T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Nguyên Lạc: THƠ HAY TỨ TUYỆT

 THủy Mặc

Thủy Mặc – Tranh: Mai Tâm

 

(VÀI Ý NGHĨ VỀ THƠ

BÀI THƠ TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP)

 

A. Sơ lược về Thơ Đường luật.

.Thi pháp của Tàu và âm luật của ta: Như chúng ta đã biết, thơ Nôm ta làm theo phép tắc thơ Tàu, và âm thanh tiếng ta cũng tương tự tiếng Tàu, cùng là thứ tiếng đơn âm và cùng chia thành âm bằng trắc (trầm bổng). Nên thi pháp của ta tức là thi pháp của Tàu và các niêm luật của thơ ta cũng phỏng theo thơ Tàu .

1.Thơ ngũ ngôn và thơ thất ngôn: Thơ là thể văn, có thanh, có vần, có thể ngâm vịnh được. Theo số chữ trong câu, thơ cổ có hai lối chính:

— Ngũ ngôn, mỗi câu năm chữ

— Thất ngôn, mỗi cây 7 chữ

2.Thơ cổ phong và thơ Đường luật: Theo cách làm, thơ chia làm hai thể:

— Cổ phong là thể thơ có trước đời nhà Đường, không theo niêm luật nhất định.

— Đường luật hoặc Cận thể là thể thơ đặt ra từ đời nhà Đường (618-907) phải theo niêm luật nhất định.

3.Thơ Tứ tuyệt và thơ Bát cú: Theo số câu, thơ Đường luật chia làm hai lối:

— Tứ tuyệt, mỗi bài bốn câu.

— Bát cú, mỗi bài tám câu.

 

B. Sơ lược về thơ Tứ Tuyệt

I. Thế nào là TTuyt?

1. Đnh nghĩa.

Tứ là bốn, Tuyệt là dứt, ngắt.

Sở dĩ có tên gọi như vậy là vì thể thơ này ngắt bài Đường luật tám câu ra, lấy bốn câu thôi

2. Các cách làm thơ TTuyt.

Vì một bài thơ tám câu có thể ngắt nhiều cách, nên cũng có nhiều cách làm thơ Tứ Tuyệt:

1/ Ngắt bốn câu trên, thành ra bài thơ ba vần, hai câu trên không đối nhau, hai câu dưới đối nhau.

Thí dụ:
Con voi (Lê Thánh Tôn?)
(so sánh với biểu Thất ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở dưới)

Xông pha bốn cõi bể chông gai,
Vùng vẫy mười phương bụi cát bay.
Phép nước gọi là tơ chỉ buộc, [3]
Sức này nào quản búa rìu tay.[4]

[3] và [4] đối nhau.

2/ Ngắt 4 câu giữa, thành ra bài thơ 2 vần, cả bốn câu đối nhau

Thí dụ:
Khóm gng ti (Ôn Như Hầu)
(so sánh với biểu Ngũ ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở dưới)

Lởm chởm vài hàng tỏi [1]
Lơ thơ mấy khóm gừng [2]
Vẻ chi là cảnh mọn, [3]
Mà cũng đến tang thương [4]

[1] và [2] đối nhau, [3] và [4] đối nhau .

3/ Ngắt 4 câu dưới, thành ra bài thơ hai vần, hai câu trên đối nhau, hai câu dưới không đối.

Thí dụ:
Đchùa Vô vi (Vô danh)
(so sánh với biểu Ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng ở dưới)

Vắt vẻo sườn non Trạo [1]
Lơ thơ mấy ngọn chùa. [2]
Hỏi ai là chủ đó?
Có bán tớ xin mua

[1] và [2] đối nhau.

4/ Ngắt 2 câu đầu và 2 câu cuối, thành ra bài thơ 3 vần, cả 4 câu không đối.

Thí dụ:
Cái pháo (Nguyễn Hữu Chỉnh)
(so sánh với biểu Thất ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở dưới)

Xác không, vốn những cậy tay người,
Bao nả công trình, tạch cái thôi!
Kêu lắm, lại càng tan tác lắm.
Thế nào cũng một tiếng mà thôi.

5/ Ngắt hai câu 1-2 với hai câu 5-6 , thành ra bài thơ 3 vần hai câu cuối đối nhau.

Thí dụ:
Con cóc (Lê Thánh Tôn)
(So sánh với biểu Thất ngôn bát cú, luật trắc, vần bằng ở dưới )

Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi,
Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi
Tép miệng năm ba con kiến gió [3]
Nghiến răng chuyện động bốn phương trời [4]
[3] và [4] đối nhau.

Nếu câu thơ trong bài chỉ có năm chữ, ta gọi đó là bài ngũ ngôn ttuyt; bảy chữ ta gọi tht ngôn ttuyt, sáu và tám chữ ta gọi lục bát tứ tuyệt.v.v..

II. Làm thế nào viết được mt bài TTuyt?

Để bàn về việc này, tôi xin giới thiệu thiền sư Muju (Nhật: Japan) sẽ hướng dẫn và minh họa hầu các bạn:

Người ta hi mt thi sĩ Nht ni danh rng làm thế nào viết được mt bài thơ ttuyt ca Trung Hoa. Thi sĩ ging gii: Câu đu cha phn khi nhp; câu hai là phn chuyn tiếp ca câu đu; câu ba chuyn từ đề mc và bt đu mt ý mi; và câu bn gm ba câu trước hp li vi nhau. Mt khúc dân ca Nht minh ha ý này:

“Hai cô con gái ca mt người bán la Kyoto,

Cô chhai mươi, cô em mười tám.

Mt anh lính có thgiết người vi lưỡi kiếm ca anh ta,

Nhưng hai cô gái này giết đàn ông vi đôi mt ca các nàng.” (3)

III. Cách làm thơ Tứ Tuyệt hay

Ngài Muju đã có một minh họa tuyệt vời cho thể thơ Tứ Tuyệt, nhưng đó chỉ mới là thể thơ, tức là mới chỉ có hình thức mà thôi. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu tiếp, làm thế nào để làm được một bài thơ Tứ Tuyệt cho hay.

1. Định nghĩa thế nào là thơ

Trước hết, ta cần định nghĩa thế nào là thơ:

Để giải thích rõ về việc này, tôi xin nhờ Phạm Đức Nhì nói hộ:

[ Theo tôi, mục đích chính của Văn là chuyển tải thông điệp. Cũng có khi có cảm xúc, nhưng nếu không có cũng không sao. Nhưng với Thơ thì cảm xúc là cốt yếu; nếu thiếu cảm xúc thì thơ sẽ không còn là thơ nữa, mà thành thể loại khác.

Tôi đồng ý với Nguyễn Đình Thi khi ông viết “Làm thơ, ấy là dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời nói -tức là chữ- để thể hiện một trạng thái tâm lý đang rung chuyển mạnh mẽ khác thường” thơ không nói bằng ý niệm thuần tuý, bởi nếu thế, thơ đã bị đánh đồng với đạo đức (luân lí), triết học… Con đường của thơ hướng tới việc “lay động những chiều sâu của tâm hồn, đem cảm xúc mà đi thẳng vào sự suy nghĩ.” … (Mấy Ý Nghĩ Về Thơ)

Còn Nguyễn Hưng Quốc thì cho rằng “Thơ là cảm xúc (bằng kỹ thuật thơ) đi tìm một đồng cảm” (mấy chữ trong ngoặc đơn là của PĐN thêm vào để tránh hiểu lầm).

Có hai đặc tính để nhận ra một “Bài Thơ” không phải là Thơ:

1. Nó hoàn toàn là sản phẩm của lý trí.

hoặc là:

2. Tác giả đã bước vào khung cảnh của “Bài Thơ” nhưng chưa có những câu Sinh Tình.

a. Thí d Minh giải 1:

— Sản Phẩm Của Lý Trí:

Hình Vuông

Muốn tìm chu vi hình vuông

Lấy cạnh nhân bốn lệ thường nhớ ghi

Diện tích hình vuông khó gì

Lấy cạnh nhân cạnh sai đi đường nào

Môt ông thầy dạy toán nào đấy đã mượn thể thơ lục bát để diễn tả một công thức toán cho học trò dễ nhớ. Nội dung của 4 câu lục bát hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, không có một chút cảm xúc nào. Đây không phải là thơ.

— Sinh Tình

Anh Yêu Khoảnh Đất Hình Vuông

Ôi! Khoảnh đất hình vuông

ở giữa là căn nhà nhỏ bé

vách đất, mái r

nơi anh đã gởi cả trái tim

vì trong căn nhà đó có em.

(PĐN chế để minh họa)

Ở đây tác giả đã bước vào, đã xuất hiện trong khung cảnh thơ, tâm đã đối cảnh. Và đã có cảm xúc. Hay dở chưa bàn đến, nhưng Anh Yêu Khoảnh Đất Hình Vuông đã có thể gọi là thơ.

b. Thí d Minh giải 2:

— Sản Phẩm Của Lý Trí:

Công Cha Nghĩa M

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con

(Ca dao)

Một nhà Nho đã đem quan niệm về chữ hiếu của Khổng Tử dàn trải trong 4 câu lục bát để loan truyền trong dân gian. Đây chỉ là sản phẩm của lý trí, tâm chưa đối cảnh, không có cảm xúc, không thể gọi là thơ.

— Sinh Tình

Thôi xa rồi mẹ ơi

lệ nhòa mi mắt

mong con phương trời

có lần chợt tỉnh đêm vơi

nghe giòn tiếng súng nhớ lời phân ly

mẹ ơi con mẹ tìm đi

bao giờ hết giặc con về mẹ vui.

(Nhà Tôi – Yên Thao)

Tác giả đã bước vào khung cảnh thơ, cảm xúc đã dạt dào. Đích thị là thơ. ]

Chúng ta đã hiểu thế nào là thơ rồi, phần kế tiếp sau đây liên hệ đến thế nào là THƠ HAY.

2. Thế nào là thơ hay:

a. Lan Man Về Cái Tôi

Trước khi bàn về THƠ HAY và cách làm thơ Tứ Tuyệt hay, xin cho phép lại mời  Phạm Đức Nhì một lần nữa thủ thỉ với các bạn về THƠ CÓ HỒN.

[… Thông thường có ba loại CÁI TÔI:

— CÁI TÔI VĂN HOÁ (Lý Trí): tuân thủ rất nhiều nguyên tắc giao tiếp, ứng xử trong xã hội. Xã hội càng văn minh số lượng nguyên tắc càng nhiều.(Cái Tôi Phải Đạo – NL)

Lý Trí là Kẻ Thù Của Thi Sĩ Trong Lúc Làm Thơ. Thi sĩ làm thơ trong lúc tỉnh táo quá thì những điều viết ra sẽ được cân nhắc, suy hơn, tính thiệt kỹ càng. Đó sẽ là những vần thơ phải đạo, được “đạo diễn” bởi “cỗ máy biết suy nghĩ” – “cái tôi văn hóa”. Nếu thi sĩ có kỹ thuật thơ cao cường – ngôn từ trong sáng, thế trận chữ nghĩa chặt chẽ, hiệu quả – thì thơ vẫn có cảm xúc, vẫn có thể “hay” nhưng không có Hồn.

— CÁI TÔI “TEO CHIM”: Nghĩ đến chết chóc, tù đày, gia đình bị tước đoạt mọi phương tiện, nguồn sống, ngòi bút của thi sĩ đôi lúc phải cong lại hoặc vừa viết lại vừa phải “lách”. (4) [“hòa quá nhiều nước lã vào mực.” (Modern poets mix too much water with their ink – Goethe) (Nghĩa là không chân thật, không lương thiện – NL)]

— CÁI TÔI ĐÍCH THỰC: Khi thi sĩ thật cao hứng, lên cơn điên vì yêu, hận (giận), vui sướng, buồn bã, ghen ghét, ham muốn cảm xúc sẽ sôi lên phủ mờ lý trí, “cái tôi đích thực” sẽ vùng dậy đẩy “cái tôi văn hóa” (và “cái tôi teo chim”, nếu có) vào bóng tối để dành quyền “đạo diễn” bài thơ của mình. Thi phẩm viết ra trong tâm cảnh ấy sẽ chẳng màng đến chính kiến, lập trường, truyền thống, đạo đức, lễ giáo, thước đo giá trị của người đời mà chỉ là những gì tuôn trào ra ngòi bút bởi “cơn điên” của thi sĩ đang thôi thúc trong lòng. Lúc ấy kỹ thuật thơ vẫn mang dáng dấp đẳng cấp của thi sĩ nhưng lời thơ, tứ thơ – không còn bị chi phối bởi cái tôi văn hóa – sẽ là tâm tình chân thật của “cái tôi đích thực”. Nếu thi sĩ chọn được thể thơ thích hợp, tứ thơ sẽ chảy thành dòng, cảm xúc sẽ lớn mạnh, bài thơ sẽ CÓ HỒN, thông điệp của thi sĩ sẽ đi vào lòng độc giả một cách dễ dàng…] (PĐN)

b. THƠ HAY.

Qua trên, chúng ta thấy muốn làm THƠ HAY thì THƠ PHẢI CÓ HỒN, nghĩa là :“CÁI TÔI ĐÍCH THỰC” sẽ vùng dậy đẩy “CÁI TÔI VĂN HOÁ ” (và CÁI TÔI “TEO CHIM”, nếu có) vào bóng tối để dành quyền “đạo diễn” bài thơ.

THƠ HAY là thơ đọc qua liền nghe lòng mình thổn thức, thuộc và nhớ rất lâu! Như người nữ đẹp (giai nhân), gặp qua một lần là suốt đời không quên!

Đọc một bài Tứ Tuyệt, muốn biết nó đáng được gọi là THƠ HAY hay không thì phải thẩm xem câu cuối (kết) có mang lại cho ta bất ngờ tự nhiên, sảng khoái không! Nếu không thì hỏng !

Có hai trường hợp:

1b. Khi làm một bài TỨ TUYỆT, quan trọng và khó khăn nhất lại là ở… câu đầu! Thường những người làm TỨ TUYỆT thường hay bị mắc lỗi ở chỗ này: bị ấn tượng bởi những bài thơ đã đọc, nên họ cứ nhè câu kết mà hạ trước, rồi mới vắt óc viết mấy câu đầu! Hậu quả là bài thơ đọc lên sẽ thấy gượng ép!

Làm thơ cũng như… LÀM TÌNH, ta phải để hết tâm hồn vào cuộc chơi. Phải tự nhiên. Cho nên, xin các bạn, hãy nhẹ nhàng, khoan thai “tóm” lấy câu đầu đã, mà khoan nghĩ đến câu kết. Khi câu đầu đã có thì tự nhiên câu thứ hai sẽ đến; tuần tự cứ thế, rồi thì cuối cùng câu kết sẽ tự nó đến với bạn thôi. ( LeVinhHuy)

2b. Nếu gặp trường hợp bạn định làm một bài Tứ Tuyệt mà lại nẩy ra câu kết trước thì phải làm thế nào? Bạn cho rằng đó là một câu kết tuyệt cú, “đắc địa” cho bài thơ của mình, bạn thích nó quá đi và không muốn vất bỏ nó chút nào! Thế thì sao bạn không tận dụng, dùng luôn câu đy mà làm câu khi? Khi ấy, chẳng phải bài thơ của bạn sẽ vọt lên một tầm cao mới sao?!

Đây là ý kiến của Laiquangnam Lai:

[…Trong thơ Tứ Tuyệt, câu cuối cực kỳ quan trọng bởi nó là câu mà trước khi người thưởng ngoạn rời bài thơ họ rất dể nhớ nhũng gì còn đọng .Ba câu đầu là nước trên mặt phễu (câu 1), vào miệng phễu và thân phễu (câu 2 ,3) rồi thoát ra với độ xoắn tâm tư là câu cuối (câu 4)

Theo tôi (LQN) cao thủ luôn làm cầu kết trước , hoặc dốc sức vào câu kết mà ta không thấy đó thôi. Ta không thấy họ làm cầu kết trước thế nhưng “có đấy”. Từ bài Lương Châu Từ. của Vương Hàn đến bài Bạc vãn túy quy của Cao Bá Quát, v.v . Người Việt ít làm thơ tứ tuyệt. Đại cao thủ Nguyễn Du không có bài nào (Hay chỉ mỗi một bài duy nhất?) Tàu thì nhiều lắm .

Nguyễn Du đã làm cầu cuối trước. Nhưng khi ráp 6 câu đầu vào thì trật chìa (do đời sau ghép ) Vì d: Bài Độc Tiểu Thanh Ký. Do hai câu cuối làm trước.

BẤT TRI TAM BÁCH DƯ NIÊN HẬU

THIÊN HẠ HÀ NHÂN KHẮP TỐ NHƯ

Ráp 6 câu đầu không khớp (do mấy nguoi đời sau ráng lắp ghép, một cách cuõng bức, bởi Nguyễn Du là kẻ sĩ sao lại tự so đời mình với một “cô làm bé cho một ĐẠI GIA (Phùng Sinh)”?, và họ đã để Nguyễn Du mang tiếng làm thơ thất niêm. Đó là một bài thơ Ghép Cặp tào lao nhất mà thế hệ Đào Duy Anh đã để lại cho thế hệ sau hậu quả nghiệm trọng. [ Từ đó, sự sai trái này AI ĐÓ “canh me” Lãnh đạo có khen bài này không thì ta khen theo – và đưa vào sách Giáo Khoa – vào GOOGLE SEARCH gỏ ĐỘC TIỂU THANH KÝ (Nguyên Lac)]

Đánh giá xếp hạng cao thủ về giòng Tứ Tuyệt là câu cuối: Có chút mình trong ấy. Có chút đại chúng, dân tộc và nhân loại trong ấy…] (Laiquangnam Lai)

3. Thử phân tích một bài thơ

Nào! ta hãy thử phân tích bài thơ sau đây dựa theo hướng dẫn của thiền sư Muju.

Con sông Vàm Cỏ Tây trong vắt [1]

Trong vắt như đôi mắt lá răm [2]

Chiến trường trăm trận chưa hề bại [3]

Mà chết vì em tuổi nguyệt rằm. [4]

(thơ Phạm Hồng Ân)

Ta thấy

[1] là khởi nhập,

[2] là chuyển tiếp của [1]

[3] chuyển từ đề mục và bắt đầu ý mới

[4] gồm ba câu trước lại với nhau đưa tới chủ ý

Rõ ràng quá phải không các bạn! Các bạn làm thử đi, chắc phải tuyệt thôi!

IV. Vài bài Tứ Tuyệt tiêu biểu

Sau đây là ít bài trong số tứ tuyệt mà tôi chỉ đọc qua một lần là tạc dạ, nhớ mãi:

Phong Kiều dạ bạc

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

Cô Tô thành ngoại Hàn San tự

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

(Trương Kế)

Đỗ thuyền đêm ở bến Phong Kiều

Quạ kêu sương đậm trăng tà

Đèn thuyền phong rủ đối qua giấc hồ

Hàn San tầm thấy Cô Tô

Nữa khuya chuông gióng bước vô khách thuyền

(Laiquangnam Lai dịch)

Tĩnh dạ tứ

Sàng tiền mình nguyệt quang,

Nghi thị địa thượng sương.

Cử đầu vọng mình nguyệt,

Đê đầu tư cố hương.

(Lý Bạch)

Dịch:

Đầu giường trăng sáng đứng soi

Nhởm mình ngỡ đất bời bời sương rơi

Ngẫng đầu trăng vãi trắng trời*

Cúi đầu đối bóng bồi hồi nhớ quê

(Laiquangnam Lai dịch)

[*– trăng quê nhà sáng hơn trăng quê người.

— vãi ? tại sao Vãi – bởi ánh trăng vắt trên cành lá như những hạt gạo lốm đốm trên sân.]

Vn Hoài thu(5)

Tự ta danh lợi khách,

Nhiễu nhiễu tại nhân gian.

Hà sự trường Hoài thuỷ,

Đông lưu diệc bất nhàn ?

(Bạch Cư Di)̣

Dịch:

Trong vòng danh lợi thương ta,

Cái thân nhăng nhít cho qua với đời.

Việc chi, hỡi nước sông Hoài ?

Cũng không thong thả, miệt mài về đông ?

(Tản Đà -1938 )

Đó ba bài Tứ Tuyệt của người Trung Hoa, sau đây là vài bài của người Việt Nam mình.

NAM QUỐC SƠN HÀ (Bài Thơ TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP) (6)

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên phân định tại Thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

(Lý Thường Kiệt)

SÔNG NÚI NƯỚC NAM

Nước non Nam Đế Nam hùng cứ!

Phân định sách trời xưa tỏ nay,

Lỗ mãng! cớ sao sang lấn phạm,

Ngữ bây thất bại chắc trong tay !

(Laiquangnam dịch)

.Thuật hoài

Hoành sóc giang san cáp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.

(Thuật hoài – Phạm Ngũ Lão)

Ngọn giáo non sông trải mấy thâu,

Ba quân hùng hổ át sao Ngưu.

Công danh nếu để còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

(Tỏ lòng – Phan Kế Bính dịch)

. Bạc vãn túy quy

Minh đính quy lai bất dụng phù

Nhất giang yên trúc chính mô hồ

Nam nam tự dữ liên hoa thuyết

Khả đắc hồng như tửu diện vô ?

(Bạc vãn túy quy -Cao Bá Quát)

Say quá! đường về… cứ mặc ta .

Một sông khói trúc án lòa nhòa

Càm ràm cô độc bên sen đỏ

Rượu đỏ mặt này Sen kém Qua!

(Laiquangnam – Dịch thơ quốc âm)

Mt trà, mt rượu, mt đàn bà,

Ba thc lăng nhăng nó quy ta.

Cha được thc nào hay thc ny:

– Ha chăng cha rượu vi cha trà!

(Chừa ruợu – Trần Tế Xương)

Thân em như qumít trên cây,

Da nó xù xì, múi nó dy.

Quân tcó thương thì đóng cc,

Xin đng mân mó nha ra tay.

(Quả mít – Hồ Xuân Hương)

Tứ tuyệt của vài ông thi sĩ hiện đại:

— Của thi sĩ Hoàng Lộc (HL)

Ai lại về khi trời sang đông

Ai lại về đứng ngó bờ sông

Khi đưa tay níu thân cầu gãy

Buồn như mưa, buồn ơi vô chừng…

(Về Hội An Mới Thấy Buồn – Hoàng Lộc)

— Của thi sĩ Nguyễn Hàn Chung (NHC)

Mây đã từng sương mây đã mưa

Sương đã từng mây đã mệt nhoài

Đã bay về núi sương rơi đã

Mây đã chiều tan sương đã phai

(Đã – Nguyễn Hàn Chung)

Đàn bà giống như bọt bia trào xuống tay mình

Không một thằng bợm nào bỏ qua không chấm mút

Nhưng chớ dại nốc cạn cùng đáy cốc

Đời chú mày không liệt cũng run run!

(Nguyễn Hàn Chung)

— của thi sĩ Hồ Chí Bửu (HCB)

Nửa đêm thức dậy làm thơ

Tặng người tri kỷ bên bờ đại dương

Hỗn man thiên địa vô thường

Sáng ra mới thấy trên giường. Vắng em

(Thiên Lương 1 – Hồ Chí Bửu)

— của thi sĩ Linh Phương (LP)

Bùa yêu rớt xuống sân đời

Ai đem dán giữa ngực người trăm năm

Để anh tìm lại khuyết-rằm

Vầng trăng thành phố Sài Gòn và em

(Bùa Yêu – Linh Phương)

— Của ông thi sĩ tôi tâm đắc, Nguyễn Đức Sơn (NĐS)

Đời sau người có thương ta

Từ lâu xuống lỗ làm ma mất rồi!

Đường xa…

Thôi,

miễn bồi hồi

Mả hoang nhảy đại lên ngồi đi cha!

(Nhắn – Nguyễn Đức Sơn)

***

Mọi việc đều phải biến đổi để tồn tại! Ta phải cách tân để làm đẹp thêm, như các ông HL, NHC, NĐS, LP, HCB đã làm đó.

Xin hiểu, những phần bàn trên chỉ là căn bản thôi, nó chỉ như “giàn phóng” để “phi thuyền tâm hồn” bay vút! Phải không thi nhân?

Nguyên Lạc 2017

 

Phụ Bản

Biu Ngũ ngôn – Tht ngôn bát cú: lut bng (B) trắc (T)

clip_image002

 

Nguồn: Việt Nam văn học sử yếu – Dương Quảng Hàm, Đỗ Đình Đồng, Laiquangnam Lai, LeVinhHuy, Phạm Đức Nhì, Facebook…

Ghi chú:

(1) Ngôn hoài

Trạch đắc long xà địa khả cư

Dã tình chung nhật lạc vô dư

Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh

Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.

(Không Lộ thiền sư)

Chọn nơi địa thế đẹp sông hồ

*Vui thú tình quê quen sớm trưa*

Có lúc trèo lên đầu chóp núi

Kêu dài một tiếng lạnh hư vô.

(thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch )

@ Laiquangnam – THỬ ĐỀ NGHỊ MỘT GIẢI PHÁP GIỚI THIỆU THƠ TIỀN NHÂN TA

http://www.art2all.net/tho/laiquangnam/lqn_ngonhoai_phan1.htm

(2) Yêu Thơ Nên Phải Hết Lòng Với Thơ – Phạm Đức Nhì.

http://phamnhibinhtho.blogspot.com/search/label/Tho%20ve%20tho

(3) Thạch sa tập – Thiền sư Muju (bản dịch của Đỗ Đình Đồng – Góp nhặt cát đá)

(4) Nguyen Lac giới thiệu thêm:

-Nguyễn Hưng Quốc: http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=150&rb=06

(5) Vn Hoài thu(Bạch Cư Dị)

Tự ta danh lợi khách,
Nhiễu nhiễu tại nhân gian.
Hà sự trường Hoài thuỷ,
Đông lưu diệc bất nhàn ?

Chú vài từ:

1- Vấn Hoài thuỷ tạm dịch “ Xin hỏi dòng sông Hoài”

2- Lợi ngoài nghĩa thông thường trong Việt ngữ như bạn đã biết như lợi lộc, danh lợi. Trong câu này có nghĩa là ham muốn, hám. Nhiễu là làm phiền Việt ngữ: “phiền nhiểu ”
Hà dùng đầu câu mang ý hỏi vặn: Cớ nào, vì sao?

Ý thơ:

Tự mình sa vào chốn quan trường , ham danh háo lợi ;
Thế nên nay tuy ta sống tại cõi nhân gian này, nhưng cuộc đời ta nó chả ra đám ôn gì.
Chợt nhìn thấy giòng sông Hoài chảy xiết về biển Đông, ta xin hỏi dòng sông kia một câu .”cứ miệt mài nhắm về biển đông mà góp sức mình, không chịu ngơi nghĩ, thế thì làm sao mà giòng sông biết được Nhàn là cái quỷ quái gì hả ?

Dịch thơ quốc âm:

01. Xin hỏi dòng sông Hoài (Thất ngôn)

Ai biểu ham chi cái lợi danh
Bị đời nhũng nhiễu phải âu đành
Sông Hoài cố giúp lời ta hỏi
Miền miệt về Đông, Nhàn lánh Khanh ?

02. Xin hỏi dòng sông Hoài (Lục bát)

Hám danh Ai biểu ham chi !
Nhân gian ta sống lắm khi ưu phiền
Sông Hoài, Ta hỏi Bạn hiền
Về Đông mài miệt ….nhãn tiền NHÀN bay (bye)

(Laiquangnam Lai)

@. Về Cao Bá Quát – Bạc vãn tuý quy:

http://www.art2all.net/tho/laiquangnam/lqn_caobaquat_bacvantuyquy.htm

(6) Nói thêm về bài thơ Tứ Tuyệt thần: NAM QUỐC SƠN HÀ

– 6a. Nguồn Phạm Đức Nhì:

Năm 1076, hơn 30 vạn quân nhà Tống (Trung Quốc) do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược Đại Việt (tên nước Việt Nam thời đó). Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến tại sông Như Nguyệt (sông Cầu) để chặn địch. Quân của Quách Quỳ đánh đến sông Như Nguyệt thì bị chặn. Nhiều trận quyết chiến ác liệt đã xảy ra tại đây nhưng quân Tống không sao vượt được phòng tuyến Như Nguyệt, đành đóng trại chờ viện binh. Đang đêm, Lý Thường Kiệt cho người vào đền thờ Trương Hống, Trương Hát ở phía nam bờ sông Như Nguyệt, giả làm thần đọc vang bài thơ trên. Nhờ thế tinh thần binh sĩ lên rất cao. Lý Thường Kiệt liền cho quân vượt sông, tổ chức một trận quyết chiến, đánh thẳng vào trại giặc. Phần vì bất ngờ, phần vì sĩ khí quân Đại Việt đang lên, quân Tống chống đỡ yếu ớt, số bị chết, bị thương đã hơn quá nửa. Lý Thường Kiệt liền cho người sang nghị hòa, mở đường cho quân Tống rút quân về nước, giữ vững bờ cõi nước Đại Việt. Ý và tứ của bài thơ giống nhau và rất rõ ràng, một người dân bình thường cũng có thể hiểu được, không cần giải thích. Lúc ấy ý niệm về Luật Quốc Tế (International Law) còn rất xa lạ. Tác giả đã khéo léo lồng ý tứ bài thơ – quan niệm về chủ quyền quốc gia – vào thuyết thiên mệnh, một học thuyết gần gũi với suy nghĩ của người dân. Ý thơ hay và đầy sức thuyết phục nên binh sĩ đã hết lòng chiến đấu và đã đánh thắng quân Tống, giữ vững cõi bờ Đại Việt. Nhờ ý tứ mới lạ và độc đáo đó bài thơ đã được xem là tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nuớc. Hơn một ngàn năm trôi qua nó được tôn xưng là bài thơ có ý tưởng hay nhất của văn học Việt Nam và tôi tin rằng ngày nào nước Việt còn tồn tại bài thơ Nam Quốc Sơn Hà sẽ không bao giờ đi vào quên lãng.

(BÀI THƠ TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP- Phạm Đức Nhì)

http://vannghequangtri.blogspot.com/2016/06/loi-binh-ngan-tap-3-pham-uc-nhi.html

– 6b. Nguồn Laiquangnam Lai:

Năm 1076, (tức đời Tống Hy Ninh năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 3, nhà Tống sai Quách Quỳ, tuyên phủ sứ Quảng Nam (Quảng Nam này là địa danh, là đất của Tàu trùng tên với tỉnh Quảng Nam của Việt nam có sau năm 1475 là đất của Chiêm thành ) làm Chiêu Thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn nước ta. Ba mặt giáp công. Trong lần đánh phục hận này, Quách Quỳ nhận sứ mệnh phải đánh ” chết bỏ ” hầu rửa nhục cho Đại Tống. , Quách Quỳ vào trận với sự ủy thác “đánh phải thắng bằng mọi giá “, “đánh phục thù “, “đánh vuốt mặt” cho Tống Triều và “đánh làm quà cho tể tướng Vương an Thạch “, chứng minh đường lối cải cách theo Tân pháp của tể tướng Vương an Thạch đã thành công, “đánh tan giao châu của Đại Việt ” nhằm thị uy với các nước phương bắc láng giềng của Tống. Thế nên khí thế tấn công của quân Tống rất mạnh. Không bao lâu sau họ đã đến bờ bắc của sông Như Nguyệt, cách kinh thành Thăng Long chừng vài chục dặm, khoảng chừng 60 km về phía bắc. Quân ta vất vả giữ vững trận địa. Quân Tống dùng súng bắn đá bắn xối xả vào bờ nam làm thuyền bè ta bị vỡ nát không ít. Hai hoàng tử đã hy sinh và vài tướng cũng bị tử thương. Thương vong cao. Lý tướng quân đã dùng diệu kế là cho đọc bản thơHịch lời thơ ngắn gọn, thời điểm công bố là trong một đêm trăng dưới làn mưa đá xối xả được bắn ra từ bên kia bờ bắc của sông Như Nguyệt, từ quân của viên tướng sừng sỏ Quách Quỳ. Khí thế địch thật hùng hổ. Tại chiến trường sôi động ấy Lý tướng quân thấy rằng bài hịch không thể viết dài, khó nhớ, không thể đọc trước hàng quân như thông lệ năm xưa qua đánh Tống , mà phải khéo chọn. Ông kỷ lưỡng chọn điểm phát ngôn là từ một ngôi miếu vốn nổi tiếng linh thiêng, “đền thờ thần sông ” nằm ở phía nam sông Như Nguyệt, đền thờ hai vị anh hùng Trương Hát &Trương Hống, vốn là hai võ tướng dưới thời Triệu Quang Phục. Thật là một diệu kế của một danh tướng. Trong thế trận tưởng đã nghiêng về phía quân Tống, bổng đảo chiều khi binh sĩ nghe bài thơ phát ra từ miếu thần.

” Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền của Trương tướng quân là thần sông Như nguyệt, có tiếng đọc to rằng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên phân định tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!

Khí thế quân Nam trở nên bừng bừng như có thần nhân hổ trợ và quân Tống lấp tức bị chận lại. Tống quân bị tổn thất nặng nề. Quân Tống tiến thoái lưỡng nan từ dạo ấy. Lý tướng quân đề nghị giảng hòa nhằm giảm sự khổ đau cho nhân dân. Quách Quỳ thấy kéo dài là thua chắc nên thuận lui binh. ”

Nam quốc sơn hà là bài thơ thần. Chính bài thơ làm khí thế quân Nam tăng lên như một phép thần ! [“Nam quốc sơn hà” – Bản hùng văn của danh tướng Lý Thường Kiệt – Laiquangnam Lai]

http://chimviet.free.fr/vanhoc/laiquangnam/lqnt071_namquocsonha.htm

 

 

 

 

©T.Vấn 2017

 

Bài Mới Nhất
Search