T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không: Tạp Ghi Sau 40 Năm – Kỳ 2

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi

Quân chính quy Bắc Việt xoay trở để chiếm Ban Mê Thuột trong vòng có hai ngày. Tôi đã chứng kiến câu chuyện thất thủ Ban Mê Thuột với tư cách một quân nhân chiến đấu.

Và sau đây, tôi xin kể những gì đã xảy ra:

– Đêm mùng 9-3, một đoàn xe vận tải chở vũ khí đạn dược tiến đến Ban Mê Thuột. Trước đấy, chúng tôi nghe tin đường Nha Trang-Ban Mê Thuột đã nghẽn, xe cộ không chạy được, tại sao đoàn xe vận tải này đi lọt? Nhưng đoàn xe đến từ Nha Trang làm chúng tôi yên lòng. Chúng tôi cảm thấy dễ chịu vì tưởng quân đội đã đánh bật được chúng, mở lại đường, cho đến khi khám phá đoàn xe này là của địch chứ không phải xe chúng tôi. Đã có địch xâm nhập vào hàng ngũ chúng tôi. Chúng tôi không bao giờ biết nguồn gốc những chiếc xe vận tải này từ đâu. Nhưng đến chiều mùng 9-3, đoàn xe tới Ban Mê Thuật chở đầy võ khí. Rồi có một chuyện gì, vài người biết được, do đó khi tôi dẫn lính ra thì được yêu cầu quay lại.

Cũng đêm đó, bộ chỉ huy sư đoàn ra lệnh cho đại đội tôi vào lúc 3 giờ sáng di chuyển lên Bang Dao, nhưng 2 giờ sáng thì địch bắt đầu pháo, chúng tôi không cách gì nhúc nhích nổi. Vào khoảng 8 cho đến 10 giờ sáng, kho đạn không cách chúng tôi bao xa phát nổ. Cả một nghĩa địa và đồn kiểm lâm gần đấy biến mất, trống trơn. Chúng tôi nhận tin địch có chiến xa T54 đang tiến đến tỉnh. Tiểu đội chúng tôi vừa ló ra thì đụng ngay nhóm địch gào thét inh ỏi. Chúng nã đạn B40 vào chúng tôi.

Lúc ấy, nghe động cơ ầm ĩ, chúng tôi cứ tưởng chiến xa T54, nhưng sau mới biết là không phải. Thật ra đấy là tiếng động cơ của những chiếc xe be kéo gỗ trong rừng. Địch đã mưu mô đưa xe be vào tỉnh, chúng đặt xe một chỗ, rồi cho nổ máy. Tiếng động cơ xe be rất giống tiếng động cơ T54 làm lính VNCH mất tinh thần. Chúng tôi chỉ là một đơn vị nhỏ. Tinh trạng hỗn loạn xảy ra chính vì lầm tưởng quân Bắc Việt đã mang nhiều xe tăng tiến đến.

(…)

Góp nhặt…ghi chép…

Tổng thống Thiệu ra lệnh cho tướng Phú rút bỏ Pleiku và Kontum…Tướng Phú sẽ cho tái phối trí bộ chỉ huy, nhưng tướng Phú sẽ “không” rút quân khỏi Pleiku và Kontum.

Theo cuốn The Decent Interval của tác giả Frank Snepp (the CIA’s Chief Strategy Analyst VN)

có đoạn ghi:
(…) Ở Cam Ranh, Phú cố tình trình bày với Thiệu:

Lực lượng địch gồm 5 sư đoàn nay đang dàn từ Pleiku đến Ban Mê Thuột. Mọi đường đi ra bờ biển đều bị cắt. Với lực lượng ông ta có trong tay, ông chỉ giữ được Tây Nguyên trong một, hai tháng với điều kiện được không quân yểm trợ tối đa, tiếp tế bằng không vận đầy đủ nhu cầu về vật liệu, vũ khí, đạn dược, bổ sung quân số đủ bù số thiệt hại nặng vừa qua.
(Đào Văn)

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi

Địch chiếm toàn tỉnh trong vòng có hai ngày. Sau đó, tại hậu cứ chúng tôi, khu phi trường Phụng Dực cách Ban Mê Thuột 10 cây số, nơi đóng căn cứ của Trung đoàn 53 và Trung đoàn 54, chúng tôi đã chiến đấu ròng rã gần mười ngày. Tỉ số tổn thất của địch nặng hơn chúng tôi. Tỉ số thương vong của địch là bảy so với chúng tôi là hai. Chúng tôi chiến đấu đến khi hết đạn, phải gọi trực thăng tiếp tế. Họ thả thùng đạn xuống gần phía Bắc quân hơn phía chúng tôi, chúng tôi không thể lấy đạn được. Vì thế chúng tôi đành chiến đấu cho đến viên đạn cuối cùng, rồi hầu hết chúng tôi đều tử trận. Sau, chỉ còn trung đoàn trưởng là trung tá Ân và hai quân nhân sống sót trong cuộc tàn sát này. Tôi là một trong những người sống sót ấy.

Sau đó, địch truy lùng các binh sĩ VNCH. Chúng bắt được tôi trong một thời gian ngắn. Tôi không quen đường trong thị xã Ban Mê Thuột. Mặc dầu đã ở vùng này khá lâu nhưng ít khi tôi ra tỉnh. Tôi là một người lính chiến, hầu hết thì giờ dành cho các cuộc hành quân, chiến dịch.

Việc thất thủ Ban Mê Thuột là việc không tránh khỏi. Ở đây chỉ có mỗi một tiểu đoàn phòng vệ tỉnh, tức là bốn đại đội, mà một đại đội đã được đưa đi chỗ khác, nên chỉ có ba đại đội ở nơi này. Cũng có một số quân nhân nữa, nhưng họ đều là lính văn phòng. Nói rằng Ban Mê Thuột mất trong hai ngày là không hoàn toàn đúng. Chính ra Ban Mê Thuột đã mất trong vòng một ngày. Tuy nhiên, thưa ông, ông (Larry Engelmann) phải biết đã có một trận đánh lớn diễn ra cách Ban Mê Thuột mười cây số, tại phi trường Phụng Dực. Chính nơi đây chúng tôi đã thực sự chiến đấu mãnh liệt với địch quân, chúng tôi đã cầm chân chúng suốt một tuần lễ.

(…)

Góp nhặt…ghi chép…

Khi nghe tin rút bỏ Pleiku-Kontum, tác giả Pierre Darcourt (1) có đến Bộ tổng tham mưu gặp đại tá Khôi và đi Mỹ Tho gặp Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam (tư lệnh Vùng 4) để tìm hiểu về vụ triệt thóai Quân khu II, và tường thuật lại trong cuốn Vietnam, Qu’as Tu Fait De Tes Fils.

Tướng Nam: (…) Ngày 14-3-1975, tổng thống gọi ông (tướng Phú) về Cam Ranh và cho lệnh ông ta phải lui quân. Bây giờ chúng tôi biết được là cuộc bàn cãi rất đầy sóng gió. tướng Phú đã từ chối không thi hành lệnh. Ông ta đã nói thẳng với tổng thống Thiệu: Tôi đã đánh giặc 23 năm, và tôi chưa bao giờ biết lui quân. Hãy tìm người khác để chỉ huy cuộc chạy trốn này.

Nói xong ông vứt khẩu súng lục của ông lên bàn và ra khỏi phòng họp, đóng sầm cửa lại. Và sau đó ông bay về Nha Trang, khai bệnh vào nằm bệnh viện.

Chính là ông Thiệu (là người ra lệnh triệt thoái). Sau khi tướng Phú đã từ chối “không” thi hành lệnh, ông Thiệu đã báo động cho đại tá Tất, tư lệnh phó của ông Phú, một sĩ quan biệt động quân và giao cho ông nầy chức vụ tư lệnh vùng. (…)

 (Nguyễn Đại Phượng)

(1) Xem “Ngọn đồi cuối cùng” của Pierre Darcourt ở tiết mục 12 ngày trận chiến Xuân Lộc.

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi

Sau đấy chúng tôi đã có một cố gắng tái chiếm Ban Mê Thuột. Ông nhớ chứ, tôi thuộc Trung đoàn 53 và trong trận đánh đã kể, hầu hết đã hy sinh. Việc cố tái chiếm Ban Mê Thuột là do Trung đoàn 44, bấy giờ đóng ở Pleiku. Tại khu trung tâm. Tại nhiều nơi khác. Dẫu chỉ là những trận nhỏ, nhưng vẫn là những trận đánh. Những người chiến đấu đã chiến đấu với tất cả nhiệt tình, họ không phải đánh chỉ vì phải đánh. Họ mãnh liệt đấu tranh với Bắc quân.

Vào ngày 10-3 khi địch quân đang tấn công chúng tôi, lúc Ban Mê Thuột chưa mất, lúc những trận đánh còn đang diễn ra, thì khi mở máy truyền tin, chúng tôi đã nghe một cuộc điện đàm giữa bộ chỉ huy sư đoàn với tướng Phú ở Pleiku. Tướng Phú bay trên trực thăng nói chuyện với tư lệnh phó sư đoàn là đại tá Quang. Tôi có một người bạn, là đại úy truyền tin của trung đoàn cũng đã mở cùng một tần số và cũng nghe được những gì tôi đã nghe.

Tướng Phú nói: Được rồi! Với bất cứ giá nào ông cũng phải giữ Ban Mê Thuột. Tôi sẽ cho ông bất cứ cái gì ông cần. Tôi sẽ tiếp vận vũ khí, binh sĩ nếu ông muốn. Nhưng phải giữ Ban Mê Thuột bằng mọi giá. Đó là những gì rõ ràng tôi đã nghe.

Đại tá Quang bảo chúng tôi đủ sức tiếp tục chiến đấu. Nhưng thử nhìn thực tế xem. Chúng tôi chỉ có hai tiểu đoàn, một tiểu đoàn đã đưa đi Phước An, còn lại một ở Ban Mê Thuột, trong tiểu đoàn ấy, một đại đội đã bị tiêu diệt ngày 10-3.

(Nguyễn Trường Toại & Larry Engelmann)

– : Larry Engelmann là đại uý văn phòng tùy viên quân sự của toà đại sứ Mỹ, sau 75 ông là giáo sư khoa sử của đại học San Jose, California. Ông phỏng vấn Thiếu úy Nguyễn Trường Toại thuộc Sư đoàn 23 quân lực VNCH. Thiếu úy Nguyễn Trường Toại là một trong 300 người được Larry Engelmann phỏng vấn trong 5 năm qua để có tác phẩm Tears Before The Rain.

– : Tựa đề nguyên bản của tác giả “Không ai sống sót” được đổi thành “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” dựa vào bút ký “Những anh hùng vô danh đồn Dak Seang” của tác giả Trường Sơn Lê Xuân Nhị viết về trận đánh âm thầm để rồi không một ai trở về của anh em địa phương quân tại một một tiền đồn Dak Seang xó núi hẻo lánh ở Pleiku.

Đánh Ban Mê Thuột hay Pleiku?

Về cuộc tiến công Ban Mê Thuột chúng tôi đã làm cho quân đội miền Nam ngạc nhiên nhưng mặt khác, chính họ cũng làm chúng tôi ngạc nhiên vì họ tan rã quá mau, chúng tôi không lường trước sự việc xảy ra như vậy. Chúng tôi cứ tưởng sau cuộc tiến công Ban Mê thuột, quân đội miền Nam sẽ tái lập phòng tuyến phản công. Chúng tôi dự liệu một trận mãnh liệt lâu dài hơn với quân đội miền Nam ở vùng chung quanh Ban Mê Thuột. Nhưng ngay cả trong trí tưởng tượng, chúng tôi cũng không hề nghĩ đến việc Thiệu đã phản ứng lại cuộc tiến công với một cách bất ngờ như thế.

Trong thực tế, phản ứng của Thiệu đã tạo một câu hỏi lớn trong trí óc chúng tôi, làm chúng tôi tự hỏi phải chăng đây là một cái bẫy, một chiến thuật khôn khéo để nhử chúng tôi. Không thể nào chúng tôi tin nổi những chuyện ông ta đã làm. Chính vì hành vi đó của ông Thiệu, chúng tôi nghĩ chúng tôi sẽ phải đương đầu một chiến thuật phòng thủ cực kỳ sáng tạo mới mẻ, do đó trước hết các cấp chỉ huy của chúng tôi phải tiến lên hết sức cẩn thận, xem chừng đừng rơi vào bẫy. Trong mấy ngày đầu, chúng tôi đinh ninh quân đội miền Nam đã hoạch định một vài ngạc nhiên lớn dành cho chúng tôi. Nhưng đến khi Thiệu rút quân ở Pleiku, Kontum, đột nhiên chúng tôi nhận thức được là chẳng có cạm bẫy, chẳng kế hoạch gì, miền Nam đã bỏ cuộc, không chiến đấu nữa. Lúc ấy là lúc chúng tôi quyết định đuổi theo càng nhanh càng tốt.

(Trần Công Mẫn)

      Ngồi ở quán nhậu kể chuyện súng đạn

Chị em du kích giỏi thay
Bắn máy bay Mỹ rơi ngay cửa mình

 Đánh Ban Mê Thuột hay Pleiku?

Vào Nam được ít lâu tướng Dũng và phó của ông, Tướng Hoàng Minh Thảo triệu tập các chỉ huy đơn vị để so sánh lực lượng. Họ kết luận rằng lực lượng đôi bên trên cao nguyên gần như ngang nhau, nhưng quân đội Bắc Việt Nam không có vùng đất cụ thể phải bảo vệ, có thể di chuyển và tấn công vào bất cứ hướng nào để làm chủ tình hình. Đó là chìa khóa để tấn công Ban Mê Thuột, chưa kể đến mưu lược và thời cơ bất ngờ. Họ vẫn tiếp tục làm cho tướng Phú tưởng lầm rằng cuộc tấn công chủ đích nhằm vào phía bắc cao nguyên nên đã ngăn cản được tướng Phú cho quân về giữ Ban Mê Thuột. Tướng Dũng nói với bộ tham mưu chiến dịch này được chia làm nhiều giai đoạn. Mới đầu, chặn tất cả các đường đi lên cao nguyên. Ông đã đưa ra một kế hoạch gọi là “hoa sen nở”: Đánh thẳng ngay vào trung tâm thị xã, nhanh chóng diệt đầu não chỉ huy của địch rồi mới phát triển trở ra tiêu diệt địch bên ngoài thị xã.

Nhờ có nhiều nhân viên tình báo và bắt được thông điệp gửi ra-đi-ô của Phú, tướng Dũng hiểu ngay rằng Phú gặp nhiều khó khăn trong việc chống đỡ với quân của ông. Không những bộ chỉ huy Nam Việt Nam mất dấu vết Sư đoàn 320 Bắc Việt Nam mà còn chưa tìm thấy Sư đoàn 10 đúng ra phải tiến về phía Kontum và Pleiku. Trên thực tế, sư đoàn này đang hành quân xuống phía nam, hỗ trợ cho sư đoàn 320 ở Ban Mê Thuột. Nhưng Phú không hề biết. Tướng Dũng quyết định làm tăng thêm mối do dự của ông ta. Ông ra lệnh cho những đơn vị còn lại ở Pleiku và Kontum mở những cuộc tấn công trong những vùng mà thường Sư đoàn 10 vẫn hành quân, để Phú tiếp tục đinh ninh rằng sư đoàn này vẫn còn ở đó.

(Decent Interval – Frank Snepp)

Góp nhặt…ghi chép…

 Tướng Phú, tư lệnh Quân khu II tỏ ra bối rối trước những phát hiện ấy. Vì ông ta không có đủ lực lượng ở Tây Nguyên để có thể bảo vệ cùng một lúc 2 mục tiêu. Sư đoàn 23, sư đoàn thiện chiến của Nam Việt Nam bị phân tán quá mỏng. Hai trung đoàn đóng rải rác ở Kontum và Pleiku, trung đoàn thứ ba bị chia cắt trên mặt trận Ban Mê Thuột-Quảng Đức. Để đối phó với cuộc tấn công vào Ban Mê Thuột, tướng Phú cũng biết rằng phải gọi 2 trung đoàn về, có khi hơn thế, tùy theo lực lượng của địch.

Nhưng vấn đề đối với ông ta là nếu bỏ việc bảo vệ Kontum và Peiku, việc đó ông ta không dám làm. Hai tỉnh này rất quan trọng về mặt chiến lược. Không những nằm trên những đường chính theo đó, quân Bắc Việt xâm nhập từ Lào và Campuchia về mà hai tỉnh đó còn là điểm tựa nhảy ra bờ biển. Con đường chính đông-tây của Quân khu II, là con đường số 19, nối Pleiku với Qui Nhơn. Phú giải thích: Không, tôi không thế liều như thế được. Phải để quân đóng yên tại chỗ. giữ đại bộ phận trong đó có hầu hết Sư đoàn 23, tập trung trên cao nguyên phía bắc. Để bảo vệ quyết định của mình, Phú nêu ra những tin tức thu được qua đài phát thanh của Bắc quân. Những tin ấy có vẻ chỉ rằng bộ chỉ huy của Sư đoàn 320 vẫn đóng ở căn cứ cũ của họ, Ở Đức Cơ, phía tây Pleiku. Nếu đúng như thế thì những tin tức tình báo làm cho người ta lầm lẫn và Ban Mê Thuột không phải là mục tiêu của Sư đoàn 320.

Để che giấu mục tiêu tấn công của họ trên cao nguyên, quân đội Bắc Việt tổ chức một sở chỉ huy giả ở Đức Cơ và từ đó đánh điện đi các nơi để làm cho quân đội Nam Việt Nam tưởng lầm rằng Sư đoàn 320 vẫn ở đấy. Mánh khóe này đã đánh lừa được cả chúng tôi. Nó gây ra hậu quả tai hại cho chế độ Sài Gòn.

 (Decent Interval – Frank Snepp)

 Quân sử ngoại truyện

Sau Hiệp định Paris, có việc rút giảm tiếp vận vũ khí từ các nước xã hội chủ nghiã. Nhưng Trung Quốc lại khác, vì trước cả hiệp định Paris, Trung Quốc đã ký hiệp định Thượng Hải (1) với Mỹ. Dựa trên sự công bố hiệp định này thì rõ ràng Trung Quốc không hỗ trợ chúng tôi và không thực sự muốn chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Trung Quốc không thực sự hài lòng vui vẻ gì về việc cuối cùng trận chiến đã được giải quyết, họ không hài lòng vui vẻ gì về cuộc Đại thắng mùa xuân của chúng tôi.

(Trần Công Mẫn)

(1) Theo như thỏa thuận Mao Trạch Đông-Nixon năm 1972, Mao Trạch Đông muốn miền Nam trung lập. (Xem “Những ngày cuối cùng của Vùng 1 và miền Nam” của Duy Lam ở khúc sau)

Góp nhặt…ghi chép…

Sau năm 1970, Trung Quốc chỉ còn giúp đỡ Bắc Việt một cách thụ động. Xích lại gần hơn với Mỹ, không lo ngại nhiều về sự đe doạ ở biên giới phía nam, Trung Quốc không muốn có một nước Việt Nam, dù cộng sản, được thống nhất. Chính Mao Trạch đông đã khuyên Phạm Văn Đồng nên tiếp tục cuộc chiến tranh du kích. Không nên tổng tấn công xâm chiếm hết miền Nam, dù lúc đó Bắc Việt đang thắng thế.

Mao nói: Cái chổi của chúng tôi không quét tới Đài Loan thì cái chổi của các đồng chí cũng không nên quét tới Sài Gòn.

(Chiến tranh Đông Dương III – Hoàng Dung)

Thâm u bí sử

Theo Đại tướng Văn Tiến Dũng lúc đầu cũng không biết đánh Buôn Mê Thuột hay Pleiku trước.

Rồi ông nhất trí: Đánh dọ dẫm Đức Lập trước, tuỳ theo tình hình biến chuyển đánh Buôn Mê Thuột sau. Sau đó vì tình hình biến chuyển vì Đức Lập không được tiếp viện, Mỹ không can thiệp nên ngay ngày hôm sau, ông cho đánh Buôn Mê Thuột ngay. (1)

Trong khi ấy chiến thuật của ông có tên là “hoa sen nở”: Đánh thẳng ngay vào trung tâm thị xã, rồi mới phát triển trở ra tiêu diệt địch bên ngoài thị xã. Vậy mà ông đánh…Đức Lập. (2)

Cũng như với chiến thuật “hoa sen nở” thì phải đánh thẳng vào Sài Gòn, ông lại đánh Xuân Lộc. Sau này qua Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chiến thuật “hoa sen nở” là của Thượng tướng Hoàng Minh Thảo điều nghiên chứ không phải là của Đại tướng Văn Tiến Dũng.

(Trần Công Mẫn)

 Trần Công Mẫn, quân hàm trung tướng, sau ngồi ở Hà Nội viết “quân sử” về cuộc chiến tranh Việt Nam (1945-1975). Nhất là nhận định về Đại thắng mùa xuân của Văn Tiến Dũng.

 (1) Ngày 9-3, “Tuấn” (Văn Tiến Dũng) gửi một mật điện được mã hoá cho “Chiến” (Võ Nguyên Giáp) ở ngoài Hà Nội nói rằng: “Ngày 10-3, chúng tôi sẽ tấn công Buôn Mê Thuột”.

(trích lục lại trang 9 với Bên lề trận chiến: Ngày 9-3-1975, Bắc quân đánh Đức Lập để thăm dò. Một ngày sau Bắc quân đánh phi trường Phụng Dực…).

Ngày 11-3, “Tuấn” lại gửi mật điện cho đồng chí “Chiến”: “Chúng tôi đã chiếm Buôn Mê Thuột Chúng tôi đang tiến tới quét sạch các mục tiêu xung quanh”.

Ngày hôm sau 12-3, “Chiến” đáp lại bằng chỉ thị của bộ Chính trị: “Đồng chí Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và tôi (Võ Nguyên Giáp) nhất trí rằng không cần quét sạch các mục tiêu xung quanh Buôn Mê Thuột. Chúng ta phải nhanh chóng hướng về Pleiku”. (Perfect Spy – Larry Berman)

(2) Nhiều đơn vị quân đội Bắc Việt đánh nhiều vị trí dọc đường số 19 giữa Pleiku và bờ biển. Ngày 4-3, để hoàn thành giai đoạn đầu cuộc tấn công của ông Dũng, là việc đánh cắt đường số 14 giữa Pleiku và Ban Mê Thuột. Nhưng ông Dũng muốn hoãn lại càng lâu càng tốt để không làm lộ lực lượng nơi đóng quân. Vì một đơn vị quá sốt ruột của Sư đoàn 320 đã chặn đánh một đoàn xe VNCH trên đường ấy, thế là làm lộ nơi đóng quân. (Decent Interval)

 Đánh Ban Mê Thuột hay Pleiku?

Trong khi đó, Sư đoàn 316 của Bắc Việt Nam đến phía tây Ban Mê Thuột, hỗ trợ cho trận đánh. Cũng như tướng Dũng, sư đoàn này từ Bắc vào hành quân liền trong ba tuần, không dùng điện thoại để liên lạc và ra-đi-ô. Cuối tháng 2, ba sư đoàn Bắc Việt Nam sẵn sàng tấn công thị xã Ban Mê Thuột. Như thế tướng Dũng có lợi thế: Năm chọi một. Cùng lúc ấy, sư đoàn khác, Sư đoàn 968 từ nam Lào tới, quấy rối vùng giữa Kontum và Pleiku.

Ở sứ quán Mỹ tai Sài Gòn, chúng tôi không hề biết (1) (2) tướng Dũng đang ở miền Nam Việt Nam. Lại cũng không biết việc ông đặt “sở chỉ huy” ở phía tây nam Ban Mê Thuột, đang chuẩn bị tấn công thị xã Ban Mê Thuột. Quân tiếp viện Bắc Việt kéo vào vùng này không hề ai biết.

Nếu đúng là họ chuẩn bị mở một chiến dịch mùa khô mới thì không một ai trong chúng tôi biết rõ mục tiêu chính của họ ở đâu?.

 (Decent Interval – Frank Snepp)

(1) Ngày 5-2-1975, tướng Văn Tiến Dũng từ phi trường Gia Lâm đáp máy bay xuống Ðồng Hới rồi vào Quảng Trị, tới sông Bến Hải, đi xuồng máy tới bộ chỉ huy chiến dịch tại phía tây Gio Linh để điều động toàn bộ chiến dịch. (Komori Yoshihisa)

(2) 10 giờ 30 sáng ngày 5-2-1975, chiếc máy bay Antonov AN24 chở tướng Văn Tiến Dũng từ Hà Nội bay tới Đồng Hới. Tại Đồng Hới, tướng Dũng được tướng Thiếu tướng Đồng Sĩ Nguyên mang xe của chỉ huy Sư đoàn 559 ra đón. Sau đó tướng Văn Tiến Dũng được chở đến bờ sông Bến Hải xuống một chiếc thuyền máy. Khoảng buổi chiều hôm đó, họ đã tới sở chỉ huy của lực lượng Su đoàn 559 ở Gio Linh. (Perfect Spy – Larry Berman)

Thâm u bí sử

Trước khi khởi sự Chiến dịch 275, tướng Dũng đã chỉ vẽ nhiều lần cho tư lệnh Sư đoàn 320 về những con đường quân lực VNCH không thể nào dùng nó (liên tỉnh lộ 7) như là lối thoát sau cùng. Tuy nhiên, Hà Nội sau khi nghe tin đài BBC nói dân chúng đang bỏ  Pleiku, các chuyến bay từ Pleiku về Nha Trang tấp nập…Hà Nội đánh tín hiệu ngày 16-3 báo cho biết bộ tư lệnh Quân đoàn II đã di tản về Nha Trang, Khi ấy tướng Dũng mới bắt  đầu nghĩ lại xem có con đường nào khác cho địch quân rút được không. Ðến 4 giờ chiều cùng ngày, công điện của Hà Nội báo cho biết (tình báo Bắc Việt) một đoàn xe  dài từ Pleiku tiến về phía nam xuống Ban Mê Thuột. Tin này làm cho tướng Dũng bối rối. Phải chăng quân lực VNCH phản công?

Tình báo (nội địa) của tướng Dũng cho ông ta câu trả lời ngay sau đó, đúng như tình hình diễn biến qua đài BBC. Ðến lúc này bộ chỉ huy của tướng Dũng mới giở bản đồ ra, dò tìm địch quân. Kiểm điểm lại, tướng Dũng và tướng Kim Tuấn, tư lệnh Sư đoàn 320, mới biết bị tướng Phú lừa ngay trước mắt. Tướng Dũng khiển  trách tướng Kim Tuấn, đồng thời phối trí các đơn vị di chuyển về liên tỉnh lộ 7 để tiêu diệt đoàn công voa di tản về Tuy Hòa.

(Cuộc di tản đầy máu và nước mắt – Trịnh Tiếu)

 Quân sử ngoại truyện

Trong thời điểm đó, căn cứ trên những tin tức thu được từ nhiều nguồn cùng với nhãn quan quân sự sắc bén của một vị tư lệnh tài ba, tướng Giáp đã dự kiến khả năng địch rút lui chiến lược khỏi Tây Nguyên. Trong bức điện gửi tướng Văn Tiến Dũng ngày 13-3, tướng Giáp đã nhắc nhở tướng Dũng: Trường hợp địch bị mất thị xã Buôn Ma Thuột thì cũng nên nghĩ đến khả năng chúng buộc phải thực hiện rút lui chiến lược (Pleiku-Kon tum).

Hôm sau, nhận được tin địch đốt kho vũ khí ở Kon Tum, tướng Giáp nói với tướng Lê Trọng Tấn: Địch rút bỏ Pleiku-Kon Tum đã rõ rệt. Chúng sẽ đưa lực lượng xuống co cụm giữ đồng bằng khu 5, Huế và Đà Nẵng. Anh điện ngay cho anh Dũng biết.                                                                                                          

– : Tổng hợp & trích lục từ Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng của Võ Nguyên Giáp.

 Đánh Ban Mê Thuột hay Pleiku?

Cuối tuần đầu tháng 3, quân đội Bắc Việt mở rộng việc tuyển và rèn luyện quân sự. Trong sáu tháng gần đây, số quân xâm nhập miền Nam lên tới hơn 63.000 người. Tăng gấp hai lần so với thời kỳ 1973-1974. Cái mà chúng tôi chắc không biết, là ngoài 63.000 quân, còn Sư đoàn 316 đã vào miền Nam để tham gia cuộc tấn công thị xã Ban Mê Thuột.

Quân đội Bắc Việt mở đầu cuộc tấn công Ban Mê Thuột trên cao nguyên vào tháng 3, bằng việc đánh chiếm quận Đức Lập, một đồn nằm ở giữa biên giới Campuchia và thị xã Ban Mê Thuột. Nhiều đơn vị quân đội Bắc Việt đánh nhiều vị trí dọc đường số 19 giữa Pleiku và bờ biển, cắt hẳn con đường này. Ngày 4-3, để hoàn thành giai đoạn đầu cuộc tấn công của ông Dũng, là việc đánh cắt đường số 14 giữa Pleiku và Ban Mê Thuột. Nhưng ông Dũng muốn hoãn lại càng lâu càng tốt để không làm lộ lực lượng nơi đóng quân. Vì một đơn vị quá sốt ruột của Sư đoàn 320 đã chặn đánh một đoàn xe trên đường ấy, thế là làm lộ nơi đóng quân.

Ở bộ chỉ huy tướng Phú, tại Pleiku, trưởng ban tình báo nói với Phú và nhận định rằng Ban Mê Thuột sắp bị tấn công. Phú vẫn nghi ngờ, nhưng sau ông cũng quyết định gửi một trung đoàn đến Buôn Hồ, cách thị xã 10 cây số để chặn một trung đoàn quân Bắc Việt đã đóng ở đó. Tình hình này làm ông Dũng xét lại kế hoạch. Nếu để đơn vị Nam Việt Nam mới đến mở rộng cuộc đánh thăm dò thì ông mất yếu tố bất ngờ. Như thế phải tấn công Ban Mê Thuộ ngay.

Mặc dù thiếu tin tình báo vấn đề quan trọng, tôi cũng đã dự đoán được những việc Bắc Việt sẽ làm trong những tuần tới. Có một điểm quan trọng nhưng tôi không mò ra: Tôi không tiên liệu được họ sẽ đánh vào nơi nào đầu tiên? Tuy có chú ý đến những cuộc chuyển quân không bình thường ở phía tây và phía bắc Ban Mê Thuột nhưng tôi nghĩ không nên vội kết luận một cách bi quan. Đáng lẽ nói là sẽ có cuộc tấn công vào thị xã, tôi dự đoán rằng họ có ý định bao vây nó và cắt đứt mọi đường giao thông trong vùng. Đó là một sai lầm lớn do sự dốt nát của tôi.

 (Decent Interval – Frank Snepp)

 Tỉnh lộ 7B và cầu sông Ba

 Tại cuộc họp Cam Ranh, khi nghe Thiếu tướng Phạm Văn Phú chọn tỉnh lộ 7B làm trục lộ rút quân, Đại tướng Cao Văn Viên không đồng ý, vị tổng tham mưu trưởng quân lực VNCH cho rằng đưa một quân đoàn di chuyển trên một đoạn đường dài hơn 250 cây số mà không nắm rõ tình hình an ninh lộ trình là “quá sức liều lĩnh”, và đã nhắc nhở thiếu tướng Phú về những khó khăn và nguy hiểm sắp đến, cũng như biện pháp an ninh cần chuẩn bị.

Đại tướng Viên cũng đã đề cập đến sự thất bại của quân Pháp khi muốn rút quân từ Lạng Sơn về đồng bằng trong năm 1947. Ông cũng nhắc đến hai cuộc chuyển quân của hai binh đoàn Pháp trước năm 1954, theo đó một binh đoàn từ Thất Khê lên hướng bắc và một binh đoàn từ Cao Bằng di chuyển về hướng nam, tất cả đều bị đánh tan nát tại chân núi xung quanh Đông Khê, dọc theo Quốc lộ Thuộc địa số 4. Về địa thế và con đường mà thiếu tướng Phú chọn để di chuyển Quân đoàn II thì vào tháng 6-1954, Lực lượng Cơ động 100 nổi tiếng của quân đội Liên hiệp Pháp tại Đông Dương đã bị thảm sát trên Quốc lộ 19 gần An Khê và số sống sót còn lại cũng bị tiêu diệt tại Đèo Chu-Drek trên Quốc lộ 14. Theo đại tướng Viên, đó là “những bài học máu xương và thảm khốc nhất mà bất cứ vị chỉ huy nào cũng phải biết rõ vì địa thế hiểm trở của vùng cao nguyên là vậy”.

Tuy nhiên cuối cùng đại tướng Viên cũng không tìm ra được một trục lộ nào khác nên kế hoạch của thiếu tướng Phú đã được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chấp thuận.

(SQTB K10B/72)

 Bên lề trận chiến

Sau này tổng thống Thiệu thắc mắc với tôi: Tại sao công binh không làm xong cái cầu nổi.

Đại tướng Viên cho rằng: Sư đoàn 320 sẽ không truy kích kịp nếu cầu được thiết lập đúng lúc. Vì cầu không làm xong nên 3 ngày sau mới rời được Phú Bổn.

(Nguyễn Tiến Hưng)

Ngày thứ 5

Di tản cao nguyên : 14-3-1975
Sáng ngày 14-3, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cùng Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang đến Cam Ranh để họp với Thiếu tướng Phạm Văn Phú. Tại cuộc họp kéo dài gần 2 giờ, tổng thống Thiệu ra lệnh cho tướng Phú phải rút toàn bộ lực lượng Quân đoàn II tại hai tỉnh Pleiku và Kontum về khu vực duyên hải miền Trung (Phú

Yên và Khánh Hòa) để tái phối trí lực lượng phản công chiếm lại Ban Mê Thuột.

Khi được tổng thống Thiệu hỏi nên rút quân theo trục lộ nào, Tướng Phú đã trình bày rằng các quốc lộ chính nối trong khu vực cao nguyên đã bị Bắc quân cắt đứt, chỉ còn liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ Quốc lộ 14 rẽ ra phía nam cách thị xã Pleiku chừng 32 km, chạy theo hướng đông nam, xuyên qua Hậu Bổn về Tuy Hòa (tỉnh lỵ Phú Yên).

(SQTB K10B/72)

 Quân sử ngoại truyện

Tất cả vì Lê Duẩn trước kia theo Trung Quốc nên kết tội “xét lại” tướng Võ Nguyên Giáp. Trong khi tướng Võ Nguyên Giáp có “vấn đề” với Trung Quốc. Sau này Lê Duẩn theo Nga lại gần gũi với tướng Giáp. Vì vậy trở về Chiến tranh Đông Dương I.

Trong trận Điện Biên Phủ, Võ Nguyên Giáp chủ trương “Chắc thắng mới đánh – Không thắng không đánh” nên có xung đột với Đoàn trưởng đoàn cố vấn quân sự Vi Quốc Thanh với thí quân đánh biển người như ở Cao Ly. Trận đánh đầu tiên, Võ Nguyên Giáp tự ý quyết định điều trung đoàn 102 của đại đoàn 308 tấn công đồi C1, bị hoả pháo địch sát thương nặng. Chỉ huy “quả đoán” của Võ Nguyên Giáp không ngờ bị vấp váp. Võ Nguyên Giáp bị Vi Quốc Thanh chú trọng phê bình nghiêm khắc biểu hiện có hành vi vô kỷ luật, báo cáo láo tình hình, v…v…

Với quyết định thay đổi kế hoạch, Võ Nguyên Giáp đã lấy trách nhiệm của “tướng ngoài mặt trận” là quyết định cá nhân ngày 25-1-1954. Các nhà sử học Trung Quốc thừa nhận lúc đó, việc liên lạc giữa bộ chỉ huy ở Điện Biên Phủ với Bộ chính trị không dùng vô tuyến điện, mà dùng ngựa, đi về phải nhiều ngày. Đến ngày 27-1-1954, Vi Quốc Thanh mới nhận được tin tức từ Bộ chính trị, tức là 2 ngày sau khi Võ Nguyên Giáp ra lệnh đổi kế hoạch “kéo pháo ra”.

Trước đó, đang lúc tiền phương tiến hành chuẩn bị tác chiến khẩn trương, ngày 23-11-1953,  Tổng tham mưu trưởng QĐNDVN Văn Tiến Dũng cử cục trưởng tác chiến Hà Văn Lâu gặp cố vấn Trung Quốc bàn vấn đề…“tướng ngoài mặt trận Võ Nguyên Giáp” có…vấn đề.

(Tổng hợp & trích lục từ hồi ký của của La Quý Ba, trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc)

Quân sử ngoại truyện

Năm 1946, Trường Chinh, đứng thứ hai trong ban lãnh đạo sau Hồ Chí Minh, đã thất bại trong việc ngăn không cho Võ Nguyên Giáp được phong cấp đại tướng.

Vì Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp bất đồng về phạm vi và mức độ mà các cố vấn quân sự Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến chiến lược chiến trường của Việt Nam, vì các cố vấn trên quyền của Võ Nguyên Giáp, họ được đơn phương bổ nhiệm các trợ lý quan trọng.

Quân sử ngoại truyện

Theo tướng Giáp: Năm 74, khi tình hình “nước sôi lửa bỏng”, thì tướng Giáp bị đau bụng dữ dội rồi ngất đi đột ngột. Ông kể: Khi tỉnh lại tôi thấy mình đang nằm trong máy bay cấp cứu sang Liên Xô chữa bệnh. Tháng 4-74, Nga Xô bố trí đưa ông trở về.

Theo tướng Giáp: Mùa hè năm 74, khi cùng đi nghỉ ở Đồ Sơn, Lê Duẩn bàn với ông một loạt các vấn đề chiến lược vì thấy ông đã hồi phục sức khoẻ sau khi mổ sỏi mật ở Liên Xô.

Lê Duẩn nói với ông: Kế hoạch giải phóng rất khẩn trương. Anh nắm lấy mà làm.

Tướng Giáp vừa an dưỡng vừa hoàn thành dự thảo lần thứ 6 “Kế hoạch chiến lược giành thắng lợi ở miền Nam”. Trước đó vì tướng Giáp có “quan hệ” với đại sứ Nga Shcherbakov, một “sĩ quan tình báo” của Liên Xô. Lê Đức Thọ đề nghị: Khai trừ khỏi Bộ chính trị. Lê Duẩn không đồng ý, Lê Duẩn nói rằng chúng ta đang cần đến sự giúp đỡ của Liên Xô trong sự nghiệp giải phóng miền Nam. Giáp là người của Liên Xô, nếu kỷ luật Giáp sẽ động đến Liên Xô ảnh hưởng không nhỏ đến sự viện trợ của Liên Xô.

(Quyền bính – Huy Đức)

-: Sau này Lê Đức Thọ muốn…“cắt đầu” tướng Giáp.

Xem Tang thương ngẫu lục ở tiết mục Ngày thứ 16 – Đà Nẵng di tản: 25-3-1975.

 Quân sử ngoại truyện

Tất cả chúng ta đều có thắc mắc giống nhau:

Kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điên Biên Phủ mà không nhắc đến tên đồng chí Võ Nguyên Giáp. Lịch sử là lịch sử, nếu thiếu chân thật, sẽ không còn là lịch sử. Điện Biên Phủ thắng lợi là nhờ cố vấn Trung Quốc. Nhưng “họ” không biết rằng, nếu nghe lời cố vấn Trung Quốc tiến công theo kiểu “biển người”, thất bại là chắc chắn và cuộc kháng chiến đã phải lùi lại 10 năm. “Họ” còn nói, tổng tấn công năm 1975, đồng chí Lê Duẩn là Bí thư quân ủy trung ương chứ không phải ông Giáp. Cuốn Đại thắng mùa xuân của Văn Tiến Dũng nghe nói độc giả phản ứng, phải sửa tới 30 chỗ. Lịch sử rất công bằng. Cho nên, “thật công bằng” đi liền với “thật công tâm”.

(Hồi ký kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm – Trần Văn Trà)

 Bất kiến quan tài bất xuất nhân lệ

 Năm 1975, ngày 15–3, lúc 3 giờ sáng, Tiểu đoàn 231 ĐPQ từ Ninh Thuận lên đến chi khu Khánh Dương. Đây là tiểu đoàn thứ 5 được thảy vào trận địa Khánh Dương, và chỉ độc một tiểu đoàn. Bốn tiểu đoàn ĐPQ trước đó đã bị đánh tan. Lúc này tướng Phú vẫn còn hy vọng giải tỏa Quốc lộ 21 tại đồi 519 để thông đường tiếp vận cho Sư đoàn 23 BB và lực lượng tái chiếm Ban Mê Thuột đang tập trung tại chi khu Phước An (1), là quận giáp giới với chi khu Khánh Dương của tỉnh Khánh Hòa.

(Chú giải: Trích lời kể của trưởng ban hành quân Tiểu đoàn 231 ĐPQ)

 ***

Đoàn xe chúng tôi lên đến Khánh Dương khoảng tinh mơ 3 giờ sáng. Còn cách trận địa 10 cây số thì đoàn xe phải tắt đèn pha và đi bằng đèn mắt cáo trong đêm tối mù mù. Khi xe của tôi và tiểu đoàn trưởng vừa ngừng tại bãi đậu xe thì đại úy tiểu đoàn phó từ xe khác bước tới:

“Từ chết đến bị thương! Không tư cách gì sống nổi thiếu tá ơi!”…

 Nghe lạ, vì chưa biết ất giáp gi, nhưng tôi vừa bước xuống xe thì có 2 sĩ quan hành quân thuộc tiểu khu Khánh Hòa đến trao “lệnh hành quân” và thuyết trình hành quân ngay tại bãi đậu xe, dưới ánh đèn pin vàng ệch. Theo như mục tình hình “chiến sự” của “lệnh hành quân” thì quân số địch là 1 tiểu đoàn nhưng họ có ưu thế là chiếm trước trận địa và đã bố trí trận địa quanh khu vực đồi 519. Do đó nhiệm vụ của tiểu đoàn tôi là áp sát khu vực xung quanh đồi 519 để thám sát, điều nghiên vị trí bố phòng của địch. Tuy nhiên với kinh nghiệm chiến trường tôi biết trong lệnh hành quân này có điều gì lắt léo, bởi vì một tiểu đoàn của địch không thể nào dàn hàng ngang 18 cây số (suốt bề ngang của thung lũng Khánh Dương).

Tôi bước vào lều của bộ chỉ huy hành quân. Thiếu tá Hớn cho tôi biết tất cả sự thật:

Lực lượng địch chốt tại đồi 519 không phải là 1 tiểu đoàn nón tai bèo (MTGPMN) mà là Trung đoàn chủ lực 25…nón cối. (1)

Sau khi cho biết rõ tình hình, thiếu tá Hớn kết luận tiểu đoàn của tôi là một tiểu đoàn bị đem ra thí quân trước khi quân dù khóa được đèo M’Drak. Hy vọng sống sót trở về rất mong manh.

Tôi hỏi lại thiếu tá Hớn là ở trên không còn cách nào khác nữa sao?

Thiếu tá Hớn cho biết là…hết thuốc chữa vì hiện thời không còn quân.

 (Bùi Anh Trinh)

 (1) Trung đoàn 25 thuộc Sư đoàn F10 đã đánh phi trường Phụng Dực ở Ban Mê Thuột.

– : Tôi rời khỏi Pleiku một ngày sau khi thành phố Ban Mê Thuột vừa lọt vào tay giặc.

Sáng ngày 13-3-75, theo những toán quân đầu tiên của đơn vị được trực thăng vận từ Hàm Rồng đổ xuống Phước An, quận lỵ duy nhất còn lại của tỉnh Darlac, nằm cách Ban Mê Thuột khoảng 30 cây số trên QL21 về hướng Nha Trang.

Khi một nửa đơn vị vừa xuống Phước An, thì Pleiku có lệnh di tản. Một nửa quân số còn lại phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên Tỉnh lộ 7B. Một cuộc triệt thoái sai lầm, tệ hại và bi thảm nhất trong chiến tranh.

(Phạm Tín An Ninh)

Chữ nghĩa của một thời chinh chiến

trong quán nhậu

Từ chết đến bị thương

(Nho nhe là: Bán tử bất hoại)

Một cơn gió bụi

 Một nửa đơn vị của tôi gần như bị xóa sổ. Hai người bạn thân của tôi đều là tiểu đoàn trưởng đã tự sát, nhiều đồng đội của tôi đã chết trong đớn đau tức tưởi.

(Phạm Tín An Ninh)

 Ngày thứ 6

Khánh Dương : 15-3-1975

Để đối phó với Bắc quân từ Ban Mê Thuột tràn xuống Nha Trang, Thiếu tướng Phạm Văn Phú cầu cứu với Bộ tổng tham mưu và được cho biết 3 hôm nữa Lữ đoàn 3 Dù sẽ đổ bộ tại Nha Trang để lên chặn địch tại Khánh Dương. Tướng Phú không thể chờ quân dù nên điều động Trung đoàn 40 thuộc Sư đoàn 22 BB tại bắc Bình Định lên Khánh Dương và Tiểu đoàn 231 ĐPQ từ Ninh Thuận lên chi khu Khánh Dương.

Lúc này tướng Phú vẫn còn hy vọng giải tỏa Quốc lộ 21 tại đồi 519 để giải toả đường tiếp vận cho Sư đoàn 23 BB và lực lượng tái chiếm Ban Mê Thuột đang tập trung tại Khánh Hòa. Nhiệm vụ của Tiểu đoàn 231 ĐPQ là làm sao cầm chân Bắc quân trong 3 ngày: Sau 3 ngày sẽ có 1 lữ đoàn dù lên Khánh Dương lập phòng tuyến tại đèo đèo M’Drak,          

Một cơn gió bụi

 Ngày 15-3, lúc 3 giờ sáng, Tiểu đoàn 231 ĐPQ lúc đi có 377 người, khi về còn 72 người.

Bất kiến quan tài bất xuất nhân lệ

 Sau một ngày nghỉ ngơi lấy sức, 8 giờ sáng ngày 16-3 chúng tôi xuất phát từ buôn M’Dung tiến về phía đồi 519. Khoảng một tiếng sau tôi nhận được lời nhắn của thiếu tá Hớn hãy sang tần số đặc biệt giữa hai chúng tôi. Sau khi sang tần số đặc biệt, ông chuyển cho tôi một câu nhắn tin được ngụy hóa bằng “khóa đối chứng” (bảng mã của ngành truyền tin). Người lính mang máy cho tôi biết nguyên văn lời nhắn là: “Quân số địch là 3X”. Người lính đó hỏi tôi 3X là bao nhiêu? Tôi trả lời ngay là 1 trung đoàn (do tôi bị ám ảnh bởi lời của thiếu tá Hớn trước đó quân số địch là 1 trung đoàn). Đi thêm được vài bước thì người tôi chợt lạnh toát, mồ hôi vã ra:

Bởi vì tôi sực nhớ lại 3X là…một quân đoàn (1).

 Tôi mất hồn, không phải vì tính mạng mỏng manh của chúng tôi, mà vì địch đã tập trung tại Ban Mê Thuột một quân đoàn thì dĩ nhiên họ sẽ không dừng tại đây, chắc chắn họ…đi bộ xuống Khánh Hòa! Làm sao mà tiểu đoàn của tôi có thề cản nổi bước chân của họ trước khi quân dù khóa đèo M’Drak? Vì chỉ cần một sư đoàn đi bộ, dẵm lên chúng tôi cũng bá thở, nát bấy người rồi (vì chúng tôi chỉ có 377 người, trong khi một quân đoàn của họ có khoảng 40.000 người).

Lúc đó là 9 giờ sáng nhưng tôi có cảm tưởng như là trời đang hoàng hôn, cảnh vật mờ nhân ảo như trong một giấc mơ. Nhìn loáng thoáng bóng những người lính lặng lẽ tiến bên cạnh lòng tôi tê điếng vì câu nói của ông đại úy tiểu đoàn phó chỉ…“từ chết đến bị thương”, và tê tái tới câu “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ” ở quán nhậu. Trong một buổi sáng lay lắt như cảnh chiều tà, từ…bàn nhậu tôi lại vất vưởng đến câu thơ: Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi – Giục ẩm tỳ bà mã thượng thôi – Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu – Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.

Vì chỉ một mình tôi biết chắc là họ sẽ…không thể trở về.

 (Bùi Anh Trinh)

 (1) Theo lời dẫn chứng của Đại tướng Cao Văn Viên thì đây không phải là quân đoàn mà là Sư đoàn 320 thuộc Quân đoàn 3 của Bắc Việt.

Chữ nghĩa của một thời chinh chiến

trong quán nhậu

 Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ

(Nho táo là: Bất kiến quan tài bất hạ lệ)

 Quân sử ngoại truyện

Phải đợi 30 năm sau, cuối tháng 10-1974 Đại tướng Nga Viktor Kulikov, phụ tá bộ trưởng quốc phòng tới Hà Nội thúc đẩy miền Bắc tấn công xâm chiếm miền Nam và hứa giúp thêm vũ khí đạn dược (1). Lúc này Lê Duẩn dựa vào Nga, tướng Võ Nguyên Giáp mới có cơ hội “cầm quân” trở lại, Khi ấy tướng Võ Nguyên Giáp ngồi ở “Tổng hành dinh” ở phố Hoàng Diệu, Hà Nội để điều quân và tướng Văn Tiến Dũng là “tướng ngoài mặt trận”.

Nhưng tất cả nhờ vào tướng Hoàng Minh Thảo qua trận đánh Ban Mê Thuột.

Nhân kỷ niệm 25 năm ngày “Giải phóng miền Nam” (1975-2000), nhà xuất bản Chính trị quốc gia ra mắt cuốn: Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng của tướng Võ Nguyên Giáp. Trong chương IX mang tên “Chiến dịch Hồ Chí Minh”, đoạn viết về những động thái diễn ra tại Ban Mê Thuột và tướng Hoàng Minh Thảo

“5 năm trực tiếp gắn bó với chiến trường Tây Nguyên đã cho ông (tướng Thảo) nhiều kinh nghiệm quý báu. Chính cuốn sách Tìm hiểu tổ tiên ta đánh giặc viết năm 1971, tướng Hoàng Minh Thảo đã nhận ra chỗ yếu và hiểm yếu của chiến trường Tây Nguyên. Điều đó khẳng định trong chiến dịch Đắk Tô -Tân Cảnh diễn ra mùa khô năm 1972 do ông chỉ huy”.

Đến năm 1973, khi ra Bắc họp, tướng Hoàng Minh Thảo đã đề nghị với tướng Võ Nguyên Giáp về việc đánh Buôn Ma Thuột, chi tiết này đã được ghi lại trong cuốn hồi ức của tướng Võ Nguyên Giáp – Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng – trang 126. Trong buổi làm việc, anh Hoàng Minh Thảo với nhãn quan một nhà nghiên cứu khoa học quân sự đã nêu ý kiến:

“Khi đã chọn hướng chiến lược là Tây Nguyên thì trước hết nên đánh Buôn Ma Thuột, vì đây là thị xã lớn nhất, là nơi hiểm yếu và cũng là nơi sơ hở nhất”. Tôi rất tán thành. Sau này ý kiến đó của ông được Bộ chính trị, Bộ quốc phòng, Bộ tổng tham mưu đồng tình chấp nhận.

(Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng – Võ Nguyên Giáp)

 (1) Nga viện trợ dồi dào, về vũ khí nên quân đội miền Bắc đứng hàng thứ năm trên thế giới về vũ khí. Về quân số, quân lực VNCH đứng hàng thứ tư sau Trung Quốc, Liên Xô và Mỹ.

(Chiến tranh Đông Dương III – Hoàng Dung)

 Quân sử ngoại truyện

 Bộ chính tri bắt đầu chấp nhận phương án “tổng công kích” của tướng Giáp. Thượng tướng Lê Hữu Đức, thời gian ấy là cục trưởng cục tác chiến, thường xuyên phải làm việc với Lê Duẩn. Tướng Đức kể: “Anh Duẩn cứ cằn nhằn tôi đã tổng công kích sao không công kích thẳng vào Sài Gòn mà lại chọn Buôn Mê Thuột”.

Kế hoạch đánh Buôn Mê Thuột (giữa năm 73, tướng Giáp làm việc với tướng Hoàng Minh Thảo) được tướng Giáp trao đổi với tướng Dũng chi tiết trong cuộc gặp với tướng Hoàng Văn Thái trước khi Văn Tiến Dũng vào miền Nam.

Tướng Giáp là thường vụ quân uỷ nên nhất trí đề nghị đưa Văn Tiến Dũng vào miền Nam, tác chiên phát triển và bố trí cụ thể do tướng Văn Tiến Dũng quyết định. Tướng Lê Hữu Đức nói: “Anh Văn chỉ thị tôi sang báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của anh Ba…”. (Lê Duẩn)

Nghe chuyện Văn Tiến Dũng vào Nam. Anh Ba tỏ ý phân vân…

 (Quyền bính – Huy Đức)

Thâm u bí sử

Sau ngày 30-4-1975 toàn thắng, một năm sau tại Đại hội IV tháng 12-1976.

Tướng Võ Nguyên Giáp vẫn còn giữ chức bộ trưởng Bộ quốc phòng, với thứ bậc trong Bộ chính trị chỉ xếp sau Lê Đức Thọ. Năm 1980, ông phải giao chức vụ này cho Văn Tiến Dũng.

Trước đó, cả ông Thọ và ông Lê Duẩn đều nhiều lần công khai đánh giá thấp khả năng, kể cả “khả năng cầm quân” của tướng Võ Nguyên Giáp.

 (Quyền bính – Huy Đức)

Quân sử ngoại truyện

Từ nhãn quan một nhà nghiên cứu quân sự, ông (tướng Thảo) đã chọn hướng chiến lược Tây Nguyên, nơi hiểm yếu là Buôn Ma Thuột và trực tiếp chỉ huy, đề ra nguyên lý: “Mưu sinh ra kế, thế đẻ ra thời – Đánh bằng mưu kế, thắng bằng thời thế”, đó là tinh hoa của nghệ thuật quân sự mà chính Thượng tướng Hoàng Minh Thảo đã vận dụng. Tây Nguyên rung chuyển. Chọn Tây Nguyên có rừng núi, cao nguyên, lại là nơi có đường Hồ Chí Minh chiến lược đi qua.

Để tạo thế phá vỡ Tây Nguyên, bộ tổng tư lệnh quyết định đưa Quân đoàn 4 vào phía bắc Đồng Nai, Quân đoàn 2 vào phía tây Huế. Quân lực của họ phải đưa sư đoàn lính dù và sư đoàn lính thủy đánh bộ giữ Sài Gòn và Huế. Khi lực lượng tổng dự bị chiến lược này di chuyển, Tây Nguyên hở sườn. Đồng thời, ta bất ngờ tăng thêm cho Tây Nguyên 2 sư đoàn là Sư đoàn 968 và Sư đoàn 316. Thực hiện kế nghi binh lừa địch, với lực lượng tại chỗ, ta đã đưa Sư đoàn 10 tiến về Đức Lập, phía nam Buôn Ma Thuột, Sư đoàn 320 đã tiến về Ea H’leo, bắc Buôn Ma Thuột đánh chia cắt ở Tây Nguyên chuẩn bị cho việc “trói địch lại mà diệt”. Sư đoàn 316 bí mật xuất phát từ Nghệ An bằng cơ giới vào chiến trường phía nam Tây Nguyên. Sư đoàn 968 hành quân bộ vượt qua vùng rừng núi Việt-Lào tiến vào phía bắc Tây Nguyên thay thế Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 để hai sư đoàn này bí mật chuyển từ Kon Tum về phía nam. Với sức mạnh từ ba sư đoàn ta bất ngờ tiến công thẳng vào thị xã Buôn Ma Thuột.

(Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng – Võ Nguyên Giáp)

Bên lề trận chiến

 Vì sao cuộc chiến Việt Nam kết thúc năm 1975? Cùng lúc đó, dự trữ đạn dược, xăng dầu và tiếp liệu quân sự nói chung của quân đội VNCH đã khan hiếm nghiêm trọng. Theo dự tính của Bộ tổng tham mưu: Dự trữ đạn dược tồn kho chỉ còn cung ứng được từ 30 tới 45 ngày.

Tướng Cao Văn Viên kết luận rằng nếu tình hình chiến sự cứ tiếp tục xảy ra theo cùng một nhịp độ thì số đạn tồn kho sẽ hết vào tháng 6-1975, nếu không nhận được thêm viện trợ.

Với tình hình đó, tác giả cuốn Khi đồng minh tháo chạy (Nguyễn Tiến Hưng) kết luận.

Như vậy, ta có thể đặt câu hỏi về phương diện lịch sử…

Nếu như không có biến cố 30-4-1975 thì tới tháng 6 Quân lực VNCH sẽ lấy gì mà chiến đấu?            

Như vậy dù ông Thiệu không rút bỏ cao nguyên và giao cho tướng Phú tử thủ tại Pleiku, Kontum…thì cũng chỉ giữ được một thời gian nào đó, có lẽ không quá một tháng.

Vì bị kiệt quệ đạn dược tiếp liệu trước áp lực mạnh và áp đảo của địch. Vì:

Tháng 4-1975: Quốc hội Mỹ đã bác bỏ tất cả các khoản viện trợ cho chiến tranh VN.

Quân đoàn II triệt thoái

Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên phân tích về liên tỉnh lộ 7B và cuộc rút quân của Quân đoàn II. Đại tướng Viên phân tích rằng ngoài trừ khúc từ Quốc lộ 14 đi Hậu Bổn (1) còn dùng được, đoạn còn lại không biết như thế nào. Trong khi đại tướng Viên lo ngại về lộ trình rút quân, thì thiếu tướng Phú lại tin tưởng về kế hoạch chuyển quân theo liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ Quốc lộ 14 đi Hậu Bổn có đèo Cheo Reo (1) về Tuy Hòa sát biển. Đường này rất ghồ ghề, đá lởm chởm và bị bỏ lâu không dùng đến. Giải thích về sự chọn lựa này, thiếu tướng Phú trình bày rằng yếu tố bất ngờ đã khiến ông có dự tính như thế.

Nhận định về quyết định của tổng thống Thiệu và kế hoạch chuyển quân của thiếu tướng Phú, đại tướng Viên cho rằng: Đưa một lực lượng cỡ quân đoàn với đầy đủ quân cụ, và nhiều thứ khác qua núi cao và rừng già trên vùng cao nguyên phải là một người chỉ huy sáng suốt lúc nào cũng phải cẩn trọng với tình trạng địch đang có mặt hầu như cùng khắp tại khu vực đó.

(1) Hậu Bổn trước có tên là Cheo Reo. Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho thành lập tỉnh Phú Bổn và đổi tên thị trấn Cheo Reo thành Hậu Bổn. (Trọng Đạt)

Bản đồ quốc lộ và tỉnh lộ ở cao nguyên Trung phần

Quốc lộ 14 : Ban Mê Thuột – Peiku

Quốc lộ 19 : Peiku – Quy Nhơn

Quốc lộ 21 : Ban Mê Thuột – Khánh Dương – Dục Mỹ – Ninh Hoà

Tỉnh lộ 7 :  Pleiku – Hậu Bổn – Phù Túc – Củng Sơn – Tuy HoàHậu BổnPhú TúcCủng Sơn

 

Ngày thứ 7 

Quân đoàn II triệt thoái : 16-3-1975

Sáng ngày 15-3, Thiếu tướng Phạm Văn Phú cùng với một số sĩ quan trưởng phòng và sĩ quan tham mưu của bay về Nha Trang để tái tổ chức bộ tư lệnh Quân đoàn II tại đây.

Cũng trong ngày 15-3, Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, phụ tá hành quân tư lệnh Quân đoàn II và vài sĩ quan tham mưu bay tới Tuy Hòa (tỉnh lỵ tỉnh Phú Yên) để chuẩn bị đón đoàn quân của Quân đoàn II di chuyển từ Pleiku về với một số quân xa bắt đầu rời Pleiku theo từng toán nhỏ.

(SQTB K10B/72)

Góp nhặt…ghi chép…

 Trong khi quân đội Sài Gòn bỏ Kontum và Pleiku đồng thời bố trí lại kế hoạch quân sự ở Quân khu I và II theo hướng bất lợi. Đại sứ Mỹ (1) tại Sài Gòn không được tổng thống Thiệu thông báo. Đến chiều 17-3 nhờ một điệp viên CIA cung cấp cho phía Mỹ các thông tin mật đầu tiên về chiến lược “nhẹ đầu nặng đuôi” của tổng thống Thiệu. Điệp viên này cho CIA biết, chủ trương của tổng thống Thiệu là tăng cường bảo vệ Sài Gòn bằng mọi giá. Do vậy, trong trường hợp đối phương tấn công mạnh, tướng Phú được phép rút khỏi Kontum và Pleiku.

Được tin này, tướng Homer Smith, tùy viên quân sự sứ quán Mỹ tại Sài Gòn lập tức đến gặp tướng Cao Văn Viên để nói rằng việc rút quân khỏi Pleiku và Kon Tum là một sai lầm lớn có thể dẫn đến thảm họa. Tướng Smith trách tướng Viên vì sao không thông báo điều này cho phía Mỹ trong cuộc gặp gỡ giữa hai ông trước đó một ngày để ít nhất phía Mỹ có thể giúp được về quân vận. Nghe nói vậy, tướng Viên nói đó là do ý muốn của tổng thống Thiệu.

(Nguyễn Đại Phượng)

 (1) Khoảng thời gian này, Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin về lại tiểu bang Carolina của ông để nghỉ ngơi. Điều hành tại toà đại sứ là Phó đại sứ Wolf Lehmann.

CIA và các ông tướng

 – : “Điệp viên” trên là Đại tá Lê Khắc Lý, tham mưu trưởng Quân khu II. Trong khi tổng thống Thiệu dấu người Mỹ thì ông Lý báo cáo cho Stephens (phụ tá của Nicol) biết:

Ngày mai 14-3 tướng Phú sẽ họp với tổng thống Thiệu tại Cam Ranh. Buổi họp được giữ kín và máy bay của tướng Phú sẽ đi Qui Nhơn trước để đánh lạc hướng. Lý hứa với Nicol có tin gì sau khi Phú đi họp về Lý sẽ cho hay. Stephens vội vàng thông báo tin cho cố vấn tỉnh Đắc Lắc Earl Thieme. (CIA and The Generals). Sáng ngày 15-3 chính đại tá Lý báo cho Stephens biết kế hoạch của tổng thống Thiệu và kế hoạch của tướng Phú dựa trên yếu tố bí mật và bất ngờ. Nhưng sau đó đảo lộn tất cả, cuộc rút quân đã biến thành cuộc chạy loạn.

(Bùi Anh Trinh)

– : Sau Đại tá Lê Khắc Lý được giao điều động lực lượng công binh bắc cầu phao sông Ba.

Góp nhặt sỏi đá

 Tài liệu của Phạm Huấn cho biết thêm: Để bảo mật cho chuyến đi của ông Thiệu nên đã không có một chuẩn bị nào tiếp đón ông và phái đoàn. Ngay cả một cái thang cao dùng cho loại máy bay lớn DC6 cũng không có. Chiếc “biệt thự bay” tiến vào chỗ đậu. Một chiếc xe jeep được lái tới sát bên. Ông Thiệu và các tướng Khiêm, Viên, Quang lần lượt… “tụt” bằng đít khỏi chiếc DC6 xuống mui xe! Rồi mui xe nhẩy xuống. (Cuộc triệt thoái cao nguyên)

Bên lề trận chiến

 Trong cuộc họp ở Cam Ranh, tổng thống Thiệu căn dặn tướng Phú lệnh triệt thoái tối mật, từ cấp tỉnh trưởng, tiểu khu trưởng trở xuống không được biết, có nghĩa là các lực lượng địa phương quân vẫn ở lại chiến đấu, tiếp tục làm việc với tỉnh trưởng, quận trưởng. Chỉ có chủ lực quân gồm bộ binh, pháo binh, thiết giáp, công binh, không quân là phải triệt thoái.

Do kế hoạch triệt thoái Pleiku và Kontum tiến hành một cách bí mật theo lệnh của tổng thống Thiệu. Tỉnh trưởng Pleiku, Đại tá Hoàng Đình Thọ nhờ ở gần bộ tư lệnh nên được biết trước, và kịp di tản nhưng bị bắt cùng với Chuẩn tướng Phạm Duy Tất ở Hậu Bổn.

Một cơn gió bụi

Tỉnh trưởng Kontum, vì không hay cuộc rút quân nên chạy sau. Theo tài liệu của tướng Cao Viên, viết cho Trung tâm quân sử lục quân Hoa Kỳ, thì đến phút chót mới được biết.

Ông tỉnh trưởng tháp tùng theo đoàn quân, nhưng giữa đường thì bị địch quân bắn chết.

Quân đoàn II triệt thoái

 Phước An 16-3
Trong 2 ngày nữa, nếu đoàn xe không về tới Phú Bổn như dự định, thì Phước An sẽ vô cùng nguy ngập. Bởi vì địch chỉ cần sử dụng một phần lực lượng tại Ban Mê Thuột với chiến xa và trọng pháo yểm trợ, sẽ dứt Phước An (1) dễ dàng. Và sau đó là Khánh Dương (2).
Kiểm điểm lại quân số của sư đoàn và những đơn vị hiện đang ở Phước An, đại tá Đức, tân tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh vô cùng lo ngại. Lực lượng chính yếu của sư đoàn là Trung đoàn 45 tình nguyện nhảy xuống Phước An tăng cường thì hôm nay đã tan hàng, trở thành dân sự già nửa quân số. Trung đoàn 45 còn lại đúng 200. Trung đoàn 44 khoảng 300. Bộ tư lệnh sư đoàn tại Chu Cúc chỉ có 42 người. Hậu trạm tại Khánh Dương khoảng 700 tay súng, không chiến xa chỉ có 4 khẩu đại bác 105 ly phải đương đầu với Sư đoàn F10 Bắc quân từ Ban Mê Thuột kéo về, với quân số 7, 8 nghìn và có chiến xa, đại pháo yểm trợ!
17 giờ, phi cơ quan sát phát hiện khoảng 10 chiến xa địch gần Chu Cúc, xin đánh bom tối đa.
5 phi tuần khu trục từ Phan Rang lên. Phi tuần 1 lên tới vùng mục tiêu lúc 17 giờ 40 phút. Trời mù, không nhìn rõ, các khu trục cơ phải quay về. Thêm 2 xe tăng Bắc Việt di chuyển ở phía bắc cây số 62, mặt trận Khánh Dương. Hai Trung đoàn 64 và 48 Bắc quân đã di chuyển tới tây bắc Khánh Dương khoảng 20 cây số. Lực lương Sư đoàn 23 BB sẽ cùng phối hợp với 2 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 22 BB tăng cường tổ chức tuyến phòng thủ, chận đứng cuộc tiến quân xuống Khánh Dương, Dục Mỹ của địch.

Nhưng cũng chỉ là trứng chọi đá! Quả thật trong trận này, lực lượng Bắc quân và Nam quân quá chênh lệch! Ngày 16-3-1975 Pleiku, KonTum với những con đường để thoát chạy là 7B, 14, 19, 20, 21. Nhưng tổn thất nhất là con đường 7B.

(Phạm Huấn)              

(1) Phước An nằm ở phía nam Ban Mê Thuột.

(2) Khánh Dương nằm trên Quốc lộ 21, giữa Ban Mê Thuột và Ninh Hoà (Nha Trang).

Quân đoàn II triệt thoái

Ngày 16-3-1975 bắt đầu rời Pleiku gồm các đơn vị quân cụ, đạn dược, pháo binh, khoảng 200 xe. Tướng Phạm Văn Phú và bộ tư lệnh về Nha Trang, tướng Phạm Duy Tất đôn đốc cuộc di tản, mỗi ngày một đoàn xe khoảng 200 hay 250 chiếc, ngày đầu êm xuôi vì bất ngờ.

Ngày hôm sau 17-3-1975 các đơn vị pháo binh còn lại, công binh, quân y, tổng cộng chừng 250 xe. Dân chúng, gia đình binh sĩ chạy ùa theo, làm náo loạn gây trở ngại cho cuộc triệt thoái.

Ngày 18-3, bộ chỉ huy và ban tham mưu quân đoàn về tới Hậu Bổn, Phú Bổn, các đoàn xe từ ba ngày trước kẹt lại đây, đoạn đường từ Hậu Bổn về Tuy Hoà chưa giao thông được vì công binh chưa làm xong cầu qua sông Ba (1). Tối hôm ấy Bắc quân đuổi theo pháo kích dữ dội gây thiệt hại hầu hết chiến xa và trọng pháo tại đây. Sư đoàn 320 Bắc quân đóng tại Buôn Hô, Ban Mê Thuột được lệnh đuổi theo đoàn xe triệt thoái từ 16-3 đến 18-3-1975 vào Phú Bổn rồi tiếp tục đánh phá tới Củng Sơn.

Ngày 20-3 đoàn quân rời Hậu Bổn nhưng chỉ đi được 20 km thì phải đi chậm lại vì Phú Túc phía trước đã bị chiếm, đoàn quân di tản vừa chống trả vừa tiến. Không quân đến yểm trợ nhưng ném bom nhầm vào đoàn quân gây tử thương gần một tiểu đoàn BĐQ, thiệt hại này lại càng gây thêm rối loạn. Tại Phú Túc hỗn loạn diễn ra dữ dội. Bắc quân đóng chốt, một tiểu đoàn địa phương quân và biệt động quân được giao nhiệm vụ nhổ chốt.

Khi đến Củng Sơn cách Tuy Hoà 65 km đoàn di tản phải băng qua sông Ba. Trực thăng CH47 chở từng đoạn cầu lên sông Ba để ráp nối.

(Trọng Đạt)

(1) Sông Ba tức sông Ea Pa cách đèo Cheo Reo (Hậu Bổn) vài cây số.

Kontum-Pleiku di tản

Trích đoạn: (…) Lại thêm một hoàng hôn, có thể hơn thế nữa, bắt đầu trưa hôm nay là 12 giờ, dân chúng các vùng lân cận Pleiku đều đổ xô về thị xã Pleiku. Họ đang sống những giờ phút lo âu kinh hoàng ngoài đường phố. Trên khắp các ngả đường đều chật các xe đủ loại, xe quân sự, xe dân sự, xe chở hàng, xe ủi đất, xe chữa lửa, xe máy kéo có rờ moọc bên trên chất đầy những “gia bảo” cuối cùng của dân chúng. Tất cả các gia đình, già trẻ lớn bé, dân sự cũng như quân sự ngồi sẵn trên xe để chờ di tản mà họ không biết là đi đường nào. Ngoài đường phố đầy rẫy những quân nhân và thường dân tay xách nách mang và bồng bế các trẻ thơ, xách những giỏ đồ đạc lang thang khắp phố, không biết đi đâu nữa. Pleiku đang sống trong một không khí kinh hoàng chưa từng thấy, hơn cả cố đô Huế năm 1972.

Kontum-Pleiku coi như bị bỏ ngỏ vì các nhân viên có trọng trách an ninh đã chỉ lo riêng cho gia đình họ, và không còn ai còn có tinh thần đảm nhận trách vụ của mình… Sự kiểm soát đã lọt ra ngoài tay của các giới lãnh đạo chính quyền tỉnh. Riêng các lực lượng nòng cốt còn có kỷ luật và tinh thần chiến đấu. Nhưng tình trạng hỗn loạn của dân chúng Pleiku ra đầy ngoài đường đã tạo nên một cảnh tượng thật không thể tưởng tượng nổi. Trên khuôn mặt mỗi người đều lộ vẻ lo âu không tả hết. Chiến tranh thực sự chưa tới Pleiku. Chưa một đạn pháo kích nào của địch bắn vào thị xã Pleiku. Hoàng hôn của Pleiku có thể như đã bắt đầu. Đồng thời có thể tiếp luôn những cảnh hoàng hôn khác. Tình trạng Pleiku bi thảm quá, đồng bào ơi! (…)

(Báo Chính Luận – Nguyễn Tú)

Quân đoàn II triệt thoái

Ngày 22-3 cầu ráp xong đoàn di tản qua sông theo hương lộ 436 về Tuy Hoà, vì xe cộ quá đông cầu bị sập chết nhiều người phải sửa chữa thêm lần nữa. Chặng đường cuối cùng từ đây về Tuy Hoà rất cam go vì có nhiều chốt, trời mưa lạnh, Bắc quân pháo kích đoàn di tản để cầm chân ta. Tiểu khu Tuy Hoà không còn quân để tiếp viện nên đoàn quân di tản phải tự lo lấy, các binh sĩ Tiểu đoàn 34, Liên đoàn 7 BĐQ liều mạng lên tấn công các cứ điểm Bắc quân cùng với chiến xa M113 tiêu diệt chốt địch.

Ngày 27-3 sau khi thanh toán chốt cuối cùng đoàn di tản về tới Tuy Hoà buổi tối tổng cộng 300 xe (trong số 1.200 xe) mở đường máu về được Tuy Hoà.

(…)

Kontum-Pleiku di tản

Từ trưa các lực lượng an ninh trong thị xã Pleiku như quân cảnh, cảnh sát bỏ tất cả nhiệm sở không còn thấy bóng một ai, mặc dầu hôm qua (thứ bảy) 15 tháng 3 còn canh phòng rất gay gắt các ngả ra vào tỉnh và thị xã Pleiku. Mọi đường phố không còn một nhân viên công lực nào giữ trật tự nữa.. Tất cả mọi người đều về nhà lo di tản cho gia đình. Liên lạc vô tuyến của hệ thống quân đội không còn được điều hòa và hữu hiệu như trước nữa tuy vẫn chưa hẳn gián đoạn. Các nhân viên truyền tin cũng thay nhau về nhà để lo việc di tản gia đình. Sự kiểm soát an ninh trật tự coi như đã tuột khỏi tầm tay của chính quyền địa phương Pleiku.

Ngay từ xế trưa(chủ nhật) 16-3, các xe nào đã chất xong đồ vật đều chuyển bánh trên Quốc lộ 14 đi về Phú Bổn thành một đoàn dài. Nhưng phải kể từ 20 giờ ngày hôm nay, sự di chuyển toàn diện của dân chúng mới thực sự bắt đầu, đoàn xe ước chừng đến hàng ngàn chiếc, bật đèn pha nối đuôi nhau trên hàng chục cây số trông như một cuộc “trở về nhà sau cuộc nghỉ ngơi cuối tuần”. Nhưng ra khỏi thị xã được vài cây số thì đoàn xe bị kẹt vì những chiếc xe nhỏ hơn như xe lam, xe ô tô nhỏ, xe Honda muốn vượt trước. Dân nghèo ra đi bằng phương tiện trời đã phú cho họ là đôi chân của chính họ. Họ đây là gồm cả già, trẻ, lớn, bé, con nít còn bồng trên tay, đàn bà đang mang bầu, tay xách, nách mang, một vài manh chiếu, một vài bọc quần áo, buồn tủi, lo âu, gia đình nọ nối tiếp gia đình kia đi hàng một sát bên lề đường để tránh đoàn xe. Đèn pha của đoàn xe lần lượt chiếu các bóng lưng còng xuống của người lớn, những bóng nhỏ hơn của các trẻ em tay níu vạt áo hoặc ống quần của người bố hay người mẹ…

Họ lặng lẽ thất thểu bước nọ trước bước kia trong đêm tối của tâm hồn.

(…)

Góp nhặt…ghi chép…

Trong số 60.000 chủ lực quân chỉ có 20.000 tới được Tuy Hoà. 5 liên đoàn BĐQ 7.000 người chỉ còn 900 người. Lữ đoàn 2 Thiết kỵ với trên 100 xe tăng nay chỉ còn 13 chiếc M113.

Ông Cao Văn Viên nói ít nhất 75% lực lượng, khả năng tác chiến của Quân đoàn II gồm Sư đoàn 23 BB, biệt động quân, thiết giáp, pháo binh, công binh… bị hủy hoại trong vòng 10 ngày. Vì thế kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột không thể thực hiện được vì không còn quân.

(Chiến tranh Việt Nam toàn tập – Nguyễn Đức Phương)

Kontum-Pleiku di tản

 Chính Luận: Chiều tối chủ nhật ngày 16 tháng 3 năm 1975, bạn Nguyễn Tú, đặc phái viên Chính Luận tại chiến trường Quân khu II đã từ Pleiku gọi điện thoại cho biết về tình hình Pleiku sau khi Bộ Tư lệnh Quân khu 2 di tản về Nha Trang.

Bạn Nguyễn Tú cho biết trong hai ngày qua, đồng bào trong tỉnh đã hoang mang đến cực độ khi nghe tin các đài phát thanh ngoại quốc loan báo Bộ Tư lệnh Quân Khu 2 di tản về Nha Trang. Giới hữu trách không có lời giải thích để trấn an đồng bào mỗi phút lại càng mất thêm tinh thần, mạnh ai lo liệu phương tiện di tản.

Chiều qua 15-6 (thứ bảy), các phố xá đã đóng cửa không buôn bán cầm chừng như trước đây, và đồng bào đã đổ xô hết ra đường, nhốn nháo ngược xuôi tìm lối chạy. Người ta thuê bao đủ mọi loại xe, chất hết đồ đạc quần áo để chuẩn bị chạy. Những người ít tiền cũng vét túi, chung nhau thuê xe, và các loại xe, từ xe lam, xe vận tải, xe lô, xe nhà, xe Honda, cho đến cả xe ủi đất, xe cứu hỏa, xe cần trục, máy cày v.v. đều chất đầy ắp đồ đạc, đầu nối đuôi dài trên các đường phố chính như Hoàng Diệu, Võ Tánh, Phan Bội Châu, Quang Trung, Hai Bà Trưng. Tất cả di chuyển, nhưng không biết di chuyển theo lối nào, vì con đường duy nhất có thể chạy về Quy Nhơn là Quốc lộ 19 thì đã bị địch cắt. Áp lực của địch quân vẫn nặng nề trên đường băng rừng băng núi này, cái chết có thể đe dọa tập thể tị nạn bất cứ nơi nào và bất cứ giờ phút nào.

Những chuyến bay của hàng không Việt Nam đã ngưng từ mấy hôm nay nên phi trường chỉ còn là nơi hoạt động rộn rịp của các loại máy bay quân sự. Tin tức một số gia đình thuộc bộ tư lệnh quân đoàn được di tản ra khỏi Pleiku làm cho mọi người càng thêm hốt hoảng. Họ chỉ còn trông ngóng vào con đường sống duy nhất là Quốc lộ 19. Họ mong ngóng cho quốc lộ này được giải tỏa mau lẹ trước khi địch kéo tới. Ám ảnh…đai lộ kinh hoàng và chợ Đông Ba rực cháy ngày nào ở miền Trung là một ám ảnh khó xóa nhòa trong tâm tư mọi người. Dắt díu nhau ngược xuôi ngoài đường phố, và đồng bào ngơ ngác thầm hỏi nhau biết chạy đi đâu bây giờ?

Qua điện thoại bạn Nguyễn Tú báo tin cho tòa soạn biết là bạn đang tìm cách thoát khỏi Pleiku cùng đồng bào và sau đây là bản tin cuối cùng của bạn từ Pleiku gửi về cho tòa soạn và bạn đọc Chính Luận. Lại thêm một hoàng hôn.

(…)

Quân đoàn II triệt thoái

Ngày đầu tiên của cuộc rút quân. Trời mây mù, ảm đạm. Thành Pleime nằm trên một ngọn đồi cao, nơi đặt bản doanh của bộ tư lệnh Quân đoàn II. Con đường từ bộ tư lệnh quân đoàn về Pleiku kéo dài mấy cây số, và từ những ngả đường khác đổ xô về, người và xe cộ nối đuôi, dồn, lấn, kẹt cứng. Tin quân đoàn “di tản” đã không còn là một tin “tối mật” như các giới chức quân sự mong muốn, mọi người dân Pleiku, mọi gia đình quân nhân, và chắc chắn cả…địch

nữa, đều biết. Hỗn loạn, cướp bóc, bắn phá xảy ra nhiều nơi, trong và ngoài thị xã.
8 giờ 40 phút, cắt đứt mọi liên lạc bằng điện thoại với bộ tư lệnh Quân đoàn II ở Pleiku. Đoàn

xe di chuyển, khoảng 4.000 quân xa đủ loại và những xe dân sự.

10 giờ phi trường Cù Hanh chính thức đóng cửa.

10 giờ 45 phút, Đại tá Trần Cửu Thiên bay đi Phú Bổn cùng với các chuyên viên truyền tin, thiết lập hệ thống liên lạc để tường trình tình hình đoàn xe từng giờ về Nha Trang, và Sài Gòn.

10 giờ 50 phút, tổng thống Thiệu gọi ra lệnh giải tỏa gấp rút mặt trận Khánh Dương và Quốc lộ 21 bằng mọi giá. Chặng đầu của cuộc rút quân Pleiku-Phú Bổn sáng ngày 17-3 diễn ra tốt đẹp. Hệ thống liên lạc siêu tần số từ Nha Trang và đoàn quân triệt thoái bị gián đoạn trong 2 giờ

đầu. Nhưng sau đó, từ 12 giờ 20 phút, mọi liên lạc và báo cáo đều rõ ràng.
(…)

Kontum-Pleiku di tản

Ngày thứ nhất (chủ nhật) 16-3-1975.

Tất cả lên đường. Tối nay, Pleiku đã thực sự hỗn loạn. Tất cả dân chúng Pleiku thêm vào đó dân chúng ven tỉnh, dân chúng thuộc vài quận gần thị xã Pleiku, và cả dân chúng Kontum đã hốt hoảng tiếp tục chất các hàng hóa, bàn ghế tủ giường, cùng những vật dụng riêng lên đủ thứ xe: xe lam, xe ba bánh, xe vận tải hạng nặng, xe jeep, xe hốt rác, xe GMC nhà binh, xe Honda. Thậm chí xe be, xe cần trục, xe máy kéo xe trắc tơ. Cả đến xe chữa lửa cũng được dùng để chất đồ và chở người. Xe nào chất xong đồ là người leo lên ngồi sẵn, xe nào đôi nhíp cũng gần như thăng bằng, vì chất quá nặng. Pleiku không còn gì để cho tôi săn thêm tin thêm nữa. Ba lô vẫn cõng trên vai, hồi 22 giờ 30 tôi theo đoàn người di tản ra khỏi thị xã Pleiku.

Đốt phá, bỏ rơi: Các kho súng, kho đạn tại Pleiku đã được lệnh thiêu hủy, tiếng nổ lớn nối liền tiếng nổ nhỏ. Từng cột khói đen bốc lên trong lửa đỏ từ các bồn nhiên liệu cũng được lệnh phá hủy. Tất cả đều bùng cháy. Nhiều khu phố trong thị xã Pleiku đã bị toán người đập phá nhà cửa của các chủ nhân đã di tản, và đã bị phóng hỏa ít nhất tôi đếm cũng được 14 đám cháy trong những khu phố khác nhau. Nhiều tiếng súng cũng đã nổ trong thị xã. Quân cũng như dân y viện không còn hoạt động. Một số bệnh nhân tại dân y viện cũng như một số thương binh tại quân y viện Pleiku đã bị bỏ rơi lại vì không còn ai lo cho họ nữa. Chính họ trong tình trạng bệnh hoạn chẳng tự mình làm được, ngoài sự chết đói dần mòn trên giường bệnh.

Cuộc di tản này chắc chắn sẽ kéo dài tới ngày hôm sau. Thế là Kontum và Pleiku đã bỏ ngỏ, chính thức và không chính thức. Không chính thức mà chính thức vào hồi 20 giờ đêm ngày ngày chủ nhật 16 tháng 3 năm 1975.

(…)

Quân đoàn II triệt thoái

 Tuy nhiên, có một điều mà Quân đoàn II biết trước là cầu bắc qua sông Ba về phía nam Củng Sơn đã bị phá hủy hoàn toàn, không thể sửa chữa được, Vì vậy thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu Bộ tổng tham mưu cung cấp phương tiện cầu nổi để qua sông mà thôi.

– : Tướng Viên cho rằng Sư đoàn 320 sẽ không truy kích kịp nếu cầu được thiết lập đúng lúc. Vì cầu không làm xong nên 2 ngày sau (1a) mới rời được Phú Bổn. (…trích lục lại)

– : Canh bạc tướng Phú chọn Quốc lộ 7 có thể đã an toàn nếu các cầu nổi được bắc kịp thời và sau này tướng Viên đổ lỗi cho tướng Phú phải hoãn cuộc di tản ít ngày để cho công binh kịp bắc cầu. (Cuộc di tản đầy máu và nước mắt – Trịnh Tiếu)

Ngộ Không

 

 

 

 

 

 

©T.Vấn 2016

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bài Mới Nhất
Search