòan hợp pháp, ở xứ này luật đồng thuận là từ tuổi 16 mà cô bé này đã đồng thuận rõ ràng. Nếu cô mới 15, thì tôi sẽ chỉ trao e-mail điện thọai để qua lại, đợi sang năm đến đúng ngày sinh nhật thì tôi sẽ nắm tay. Bà cụ đi kèm thì tôi sẽ cười duyên, biết đâu mắt tèm nhèm bà lại chẳng nghĩ là tôi 17. Nghĩ lại, mươi bước này mỗi bước cũng ba năm, thôi tôi vui niềm vui của một thắng lợi tinh thần, tuy nhỏ bé nhưng chẳng kém phần quan trọng vì dạo này ngày càng hiếm thấy.

Cũng như là ngồi bàn viết mà vo viên tờ giấy, nhắm cái sọt mà ném vào, basket!

Thì có những ngày như vậy, và đã được một lần, lại được lần thứ hai.

Nhưng mà, lại vẫn phải đi tàu điện. Tối đến, từ trường bay Heathrow vào thành phố tôi có thể đi chuyến xe lửa tốc hành, nhanh và tiện, nhưng đằng nào cũng phải đổi sang hệ Tube để đến khách sạn, thì tôi tiết kiệm và chen lấn. Mind the gap và lúc lắc năm bảy trạm, tôi mới thấy một phụ nữ được mắt, cách tôi một con sông giao động những hành khách và ở nửa đầu kia của toa. Tôi đứng và cô ta ngồi, môi mở ra cong cớn đỏ trên hàng răng trắng và khuôn mặt lụa là đen. Đây là London, và cô gái tóc uốn cho thẳng này không phải người Caríb, vai to và ngực nhỏ không phải người Đông Phi. Tôi đóan mò, Nigeria, dân tộc Yoruba hay là Igbo không biết, lẩm nhẩm mãi trong đầu câu chào bằng thổ ngữ đã quên mất tiệt. Trạm thứ sáu hay là thứ tám cô ta bắt gặp tôi đang để ‎í và trân tráo. Đến trạm thứ chín thì cô ta cười ở đuôi mắt một đường nheo. Vậy là đã đủ ăn tiền, tôi đáp mày bay từ Pháp sang, chưa về đến khách sạn đã có người liếc trả lễ, tôi đã có thể đêm nay ngủ mà tự mãn. Đến Hammersmith thì đường tàu trục trặc, đám đông lùa tôi xuống vào một góc bến, nhìn quanh quẩn không thấy cô gái này đau hết, tôi bắt đầu lơ là nhãn lực vào một cô Ấn độ đứng cạnh. Thì mùa hè chứ sao.

Chuyến tàu sau đến, lần này vị trí lại xáo trộn, tôi mới phát hiện là cô da đen vừa rồi đi cùng với bạn gái, có cả một cái va ly kéo. Lần này thì cả hai đều đứng, cô đầu bụng ỏng đầy ham muốn (tôi muốn nói là tôi ham muốn chứ bụng cô ta ỏng cái gì thì làm sao tôi biết). Cả hai cô đều chổng lên trời mà không cần cố gắng cặp mông nhất định hottentot tròn trên cặp đùi to. Cô ta vẫn nhìn tôi cười ra duyên rõ rệt nhưng chưa khúc khích cho cô bạn biết. Tôi quay người đi, trở lại vẫn bắt gặp. Giờ nếu tôi quay đầu đi, rồi quay đầu thật nhanh trở lại, nếu vẫn bắt gặp, độ hai lần thì cả hai sẽ cười ra miệng chứ không còn cười bằng mắt nữa và cô bạn sẽ được chỉ cho mà biết. Họ hai và tôi một, lại càng thấy an tòan chẳng phải sợ gì. Tôi chỉ cần lại gần bắt chuyện, không cao siêu gì hết, không cần deep, kiểu “Hai chị từ đâu đến, xuống đâu, giờ làm gì, tôi cũng đói bụng, thì mình đi ăn chung…” Vậy là đêm nay tôi nghĩ, cô sẽ mở hai đùi chắc nịch và lông dầy xoắn xít, một cái lồn đen thăm thẳm chiều trôi.

Thăm thẳm chiều trôi/ Khuya nay anh đi rồi/ Sao trời đưa lối/ Khi thương mến nhau/ Hai người hai lối/ Tránh sao bồi hồi… Tôi có bồi hồi một ngỡ và tôi thích chứ không phải là không, những cái lồn rộng tôi nằm trong nửa chìm nửa nổi, một biển nhồi rất chậm và không trăng. Tôi nhìn vào mắt cô gái, và cô nhìn vào mắt tôi. Cũng như là ngồi bàn viết mà vo viên tờ giấy, lần thứ nhì trong một ngày, nhắm cái sọt mà ném vào, lại basket! Nhưng thế cũng lại là thắng lợi, tôi xuống trạm Picadilly đổi tàu mà không hề quay lại, lỡ phải bề cả hai cô thì tôi nào có sức, không phải cứ là cu nhỏ thì dai. Tôi về khách sạn, ăn trễ một mình ở từng hầm, có mỗi anh phục vụ người Scot hở răng tuy nhà hàng này gọi là Singapore và có bia Tiger. Tôi lên phòng ở từng hai ọc ạch, kéo màn nhìn ra bên kia đường những căn hộ thời Victoria ngay ngắn. Trước mặt tôi, vài cửa sổ còn đèn thắp sang và mở toang, khuya rất nóng và bực bội.

Được một lát, tôi đang mơ màng thì bên kia lộ, ở từng ba, nghĩa là cao hơn buồng tôi một lầu, có một bóng người động đậy vào giấc đã rất khuya này. Người đàn bà lại gần thành cửa, tóc vàng dài lúc lắc nhưng mặt khuất và tôi chỉ thấy có cái áo chẽn hở rốn máu hồng trên một cái váy xám, làn da đào hay mận của phụ nữ người Anh vào mùa này ăn nắng. Nàng kéo cái màn sáo xuống, thứ màn cửa mua ở Pier import hương lạ rẻ tiền của Á đông. Tôi liếc ngay sang cửa sổ cạnh, cũng lọai màn cửa bằng lát tre đó nhưng chưa kéo xuống. Từ vị trí thấp hơn, tôi chỉ thấy phần trên của căn phòng, có lẽ đây là phòng ngủ còn phòng kia là phòng khách phòng ăn. Một cái gương lấp lánh, một cái đèn ngủ đặt cạnh và gì như là cái thành của một cái giường lọai bật xuống bật lên bọc nhung. Cả căn hộ hai cửa sổ có lẽ diện tích chỉ ngòai ba mươi thước hay bốn mươi, bếp và phòng tắm hẳn là trổ ra mặt sân trong, bình dân nhưng mà ở một khu thanh lịch. Tất nhiên là đèn tắt bên này thì sau một hồi lục đục, bật lên ở cửa sổ bên. Lóang thóang trong gương, mặc dù lúc này tôi đã vớ cái ống dòm bé mang theo trong túi sách, sức nhân là sáu lần nhưng ở khỏang cách ba bốn mươi thước này chẳng đến đâu.

Cô gái đã búi đầu và bây giờ ngực trần, nghiêng qua thành chớp nhóang một thóang gì chắc rắn trên đôi háng rộng. Nàng lên giường (hay ghế), tựa đầu vào thành cửa, chỉ cho thấy cái ót mới tắm mà không làm ướt tóc. Hai chân cô đưa lên và bàn tay tụt cái quần cọc ngủ lòe xòe một màu xanh. Đèn trần tắt, đèn đầu cửa sổ bật và từ buồng hắt ra cái ánh sáng lung lay động của màn ảnh truyền hình.

Tới đây thì tôi hơi thắc mắc. Như vậy giờ cô này là ở truồng xem phim. Tôi không thể biết là phim gì nhưng nếu cởi quần để đi ngủ thì từ phòng tắm ra nàng mặc quần ngủ làm gì trong khi ở nhà có một mình. Lô gíc tôi bắt đầu làm việc, nhưng thói quen thì mỗi người một thói, nàng có thể mặc quần ngủ để lên giường cởi ra và đây tôi mục kích, là quần ngủ chứ không phải là quần lót. Sắp xếp lại thứ tự, cô này mặc áo hở rốn và mặc váy, vào phòng tắm tiếp tục hở rốn nhưng không có áo và không có váy, búi tóc lên sơ sài và tắm xong, mặc mỗi cái quần ngủ, lên giường xem TV lại cởi. Tuột quần, thì người ta tuột xuống, nghĩa lí gì cô này lại đưa cả hai trên lên trời để kéo ra một cách rất là bục diễn ẻo lả? Thói quen, thì mỗi người một thói và trong nhà cô, lại một mình, nàng muốn làm sao thì làm. Tiế là tôi chỉ thấy có cái gáy của cô thỉnh thỏang xoay qua xoay lại và không thấy màn hình đang chớp nháy, không thể kết luận là cô đang xem phim lãng mạn người lớn và thủ dâm thư giãn trong một đêm hè cuối tuần London bức bối hơn thường lệ. Kết luận này cũng không làm tôi hứng thú gì mấy, tôi đã năm mươi, nếu cô đang thủ dâm mà tôi ngồi trước mặt giữa hai đùi thì mới ra chuyện, mới vươn người mà nhả ra ngàn con cá vẩy lung linh bạc vào mép những bờ nhăn mặn mòi và nhễ nhại. Còn đằng này qua kính viễn vọng ở bên kia đường rộng thênh thang mà chỉ thấy một mớ tóc lâu lâu động đậy thì gì đây, chưa đủ để sục cặc vậy. Tôi leo lên giường tôi, bật TV trong buồng, đi một vòng các kênh mà không thấy có phim người lớn, thì xui, nhưng thôi thế cũng là một ngày hên trọn vẹn rồi.

Basket? Thì thỉnh thỏang có những ngày như vậy.

Mưa đêm Đài Bắc

Mấy cái ghe đánh cá nhỏ bập bềnh, tôi thấy một chút núi. Sau mười ngày lênh đênh trên biển ai chẳng thích thấy đất liền nhưng mười ngày hạn chế ăn và uống, nhìn những đồi nhú nhô tôi thấy nghêu xào húng quế, tôi thấy cải làn dầu hào, tôi thấy hủ tíu bò viên. Dương Vận Hạm 815 của Hải quân Nam Triều Tiên lặng lờ rẽ sương vào hải phận Đài Loan.

Sàigòn mới vừa đổi tên đổi chủ và chữ “lênh đênh” đối với chúng tôi rất là chính xác. Chiếc tàu vì tình thế bất ngờ này, chuyên chở thêm gần ngàn người tị nạn nên đâm ra quá tải, chí ít là thiếu thốn lương thực. Tư lệnh hạm đội cho biết sẽ ghé Đài Loan để tiếp tế vì Phú Sơn còn cách những một tuần. Chẳng hiểu vì lý do gì, chính quyền Đài Loan sợ Nam Hàn quẳng chúng tôi xuống đây cho đỡ nặng gánh hay gì đó, họ mới vừa nhận ông Thiệu là cũng đủ rồi, nhưng vị đại tá Hải quân tế nhị, khi quay tàu trở ra giải thích là, thôi, không cần tiếp tế nữa, mình đi thẳng về Nam Hàn. Dạo đó, tôi cũng hiểu là chưa có phong trào ở đây tìm vợ Việt Nam và trên tàu chúng tôi cũng không phải là chỉ có những thiếu nữ mười tám, làm bếp (hay làm ruộng) giỏi mà lại biết thêu thùa.

Tôi cũng chẳng mơ ước được đặt chân đến xứ sở này từ ấy để làm gì, một vài bận đổi tàu (connection hay là như bảng tiếng Việt ở Taoyuan đề “chuyển tiếp”), có khi qua đêm tại khách sạn quá cảnh nhưng việc tôi tôi làm, chỗ tôi đi tôi phải đến, tôi chưa bao giờ đến Đài Loan. Tôi đã vào hải phận, tôi đã vào không phận, tôi đã đặt chân xuống trường bay, tôi đã qua đêm nhưng tôi chưa từng viếng, nghĩa là xuống phố, có con dấu của Công an Cửa khẩu in lên trên sổ thông hành. Lần này, tôi có rỗi hơn, và nghe nói là vào thu thì đi Jiaoshi (Giao Thuỷ?) cách Đài Bắc vài tiếng bằng đường rầy, thì có suối nước nóng, là một thành phố tắm, như Spa, như Bath, như Vichy và Marianske Lazne, Baden-Baden.

Dạo này tôi mới có một cái thú mới, khá thanh tao, là nhìn mông đàn bà. Tôi nói thanh tao là vì tôi nhìn kín đáo, nhìn như không thấy và nhìn xuyên qua, cái thuật này tôi phải tập 50 năm mới đạt. Nhân sinh ngũ thập thị bàn toạ. Và nhìn là nhìn thôi, còn sờ đến thì phải có phép hẳn hoi, phải được mời và còn phải suy nghĩ đắn đo nữa chứ. Tiêu khiển này, tức là nhìn mông phụ nữ, rất dễ thoả mãn vì… đầy đường, và phụ nữ nào bình thường thì lại có những hai. Đây là một thú (thấy) khá dễ thương vì nhiều khi (phải) nhìn mặt họ thấy dễ ghét, và đi đâu cũng thấy được, trừ phi ở rừng U Minh ta không thấy a mà thôi. Ở Đài Loan, thì cũng có phụ nữ, và phụ nữ Đài Loan cũng có mông, đến đây rồi tôi lại càng không hiểu tại sao họ lại phải sang Việt Nam lấy vợ làm gì. Thiếu nữ Đài Loan cũng mặc váy ngắn đi xe gắn máy, bắp chân to cũng có mà cũng có bắp chân gầy, cũng nhuộm tóc hung và thắt lưng to bản, quần đáy lưng thấp và áo cụt hở rốn, bụng cũng mềm không kém bất cứ một nơi nào, bảo đảm. Ở đây, ba bước lại có mát xa, barber shop hớt tóc ngoáy… lỗ tai, bảng quảng cáo sauna, (…) ok chớp nháy (tôi không đọc được chữ Hán nên tôi đoán là Kara-ok) thì kém gì Việt Nam, nhưng tuyệt đối không có như là tôi tưởng tượng ba mươi năm trước ngày nào, không có hủ tíu bò viên (món Triều Châu) không có cải làn dầu hào (món Quảng Đông).

Chuyến bay tôi đến Đài Bắc trễ mất một tiếng và lại là chuyến chót trong ngày. Xe buýt vào thành phố đã đi hết, quày đổi tiền đã đóng cửa, không thấy bóng một chiếc taxi. Tôi ra máy rút tiền, ông Tây đứng trước tôi quay lại hỏi, phát âm Anh không scot cũng chẳng cockney nên tôi đoán là wales. Hết xe công-tơ, ông ta nói vào phố bằng cách nào, tôi bảo chỉ còn xe bắt mối, đó là tôi nói bừa vì bằng góc mắt thấy mấy anh sơ mi hai tay thọc túi nhìn trần lân la ở cổng ra khách đến. Ông ta hỏi tôi đến khách sạn Westin thì mất độ bao nhiêu. Tôi lại nói bừa, độ $1.000 NT, giờ khuya rồi khó nói và có thể đắt hơn nhưng cũng phải chịu thôi. Ông ta lại hỏi, tôi mới vừa rút máy ra $3.000 NT, vậy là bao nhiêu. Đã trót rồi, tôi nói bừa tiếp, khoảng $100USD. Ông ta cảm ơn và xin lỗi, tại bàn hướng dẫn du khách đã đi về, đây là lần đầu ông đến đây. Welcome to Taipei và chúc ông đi chơi vui, tôi thì cũng lần đầu đến đây nhưng ông nào biết. Ông không hỏi tiếp, còn gái ở đây thì thế nào. Gái ấy hả, thì về Việt Nam mà lấy, ngay cả người Đài Loan còn phải vậy.

Mưa lất phất, ở khách sạn ra tôi bước về phía chợ đêm QuingQuang. Đêm Đài Bắc mát dễ chịu, không ám khói và oi như Hương Cảng, tuy ở thành phố này có cái nhà cao nhất thế giới nhưng phần lớn lè tè tầm mắt, vỉa hè còn những phần tối không ngợp mà chỉ có lấp lánh ánh đèn. Tôi vào một cái quán nê-ông nhợt nhạt, ông Tàu già ngồi quay lưng ra đường, xem một phim truyền hình Mỹ phụ đề tiếng Hoa. Tôi mở cái tủ lạnh kính, lấy chai bia Taiwan lớn, tự khui lấy nắp lững thững ra ngoài hàng hiên ghế đẩu. Bếp đặt ở vỉa hè, rất tiện để ăn món “chỉ”, nghĩa là muốn ăn cái gì thì chỉ việc chỉ vào cái ấy. Đài Loan tôi không thấy hủ tíu bò viên, không thấy cải làn dầu hào nhưng tôi thấy nghêu và tôi chỉ, tôi chỉ vào cái xoong và tôi nhìn quanh quẩn phía dưới, tôi tìm ra và tôi chỉ vào cái rổ húng quế rất yên lành.

Tôi lại gặp anh

Trời đêm nay sáng quá

Ánh trăng như hé tươi sau ngàn lá

 

Tôi đốt một điếu thuốc. Tôi mới bỏ, tự hứa là chỉ hút một điếu mỗi bận sau khi làm tình xong. Nhưng nhìn cách mươi thước, có cái sauna 24 tiếng, anh gác cửa đang ngồi chơi game online ở vỉa hè (Á Đông giờ hi-tech, ở Hương Cảng tôi còn thấy một ông già ăn xin và vô gia cư ngồi chìa tay trong khi nghe mp3 bằng phôn). Thì tôi hút một điếu trước, kiểu đi vay, lát nữa vào sauna làm tình kể như là trả nợ chứ gì. Tôi hút điếu thứ hai, ngần ngừ, kiểu này thì vỡ nợ đến nơi, sức làm gì có vốn mà chơi sang như vậy, một đêm hai điếu thì bỏ mẹ. Nhưng nếu mà giữ đúng lời, thì cái bao mới mua này tôi hút cả đời chưa chắc đã xong. Tôi châm điếu thứ ba, lỗi tại trăng tàn trên hè phố b. Lỗi tại cô phụ bếp đang ngồi chồm hổm, hai bàn chân xoè ra hai bên, đáy quần bò hở đến đốt sống lưng chót, chỗ hai bờ mông bắt đầu chia tay nhau mỗi bờ một bên. Cô ta quay lại nhìn tôi cười, hàm răng chưa được orthodontist đụng tới, nhưng nếu Việt Nam thì lại cho là nó khểnh có duyên. Một phụ nữ không có tuổi, trong ngoài ba mươi và một mét bốn mươi tám. Cô ta hỏi anh người Nihon, tôi nói không, tôi người Yue Lam. À, Yue Lam. Tôi hỏi cô biết nói tiếng Quảng, không, cô ta biết nói tiếng Anh, là người Indonesia, chức vụ ở đây phó chạy bàn, sang đây làm công được ba năm, chồng còn chưa có hỏi chi con. Indonesia, tôi nói: Salam aleikum

Maleikum as salam, cô ta trả lời, anh cũng là người đạo Hồi?

Tôi thì đạo quái gì, nhưng tôi đành nói láo, bởi vì đây và giờ này không phải lúc để giải thích hay là tranh luận về chủ nghĩa vô thần, tôi nói tôi đạo Phật. Tôi chợt nhớ ra là Ramadan vừa chấm dứt, tuần này hay tuần trước là ngày lễ Eid al Fitr.

Eid saiied, Happy New Year, cô gái nói và tiếp tục ngồi xổm mà thái thịt. Những lúc cô cúi xuống, cổ áo cô bó sát người nên tôi không thấy bên trong, dù là ừ thì tôi cũng có ý nhìn, loáng thoáng, nửa đêm Đài Bắc đường Linsen Bắc lất phất ướt và lốm đốm ánh đèn trên mặt đường nhựa tối.

Thật sự thì không thể gọi cô này là đẹp nhưng ý niệm này co giãn. Mặt bàn mica và ghế đẩu chân sắt, ông chủ áo thun ba lỗ và dép nhựa, chị bếp quấn khăn ở đầu cho tóc khỏi dính mỡ. Thế nào là đẹp, nửa đêm ngoài phố. Cũng một đêm mưa, ở Vọng Các tôi vào hậu trường của một cuộc thi người mẫu để chào bà công chúa chủ tịch hội đồng giám khảo, đi ngang một hai trăm cô thí sinh mà không thấy đẹp được một người (riêng bà công chúa làm chủ tịch chấm thi, sắc đẹp của bà miễn bàn tới). Tùy hoàn cảnh thôi, cô phụ bếp này đầu to hơn người, suy dinh dưỡng từ lúc bé, ở quê cô Jogjakarta lại vào tuổi đã bị coi là quá lứa, nhọc nhằn ngày 14 tiếng rửa rau lau chén ở quê người.

Rửa rau lau chén chẳng phải là việc nặng, rửa rau lau chén là việc nhẹ thôi nhưng ngồi xổm mãi mà rửa rau lau chén thì cũng nhọc nhằn chứ. Rửa rau lau chén trong gia đình cho người thân đã là mệt, nói gì rửa rau lau chén ở xứ người, những vỉa hè trơn loáng về đêm và lùa thoảng những bản tình ca đứt quãng. Vì ngồi xổm rửa rau lau chén nên đai quần mới ngáp, đốt cuối của cột sống mới lòi ra ở đầu mông. Không hư hao sao được, việc rửa rau lau chén trong đoạn trên này tôi mới viết lập đi lập lại có sáu bảy lần mà tôi đã mệt lả, hẳn là người đọc cũng vậy, nói gì bắt tay vào việc này 14 tiếng một ngày, hỉnh thoảng, mát một bản tình ca đứt quãng.

Tôi lại gặp anh
Giờ đây nơi quán nhỏ
Tuổi 30 mà ngỡ như trẻ thơ

 

Sang năm tôi sẽ về thăm nhà, cô ta nhìn tôi với ánh mắt hơi chút gì kỳ lạ. Anh sang đây chắc có việc làm tốt? Người Việt Nam sang đây là có việc làm tốt.

Tôi đi chơi, tôi trả lời.

Cô gái làm tôi chột dạ, chẳng lẽ trên người tôi có cái gì dáng dấp doanh gia. Tôi kiểm lại trên người, thì áo trong áo ngòai…Prada, nhưng tối thế này, làm gì nhận ra cái vạch đỏ kín đáo (hay là cũng không kín đáo mấy) của nhãn. Hay là tướng tôi không đến nỗi bần hàn, nhưng đây là tôi tự khen đấy chứ làm cai nhà máy đối với cô cũng là job tốt rồi, tôi yên tâm trở lại. Tôi định nhận bậy tôi là thuỷ thủ viễn dương nhưng cái này là tự đắc quá lối, gương mặt tôi không phơi đủ gió mặn để khắc lên những đường nhăn một vẻ phong trần. Cô gái mím môi lại và nói rất nhanh.

Tôi thức vì anh.

Tôi là người khách ngồi đây duy nhất, từ nãy giờ có vài ba anh làm việc ở sauna cạnh bên ra mua đồ ăn mang đi. Thì gần hai giờ sáng, tôi uống nốt chai bia lớn, chưa muốn về căn hộ khách sạn để xem e-tv nhật bản cởi truồng có mosaic lung linh che các phần kín trên thân thể, đúng theo luật định rất lâm li. Phải mở dấu ngoặc, vì cởi truồng hẳn thì chẳng có gì lâm li hết, vì có luật nên ở Nhật mới có cảnh mặc quần lót mỏng và dội nước cho ướt đẫm; vì có luật nên mới có quần lót voan, quần lót lưới to và lưới nhỏ vén sát hai bờ; vì có luật nên mới có quần lót string kẹp vào giữa mép nhấp nhô. Dura lex, sed lex. Tôi nói lâm li là vậy, chứ tuột hẳn ra như trong phim tây phim Mỹ mà cứ thọc ra thọc vào thì sớm mà vãn tuồng Ấn độ, tôi đóng dấu ngoặc lại. Thường thì mấy giờ ở đây đóng cửa? Tôi đứng dậy, chẳng lẽ cứ ngồi đây làm người ta thức mãi.

Năm giờ sáng, cô gái nói.

Vậy mà tôi tưởng là cô ta đuổi. Năm giờ sáng thì còn lâu. Đã trót đứng dậy tôi trả tiền, ngại ngần không biết có nên vào sauna ngay cạnh thư giãn thuần tuý. Lại mở dấu ngoặc mới, thuần túy là để phụ nữ tay cứng mát xa và kỳ cọ (scrubing, phát âm địa phương phải nói là clubling thì họ mới hiểu) và tuy phụ nữ tay cứng đối với tôi vẫn còn hơn là ông tàu bụng mềm và phệ, nhưng thuần túy là thuần túy thôi. Nhân sinh tự cổ sức có hạn, đóng dấu ngoặc mới lại. Cô gái liếc quanh và dúi nhanh cho tôi một tờ giấy xếp làm tư. Tôi tưởng đây là phiếu tính tiền, một nghêu xào lá quế, một mì xào bò, một chia bia lớn Taiwan 75cl, $240 NT. Nhưng trên tờ giấy gấp làm tư này, viết tay chỉ có một chữ “Nai” và một số điện thoại. Thì ra là tôi hiểu nhầm lúc nãy. “Tôi thức tại vì anh”, không phải là một câu đuổi, vì quán đến 5 giờ sáng mới đóng cửa. Đó là một câu mời, chứ gì nữa, phải nghe ra là (sau 5 giờ) tôi sẽ thức để đợi anh.

Chào Nai, tôi nói, Selamat.

 

Đêm hôm trước, tôi đã phải dậy sớm, đưa người nhà ra trường bay Hương Cảng, rồi sau đó cả ngày đi dọc lên xuống Cửu Long. Đường Hải Phòng, trong một cái ngách có những tiệm bán máy hình cũ, góc Pilkem và Nathan cái khách sạn tôi ở 20 năm về trước nay không còn, thảo nào vào năm ngoái, khi đi ngang vội tôi tìm không ra. Vẫn còn nhiều Hotel only for tourists (?) 2 hours $90 1 night $180. Và vẫn còn những du khách (?) 2 giờ. Đường Parkes và Thượng Hải có chỗ bán thẻ điện thoại gọi về Việt Nam và Uzbekistan, quảng cáo viết tay bằng mẫu tự la tinh, nhìn quanh quất ở gần thì thấy ngay mát xa Nga- Hương Cảng- Đại Lục- Malaysia và Việt Nam, nhân viên ở đây vào giờ nghỉ ra mua thẻ gọi về cho đỡ nhớ nhà. Phía bắc trạm Mongkok, đường Sai Yeung Choi phía gần chợ cá kiểng, có một cô Đại Lục lang thang nhưng không phải là Đại Lục mỹ (nhân), thấy tôi cũng lang thang nên lại mời chào. “Tôi không nói tiếng quan thoại. Tôi không nói tiếng Quảng”. Cô ta hỏi (bằng tiếng quan thoại) “Anh có biết nói tiếng Mỹ không?” Tôi nhìn cô và cuộc đời thật bất công, quyết định trả lời trong nháy mắt “Tôi không biết nói tiếng Mỹ”. Và giờ thì lãng mạn thật. Đài Bắc dưới mưa buồn như một cảnh trong phim Hsu Hsao Hsien và người duy nhất mà tôi có thể hẹn gặp, lại đang dự Liên hoan phim ở Đài Trung. Chỉ còn Nai, phục vụ xe mì hải sản, lao động ở nước ngoài và ba năm chưa về thăm nhà.

Nhớ gì từ ngày tôi xa mái trường

Nhớ gì từ ngày anh tôi lên đường

Lối gầy về nhà anh hoa phượng thắm
Màu xanh áo người thương
Nắng chiều đẹp quê hương
Hay nhạc buồn đêm sương

 

Tôi có thư của Marya khi về đến khách sạn. Lần này Marya lại kèm theo một lô hình. Marya là bạn thư tín của tôi ở Ukraine. Tôi đã hẹn láo nàng vài ba bận từ hơn năm nay, nhưng vừa mới nhắc nàng là một hai tháng tới có thể tôi sang bên ấy. Marya, mặc váy dạng hai đùi hay áo tắm duỗi người cho sóng biết chân dài mà sủi bọt lấm tấm, đứng ngồi nằm gì cũng 1 mét 88, mắt to bằng hai đồng tiền $50 NT trố ra nhìn tôi trên màn hình plasma 32 phân anh TV-vi tính của khách sạn (tôi phải kể kỹ vì chuyến đi này tôi mang theo gọn nhẹ một cái notebook màn hình chỉ có 5 phân, đọc mail đã nhức mắt chứ đừng nói đến xem hình áo tắm, đến đây mới được thỏa con mắt). Lúc 3 giờ sáng và tương phản, Marya là người mẫu gì đó và đầy hứa hẹn, coi thì cũng đẹp (tuy đã nói là ‎ khái niệm này hoàn toàn co dãn) nhưng Marya trên màn hình và Marya ở tận Ukraine.

Nắng đẹp của bình minh đang hé chờ
Nỗi buồn vui biệt ly chưa xóa mờ

 

Còn Nai ở dưới đường kia kìa, và hai tiếng nữa sẽ hết ca lao động.

***

Chú thích:

a) Thơ Nguyễn Tiến Cung.

b) Ca từ ở đây trích từ bài hát của Phạm Thế Mỹ, “Trăng tàn trên hè phố”.

Người Ở Lại Toul Sleng

Năm 50 tuổi, tôi mới có một cái áo rằn cọp biển. Ðây không phải là một cái áo “gin”, quân phục cũ của những chàng trai thế hệ Thủy Quân Lục Chiến mà là áo thời trang 2005 của thanh thiếu niên lướt ván trên mặt nhựa (skateboarding) và hơi lạ trên người của những kẻ tóc đã hai màu. Thời tôi, nghĩa là 30 năm về trước, thật ra tôi cũng chẳng ưa gì màu áo này, một chọn lựa dựa vào thẩm mỹ cá nhân hơn là vào binh chủng mà màu áo này biểu hiện. Dạo đó, sắc phục ngụy trang (đồ bông) của quân đội miền Nam có ba loại. Thường thấy nhất là loại gọi “hoa dù”, xuất xứ Hoa Kỳ (ERDL, Engineer Research and Development Laboratories, Leaf Pattern) được các sắc lính gọi là lính “dữ” (miền Bắc gọi là “ác ôn”) dùng, Nhảy Dù, Biệt Kích, Biệt Ðộng. Loại hoa bèo Việt Nam, có lẽ dựa vào ngụy trang của Mỹ thời Ðệ Nhị Thế Chiến tại Thái Bình Dương và chiến tranh Triều Tiên sau đó (Duck Hunter), sắc vàng nâu, là đồ trận của lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến (còn gọi là Cảnh sát “giả” chết, phát âm theo giọng miền Nam). Loại rằn ri là loại thứ ba, sau này chỉ dùng riêng cho Sư Ðoàn Thuỷ Quân Lục Chiến nhưng được Cố vấn Hoa Kỳ ưa thích, Lực lượng Ðặc biệt Mỹ dùng một cách không chính thức và gọi là Rằn Cọp Quân đội VNCH (1). Loại này, có lẽ là biến thể của rằn kỳ nhông màu huyết dụ của Nhảy Dù Pháp (Lizzard Pattern), tương tự với ngụy trang rằn của Anh quốc tại Miến Ðiện và ngày nay còn hiện diện ở Cuba, Angola hay Namibia, Ecuador, Afghanistan dưới một dạng gần kề(2). Ðối với người Mỹ, nói rộng, nó tượng trưng cho một thời kỳ, thời kỳ chiến tranh Việt Nam, chẳng hiểu sao lại lọt sang áo quần của dân lướt ván.

Một tối, ở Cali mùa đông trời mát, mặc cái áo này vào quán Romano’s Macaroni Grill, tôi được một chàng phục vụ tuổi sinh viên để ý đến và khen. Anh nói anh cũng có một cái y như vậy, nhãn “ES” (Enjoy Skateboarding), cuối tuần rồi lên núi mang theo để lướt ván trên tuyết (snowboarding). Tôi lấy làm hãnh diện trước mặt các con, ờ tao đây, coi vậy mà cũng là dân chơi lướt ván.

Chắc vì vậy nên vừa rồi, vào dịp đi Ðông Nam Á, tuy biết là trời rất nóng, tôi vẫn quyết định mang theo. Tôi là dân chơi lướt ván Vọng Các. Ở nhà hàng (hộp đêm-nhà tắm-mát xa) Poseidon đường Ratchada tôi hẳn sẽ khác với du khách Ðài Loan quần cọc, giày phố và vớ cao cổ trắng, ở Phố đi bộ Pattaya tôi sẽ khác khách Nhật Bản mang Leisure Suit bằng vải Jersey đồng màu. Ở Thái thì vậy, nhưng sang đến Cam Bốt, tôi nhận xét là thời trang lướt ván chưa kịp đổ bộ, đồ quân đội nhờ đặc tính rẻ và bền, được ưu ái nhiều nhất ở giới xe ôm, lao động bóc vác và ăn xin tàn phế. Tại nhà hàng Bopha ở Nam Vang về đêm, tôi không dùng đến để nhìn chuột từ bờ sông du kích những chân bàn lượt là vải trắng trải, tại Martini Disco Siem Reap tôi không khóac lên để vằn vện dưới ánh đèn xanh đỏ bập bùng. Nhưng đi dã ngoại thì tôi mang theo phòng hờ. Sắc áo lính dễ lẫn lộn vào đám đông những chợ nhỏ thị trấn, mang vào người tôi có thể phanh ngực ra ngồi chồm hổm bên quốc lộ, chẳng ai lại gần nhìn đít quần tôi có nhãn Dickies để mà nhận ra tôi là người Cali. Tôi mang theo để đi Xoài Riêng, Ba Vẹt, ờ thì nắng gió biên thuỳ.

Vào sáng rời Nam Vang, tôi ghé thăm trại tù Toul Sleng, bí danh S21, giờ là một di tích lịch sử. Trong thời gian 1975-79, ngôi trường học này trở thành một trung tâm khai thác và điều tra của chính quyền Khmer Ðỏ, nhận trên 17.000 người vào mà chỉ có dưới 20 người sống sót được nhìn thấy cái cổng ra. Nếu không có giai đoạn kinh hoàng này thì Toul Sleng rất đẹp, kiến trúc kiểu thập niên 1960, sàn đá hoa và tường vôi vàng nhạt với những hàng hiên ủ nắng và cửa mát màu xanh. Và có lẽ cũng nhờ cái quá khứ đẫm máu đó mà ngôi trường còn nguyên vẹn, nếu không đã có thể bị san bằng và đổi mới như những biệt thự ở trung tâm, ngày nay kiến trúc kiểu cây thông giáng sinh đèn nhấp nháy. Nhưng dĩ nhiên, vào Toul Sleng thì phải lặng người, khách đều trầm ngâm và hoe đỏ mắt trước cả ngàn chân dung các nạn nhân nam phụ lão ấu được phóng đại bày khắp các mặt đường. Tôi lân la từ phòng này sang phòng khác, nhìn vào từng đôi mắt vô hồn của các nạn nhân, phần lớn mặc áo đen và quấn khăn rằn Khmer Ðỏ, những đứa con của Cách mạng đến lượt bị chính nó nuốt tươi ăn sống. Một số nhỏ, chắc là tù nhân của giai đoạn đầu tiên, còn mặc quần áo phố, có anh áo hoa cổ to và bó chẽn người, tóc bồng bềnh dài quá tai, một hippy lạc loài và vắn số, trong đầu chắc lẩm nhẩm ca từ “Gimme a ticket for an areoplane/ Ain’t got time to take a fast train”(3) nhưng mà đã trễ. Có một người đàn bà rất đẹp, mang áo len cổ lọ và quấn sarong, đứng trước một tường của trại giam và mắt nhìn lên qua khỏi tầm ống kính, như một người mẫu trên trang nào của tạp chí Vogue. Nhưng ấn tượng với tôi là chân dung một người lính, một người lính trẻ mang quân phục Cộng hoà Khmer, một người lính Lon Nol.

Tôi không rõ anh thuộc binh chủng nào, đơn vị nào của quân đội năm năm này (1970-75) nhưng màu áo anh là màu áo rằn cọp biển. Ngay cả trong sắc ngụy trang rằn cọp biển của Việt Nam cũng có nhiều biến thể. Loại vải ngoại có, vải nội có, lại sản xuất bởi nhiều hãng khác nhau nên màu sắc có khác biệt. Sau khi dùng (và giặt) một thời gian, có thứ chỉ còn những rằn đen là nổi bật, có thứ rằn đen lại lem nhem sang màu xanh rừng núi, có thứ bạc đi chỉ còn giữ được sắc vàng, có thứ rõ ràng chi tiết, có thứ vài ba bận đã mất những đường vân. Nhưng trùng hợp thế nào, tôi nhìn thật kỹ, cái áo tôi mang theo ngày hôm đó và cái áo anh mặc trên hình y hệt cùng một sắc vải như nhau, cùng một thứ trong những loại rằn cọp biển (4). Tôi không phải TQLC và chắc anh cũng không, tôi không phải Lực Lượng Ðặc Biệt Mỹ, và anh cũng không nốt, nhưng anh với tôi đâu đó cùng một cỡ tuổi ở hai bên biên giới, đầu này sông Sàigòn và đầu kia sông Cửu Long. Và ba mươi năm sau anh, tôi mới có được có cái áo nhưng ba mươi năm sau anh, tôi còn sống, tôi đi thăm di tích S21 và anh ở trên hình. Ngụ ngôn của chuyện này chẳng phải là áo rằn chỉ nên mặc khi đã trở thành thời trang lướt ván hay khi Khmer Ðỏ đến thì nên nhanh tay mà cởi ra và nhanh chân mà di tản, tôi không biết. Tôi chỉ biết khi bước ra khỏi cổng Toul Sleng, tôi bỗng thấy tôi hạnh phúc, như là một trong số 20 người hiếm hoi (trong 17.000) được phóng thích, tôi may và anh rủi, ba mươi năm qua biết bao nhiêu chuyện trên đời , giờ tôi thì đi Neak Luong và anh thì đã chết, anh , hỡi anh, ở lại cùng di tích.

 

Chú thích:

(1) DPM Disruptive Pattern Material: An Encyclopedia of Camoflage: Nature, Military, Culture. Hardy Blechman, Frances Lincoln 2005.

 

(2) Dưới hình thức na ná, ngụy trang rằn cọp biển của miền Nam ngày nay vẫn được Philippines, Thái Lan, Ðài Loan sử dụng và cả Không Quân Hoa Kỳ ở dạng gọi là “Rằn cọp kỹ thuật số”. Ðiều ngạc nhiên nhất là Quân đội Nhân dân Việt Nam gần đây (ít nhất là từ 1995) trang phục lực lượng Lính thủy đánh bộ với một vải rằn gần như tương tự!

 

(3) “The Letter”, lời Wayne Carson Thompson, ban nhạc The Box Tops.

 

(5) Tiger Patterns: A Guide to the Vietnam War’s Tigerstripe Combat Fatigue Patterns and Uniforms, Richard Denis Johnson, Schiffer Pub Ltd, 1999.

Theo chuyên gia này thì riêng ở Việt nam trong thời kỳ chiến tranh đã có 19 lọai rằn cọp khác nhau, chưa kể các biến thể do thời gian mưa nắng gây ra trong cùng một lọai rằn (vì chất lượng in ấn trên vải có dị biệt). Áo của người lính Toul Sleng trên đây và áo lướt ván của tôi thuộc về lọai gọi là Late War, Light Weight, Dense (LLD).

Bài Mới Nhất
Search