T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không: Chữ nghĩa làng văn (Kỳ 245)

Tiếng Bắc tiếng Nam

Vì thổ âm “đất mặn, giọng chua”, nhiều người Bắc đọc phụ âm “tr” thành “ch”, “d” thành “gi”, “s” thành “x”, quen phát âm ra tiếng gió, khiến giọng trở nên chua.

Người Nam nhiều người phát âm bỏ “dê dưới” (g), chẳng hạn như câu hát “làng tôi có cây đa cao ngất từng không” thì họ hát ““làn tôi có cây đa cao ngất từng khôn”. Hoăc giả như âm “ùi” thành “ồi” như câu “tình em gió mưa giập vùi, thôi em đành một mình ngậm ngùi ” thành ra “tình em gió mưa giập vu..ồi, thôi em đành một mình ngậm ngu..ồi ”.

Ca dao tình tự (9)

Nói đến tiết trinh:

Lẳng lơ mới có con bồng

Nhu mì như chị nằm không cả đời

(Bùi Kim Chi – Khảo luận về ca dao dân ca)

Chữ nghĩa văn chương hậu hiện đại

“…Xa xa hoàng hôn tím thẫm mặt trời đỏ ối chui vào hoàng hôn đặc quánh. Dường như không còn chân trời đất trời giao hoà làm một. Mặt trời đã chui xuống tấm chăn hoàng hôn. Và màn đêm buông xuống.

Họ đi bên nhau đi mãi đi mãi về phía chân trời.

Bỗng họ vật nhau, họ vật thật quyết liệt. Nàng tan vào chàng và chàng cũng tan vào nàng. Như kem Tràng Tiền gặp nắng tháng tám, họ tan vào nhau. Như đất trời, họ cũng đang hoà làm một. Bầu trời vút cao. Sao xanh lấp lánh. Trời cao sao xanh.

Có thể không mưa

không thể mưa

Đúng

Trời đã không mưa…

Hoặc giả như:

Ngoài. Trời. Đã. Sập. Tối. Qua. Khung. Cửa. Phòng. Khách. Trăng. Lưỡi. Liềm. Treo. Lủng. Lẳng. Nền. Trời. Đêm. Với. Những. Ngôi. Sao. Lấp. Lánh. Như. Dát. Bạc. Lên. Tấm. Màn”.

(Vương Văn Quang – Cửa sổ trăng treo ngoài)

Văn tự

Giáp Cốt văn là loại văn tự khắc chạm trên mai rùa hay xương động vật.

Chữ trên mai rùa gọi là Giáp văn.

Còn chữ trên xương những động vật khác gọi là Cốt văn.

Chữ viết khắc chạm trên đồng và kim loại gọi là Kim văn.

Biên khảo văn học Hán Nôm (I)

Phạm Quỳnh và nhóm Nam Phong Tạp Chí  rồi tới nhóm Thanh Nghị , Tri Tân đã nỗ lực nghiên cứu kho tàng văn học Hán Nôm nhưng kết quả chưa được bao nhiêu, phần nhiều chỉ gồm các thơ văn lẻ loi, các tài liệu rải rác được phiên dịch từ Hán Nôm ra chữ Quốc Ngữ, đây chỉ là những mảnh vụn của văn học Việt Nam.

Trên tạp chí Tri Tân học giả Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố  đã có công viết nhiều bài khảo luận đính chính những bài văn cổ giúp cho việc chú giải thơ văn sau này được dễ dàng và chính xác hơn.  Trên tờ Thanh Nghị  số 31 (16/02/1943) và số 32 (01/03/1943) học giả Hoàng Xuân Hãn đưa ra ánh sáng tập Mai Đình Mộng Ký của Nguyễn Huy Hổ.  Năm 1944 Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm ra đời. Đây là bộ Văn Học Sử đầu tiên và là một công trình khảo cứu rất công phu và giá trị nhưng tiếc rằng còn quá tóm lược, các tác giả và tác phẩm viết bằng Hán Nôm chỉ được đề cập đến một cách khái quát, sơ sài. Những cố gắng của Phạm Quỳnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Hữu Tiến, Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm, Đào Duy Anh, Trần Văn Giáp, Nguyễn Văn Tố, Hoàng Xuân Hãn… tuy giúp chúng ta có một cái nhìn tổng quát về nền văn học lịch triều nhưng còn rất nhiều vấn đề cần được tìm hiểu xâu xa và cặn kẽ hơn.  Điều này không thể thực hiện được do sự thiếu sót tài liệu.  Đây là trở ngại chính yếu và lớn nhất trong lãnh vực biên khảo văn học Hán Nôm.

(Trần Bích San – Những trở ngại biên khảo văn học Hán Nôm)

Tiếng Bắc tiếng Nam

Qua những bài ca dao cổ hay mới gần đây như:

Cô kia đội nón chờ ai?

Chớ lấy chú Chiệc mà hoài tấm thân

Hoặc giả như:

Lấy Tây, lấy Chiệc làm chi

So bè nhân nghĩa chẳng bì An Nam

Với người Tàu, người Bắc gọi là “Chiệc”, người Nam kêu là…”Chệt”.

Đất lề quê thói với phong tục cổ truyền

Mở hàng 1

Trong phong tục ngày Tết, đầu năm ai cũng muốn vận hội hanh thông, làm ăn suôi sẻ, làm quan có ngày khai ấn, kẻ sĩ có ngày khai bút, nhà nông có ngày khai canh, làm thợ có ngày khai công, người làm nghề buôn bán có ngày mở hàng. Mọi việc khởi đầu đều khó khăn, mà “Đầu đi thì đuôi lọt!”. Riêng trong nghề buôn bán lại càng bấp bênh, có ngày mua may bán đắt, có ngày ngồi suốt buổi chẳng ai ngó tới, có tháng lời lãi nhiều, lợi lộc lớn, có tháng thua lỗ mất cả chì lẫn chài, vì vậy không những chọn ngày mở hàng đầu năm, mà cả đầu tháng, đầu tuần, từng ngày còn phải để ý đến chuyện mở hàng: mở hàng vào lúc nào?

Bán cho ai “nhẹ vía” để cả ngày bán đắt hàng?

Thông thường muốn được đông khách đến mua thì người bán hàng phải niềm nở, vồn vã, ân cần, bán nới giá hơn bình thường để cầu được đông khách và giữ được chữ Tín đứng hàng đầu. Song có người lại tưởng nhầm bán mở hàng phải bán cho đắt, người mua mặc cả chê đắt không mua bỏ đi, rốt cuộc ngồi lì suốt buổi không ai hỏi đến, thậm chí còn cho là tại người mở hàng nặng vía, chửi rủa ngầm và “đốt vía” người mở hàng. Ngày trước người ta muốn đi chợ sớm để được mau mở hàng có giá rẻ hơn chút ít, nhưng ngày nay nhiều người ngại mở hàng vì sợ vướng phải nạn nặng vía lại đòi “đốt vía” người mua mở hàng.

Chữ nghĩa làng…nhậu

Rượu ngon cái cặn cũng ngon,
Thương em chẳng luận chồng con mấy đời.

Rượu rắn Phụng Hiệp

Rượu rắn Phụng Hiệp ở Phong Dinh, Cần Thơ có 3 loại:

Tam xà: hổ mang, hổ lửa, cạp nong

Ngũ xà: gồm 3 loại của tam xà, thêm hổ hành, hổ hèo

Thập xà xà: gồm 5 loại của ngũ xà,

Thêm rắn lục, bông, ri voi, ri cá và bông súng

(Nguồn: Mường Giang)

Chuyện nhà Minh cướp sách đem về Tàu (I)

Trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, chính sử của nhà Nguyễn và trước đó, Lê Quý Đôn (1726 – 1784) trong Lê Triều Thông Sử đã viết rất rõ điều này.

Trước hết, trong Lê Triều Thông Sử, phần “Nghệ Văn Chí,” Lê Quý Đôn có viết:

”Đến đời Nhuận Hồ mất nước, tướng nhà Minh là Trương Phụ lấy hết sách vở cổ kim của ta gửi theo đường sông về Kim Lăng.”. Còn trong KĐVSTGCM, phần Chính Biên, quyển XXXIII, sau phần nói về việc vua nhà Minh cho in các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh và Tính Lý Đại Toàn và sai Giám Sinh Đường Nghỉa sang nước ta ban phát cho những người Nho học có chép thêm“”Còn các sự tích và sử sách của nước ta từ đời Trần trở về trước đều tịch thu đưa về Kim Lăng.”

Gần ta hơn, Trần Quốc Vượng, giáo sư sử học thuộc Viện Đại Học Quốc Gia Hà Nội, trong tuyển tập nhan đề Văn Hóa Việt Nam, Tìm Tòi và Suy Gẫmcũng viết ”Cướp được nước ta, trong 20 năm trời bên nền đô hộ hà khắc về chính trị, vơ vét tham tàn về kinh tế, giặc Minh đã thi hành một chính sách hủy diệt độc ác về văn hóa, giặc Minh đã quyết tâm đập cho tan nát những cơ cấu văn hóa dân tộc xây dựng suốt hơn 400 năm, chủ yếu dưới thời Lý – Trần. Vua Minh đã trực tiếp ra mật lệnh cho bọn tướng xâm lăng khi tiến quân vào nước ta, thấy bất cứ cuốn sách vở nào, gặp bất cứ tấm bia đá nào đều phải thiêu hủy, đập phá hết. Tên tướng Trương Phụ lượm lặt hết các sách vở cổ kim của ta, đóng thùng chở về Kim Lăng. Tháng 7 năm Mậu Tuất (1418 ), nhà Minh còn sai tiến sĩ Hạ Thì và hành nhân Hạ Thanh sang tìm tòi và thu lượm tất cả những sách chép về lịch sử và sự tích xưa nay do người Việt viết. Năm 1419, nhà Minh lại cho người đem sách Khổng giáo, Đạo và Phật giáo của Trung Quốc sang thay thế cho những sách trước kia chúng lấy đi. Chính sách hủy diệt văn hóa thâm độc đó đã phá hoại gia tài văn hóa, tinh thần của dân tộc ta không phải là ít. Nếu không, cái gia tài văn hóa, văn học tư tưởng thời Lý Trần để lại sẽ phong phú biết chừng nào!”.

(nguồn Phạm Cao Dương)

Ca dao tình tự (10)

Nói đến tiết trinh

Chơi cho thủng trống long bồng

Chơi cho gió cuốn mây tung mới là

Chơi cho nó thỏa tòa tòa

Cho năm bức váy, xé ra làm mười

(Bùi Kim Chi – Khảo luận về ca dao dân ca)

Lẫy

Lẫy: làm gì cho bõ giận

(nó nói lẫy)

(Tự điển tiếng Việt cổ – Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện)

Chữ nghĩa làng văn

Qua điền bất nạp lũ

Lý hạ bất chỉnh quan

Nghĩa là:

Khi đi qua ruộng chớ cúi xuống sửa dép.

(Vì sợ người ta nghĩ mình ăn cắp dưa)

Khi đi dưới cây mận đừng sửa mũ.

(Sợ người ta cho là mình hái mận)

Chữ nghĩa làng văn

Bà Hồ Xuân Hương, sớm nhất có Xuân Hương thi tập thời Minh Mạng. Sau này còn có nhiều bản chép tay như Quốc Văn Tùng Ký soạn vào thời Tự Đức. Thời Duy Tân thêm Xuân Hương thi sao, Tạp thảo tập, Quế Sơn thi tập, Xuân Hương thi vịnh, Liệt truyện thi ngâm, Lĩnh Nam quần hiền văn thi văn diễn âm tập và…Hương Đình Cổ Nguyệt Thi.

       Uẩn khúc ở chỗ, trong tập Hương Đình Cổ Nguyệt Thi có bài thơ tựa đề Trấn Quốc Tự. Trong khi bài thơ nôm cũ nhất Chùa Trấn Bắc mà Antony Landes trích lục từ nguồn nào chẳng ai hay lại gán ghép cho bà Hồ Xuân Hương. Vào cuối thế kỷ 19, Antony Landes người Pháp sang nước ta thời họ chiếm Nam kỳ. Ông học tiếng Việt ở trường Thông Ngôn nên giỏi tiếng Việt, ông dịch cả Nhị độ mai. Khoảng năm 1892, ông được bổ làm đốc lý ở Hà Nội. Có thể ông là người Pháp đầu tiên ra Bắc tìm kiếm các tác phẩm của người Việt, rồi thuê hai ba người chép lại. Những gì ông gom góp do con cháu ông Landes cho Société Asiatique lưu trữ lại. Gốc tích đầu tiên về văn học mà sau này được in ra và được gọi là Thơ Hồ Xuân Hương là ở trong ấy!

      Với Hương Đình Cổ Nguyệt Thi của bà Hồ Xuân Hương, khoảng thập niên 30 qua Cao Xuân Huy, con của Cao Xuân Hạo, nhờ tìm được trong thư tịch củaCao Xuân Dục (1842-1923), Học bộ thượng thư thời Đồng Khánh. Cao Xuân Dục cũng là chánh chủ khảo trường thi Nam Định 1897 thời Đồng Khánh. Tập Hương Đình Cổ Nguyệt Thi được tìm thấy trong tủ sách gia đình cụ Trần Xuân Hảo ở xã Hải Trung, huyện Hải Hậu, Nam Định.

       Trong khi bà Huyện Thanh Quan trong văn học sau này chỉ biết đến sơ sài vài bài thơ và những giai thoại mà nguồn từ ông Dương Quảng Hàm qua Việt văn giáo khoa thư năm 1940.

Triết lý củ khoai


Lúc bé tưởng rằng những gì đến rồi sẽ đi, giờ mới biết niềm vui đến thi qua mau, còn nỗi buồn đến thì cứ ở bên ta mãi

Giai thoại làng văn xóm chữ

Lấy tử vi cho cái quạt

Vào một ngày mùa hạ, bà trạng đi chợ mua về cho cụ trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm một cây quạt giấy. Trạng tính ngày giờ, rồi lấy cho cây quạt một lá số tử vi. Trạng đoán ra cái ngày…cái quạt chết. Trạng lại nghĩ: 
– Nếu để dùng lâu ngày nó sẽ rách hoặc thất lạc đi, như vậy “cái ngày chết” của nó ắt sẽ xảy ra và xảy ra bình thường. Nếu đúng nó có số thật, không ai có thể ngăn cản được, thì sao ta chẳng mang cất nó đi, để xem tới ngày ấy, nó có chết thật hay không? 

Nghĩ thế, nên trạng Trình treo nó lên chỗ kín đáo nhất. Tới ngày, cây quạt vẫn còn nguyên. Hôm đó, suốt từ sáng tới chiều, trạng Trình cứ ở nhà, quanh quẩn ở nơi để quạt, xem nó chết ra sao. Vừa lúc ấy, có khách đến mời trạng sang ăn giỗ, ông từ chối không đi, cho rằng trạng giận việc gì nên đánh tiếng nhờ bà trạng. Từ sáng, thấy cử chỉ kỳ dị của chồng, bà trạng đã chướng mắt lắm rồi, nên khi được khách cậy nhờ, bà liền đốc thúc trạng: 
– Ông ở nhà làm gì, người ta nghĩ tình nên sang mời, mà ông nỡ từ chối. Tôi mua quạt về cho ông dùng, chớ đâu phải để ông mang cất đi, rồi cứ ra vào mà phủi bụi cho nó như đầy tớ thế. 

Vừa nói, bà trạng vừa giật lấy cây quạt xé nát tan ra từng mảnh vụn. Thấy vậy, trạng cười nói: 
– Ra là thế. Cuối cùng thì ta đã biết được nó chết thế nào. 

Rồi mặc cho bà trạng đứng ngẩn người ra không hiểu, trạng khăn áo chỉnh tề đi sang nhà người khách lúc sáng để ăn giỗ.

Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ

Vợ là…“cơm nguội” của ta

Nhưng là…“phở tái” của cha láng giềng!!!

Ngộ  Không

(Sưu Tập)

©T.Vấn 2024

Bài Mới Nhất
Search