T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Đỗ Xuân Tê : Ngược dòng sông Mã

 

Đi bè trên sông Mã ( ảnh : Hà Đồng )

Đất Thanh Hóa gần quê tôi, từ nhỏ tôi đã nghe nhiều về vùng đất này. Bố tôi và các anh con ông bác đã đi “bè” chở nứa từ Thanh hóa về cho mẹ tôi và các chị trong họ làm nghề đan cót, một làng nghề cha truyền con nối mà năm mươi năm sau các bà các cô vẫn cặm cụi ngôì đan. Nghề này không biết du nhập làng tôi từ hồi nào, nhưng một khi lúa gặt về cần quây che, thóc thu hoạch về cần chỗ chứa thì các tấm cót quê tôi vẫn là sản phẩm không thể thiếu trong các làng mạc vùng châu thổ sông Hồng. Tuy số cung ổn định, giá cả phaỉ chăng, nhưng sức lao động bỏ ra so với giá trị sản phẩm thu về thì quả không tương xứng. Bao thân phận từ các cô gaí lứa tuổi mươì hai mười ba đến các bà mẹ quê tuôỉ cổ lai hy cứ vừa qua vụ mùa laị cặm cụi ngày đêm âm thầm mắt ngó xuống, chân tay đan làm các thao tác xem như không mỏi, nhưng nỗi mệt đã ăn sâu trong tâm thức, trong da thịt, trong lục phủ ngũ tạng, để cả một đời không rời xa caí làng nhỏ bé từ đơì này sang đời kia.

Các bà các cô vì ngồi một chỗ, an phận chốn quê, tầm nhìn không xa quá cái cổng làng. Cơm ăn quanh năm thì cứ quả cà vơí muối, thêm bát canh cua rau đay pha chút mướp hương. Năm thì mươì họa có được chút thịt heo kho kèm mấy nắm tôm tép lưới được ven sông. Lâu lắm các cô gaí ở tuổi bẻ gãy sừng trâu mơí được sánh vai cùng cánh trai làng lưc lưỡng khiêng gánh các tấm cót lên chợ phiên để giao hàng hoặc trao đôỉ bán buôn. Lúc này họ mơí có dịp gặp nhau, cùng xà vào ăn bát bún riêu, quanh hàng bánh đúc, uống bát chè xanh để rồi thầm gưỉ trao nhau vaì câu tình tứ, dạn dĩ hơn thì ít lời chọc ghẹo kiểu quê. Để rôì hết phiên chợ, tạm chia tay, gái quay về đan cót, trai thì sửa soạn cho chuyến đi xa vượt truông nhà Hồ xuôi thuyền vào Thanh hóa. Từ môí liên hệ ngành nghề, Thanh hóa chẳng phải ngẫu nhiên mà trở thành vùng đất gần gũi vơí tôi từ tuổi ấu thơ.

Bẵng đi hàng chục năm, kể từ ngày di cư vào nam, Thanh hóa mờ nhạt dần trong tôi. Có một lần gợi nhớ khi nghe bản tin tường thuật các máy bay Mỹ đánh bom cầu Hàm Rồng, tuy không gây tổn thất nhiều về nhân mạng, nhưng làm tê liệt tuyến đường chiến lược bắc nam. Chuyện bom đạn thì hồi đó chiến tranh chẳng chừa ai, trong nam ngoài bắc đều chung số phận. Nhưng Thanh hóa còn chịu đói kém thường xuyên do lũ lụt từ các sông đổ về nhằm mùa bão nổi tháng chín tháng mười hàng năm.Tới khi tàn cuộc chiến, một số tù cải tạo từ miền nam ra lại được dồn về các trại nằm dọc thượng nguồn sông Mã. Thanh hóa bỗng chốc trở thành một địa danh hãi hùng khi nơi đây các người tù vốn không quen với lối lao động ‘chặt nứa thả bè’ nhiều người đã phải bỏ mạng theo dòng nước lũ. Chẳng thế mà (cứ theo Bùi văn Phú kể lại) từ đầu thập niên 80 đã có những vần thơ được sinh viên Việt nam đọc từ hải ngoại, ngay giữa lòng khuôn viên đại học Berkley, đại để:

Mưa đông rét ào ào gió lộng

Đứng ngâm mình vớt nứa giữa dòng sông

Bạn tưởng tôi da sắt bọc xương đồng

Không! Tôi đang sống trong trại giam…Việt cộng

Sau này được gặp lại những người còn sống sót về nam, tôi mới thấy thương cho các anh và bố tôi đã một thời rong ruổi kéo những bè nứa vượt sóng đem nguồn nguyên liệu về đổi lấy chén cơm, manh áo cho mấy chị em tôi. Có điều ông và các cháu ông không bao giờ than thân trách phận về lối sống kiểu như giang hồ trên sông nước vừa hiểm nguy chực chờ mỗi chuyến xuôi bè. Âu cũng là cái nghiệp, không có nứa thì không có nghề đan, không đan thì treo niêu treo bát. Thân phận nơi chốn quê đất chật người đông chỉ còn cách tìm đường xa xứ theo sự vẫy gọi của đám cai mộ phu cho các đồn điền cao su Long thành, Dầu tiếng phương nam.

Quả số tôi không có duyên vơí sông nước, chứ không thì cũng lại sung vào đội ngũ xuôi bè. Đưa đẩy thế nào tôi theo ông chú họ phiêu bạt ra tận Hà nội, được chút học hành thân lập thân, ít năm sau bước chân vào quân ngũ. Vì sẵn có máu giang hồ lại chịu tình nguyện nơi hòn tên mũi đạn, đời tôi cũng le lói một thời. Nhưng càng le lói lắm càng…tù lâu năm. Khi cuộc chiến ngã ngũ, tôi cũng như bao thân phận thanh niên thời chiến laị sa vào cái bẫy học tập cải tạo. Vì được hứa người một tháng kẻ hai tuần, moị người chui đầu vào rọ. Chính sách tự thân đã là một sự xấu hổ, nhưng cá nhân tôi laị xấu hổ hơn vì tác giả của cái chính sách lừa lọc này lại là kẻ đồng hương quê tôi, một thời đứng đầu ngành công an tại thành phố ‘mang tên Bác’.Trở lại chuyện đi tù, người ra Thanh hóa thì đi chặt nứa, chúng tôi lên Yên bái thì đi chặt bương (cùng họ vơí nứa nhưng thân to gấp ba). Hai cánh rừng có chung một đặc điểm là có một loài vắt xanh, một loại giống đỉa, thân như con sâu nhỏ nhưng hút máu thì dai hơn cả đỉa. Loại này luôn tìm chỗ kín nhất của thân thể, nằm im chui sâu (giống như điệp viên Phạm xuân Ẩn), rồi mơí ra tay hút máu, để rồi khi khổ chủ phát hiện thì cũng là lúc chúng đã say máu nằm vật ra như một anh nghiền thuốc cuối cơn vật vã. Nhiều đêm tối trời, lao động về mệt mỏi, anh nào để nguyên đồ lao động đi ngủ thì đêm ấy địa bàn hoạt động của lũ vắt coi như bỏ ngỏ, thân xác khổ chủ mặc tình cho nó vầy vò chẳng khác thân thôn nữ lạc vào tay sở khanh con địa chủ!

clip_image004

Dần dà được chuyển về miền trung du, trụ lại đất Vĩnh Phú. Đang viết về sông Mã tự nhiên tản mạn sang đất sông Lô cũng vì một bài thơ mà tác giả của nó là Hữu Loan người vùng Thanh Hóa. Nơi đây vốn là đất của những đồi sim, đồi chè, nhờ cảnh vật nên thơ mà đã được nhiều nhà thơ nhà văn lấy nguồn cảm hứng. Hai loại cây, một sim một chè mỗi loài một vẻ. Một loài cây hoang, một thứ cây trồng, một thứ để ăn, một dùng để uống. Hoa sim được nhắc nhớ trong tình yêu lứa đôi ở tuổi học trò, cánh chè thêm nguồn ngẫu hứng cho các buổi mạn đàm tọa ẩm. Một loài được e ấp vì cánh hoa, một được ấp ủ vì lá búp. Sim mang màu tím rượi buồn, chè đậm màu xanh đáy mắt. Một loài gợi nhớ hình ảnh nên thơ mơ mộng, một đượm nét đài các kiêu sa. Một như nơi hẹn hò của các cặp tình nhân thơ ngây vụng trộm, một như chốn hội ngộ của các mặc khách tao nhân. Hai loài thực vật mang sắc thái khác nhau, nhưng lại là nguồn cảm hứng ít thấy được trân trọng qua các loài hoa lá khác. Chè quen gọi là trà thì tôi không hiểu nhiều, lại không biết thưởng thức, vì đó là những thứ của ông tôi, bố tôi, nhưng đồi sim hơa sim đã ám ảnh tôi từ thủơ học trò. Trước chỉ được biết sim qua nét vẽ, qua tứ thơ, nhưng nay tận mắt thấy sim chỉ là những bụi sim thấp vừa tầm, mọc hoang rải rác trên những đồi thoải, bìa rừng, không phải là những cây sim lớn phải ‘vin cành’ giống cây bưởi cây cam như vài nhà văn nhà thơ mô tả. Lại nói về thơ thì tuổi học trò hầu như chúng tôi ai cũng thuộc bài ‘Màu tím hoa sim’ của Hữu Loan. Vừa được học qua môn Văn, vừa được ngâm diễn qua các buổi văn nghệ sân trường, sau nhờ Phạm Duy phổ nhạc thì baì thơ đã đi vào huyền thoại. Đến thời mặc aó lính, hình ảnh các cuộc hành quân khi qua các đồi sim dù ở thung lũng A Sao hay chiến trường Tây bắc, bài thơ nghe như tiệp với tâm tư những người lính của cả hai miền. Khi vào tù, mỗi khi nhớ nhà hát lén nhạc vàng thì bài hát vì có chữ ‘bộ đội’ nên không những không bị kiểm điểm mà còn đươc các cai tù ngầm khuyến khích hát thêm! Thế mới biết âm nhạc có lúc trở thành thứ ngôn ngữ chung chẳng còn bên ngụy bên ta. Nhớ lại hồi mơí biết bài thơ, thày giáo giảng hoài tôi cũng chẳng hiểu câu ‘tím cả chiều hoang biền biệt’, cho đến một hôm nhân lúc lao động về, khi vác cuốc xuống đồi (chè) thì trời đã xế chiều. Thân tuy mệt mỏi nhưng ngoại cảnh làm tôi bất giác nhớ tới bài thơ. Cảnh chiều tà, mặt trời khuất bóng, những áng mây lơ lửng, cảnh vắng, đồi thưa, vài vạt sim tím, lại xa nhà, nhớ vợ, tủi thân cho số phận ngày về mong manh… cảnh vật tâm tư lúc đó cứ như đan quyện vào nhau, từ ấy tôi hiểu được ý thơ của Hữu Loan.

Ra tù trùng hợp thời mở cửa, tình cờ hình ảnh đất Thanh Hóa lại gợi nhớ trong tôi. Lần này bằng một bài ký sự đăng trên tuần báo Văn Nghệ với cái tên ‘Cái đêm hôm ấy đêm gì’. Bài báo ký tên Phùng gia Lộc. Tôi thì vẫn phục cái tính bất khuất của nhà thơ Phùng Quán, đang liên hệ xem hai ông này có họ hàng bà con gì không. Nhưng ông Lộc lại sanh và đang sống tại Thanh hóa, viết baì ký sự tả huỵch toẹt caí đói thê thảm của người dân quê ông, vào thời điểm đầu thập niên ’80, hậu quả của cung cách làm ăn cha chung không ai khóc, mà bi kịch nằm ngay trong gia đình ông với cái lối thu lúa bất nhân của đám cán bộ xã, bất kể ít chục cân thóc đã dấu trong caí aó quan dành sẵn từ lâu để làm ma cho bà mẹ của ông đang chờ chết. Nhờ đang dịp ‘cởi trói cho văn nghệ sĩ’, bài báo được in lại trên báo Tuổi Trẻ gây xúc động mạnh trong cả nước. Nhưng tiếng tăm làm tác giả xất bất xang bang, khiến ông phải sơ tán ra Hà nội để tránh sự hằn học của đám lãnh đạo địa phương. Ông chỉ viết có một bài và một bài làm ông trở thành nhà báo có hạng. Mới đây được biết ông đã chết ở tuổi 50 phần do lao tâm lao lực. Nhà thơ thế hệ đàn anh của ông vẫn sống vất vưởng nơi vùng đất nghèo này, tuy ở tuổi 90 nhưng quá nửa đời người lận đận lao đao. Cả hai một già một trẻ đều sanh ra thiết tha tâm huyết với vùng đồng bằng sông Mã nhưng dư âm của một bài thơ, bài báo làm tên tuổi hai người con Thanh Hóa còn được nhắc nhớ hoài trong lòng những người yêu thơ, yêu công lý.

Đỗ Xuân Tê

 

©T.Vấn 2011

Bài Mới Nhất
Search