T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Nguyên Lạc: ĐẠI NGÃI QUÊ TÔI: Tài nguyên, Đất nước & Con Người

Lời dẫn nhập:

Thi sĩ Trần Phù Thế vừa gởi tặng tôi- Nguyên Lạc 3 tập thơ: Cõi Tình, Giỡn Bóng Chiêm Bao và Gọi Khan Giọng Tình- Thư Ấn Quán của thi văn sĩ Trần Hoài Thư xuất bản.

Tôi đã từng giới thiệu rất rõ về thi sĩ Trần Phù Thế trong bài viết đã đăng trên các trang trong cũng như ngoài nước VỀ CHỮ “BẬU”.

Cảm ơn tấm thịnh tình của thi sĩ, tôi xin trích đẫn vài bài thơ tiêu biểu trong các thi tập của anh và nhân dịp xin được giới thiệu đến các bạn quê hương thân mến của chúng tôi: xã Đại Ngãi, huyện Long Phú tỉnh Sóc Trăng/ Ba Xuyên.

Anh Trần Phù Thế cùng quê Đại Ngãi và cùng học Trung học Hoàng Diệu, Sóc Trăng với tôi, thuộc lớp đàn anh.

(Hình chụp sách thơ Trần Phù Thế – Thư Ấn Quán của thi văn sĩ Trần Hoài Thư tái bản)

I. Vài bài thơ tiêu biểu:

Xin được trích ra đây vài bài thơ tiêu biểu trong 3 tập thơ trên của Trần Phù Thế:

.

THẤY BÓNG CHẲNG HÌNH

nhớ em thấy bóng chẳng hình

thấy trăng trước ngõ thấy mình bơ vơ

bỏ đi từ đó đến giờ

khi nào em nghĩ thằng khờ năm xưa

thằng khờ đợi gió đội mưa

đợi bao nhiêu khổ ngóng chờ ánh trăng

gió lay mờ tỏ bóng hằng

mà anh cứ ngỡ bước chân ai về

nhớ mòn giấc ngủ cơn mê

thấy hình chẳng bóng nằm kề song song

đời anh mộng thực quay mòng

như con cá nược lội vòng theo ghe

.

BÓNG HÌNH LÀ MÁU THỊT TÔI

ôm hình từ buổi sơ sinh

từ khi tiếng khóc bình minh cuộc đời

bóng hình là một trên đời

đừng ai chia cắt tách rời hai nơi

bóng hình là máu thịt tôi

.

TƯỞNG

hôm qua một bữa se mình

thiếu em nên tưởng bóng hình trong mê

tưởng em tay gối nằm kề

nào hay em vẫn chưa về bên anh

về đi khi tóc còn xanh

ngày mai tóc trắng em đành lòng sao

.

NGÃ TƯ CỘT LỒNG ĐÈN

anh từ Đại Ngãi đến

em từ Long Phú qua

sống nhờ trên sông nước

gặp nhau thật bất ngờ

nơi tụ điểm thương hồ

nơi hẹn hò bến đậu

khẳm lừ ghe dưa hấu

no đầy xuồng khoai lang

con nước rong tràn bờ

ghe anh dừng bến đợi

xuồng em hờ gát mái

đôi chèo phơi sương đêm

vô tình anh quen em

Ngã Tư Cột Lồng Đèn

nơi ngày xưa mẹ đến

chở hàng xuôi ngược đêm

nơi ngày xưa cha đến

yêu mẹ qua câu hò

trăng sao làm nguyệt lão

cưới nhau chuyện bất ngờ

*

rồi chiến tranh chợt đến

hai đứa hai phương trời

rồi chiến tranh chợt tắt

hai đứa vẫn hai nơi

tình cờ anh ghé thăm

bến xưa ghe quen đậu

dễ chừng mười mấy năm

gặp em thành cô giáo

cô giáo dạy vùng ven

đôi mắt dấu chân chim

thời gian phai màu tóc

nhưng em vẫn hồn nhiên

nhìn em trên bục giảng

duyên dáng như thuở nào

anh thấy lòng xao xuyến

như lần đầu gặp nhau

(Trần Phù Thế)

.

II. Đại Ngãi quê chúng tôi:

Đặc biệt là bài thơ anh Trần Phù Thế viết tặng tôi và thơ tôi hồi đáp anh, đã được đăng trên Sáng Tạo org và nhiều trang khác:

.

TRỞ LẠI ĐẠI NGÃI

(gởi anh Phạm Bá Hoa & Nguyên Lạc)*

.

mấy mươi năm trở lại đây

hồn xưa quê cũ vẫn đầy bóng trăng

đêm đi quanh quẩn chợ làng

nghe hồn Đại Ngãi lang thang đâu rồi

cái tên Vàm Tấn tôi ơi

bao năm giờ đã đổi dời ra sao

bước chân tôi vắng tiếng chào

tình thâm nghĩa cũ người nao đâu rồi

ngập ngừng đường đất của tôi

chợ xưa chồm hổm gọi mời gái quê

mấy cây trứng cá sum xuê

buổi trưa bóng mát làm mê dân nghèo

tôi lần ven chợ đi theo

bờ sông bến nước xuồng neo cất hàng

nhìn hoài chẳng thấy đò ngang

bến đò năm trươc giờ san sác nhà

bước chân lại dẫn lối xưa

Tây Nam xay lúa bụi mờ bến sông

xuồng câu Đường Đức ngược dòng

đợi con nước nhửng nước ròng thăm câu

cá lăng cá úc xôn xao

thương con cá cháy biệt màu thời gian

tuồi thơ dấu ấn tuổi vàng

bún ngon cá cháy mở màng trứng thơm

nhớ chiều nhớ thuở chiều hôm

thuyền đi thấp thoáng cánh buồm trong sương

cù lao Dung ôm đại dương

mênh mông sông Hậu còn vương tấc lòng

nhớ hoài con cá lòng tong

hươ tay khỏa nước đặc sông tìm mồi

và con cá chốt tôi ơi!

kho tiêu ngày cũ nuôi đời dân đen

nhớ thôi trường cũ đường quen

giờ sao lạ hoắc lạnh thềm gạch xưa

nghe đâu hồn cũ bây giờ

nghe đâu trong gió bóng cờ tung bay

thầy Sinh như đứng giảng bài

tóc xanh vưong bụi phấn lay bóng người

mỗi lần cô Lệ nói cười

là như tiếng hát mặn đời tuối thơ

tôi về kỷ niệm xa mờ

nghe trong tiềm thức đợi chờ bóng ai

sáu mươi năm thật là dài

mà sao tiếng gió còn lay sân trường…

.

Trần Phù Thế

……………….

* Phạm Bá Hoa nguyên là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Cần Thơ/Phong Dinh trước 75,  cùng quê Đại Ngãi với Trần Phù Thế và tôi.

NHỚ VỀ ĐẠI NGÃI/ VÀM TẤN

(Gởi thi sĩ Trần Phù Thế & anh Phạm Bá Hoa)

.

Dẫn:

“Đất Sóc Trăng khô cằn nước mặn

Anh ra Vàm Tấn chở nước về xài

Về nhà sau trước không ai

Hỏi ra em đã theo trai mất rồi” (ca dao)

“Muốn ăn ba khía, ốc len [*]

Thì xuống Rạch Gốc khéo quên đường về

Ai mà muốn học thổi kèn

Nạo dừa hầm với ốc len ăn hoài”(Ca dao tây nam bộ)

“Tháng bảy nước chảy Cà Mau

Tháng mười ba khía hội kéo nhau đi làm

U Minh, Rạch Gốc, rừng tràm

Muỗi kêu kệ muỗi tao ham ba khía rồi” (Ca dao tây nam bộ)

.

Nhập:

Dặn lòng thôi nhớ chi quê

Nhắn chi bạn hỡi lời thê thiết buồn!

Nhắc chi ngày cũ thân thương              

Sóng lòng  Đại Ngãi tợ sông vỡ bờ!

.

1.

Tha hương xuân hạ tháng ngày

Hồn quê xưa cũ vẫn hoài trong tôi

Cái tên Vàm Tấn tôi ơi!

Trăm năm vẫn nhớ những lời ca dao

“Ra sông đổi nước ngọt nào

Về nhà trông trước trông sau vắng nàng!

Hỏi ra đã bỏ mất đàng

Theo trai bậu nỡ phụ phàng tình tôi!”

Cái tên Đại Ngãi tôi ơi!

Làm sao quên được một thời thiết tha?

Hồn xưa trường cũ bây giờ

Vẫn trong tôi buổi chào cờ sớm mai

Điếng hồn lời gọi trả bài

Đau tay thước khẽ… thầy rầy nhớ không?

.

2.

Mươi năm dài đủ hay không?

Để quên con nước lớn ròng Hậu giang

Để quên xanh rũ hàng bần

Cầu tre lắt lẻo con còng gió xanh

Cái càng “tổ chảng” “chành bành”

Kẹp tay rướm máu buồn lòng tuổi thơ!

Bãi bùn rượt chạy “có cờ”

Thòi lòi đỏ mắt ngẩn ngơ trố nhìn

Nhớ con “nước lợ” mùa lên

Ốc len ken đặc mùa tình nước rong

Nhớ cua ba khía đỏ càng

Nhớ mùi mắm khía ngọt lòng dân quê

Cá linh theo nước mùa về

Nhớ con cá cháy bụng sề trứng ngon

Ngọt ngào thời ấy có còn?

Thân yêu quê cũ chưa mòn trong tôi!

Đò ngang Nhơn Mỹ thăm người

Cồn xanh trái ngọt miệng cười tay trao

Sầu riêng môi mớm tình nhau

Giờ đây bạc tóc…. lời nào nhớ thương!

Mất nhau từ thuở đoạn trường!

Biệt ly từ thuở bạo cường lên ngôi!

Nhớ đêm Đường Đức tiễn người

Mãi trong tâm thức bóng người bên sông

Ra đi là biết: Đừng mong

Ra đi là biết “xa xăm nghìn trùng”!

Nhớ chi đến Cù Lao Dung?

Nghiệt oan người chịu đau thương người đành!

Oan khiên thấu tận trời xanh

Sinh ly. Tử biệt. Sâm thương cuộc nào!

.

Kết:

Xuân về phố lạ xôn xao

Nhớ chi cố quận mà trào lệ tâm?

Quê giờ đổi mới biết không?

Sao không thay đổi nỗi lòng đã xưa?

Đổi đi thôi chắc cũng vừa!

Làm sao níu được bốn mùa đổi thay?

Cố hương. giấc mộng u hoài

Cố nhân. những tiếng thở dài đêm trôi!

.

Nguyên Lạc

…………..

Chú Thích:

* Đại Ngãi tên cũ là Vàm Tấn, nhà máy xay lúa Tây Nam, Nhơn Mỹ, Đường Đức, Cù Lao Dung là địa danh nhắc trong các bài thơ.

Quê tôi, xã Đại Ngãi (Vàm Tấn) huyện Long Phú – Sóc Trăng tọa lạc ở bờ nam sông Hậu, đối diện ngang sông bờ bắc là Huyện Cầu Kè – Vĩnh Long. Đối diện giữa sông, bên phải là cù lao Dung chạy dài tới cửa biển Đông, bên trái là nhiều cồn nhỏ nổi song song nhau (với những bờ cây bần chạy dọc theo bãi) giữa là khe nước chảy êm đềm. (Dải đất nổi giữa giòng sông, lớn gọi là Cù Lao, nhỏ gọi là Cồn. Vàm là đất tại ngã ba sông)

Cù Lao Dung (dãi đất dài nổi lên giữa sông, bắt đầu từ Đại Ngãi chạy ra tận cửa biển Trần Đề, dài ước lượng khoảng 20 – 24 cây số (12 – 14 miles) (?) ngang độ 1/2 cây số ( 1/4 mile), với “trại cải tạo” Cồn Cát nổi tiếng dành cho các sĩ quan “Ngụy” và những người vượt biển bị bắt.

Trong Cù Lao Dung và trong Đại Ngãi có rất nhiều rạch nhỏ, hai bên bãi bùn có rất nhiều dừa nước, bắt ngang rạch bởi những cầu đòn tre lắt léo. Nơi bãi bùn có nhiều còng gió, cá thòi lòi, ốc len… và các bụi ô rô, cóc kèn…

* Đổi nước: thật ra là mua và bán nước ngọt (nước uống được), nhưng để tránh chữ “bán nước”, người ta nói trại là đổi nước.

* Cây khoai mì (tên miền Nam) hay Sắn (tên miền Bắc)

* Phương ngữ, Khẩu ngữ (slang) miền tây nam bộ:

– “Tổ chảng”: “bự chà bá”, “to tổ chảng” “chành bành” (to quá mức, bự quá mức thường thấy.

– chạy “có cờ”: chạy nhanh thành hàng

* Nước “nhửng” là nước đứng – thời gian giao tiếp giữa ròng/lớn.

* Nước “lợ” là nước hòa trộn giữa nước ngọt/ nước sông từ thượng nguồn đổ xuống với nước mặn/ nước từ biển tràn vào, thường ở mùa nắng/ khô.

[*] — Ốc len

Ốc len (Cerithidea obtusa) là loài ốc thuộc họ Potamididae, sống tự nhiên ở những khu rừng ngập mặn hay các bãi bồi ven biển, đây là loại đặc sản quý có giá trị dinh dưỡng cao được dùng làm nguyên liệu chế biến nhiều món ăn ngon như: ốc len hầm nước dừa.

Ở vùng Đại Ngãi quê chúng tôi, đến mùa ốc len ken đặc xung quanh các bụi dừa nước.

@. Mời các bạn thưởng thức món “Ốc len hầm dừa” của Tạ Phong Tần:

“…Lấy tay bốc con ốc lên, kê miệng vô hút cái rột cho con ốc chạy tọt vô miệng, cái vị béo, vị mằn mặn, ngòn ngọt của nước cốt dừa hòa với mùi thơm của sả, vị ngon lạ lùng đặc biệt của con ốc len mà không có loại ốc nào có, tạo thành một vị ngon riêng không thể diễn tả bằng lời được, mà hãy cứ tự mình nấu rồi tự mình thưởng thức thì mới hiểu vì sao giá ốc len bán ở trên trời. Cho nên, người miền Tây có câu: “Ai mà muốn học thổi kèn/ Nạo dừa hầm với ốc len ăn hoài”.

Ăn ốc len hầm dừa chủ yếu là húp nước cốt dừa và “hửi” thêm mùi vị con ốc, thiệt là giá cho cái sự “hửi” này hơi bị cao chót vót, người nghèo ngó lên trẹo cổ như chơi.

Ăn ốc len phải thưởng thức từ từ mới thấm hết cái vị ngon của nó. Một phần vì nó quá ít, ăn như Trư Bát Giới ăn nhân sâm thì ở đâu có mà ăn, một phần vì con ốc nhỏ mà phải cầm lên mút mút, hút hút cho nó chạy thịt ra, làm sao mà nhanh được. Đôi khi chặt đuôi ốc cạn quá, hút ốc không ra, nước cốt dừa trong con ốc khô rang, không hút nữa mà bỏ con ốc trở vô chén của mình, cho nó thấm nước cốt dừa trở lại, một lúc sau lại bốc lên hút tiếp… “ (“Ốc len hầm dừa” của Tạ Phong Tần – Báo Trẻ online)

(Hình con ốc len)

— Ba khía/ mắm ba khía:

– Con Ba khía (Freshwater Crabs/Three-striped crab): Danh pháp khoa học là Sesarma mederi, là một loại cua nhỏ trong họ nhà Sesarmidae.

Ba khía là một loài họ cua nhỏ có càng to, đặc trưng ở vùng Nam bộ, sống tập trung ở vùng nước lợ, mặn, trải từ Cần Thơ đến Sóc Trăng, Cà Mau, nhiều nhất ở U Minh. Do có ba gạch ở trên lưng nên được đặt tên ba khía.

(Hình con Ba khía)

– Mắm ba khía, là loại mắm được làm từ con Ba khía.

Bài viết sau đây dành cho các bạn ở thành phố không biết về con ba khía/ mắm ba khía mà tôi có liên hệ đến trong bài thơ trên: “Chợ Tình” Ba Khía Cà Mau của Nguyễn thị Việt Hà.

[ Hàng năm, vào mùa nước lên (khoảng từ tháng tám đến tháng mười Âm lịch), ở Cà Mau, ba khía từ những hang ổ dày đặc dưới gốc đước, gốc mắm bị chìm trong nước, ba khía nhiều không biết bao nhiêu mà kể chen chúc nhau bám vào những thân đước, thân mắm. Gọi là “Chợ tình ba khía” cho vui chứ thực ra là ở thời điểm này ba khía quần hội cả một vùng, cư dân nơi này gọi là “ba khía hội”.    

Họ hàng ba khía sống tập trung ở môi trường nước lợ, nơi các cửa sông, cửa rạch đổ ra biển, ba khía có nhiều nhất ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng,… Thoạt trông ba khía rất giống cua đồng hoặc giống con chù ụ ở biển Ba Động Trà Vinh nhưng  vóc dáng nhỏ hơn, càng và ngoe dẹp có thêm  ba vạch ở trên chiếc mai màu sẫm nên “chết danh” ba khía. Rất ngộ, đúng cữ tháng 8, tháng 10 hằng năm, từng cặp ba khía lềnh khềnh bu kín gốc tràm, mắm. Mỗi năm chúng chỉ xuất hiện khoảng 3 ngày, sau đó chúng tản đi đâu hết và năm sau đến hẹn lại lên. Chúng bám nhau sát rạt từng đôi, từng đôi một dày đặc cả một vùng như thể tổ chức “đám cưới” tập thể vậy. Tầm đó ba khía giao phối, sinh sản, cũng là lúc thịt ba khía chắc và ngon nhất. Nét độc đáo của chợ tình Ba Khía ở Cà Mau đã tạo nên điểm nhấn đặc biệt cho vùng đất này.

Ngay tại vùng đất mũi cũng có nhiều sự phân chia vùng sinh sống của ba khía. Chỉ có vùng Rạch Gốc, Tân Ân là ba khía có thịt ngon, thơm và chắc nịch. Ba khía vùng này ăn trái đước, vẹt, đặc biệt là  trái mắm đen – thứ cây có nhiều rễ bám sâu vào lòng đất của vùng bãi bồi, hàng năm rụng trái làm đen cả nước – nên gạch son nhiều và thịt chắc, ăn rất thơm. Những người sống ở Rạch Gốc cho biết ba khía có hai loại ngon: Một là loại có càng to màu xanh chuyên sống trong hang, dưới nước và trong các khu rừng ngập mặn. Hai là loại ba khía này càng nhỏ, thân mảnh nhưng chúng kẹp rất đau. Còn loại ba khía ăn trái mắm trắng có gạch màu tro thì ăn không ngon bằng.

Vào mùa ba khía “sánh đôi” những người dân chuyên nghề “làm ba khía” tứ phương gói ghém gạo, muối, nước, nóp ngủ, khạp da bò, khạp ba vú… chất xuống xuồng, neo đậu ở bìa rừng đợi đêm xuống, khi nước lớn ba khía kéo hàng đàn ra. Ban đêm ở rừng “muỗi kêu như sáo thổi”, những người thợ “săn ba khía” mặc áo dày, che kín mặt mũi, chân tay,  lấy vỏ tràm hay lá mắm khô xé nhỏ độn bên trong áo chống muỗi, cầm đuốc, bơi xuồng  bắt đầu “mùa săn”. Chỉ cần ghé xuồng vào các gốc đước, mắm ba khía bám đầy không có chỗ trống vuốt nhẹ những “anh – chị” ba khía còn đang say sưa tình tự, cho vào khạp hoặc cần xé đặt sẵn trên khoang. Trong một con nước, một người có kinh nghiệm và cần mẫn có thể bắt được một khạp đầy ba khía. Ngày trước, nghề làm ba khía bị xem là nghề hạ bạc của con nhà nghèo, bởi muốn bắt phải ngủ rừng, ăn cơm bờ bụi, chịu muỗi vắt bu kín mình mẩy. Ca dao cũng ghi dấu mùa “săn ba khía”:

“Tháng bảy nước chảy Cà Mau

Tháng mười ba khía hội kéo nhau đi làm

U Minh, Rạch Gốc, rừng tràm

Muỗi kêu kệ muỗi tao ham ba khía rồi.”

Người ta còn gọi Cà Mau là xứ sở con ba khía bởi nó gắn bó với người nông dân ở đây từ hồi lập cõi mở đất để đến bây giờ món ba khía muối trở thành món “lừng danh Cà Mau”. Muối ba khía cũng phải có kinh nghiệm và kỹ thuật, quá trình đơn giản nhưng cách pha nước muối thế nào cho vừa là khó, nếu muối chưa đủ mặn, con ba khía sẽ bủng, không để được lâu. Cho nên phải qua hai lần nước muối, con ba khía mới giữ được màu sắc như khi còn sống, thịt vẫn chắc, mặn dịu, ăn ngon. Kinh nghiệm pha nước muối là bỏ hạt cơm nguội vào, nếu hạt cơm nổi lờ đờ là được. Nước muối chuẩn bị xong thì cho ba khía vào khạp da bò hoặc khạp ba vú ngâm. Tuyệt đối không để nước mưa lọt vào nếu không ba khía sẽ bị “trớ”, có mùi hôi. Phần nước muối còn lại trong khạp khi đã ăn hoặc bán hết ba khía dùng để nấu nước mắm rất ngon.

Từ vài năm nay, người ta chế biến thêm một vài món từ ba khía nhằm phục vụ nhu cầu ăn uống đang đòi hỏi ngày càng đa dạng: Ba khía rang me, ba khía rang mỡ hành, ba khía luộc “khan” chấm muối tiêu chanh ớt, cháo ba khía, gỏi ba khía… Độc đáo hơn còn có món  canh chua ba khía.

Lần về Rạch Gốc, cậu tôi hì hụi nấu canh chua ba khía đãi cháu. Trước tiên, rửa ba khía thật sạch đất bùn, sau đó bóc yếm và bẻ đôi làm hai nửa, tách cả càng, gọng. Tất cả ướp cùng hành lá giã nhuyễn, thêm đường, chút nước mắm, ít tiêu vào trộn đều. Bắc chảo dầu lên bếp, phi tỏi thật thơm rồi cho ba khía  đã ướp vào xào sơ. Khi mùi thơm của ba khía bốc lên cho  cà chua đã bổ miếng vào, đảo đều và nhanh tay cho nước sôi để ngội với lượng vừa ăn. Đợi nồi canh sôi bùng lên, lọc trái giác và một ít bắp chuối đã thái chỉ vào. Ba khía chín, nêm gia vị lại lần nữa cho vừa miệng rồi tắt bếp, rắc thêm tiêu. Lần đầu tiên được ăn món canh chua lạ miệng đó, tôi “quất” một bữa no “đã đời”.

Nói gì thì nói, ba khía có chế biến thành trăm món ngon khác thì cũng không “qua mặt” được món nguyên thủy: Ba khía muối!

Nếu giản dị thì xúc tô cơm nguội, vừa ăn vừa lấy tay bóc con ba khía muối, nút càng chùn chụt đúng điệu dân miền Tây rặt. Công phu hơn thì trộn Ba Khía bằng nước cơm còn ấm, tách yếm ba khía, bẻ ngoe, càng ướp tỏi ớt giã nhuyễn, chút đường cát trắng, thêm nước cốt chanh, xắt trái khế thiệt mỏng hay đập dập mấy trái cóc non bỏ vô tô trộn đều, để một chút cho Ba Khía thấm gia vị… Khi ăn nhất định phải có đầy đủ rau ăn kèm thì ăn món Ba Khía mới “bắt”, đó là dưa leo, chuối chát, rau thơm, rau răm, rau dừa, bông lục bình… Nhiều người ăn cầu kì còn phi mỡ tỏi cho thơm rồi tưới lên tô ba khía đã ướp để tăng độ béo. Món ba khía lúc này đã trở nên tuyệt hảo, ngon nhức răng. Dưa bồn bồn nhận bằng nước vo gạo ăn với ba khía Rạch Gốc thì ăn “chết bỏ”.

Ba khía giờ không còn là món nhà nghèo mà đã được vinh danh trong menu ở các nhà hàng, khách sạn nhưng tình thiệt ăn ba khía trong nhà lá, chan nước chắt cơm, uống nước mưa hay xúc tô cơm nguội với vài con ba khía ngồi dưới gốc dừa vừa ăn vừa bốc mới cảm nhận đầy đủ chất ruộng đồng sông nước miền Tây. Dân miền Τâу quen sống thanh bạch, mộc mạc; сó lẽ vì thế mà ngaу đến cả món mắm ba khía đặc sản cũng rất đỗi bình dị với dân quê. Tình thiệt, mắm ba khía chỉ ngоn nhất khi ăn với… cơm nguội!

Mấy năm gần đây ba khía Cà Mau không còn nhiều như trước, rừng bãi bồi bị phá, trái mắm đen thưa rụng vì cây mắm bị triệt hạ nhiều, ba khía “tủi thân” rủ nhau đi đâu càng ngày càng vắng. Tự dưng nghe nhói lòng khi nghĩ vào những ngày 30 tháng 8 hoặc tháng 9 âm lịch tới, Cà Mau không còn “chợ tình” ba khía thì Cà Mau có còn là Cà Mau… ] – Nguyễn thị Việt Hà

(Hình Mắm ba khía)

— Cá cháy

Cá cháy tên khoa học là Macrura ruversil, cá cháy cùng họ với cá trích nhưng có hình dáng lớn hơn, thường từ biển vào sông để sinh sản. Thông thường, cá cháy chỉ xuất hiện ở các lưu vực cuối nguồn sông Hậu là Vàm Tấn (nay là Đại Ngãi, Sóc Trăng), Tân Dinh (nay là Tân Quy, Cầu Kè, Trà Vinh) và nhiều nhất là ở Trà Ôn (Vĩnh Long).

Cá cháy Vàm Tấn con to nhất từ 1 đến 2kg, thân hình hơi dẹp, dài, xương mềm và có vảy phảng phất màu trắng bạc. Một số loại cá cháy cái mang cặp trứng to ở khoang bụng. Trứng cá cháy không chỉ hấp dẫn bởi vị béo không ngậy mà còn ở hương vị thơm ngon khiến nhiều du khách thèm thuồng muốn nếm thử.

Đặc điểm của con cá cháy là khi bắt lên khỏi mặt nước sẽ chết ngay. Do đó, người đánh bắt phải nhanh chóng chuyển cá vào bờ càng sớm càng tốt, nếu cá ươn thịt sẽ mất hết giá trị.

Xin trích đoạn ra đây bài viết lý thú về cá cháy:

[…

Cá cháy: Quà tặng một thời của sông Hậu

Theo bộ Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của thì cá cháy là một thứ cá to vảy, nhiều xương, cái bụng đầy những trứng.

Theo Wikipedia: Cá cháy thân dẹp, có một kỳ (vây) ở lưng, 2 vây ở mang và 3 vây ở bung đuôi hình chữ V. Chi cá cháy có hai loại: cá nam và cá cháy bẹ. Địa chí Cần Thơ thì lại ghi: “Cần Thơ có những loài cá nổi tiếng, nhất là cá cháy. Cá cháy trước năm 1956 vẫn còn. Khoảng tháng 9 – 10 âm lịch cá xuất hiện nhiều trên sông Hậu từ Cái Côn đến TP. Cần Thơ, nhưng từ đó đến nay thì không còn nữa”.

Thật ra, cá cháy là loại cá có thân hình hơi dẹp và dài, vảy to óng ánh, con to nặng hơn 3kg và dài đến 4-5 dm. Cá cháy thường đi tìn bạn tình và kiến ăn trên sông vào mùa gió chướng, nhất là lúc sương mù dày đặc, trước và sau tết Nguyên Đán. Đó chính là thời điểm bà con ngư dân tập trung khai thác.

Lê Tân, tác giả cuốn Văn hóa ẩm thực ở Trà Vinh, cho rằng, cá cháy là một loài cá biển mang nét đặc trưng riêng, gắn liền với địa danh cầu Quan, thuộc huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh. Có lẽ loài cá này do phù hợp với môi trường sinh thái vùng giáp nước để tìm bạn giao phối và sau đó xuôi về miệt biển sinh sống ở vùng ngập mặn. Chính nhờ vậy mà cá cháy Cầu Quan thơm ngon hơn các vùng khác trên sông Hậu. Ý kiến này đáng tin cậy vì tác giả là người đã từng sống ở Trà Vinh và từng thưởng thức món cá cháy. Tuy nhiên, bảo rằng cá cháy Cầu Quan thơm ngon hơn các nơi khác thì khó thuyết phục được nhiều người.

Tác giả Lưu Văn Nam thì lại mô tả cá cháy như cá trắm, thân thon dài, sống ở vùng nước lợ, đặc biệt trên sông Bassac. Cá về vào khoảng vài tháng trước và sau tết khi nước mặn từ cửa biển đổ vào vùng Tiểu Cần, vàm Cầu Kè (Trà Vinh). Trời cuối đông, đầu xuân, sương mù như từ mặt đất bốc lên nhuộm trắng mặt sông, những con cá cháy trừng lên mặt nước đớp móng liên tục.

Cụ Vương Hồng Sển cho rằng, cá cháy từ biển lên sông Hậu Giang đẻ trứng sanh con, có trong mùa gần Tết và chỉ xuất hiện nhiều từ Vàm Tấn (Đại Ngãi – Sóc Trăng) đến Trà Ôn (Cần Thơ) và miệt Cái Côn, Cái Cau vùng Kế Sách (Sóc Trăng) chứ không lên xa hơn nữa.

Qua nhiều tài liệu, chúng ta có thể xác định con cá cháy không những phân bố nhiều ở Đại Ngãi, Cái Côn (Sóc Trăng), Cầu Quan (Trà Vinh), Trà Ôn (Vĩnh Long)…mà còn xuất hiện ở Cần Thơ, cầu Kè (Trà Vinh), những nơi sông sâu nước chảy và vùng giáp biển.

Ngày nay, đối với những người lớn tuổi ở miền Tây, khi nhắc đến con cá cháy hình như ai cũng tiếc nuối vì loài cá này tự nhiên đã bỏ xứ ra đi một cách kỳ bí giống như một huyền thoại. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, những người đáng bắt trên sông Hậu ít khi nào tìm lại được hình bóng con cá cháy.

Tuy chúng đã biến mất khỏi Hậu Giang, nhưng trong kí ức của nhiều người miền Tây vẫn còn in đậm hình ảnh của con cá cháy. Nhiều câu chuyện về cá cháy vẫn tiếp tục râm ran trong giới sành điệu ẩm thực phương Nam. Đúng là “Sông dài cá lội biệt tăm. Vị ngon còn đó béo bùi vấn vương”.

Món ăn “danh bất hư truyền”

Xưa kia, người dân Trà Ôn rất hãnh diện về nguồn sản vật trời cho:

Trà Ôn cá cháy lạ kỳ

Nấu rim, kho mặn, món gì cũng ngon

Bản thân tôi hồi nhỏ cũng được thưởng thức vài lần. Đúng là ngon tuyện. Có thể nói thịt cá cháy làm gì cũng ngon: nướng, luộc, kho mẳn bằm xoài, kho nước dừa, kho rim với mía, làm gỏi, nấu nước lèo chan bún, món nào cũng có đẳng cấp. Tuyệt nhất là món mắm cá cháy, một thứ mắm “danh bất hư truyền”. Tuy nhiên, phiền một nỗi là cá quá nhiều xương nên trẻ con và một số người chưa quen giẻ xương không thể tận hưởng được mùi vị của cá mà chỉ ăn được trứng và dùng nước súp để chan bún.

Với cá cháy, người nấu nước lèo hoặc kho mẳn chỉ cần cho thêm rau củ mà không cần đường hoặc bột ngọt vì bản thân thịt của nó đã ngọt và ngọt một cách đậm đà. Riêng đối với món ko rim, đòi hỏi người làm phải chăm chút tỉ mẩn. Muốn cho nồi cá rục xương, chúng phải chọn cho được mía lau đem về chặc khúc, chẻ ra từng lát mỏng xếp độn dưới đáy nồi, đổ nước vào và chụm lửa riu riu khoảng vài tiếng đồng hồ. Có người còn sử dụng bí quyết riêng, chỉ ướp cá với muối và nước màu trước khi kho, tuyện đối không dùng đến nước mắm.

Cụ Vương Hồng Sển cho biết tại Sóc Trăng, nhiều bà nội trợ khéo tay đã biết cách tách thịt cá khỏi xương bằng cách dùng đũa gỡ vảy cho sạch rồi chụm hai chiếc đũa trên cổ con cá, nhấn mạnh và kéo mạnh đũa xuống đuôi cá. Tức thì xương theo xương, thịt theo thịt…Ngoài ra, còn nhiều cách làm cho cá bớt xương, đặc biệt là bí quyết kho sao cho xương mềm rệu. Con cá cháy cái có buồng trứng rất to. Đó là bộ phận hấp dẫn nhất đối với người mê cá cháy, tuy nhiên không được ăn nhiều vì trứng có chất dầu dễ làm ảnh hưởng đến tiêu hóa. Cụ Vương rất mê trứng cá, cụ ca ngợi trứng cá là món “quốc hồn”. Chúng ta hãy nghe cụ diễn tả: “Một khứa cá cháy có trứng, kho một lửa, ăn và với bún, ớt xoài chua với một mớ giá đậu xanh lót dưới tô thì đổi với hộp caviar tôi không đổi”.

Đặc điểm của con cá cháy là khi bắt lên khỏi mặt nước sẽ chết ngay. Do đó, người đánh bắt phải nhanh chóng chuyển cá vào bờ càng sớm càng tốt, nếu cá ươn thịt sẽ mất hết giá trị. Cũng theo cụ Vương Hồng Sển, cá cháy đánh bắt ở Cần Thơ sẽ kéo lưới vào lúc chạng vạng, ai muốn ăn phải đợi tới khuya. Còn cá cháy ở Vàm Tấn (Sóc Trăng) thì lưới vào sáng sớm nên việc mua bán thuận lợi hơn, ăn cá tươi ngon hơn. Vì cá cháy quá ngon, trứng cá cháy quá bùi nên có một nhà thơ nào đó đã cảm hứng:

Thơm tho khói thuốc mùi Cao Lãnh,

Cá cháy bùi ngon vị Sóc Trăng.

Giờ đây con cá cháy miền Hậu Giang chỉ còn trong hoài niệm.Tuy chúng đã biến mất khỏi Hậu Giang, nhưng trong kí ức của nhiều người miền Tây vẫn còn in đậm hình ảnh của con cá cháy.

Hy vọng một ngày nào đó cá cháy sẽ quay về…]- (Trích nguồn: Cá Cháy Và Sự Ra Đi Kỳ Bí Của Cá Cháy- Báo Kiến Thức ngày nay số 820 ra ngày 20/05/2013)

.

Thời tiết quê tôi:

Xin được dùng bài thơ sau đây để nói về thời tiết Đại Ngãi nói riêng và Nam bộ nói chung:

Quê hương tôi không có mùa thu

Biết lấy chi mơ thu sương mù?

Dòng Cửu Long lặng lờ soi bóng

Sầu tiễn người rụng trái mù u!

.

Nam bộ tôi không có mùa thu

Chỉ nắng mưa thay đổi hai mùa

Tiễn chân em về bên xứ lạ

Bìm bịp sầu khan tiếng tiễn đưa

.

Mùa quê tôi không thu mắt em

Không đón đưa ga nhỏ êm đềm

Không rượu vang đèn vàng tiễn biệt

Chỉ hàng bần xanh thẫm đóm đêm!

.

Mùa mưa lâu buồn lên mắt em!

Mưa trên sông mờ mắt kiếm tìm

Theo con nước lục bình hoa tím

Bám vào thuyền ghì chặt… buồn thêm!

*

Quê hương tôi không có mùa thu

Không biệt ly ga nhỏ sương mù

Không “mong em trái sầu chín đỏ” [*]

“Em tóc vàng sợi nhỏ mắt nâu”

.

Hậu Giang tôi không có mùa thu

Không biệt ly thu đẫm sương mù

Chỉ thảm buồn con thuyền rời bến

Ra đi! Lòng thương nhớ xuân thu!

.

Vắng bóng em tháng chín quê tôi

(Chắc nơi kia mùa thu kinh kỳ?)

Giọt mưa rơi trên sông ngầu đục

Lạnh một dòng sầu nỗi biệt ly!

.

Quê hương tôi không có mùa thu

Chỉ nắng mưa thay đổi hai mùa

Những dòng sông hiền hòa bình dị

Ấp ủ tình điệu lý hò ru

………………

[*] Lời nhạc Mùa thu Paris – Phạm Duy, thơ Cung Trầm Tưởng

.

III. Lời Kết

Xin ghi ra  đây bài thơ xem như lời kết bài viết về Đại Ngãi/Vàm Tấn quê tôi:

Vẫn Còn Một Vùng Quê Trong Tôi

.

Vẫn còn một vùng quê trong tôi

Con nước lên dòng đục bồi hồi

Hồng trắng súng, vàng bông điên điển

Bập dừa nước tuổi trẻ tập bơi

.

Con kênh, rạch xuôi ngược một đời

Mùa nước đổ cá Biển Hồ bạc trắng

Những lưới vó bên chiều nhạt nắng

Nặng khoang xuồng mùa vụ cá linh

.

Luống cà tím, giàn khổ qua đắng

Trái bần xanh chua ngọt tô canh

Mùa rộ tình ken con ba khía

Màu tím xanh còng gió to càng

.

Trắng bầy cò chiều lam mênh mông

Lững lờ bay sợi khói đốt đồng

Tiếng kẽo kẹt bờ tre xanh mộng

Tiếng trâu về nghé ngọ sau sân

.

Vẫn còn một vùng quê trong tôi

Tuổi thơ ngây cõng nắng một thời

Tiếng sáo diều ru lời tuổi mộng

Vẫn mãi còn quê hương tâm tôi!

.

Nguyên Lạc

©T.Vấn 2022

Bài Mới Nhất
Search