T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không: Chữ nghĩa làng văn (Kỳ 249)

Chữ Việt cổ (III)

Trong tập: “Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ”, giáo sư Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng: Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa đẩu từ thời Phục Hy- Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Như vậy, dân tộc Kinh – Lạc Việt lại không còn văn bản hay sao? Riêng ở Việt Nam, chữ khoa đẩu được dùng lâu hơn. Mãi đến đời Sĩ Nhiếp vẫn còn, tuy Sĩ Nhiếp cấm đoán nhưng nhân dân ta vẫn dùng.

Nhiều nhà nghiên cứu, từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm… cho đến Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài ở Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: Từ Lục Lưu, đến Hứa Thân, Trịnh Tiểu… đều khẳng định: Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng.

Gần đây nhóm nghiên cứu Chữ Việt cổ và giáo dục thời Hùng Vương, do nhà văn Khánh Hoài–Đỗ Văn Xuyền đã có những khám phá rất quan trọng. Một trong những kết quả nghiên cứu của nhóm là phát hiện ra một bộ chữ Việt cổ được lưu giữ ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Các nhà khoa học cho rằng văn tự này có thể là một biến thể của chữ “Khoa đẩu” hay “Hoả tự” ghi trong cổ sử. Thứ chữ đã tồn tại trong nền văn hoá tiền Việt–Mường. Do không được sử dụng phổ biến, bộ chữ này bị đóng băng, không phát triển theo kịp những biến âm trong tiếng nói người Việt hiện đại.

(Trần Vân Hạc – Chữ Việt cổ)

Ca dao tình tự (3)

Nói đến ngoại tình

Năm quan tiền tốt bó mo

Làm tờ ký chỉ, chị cho mượn chồng

(Bùi Kim Chi – Khảo luận về ca dao dân ca)

Triết lý củ khoai

Lúc bé tưởng tượng rất nhiếu, và giờ đây khi lớn lên mới nhận ra chuyện cổ tích không bao giờ có thật.

Tượng ông Phỗng

Trước hương án có để hai cái tượng bằng đá, chân quì mà hai tay cầm hương. Cái tượng ấy người ta thường gọi là “Phỗng” là tượng người Xiêm Thành của vua Thánh Tôn chế ra khi đi đánh Xiêm Thành về, để ngụ ý là nước Xiêm Thành đã thần phục rồi. Thế là cái tượng “Phỗng” chế ra từ đời ấy, về sau dân gian mới bắt chước mà tạc ra tượng gỗ như vậy để ở các nơi danh từ như ở Nghệ thì đền Võ Mục, đền Ðại Càn, đền Mai Hắc Ðế v.v.

Còn cái tượng ấy sở dĩ gọi là “Phỗng” thì có người nói rằng: Khi xưa nước Xiêm Thành có ông vua tên là Bổng thường sang quấy nhiễu ở nước Nam. Vua nước Nam thân chinh bắt được đưa về rồi sai tạc tượng ông ấy ra để dâng hương ở các đình đền, bởi vậy người ta gọi là tượng ông “Bổng”, về sau nói trại đi thành ra “Phỗng”. Lời nói ấy tuy cũng có lẽ, nhưng xét trong sử thì vua nước Xiêm Thành không có ông nào tên là Bổng cả (…)

Theo thiển kiến chúng tôi thì có lẽ là bởi cớ sau này: Nguyên cái tượng ấy thì trong nham cảo viết là “Bổng hương tượng”. Vì chữ là Bổng hương tượng cho nên người ta gọi là tượng bổng hương (tượng dâng hương), đến sau dần dần mãi nói sai đi, mới hóa thân là …“tượng Phỗng”.

(Nguyễn Ðức Tánh – Các nơi cổ tích đất Nghệ Tĩnh)

Đã tới ngày tàn của sách I

Điện tử là một thứ vô tâm. Nó giết báo chí, giết tạp chí văn học, giết sách vở. Văn học vẫn còn đó, không mất mát gì cả.

Có điều nó nuốt trong cái dạ dầy vô tri của nó. Nó giấu trong cái màn hình phẳng lì, trông đến lì lợm! Ghét, nhưng bây giờ là thời đại của nó, trước sau gì cũng phải chấp nhận.

(Nguyễn Hưng Quốc – Chuyện sách)

Đất lề quê thói với phong tục cổ truyền

Yết cáo tổ tiên vào sổ họ

Chuyện này đã có lệ từ xưa, chẳng có gì mới mẻ. “Họ nào đã có nề nếp sẵn thì cứ theo lệ cũ tiến hành”.
Yết cáo tổ tiên: Theo lệ cũ chỉ sau khi đối chiếu gia phả, kiêng kị các trường hợp phạm huý (đặt tên trùng với tên huý của tổ tiên và thân nhân gần gũi nhất, kể cả nội ngoại) mới chính thức đặt tên huý cho trẻ sơ sinh, yết cáo tổ tiên và xin vào sổ họ. Ngày nay phải làm thủ tục khai sinh kịp thời, trường hợp ở xa quê, không kịp về đối chiếu gia phả, nhỡ trùng tên huý tổ tiên trực hệ, thì tìm cách đổi, hoặc tránh gọi thường xuyên trong nhà. Lễ yếu cáo tổ tiên đơn giản, nén hương, cơi trầu, chén rượu cũng xong, thường kết hợp lễ tế tổ hàng năm mà yết cáo chung tất cả con cháu trong họ sinh trong năm cùng một lượt. Lễ vào số họ cũng đơn giản, cốt sao cho gia đình nghèo nhất trong họ cũng không gặp phải điều gì phiền phức.

Vào sổ họ: Thứ tự sổ họ ghi theo năm sinh, ai sinh trước ghi

trước, sinh sau ghi sau. Trường hợp nhiều năm bị phế khoáng nay mới lập lại sổ họ, thì phải thống kê theo đơn vị hộ gia đình

hoàn chỉnh cả họ, sau đó mới lập số tiếp đối với những trẻ sơ sinh. Mẫu số: Họ Tên (Tên Huý. Tên thường gọi) con ông bà, thuộc đời thứ mấy, chi thứ mấy? Con trưởng hay con thứ mấy? Ngày tháng, năm, sinh, ngày vào sổ họ.

Con gái vào sổ họ: Bất cứ trai hay gái, sau khi sinh đều có yết cáo tổ tiên, đã được tổ tiên phù trì phù hộ, nhưng nhiều họ ngày xưa không vào sổ họ đối với con gái, cho rằng “Nữ nhân ngoại tộc”, con gái là con người ta, lớn lên đi làm dâu lo cơ nghiệp nhà chồng vì thế không công nhận con gái vào họ.

Lần khân

Lần khân: suồng sã, nhờn

(nó lần khân khó nói lắm)

(Tự điển tiếng Việt cổ – Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện)

Rượu ta

Rượu ta, rượu trắng, rượu đế, rượu ngang, rượu gạo, rượu chưng, rượu cuốc lủi hay rượu quốc lủi đều là cách gọi của loại rượu chưng cất từ ngũ cốc lên men. Nấu bằng nếp, có nồng độ cao. Nếp và men (làm bằng hạt kê) ủ một tuần. Bỏ vào nồi đun để hơi bốc qua cái chọt gỗ chẩy ra ngoài thành rượu.

Rượu đế còn gọi là…“Nước mắt quê hương”.

(Nguồn: Mường Giang)

Chữ nghĩa làng văn

Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc

Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn

Trước Nguyễn Công Trứ đã có câu của Nguyễn Trãi:

Biết đủ dù không gì cũng đủ

Nên lui nếu có dịp thì lui

Tiếng Việt mình… khó quá!?

 Đã sắp sửa vào hè. Ở các lớp mẫu giáo lớn, phụ huynh học sinh đã thăm hỏi, mách cho nhau nơi dạy thêm cho các cháu chuẩn bị vào lớp 1. Xin để chuyện này cho Thanh tra ngành giáo dục xem thêm, đó là chuyện đọc và viết chữ Việt mình.

Trước hết là chuyện đọc. Khi bắt đầu học chữ cái (theo chương trình lớp 1) các cháu được cô hướng dẫn đánh vần a, b, c, d : Đọc là “a, bờ, cờ, dờ…” theo lối đánh vần của bình dân học vụ ngày xưa (i, tờ, tờ i ti).

Thế nhưng sang đến lớp 2, lại đọc khác đi. Làm quen với một hình chữ nhật, các cháu phải đọc là “4 góc a, bê, xê, dê” chứ không thể đọc là “hình chữ nhật a, bờ, cờ, dờ” nữa!

Tại sao vậy? Hỏi cô, cô trả lời “Trên hướng dẫn như thế!”. Tôi không dám lạm bàn cách đánh vần nào tốt hơn, nhưng ác một nỗi, có cháu chưa quen “a, bê, xê, dê”, nên khi cầm tờ báo để “khoe” với ông bà, cha mẹ, cháu vẫn đọc theo kiểu “Thông tư của bộ Lờ đờ Tờ bờ Xờ hờ” (Bộ LĐ-TB-XH). Không ai dám sửa cho cháu bé vì “cô bảo thế”, đến ông bà, cha mẹ cũng chịu thua luôn!

(Nguyễn Lê Bách – Nguồn ĐatViet.com)

Ca dao tình tự (4)

Nói đến ngoại tình:

Chồng người chẳng mượn được lâu

Mượn tối hôm trước, hôm sau người đòi

(Bùi Kim Chi – Khảo luận về ca dao dân ca)

Chữ quốc ngữ (2)

Câu thơ của Hòang Xuân Hãn trong hội Truyền Bá quốc ngữ dạy cách đán vần “i tờ” là quốc tự của Việt Nam ngày nay:

I tờ có móc cả hai

I ngắn có chấm, tờ dài có ngang

O tròn như quả trứng gà

Ô thì đội mũ, ơ thì thêm râu

Huyền ngang, sắc dọc, nặng tròn

Hỏi lom khom đứng

Ngã buồn năm ngang

(Trần Bích San – Văn Khảo)

Chữ nghĩa làng…nhậu

Lật đật thì đất cũng đè, 
Những người thong thả, rượu chè quanh năm

Thần Bạch mi

Cụ Nguyễn Du trong Đoạn trường tân thanh có câu:

Giữa thì hương án hẳn hoi

Trên treo một tượng trắng đôi lông mày

Lầu xanh quen thói xưa nay

Nghề này thì lấy ông này tiên sư

Ở lầu xanh ngày xưa, các tú bà thường dựng một bàn hương án treo một tượng thờ thần Bạch mi mặt to, râu dài, cưỡi ngựa cầm đao na ná như Quan Công, nhưng lông mày trắng và mắt đỏ. Tương truyền cô nào ế khách, để đốt vía: Cô trút bỏ quần áo, đốt hương van vái cầu xin thần bạch mi. Lấy hoa mới đổi lấy hoa đã cúng trên bàn thờ rồi trải xuống dưới giường nằm lấy hên. Đó là ông tổ sư của nghề lầu xanh.

Và đó cũng là ông Quản Trọng, tể tướng nước Tề. Vì quan Đại Tư Đồ thực tiễn cho là có cấm nghề bán trôn nuôi miệng cũng vậy thôi, nhà chứa vẫn tiếp tục hành nghề lén nên chi bằng cho công khai. VÌ Quản Trọng có cặp lông mày trắng từ hồi trai trẻ…

Nên được chị em ta gọi là thần Bạch mi.

(Nguyễn Tử Quang – Điển hay tích lạ)

Bẻ hành bẻ tỏi

Thành ngữ ám chỉ người hay bắt bẻ, nói “dai như giẻ rách”.

(Việt Chương – Thành ngữ, tục ngữ, ca dao VN)

Truyện hậu hiện đại (4)

Có thể nói nghệ thuật “tự sự” Việt Nam nằm ở chữ chuyện. Chuyện trở thành yếu tính của truyện, là tinh thể của truyện. Đến độ phần lớn người Việt Nam rất khó hình dung, đừng nói gì là chấp nhận, hiện tượng truyện mà không có chuyện. Theo cách nhìn ấy, đọc truyện thực chất là theo dõi một câu chuyện, theo dõi những mối quan hệ phức tạp giữa các nhân vật với nhau. Với mục đích như thế, người ta sẵn sàng hài lòng nếu có thể nắm bắt được cốt truyện qua lời tóm tắt của ai đó để khỏi phải mất thì giờ đọc cả cuốn truyện.

Xem chuyện là yếu tính của truyện, với phần lớn giới cầm bút Việt Nam, ám ảnh lớn nhất thường là câu chuyện. Người ta ngỡ như có được một câu chuyện hay thì sẽ có ngay được một truyện dài hay truyện ngắn hay. Xem chuyện là yếu tính của truyện, nhiệm vụ của người viết văn chỉ tập trung vào hai điều chính: thể hiện (expression) và tái hiện (representation).

Thể hiện là nhấn mạnh vào khía cạnh tâm lý, nhằm vạch trần những cái tôi thầm kín của nhân vật. Tái hiện là nhấn mạnh vào khía cạnh xã hội, nhằm khắc hoạ tính cách và mối quan hệ giữa các tính cách nhân vật. Cứ thế, các câu chuyện cứ đong đưa giữa hai cực: thể hiện hoặc tái hiện. Theo đó, văn học Việt Nam cứ đong đưa giữa hai xu hướng: lãng mạnhiện thực.

 Loay hoay giữa hai hướng như thế, văn học Việt Nam không những nghèo nàn mà còn lâm vào những nghịch lý rất dễ đi vào ngõ cụt: Ý nghĩa của tác phẩm đã hiện hữu trước khi câu chuyện thực sự ra đời. Ấy chính là cái tôi, những cái ở ngoài câu chuyện,  và đồng thời cũng là những cái mà truyện có nhiệm vụ thể hiện hoặc tái hiện. Với cách nhìn như thế, văn học không thể thoát khỏi số phận minh hoạ, cứ lẽo đẽo đi sau hiện thực và không bao giờ phản ánh được trọn vẹn hiện thực.
(phỏng theo Nguyễn Hưng Quốc – Truyện: Một số vấn đề mỹ học)

Chữ nghĩa làng văn xóm chữ

Theo các nhà ngữ học thì tiếng Việt là thứ tiếng đứng thứ 12 trên thế giới về số đông người nói là 83 triệu. Tiếng Việt vay mượn rất nhiều từ ngữ 58thứ tiếng lớn nhỏ ở  nam Á châu, từ tiếng Thái Lào, Khmer, Miến, Malay, Indonesia cho đến những tiếng nói thiểu số với vài ba trăm ngàn người, tiếng Muờng, tiếng Nùng, tiếng Hmong, tiếng Chàm. Như:

– ta nói đau đớnmà ta không hiểu “đớn”là gì,

“đớn” là tiếng Mon có nghia là đau cái đau của lòng mình.

(Nguyễn Hy Vọng – sưu tầm & tản mạn)

Bó mo thì thiếu, bó chiếu thì vừa

Câu thành ngữ với trong nghệ thuật dụng nhân, người có tài được giao việc lớn, ngược lại người kém tài chỉ nên giao việc nhỏ.

(Việt Chương – Thành ngữ, tục ngữ, ca dao VN)

Chữ nghĩa làng văn xóm chữ

Theo các nhà ngữ học thì tiếng Việt là thứ tiếng đứng thứ 12 trên thế giới về số đông người nói là 83 triệu. Tiếng Việt vay mượn rất nhiều từ ngữ 58thứ tiếng lớn nhỏ ở  nam Á châu, từ tiếng Thái Lào, Khmer, Miến, Malay, Indonesia cho đến những tiếng nói thiểu số với vài ba trăm ngàn người, tiếng Muờng, tiếng Nùng, tiếng Hmong, tiếng Chàm. Như:

– ta nói rộn rịpmà không hiểu “rịp” là gì, 

“rịp” là bận việc, gốc tiếng Lào Thái.

(Nguyễn Hy Vọng – sưu tầm & tản mạn)

Ngộ  Không

(Sưu Tập)

©T.Vấn 2023

Bài Mới Nhất
Search