T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không : Tác Giả Tác Phẩm – Cao Xuân Huy (2)

Họat động văn học của Cao Xuân Huy :

Tháng 6/1985, in Tháng ba gẫy súng.

11/1989 – 6/1992, Tổng thư ký tạp chí Văn Học.

4/1993 – 10/1994, Tổng thư ký tạp chí Văn Học.

9/2004 – 2/2008, Chủ biên tạp chí Văn Học.

Tháng 7/2010, in Vài mẩu chuyện.

Mục Lục :

Viết về Cao Xuân Huy : Cao Xuân Huy – Người ở lại Thuận An-Đỗ Xuân Tê;Ông Gẫy súng đã “lên tầu”- T.Vấn; Cao Xuân Huy mùa thu gẫy cánh -Thụy Khuê; Đọc Cao Xuân Huy-Lưu Na; Một Cao Xuân Huy khác – Ngô Thế Vinh ; “Vài mẩu chuyện” và Cao Xuân Huy – Vũ Ánh; Tiếng cười bi phẫn của Cao Xuân Huy trong mẩu chuyện “Trả lại tiền” -Trịnh Y Thư ; Cao Xuân Huy – tác giả và tác phẩm – Nguyễn Mạnh Trinh;

Đọc Truyện Ngắn của Cao Xuân Huy :Miếng ăn ;Quyền tối thiểu ;Cái lưỡi câu ;Vài bao cát ;Hành phương nam ;Chờ tôi với ;Trả lại tiền .

 

 

Viết về Cao Xuân Huy:

Cao Xuân Huy – Người ở lại Thuận An

Đỗ Xuân Tê

Cao xuân Huy đã trở về cát bụi. Thân xác ông đã được hỏa thiêu sau một tang lễ vừa trang nghiêm theo nghi lễ quân cách vừa thân mật đơn giản như một cuộc chia tay trong đó có đông đủ thân nhân, đồng đội, bạn bè, bạn văn, bạn làm báo và độc giả của ông.

Hiếm thấy một người vướng vào nghiệp văn bút, báo bổ tại một vùng đất vốn được đồng hương gọi đùa là ‘gió tanh mưa máu’, nhưng lại được quí mến gần gũi tâm đắc, rồi đến lúc đau yếu nhắm mắt xuôi tay lại được nhiều người nhiều giới chia buồn phúng điếu đưa tiễn bằng lời nói bằng bài viết trên các phương tiện truyền thông hải ngoại tựu chung tỏ lòng thương tiếc sâu sắc một con người mà hồi sinh thời rất can trường trong chiến đấu, nghiêm túc trong công việc nhưng lại ‘hết mình’ trong cuộc chơi với những người vốn biết và giao lưu với ông.

Cuộc đời Cao xuân Huy mà người ta quen gọi là ‘ông Gẫy Súng’ cũng khá lạ kỳ. Nhờ vào lính mà sau này mới trở thành nhà văn, rồi từ tác phẩm đầu tay Tháng Ba Gẫy Súng người ta mới biết ông qua danh xưng ‘nhà văn’ hơn là …‘nhà binh’. Với ai khác được gọi là nhà văn chắc phải hãnh diện về thiên chức của nó, nhưng oái oăm thay ông vẫn không chịu nhận mình là nhà văn và cứ xin coi ông là ‘người lính’, môt người lính quay sang cầm bút sau khi gẫy súng để tường thuật những sự việc do chính ông trải nghiệm, đặc biệt ở thời điểm cuối cùng của cuộc chiến. Bằng ngòi bút ông viết lại một cách trung thực như những gì nó đã xảy ra, không hư cấu không vẽ vời không tô hồng không đánh bóng. Khi một người lính nói sự thật theo bản chất ‘nói thẳng như lính’ thậm chí kèm theo cả ngôn ngữ chửi thề, thì những điều ông kể ra cùng với tài viết văn tiềm ẩn tự phát chẳng ai dạy nhưng trời cho đã được người ta nhanh chóng tin ông và chấp nhận ông để từ đây giới văn bút coi ông là nhà văn, độc giả gọi ông là nhà văn, dù sau này có nghiêng về làm báo và hai mươi lăm năm sau mới ra một đầu sách mới, nhưng chỉ một Tháng Ba Gẫy Súng tên tuổi ông đã thành danh và ‘lừng lững’ đi vào dòng văn học sử hải ngoại như một bạn văn ca ngợi mới đây.

Những gì về sự nghiệp văn bút và chủ biên văn học của Cao xuân Huy đã và sẽ còn được nhiều người viết và nhắc nhớ. Tháng Ba Gẫy Súng sẽ được đánh giá như một tập hồi ký sử thi chứng nhân cho ngày tàn của cuộc chiến, nó sẽ được độc giả trân trọng như Mùa Hè Đỏ Lửa của Phan Nhật Nam và một số bút ký chiến tranh nổi bật của số ít tác giả miền Nam, thậm chí kể cả Nỗi Buồn Chiến tranh của Bảo Ninh nếu không ngại phân biệt về mặt quan điểm.

Ở đây người viết chỉ để ý một khía cạnh là không hiểu vì sao mà Cao xuân Huy cứ trăn trở chuyện xin coi ông là người lính thay vì nhà văn. Tất nhiên có những nguyên ủy của nó, mà dễ hiểu nhất thì vẫn tại vì bản thân ông…là lính! Hãy nghe ông tự sự từ đáy lòng mình về tình yêu của ông với đời quân ngũ,

tôi yêu đơn vị tôi, tôi yêu màu mũ, màu áo tôi, tôi yêu thuộc cấp tôi và tôi kính trọng thượng cấp tôi. Tôi bình thản chấp nhận mọi thói hư tật xấu của thượng cấp và thuộc cấp, và chính tôi cũng có quá nhiều thói hư tật xấu.”

Đơn vị ông là Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến, màu mũ là màu xanh của binh chủng, màu áo là màu rằn ri tựa như dấu in cọp biển, thuộc cấp là lính thuộc đại đội ông khoảng trên dưới một trăm, thượng cấp thì quá nhiều vì cấp bậc của ông chỉ là trung úy đại đội phó. Dù thượng cấp hay thuộc cấp ông vẫn yêu họ như chính mình, dù ai xấu ai tốt thì ông cũng chẳng hơn ai và chẳng dám đoán xét ai. Vào lính ở tuổi hai mươi trong một đợt tuyển quân cao điểm hồi Mậu Thân 68, trải qua các chiến trường từ Cà mâu đến miền giới tuyến, cuối cùng trụ lại làm anh lính gác giặc theo tuyến phòng thủ bảo vệ cố đô sau Hiệp định Paris trải dài từ sông Thạch Hãn qua Phá Tam giang xuống tận Thuận an và gẫy súng tại đây sau một cuộc rút quân hỗn lọan.

Trở lại chuyện của ông quả ít ai có tâm hồn luôn thiết tha với màu cờ sắc áo, sau khi gẫy súng bị bắt làm tù binh ông vẫn mặc đồ trận, người ta cũng chẳng cấp bộ đồ tù chỉ yêu cầu cởi bỏ lon lá, sau này ra hải ngoại có dịp ông vẫn mặc quân phục, vẫn đeo huy hiệu của binh chủng mình, nhưng chỉ mang bảng tên trên ngực ghi HUY 4, có nghĩa là tên & đơn vị của ông, đến khi vào quan tài thì cũng được liệm nguyên bộ đồ này. Con số 4 luôn theo chân ông, ông sống chết với nó suốt bảy năm quân ngũ, một đơn vị tác chiến cấp tiểu đoàn nhưng đã lừng danh bốn vùng chiến thuật, chính đơn vị này là đơn vị đầu tiên đã chạm trán quân chính qui Bắc Việt tại chiến trường Bình Giả miền Đông năm 1964, mở đầu cho cuộc thư hùng của những trận đánh lớn sau này. Cũng đơn vị ông trở thành mũi nhọn trong trận tái chiếm Cổ thành mùa hè 72 khiến đội quân đối nghịch khi rút về bên kia sông Thạch Hãn lúc đi đủ chục lúc về còn ba. Nói vậy chứ tổn thất trả giá cho những lần quyết tử cũng là những con số chóng mặt, chính tôi đã mục kích khăn sô trắng đầu các cô nhi quả phụ trong trại gia binh cạnh hậu cứ tiểu đoàn của ông tại Vũng Tàu để thấy cái khắc nghiệt của chiến tranh và sự hy sinh cao độ của các đồng đội của ông suốt chiều dài cuộc chiến. Tôi thiết nghĩ chính vì cứ trăn trở bởi những hình ảnh này mà Trung úy Huy người may mắn sống sót sau những trận để đời đã không ngoảnh mặt quên đi quá trình chiến đấu để nhận những phong vị khác xem ra cao trọng hơn cho tên tuổi của mình.

Dù gẫy súng ông vẫn chết với tư cách một người lính, xứng đáng được đồng đội phủ cờ hôm tang lễ vừa qua vì thực chất ông không thuộc diện đầu hàng buông súng. Ông bị gẫy súng trong tư thế đang chiến đấu và chịu làm tù binh khi các cấp chỉ huy của ông không thể xoay chuyển được chiến trường. Ông trở thành một trong những ‘người ở lại Thuận An’ và trở thành chứng nhân cho bi kịch thời đại của một cuộc rút quân Waterloo thu nhỏ tại cửa biển oan nghiệt này vào một ngày tháng ba, ‘tháng ba gẫy súng’, dự báo cho một ‘tháng tư tan hàng’, xóa sổ tức tưởi một đạo quân được coi là chiến đấu rất can trường trong quân sử Việt.

Cửa biển Thuận an, một địa danh không xa lạ gì với người dân xứ Huế, và anh em chúng tôi khi được lệnh tăng phái từ Phủ đầu Rồng để bảo vệ cố đô, nhưng không ngờ vào thời điểm sắp tàn cuộc chiến thì Thuận an trở thành chứng tích của những cái chết vô nghĩa trong thảm cảnh gẫy súng nửa đường. Biển Thuận an trăng sáng thuở nào vẫn mang vị mặn nhưng không phải của muối, biển mặn vì máu. Máu của những người lính trẻ đã chết oan vì các tư lệnh của họ đã bỏ cuộc, đã bỏ chạy trước khiến họ phải chân đất chạy ra cửa Thuận an, con đường độc đạo ra biển để chờ tàu xuôi Nam, trốn chạy những người anh em cùng màu da nhưng khác máu từ phương Bắc đang rượt đuổi theo họ. Nhiều kiểu chết nhiều cách chết, vừa tự xử bằng lưỡi lê, lựu đạn, vừa trúng thương bằng tăng bằng súng của đối phương, vừa bỏ thây vì sóng cao biển rộng nhưng phải đọc tác phẩm của Cao xuân Huy mới cảm nhận sâu sắc tấn bi kịch ‘mang con bỏ chợ’ của những lãnh đạo miền Nam và nét hào hùng của những người lính quyết tử theo màu cờ sắc áo.

Khốn khổ thay cho những người lính về từ địa ngục sau khi kẹt lại Thuận an lại bị dồn vào các trại tù cải tạo chờ đợi biến cố họ không mong vào cuối tháng tư rồi sống tiếp trong cảnh ‘đáy địa ngục’ sau 75, trong đó có người lính Cao xuân Huy.

Cao xuân Huy, người ở lại Thuận an. Nhờ ‘Ông Gẫy Súng’ mà người ta mới thấy hết nét bi thương của những ngày tháng Ba, nhờ ông mà những đồng đội nằm lại vĩnh viễn trên cửa Thuận an mới có cơ hội ‘lên tiếng’. Chúng tôi trân trọng ông về điều này và xin vinh danh ông với tư cách nhà văn song hành với danh xưng người lính. Xin ông cứ nhận ông là nhà văn vì chính ông là một nhà văn đích thực, một nhân chứng chỉ biết nói sự thật, và sự thật thì sống mãi ngàn thu.

Đỗ xuân Tê

 

Ông Gẫy Súng đã “ lên tàu “

T.Vấn

Tâm tình một nẻo quê chung

Người về cố quận muôn trùng ta đi

( Huy Cận )

Như vậy là ông Gẫy Súng đã lên tàu về quê.

Lần này thì súng của ông bị bẻ gẫy chẳng bởi tại người,hay bởi vận nước, mà bởi cái lẽ sinh lão bịnh tử mà không một ai thóat ra khỏi được vòng cương tỏa của nó.

Trước khi bước chân lên tàu, ông đã chiến đấu rất dũng mãnh và can trường, không kém gì trận chiến năm xưa dù sau đó súng của ông ( và của rất nhiều những chiến hữu của ông ) đã bị bẻ gẫy. Súng gẫy thì vất súng, ông cầm bút. Mấy chục năm nay lưu vong nơi xứ người, với cây bút trên tay ông đã làm được nhiều việc mà không phải ai cũng làm được. Cho đến giây phút ông không còn sức để cầm bút nữa, không một ai có thể bẻ gẫy được ngòi bút của ông. Và ông vẫn là một chiến sĩ cho đến giây phút cuối cùng. Con Kình Ngư không hề biết sợ sóng, sợ gió.

Nay thì con Kình ngư sẽ về nằm yên nghỉ giữa biển cả mênh mông , ngày đêm nghe tiếng sóng vỗ rì rào như lời mẹ ru đón con ra khỏi cuộc đời , thay cho những tiếng thét đau đớn uất hận ngày nào trên bãi biển Thuận An ( Huế).

Những người bạn chiến đấu của ông, những người nằm lại trên bãi biển Thuận An từ dạo tháng Ba năm ấy, hẳn sẽ vui mừng chào đón ông, như chào đón một chiến binh quả cảm đã dũng mãnh tiếp tục cuộc chiến, dù không cân sức, thay cho những đồng đội của mình bị lọai khỏi vòng chiến một cách tức tửi .

Tôi hình dung ra chuyến tàu “ suốt “ vừa ngừng lại đón ông Gẫy Súng, đang từ từ tiến vào trạm cuối cùng. Trên sân ga, lố nhố những bóng người quen thuộc của bãi biển Thuận An năm nào . Người bạn chiến đấu năm xưa đã trở về, thể xác tuy mệt mỏi nhưng thần thái ung dung. Họ lại tiếp tục ngồi bên nhau uống rượu, hút thuốc lá, chửi thề, nhắc lại cho nhau những kẻ còn, người mất ( trong thế giới của những người lính gẫy súng ở giờ thứ hai mươi lăm , kẻ còn tức người đã chết và người mất, tức những kẻ còn nặng nợ trần gian, chưa mãn hạn để có thể thảnh thơi bước lên tàu ). Và chắc chắn, ông Gẫy Súng có rất nhiều điều để nói cùng bạn hữu. Bạn bè ông, ngoài nỗi vui gặp lại bạn cũ, hẳn còn nỗi vui khác lớn hơn .Ít nhất, thằng Tháng Ba Gẫy Súng đã nói lên được cho họ nỗi uất ức đến chết không thể nhắm mắt của một ngày tháng Ba năm 1975.

Chỉ với một tác phẩm, quyển hồi ký “ Tháng Ba gẫy súng “, ông đã làm tròn vai trò một chứng nhân lịch sử, làm tròn sứ mạng thiêng liêng của một người cầm bút. Với người cùng thời, những người đã từng sát cánh với ông ở một bên chiến tuyến, ông là hiện thân của lương tâm , của sự dũng cảm , của những khát vọng được sống một cuộc sống bình thường như một con người bình thường. Với những người đã từng một thời cầm súng đứng ở bên chiến tuyến đối nghịch với ông và những bạn bè của ông, ông là ngọn gió thổi tan đi lớp sương mù ngộ nhận, gây ra bởi một guồng máy tuyên truyền vô nhân tính chỉ nhằm gieo cấy lòng thù hận giữa những người cùng một dòng máu đỏ da vàng. Với những thế hệ chưa một ngày sống qua chiến tranh, ông là ngọn đèn soi cho họ thấy sự thảm khốc cùng cực của chiến tranh, sự vô nghĩa của thân phận con người trong lửa đạn, sự độc ác vô luân của những tham vọng áp đặt chủ thuyết này , ý thức hệ nọ lên quốc gia dân tộc.

Tất cả những thành tựu không nhỏ ấy, lại là kết quả từ một tập sách mỏng, của một người vốn trước đó không phải là nhà văn. Theo lời một vị thầy của tôi ( nhà văn Nguyễn Xuân Hòang ), ông không phải là một nhà văn, nhưng đã viết nên “những trang văn xuôi lương thiện và giản dị về con người”.

Tôi nhớ có người nào đó bảo rằng con người ta ai cũng có hai lần chết. Lần chết thứ nhất là khi thân xác được bỏ vào quan tài . Lần chết thứ hai là khi không còn ai nhắc đến tên mình nữa.

Nếu quả đúng như vậy thì ông Gẫy Súng của tôi chỉ chết có một lần.

Bao lâu người ta còn nhắc đến, còn bàn luận về cuộc chiến tranh tương tàn khốc liệt giữa những người Việt ở hai miền Nam Bắc thì ngày ấy người ta còn phải nhắc đến tên ông, nhắc đến những ngày cuối cùng bi thảm của cuộc chiến.

Hơn 25 năm nay, tiếng kêu bi phẫn của ông Gẫy Súng đã được nhiều người lắng nghe. Mỗi người, ở vị trí của mình – trong và sau cuộc chiến – đều mang một tâm trạng khác nhau khi đọc ông . Người ta có thể phản bác ông, nhưng tôi tin rằng , không một ai – dù là người ở bên kia chiến tuyến với ông – có thể nghi ngờ tính nhân bản phủ đầy những trang viết của Tháng ba Gẫy Súng, kể cả những trang mô tả sự tàn nhẫn khốc liệt nhất, kể cả ở những câu đối thọai độc ác nhất , kiểu “ Đụ mẹ, đánh giặc đã quá ông thầy ! “

Khi tôi viết những dòng này, hẳn đôi mắt ông Gãy Súng đã nhắm lại ( tôi tin như vậy, vì ông có quá nhiều lý do để thanh thản ra đi ). Ông có mãn nguyện không ? tôi không thể quả quyết. Nhưng nếu tôi là ông, tôi sẽ mãn nguyện. Những gì cần phải làm cho người chết với tư cách kẻ sống sót, ông đã hòan thành xuất sắc.

Ông ra đi, những vẫn còn lại những trang viết, những “ trang văn xuôi lương thiện và giản dị về con người“. Vì chúng lương thiện và giản dị, nên chắc chắn chúng sẽ bất tử.

Cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã từng kêu lên : Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ? Giả như ba trăm năm sau ngày cụ Nguyễn Du lên tàu “ suốt “, vẫn còn có người khóc cụ thì phỏng có ích gì cho cụ không khi thân xác cụ đã chỉ còn là nắm đất vụn. Điều quan trọng là những câu lục bát của cụ vẫn còn được lưu truyền không chỉ ba trăm năm, mà sẽ là ba ngàn năm, ba triệu năm nữa.

Còn ông Gẫy Súng của chúng tôi ? Ông có cần phải thắc mắc rằng ba trăm năm sau liệu có còn ai nhớ đến ông không ? Tôi không tin ông bận tâm về điều đó. Vì những trang viết lương thiện và giản dị của ông, không phải chỉ cho ông, mà còn cho một thế hệ tuổi trẻ ( ở cả hai miền Nam Bắc ) Việt Nam tội nghiệp. Nếu ba trăm năm sau, có kẻ hậu thế nào đó – nhờ đọc được Tháng Ba Gẫy Súng của ông – đã làm hết sức mình để tránh cho lịch sử của ba trăm năm trước lập lại, thế cũng đã quá đủ một đời phong ba rồi, phải không ông ?

Mấy hôm trước, nghe tin ông đang ngấp nghé bên bờ tử sinh, tôi đã nhờ người quen kẻ biết nhắn với ông rằng “Chừng nào tới giờ lên tàu, ông cứ thanh thản lên tàu. Đừng lo cho chúng tôi. Thế nào cũng còn chỗ cho kẻ đến sau, chứ không phải như tháng Ba gẫy súng năm nào mà phải giành nhau đâu, ông Cao Xuân Huy ạ ! “.

Đường đời muôn vạn nẻo, nhưng chỉ có một nẻo đích thực để trở về cố hương. Đó là lối nhỏ đi qua những tấm lòng bằng hữu, với hành trang trên vai là lòng thương yêu của những người thân kẻ thuộc trong gia đình.

Ông Gẫy Súng của tôi ơi ! lối nhỏ bằng hữu đang hân hoan đón chào ông, hành trang thương yêu của gia đình đang sẵn sàng chờ ông ghé vai đỡ lấy.

Chúc người về cố quận thượng lộ bình an !

Thứ Sáu 12 tháng 11 năm 2010

*Ông Cao Xuân Huy thở hơi cuối cùng vào lúc khỏang 4 giờ 53 chiều ( giờ Cali ) ngày thứ Sáu 12 tháng 11 năm 2010.Nhận được tin do một người anh em trong gia đình TQLC của CXH cho hay qua e-mail lúc 8 giờ tối ( giờ Wichita , KS đi trước Cali 2 tiếng ) , tôi bỏ hết mọi công việc hàng ngày, vì không thể làm được gì khác, ngòai việc ngồi vào bàn viết .

T.Vấn

 

 

Cao Xuân Huy mùa thu gẫy cánh

Thụy Khuê

Cao Xuân Huy có người cha đi kháng chiến, để lại vợ con trong thành. Rồi, 1954, ông ngoại bị đấu tố, người cậu cấp bách đem cháu, 7 tuổi, vào Nam. Mẹ ở lại Hà Nội đợi bố. Về, nhưng người cha kháng chiến, gốc tư sản, địa chủ, không thể “can thiệp” cho người mẹ khỏi diện “tự lực cánh sinh” (như đi “kinh tế mới”). Rồi họ chia nhau con cái: mẹ để lại con gái cho bố, vào Nam với con trai. Xa cách, mỗi người lập một gia đình khác, có các con khác. Huy được cậu và bà ngoại nuôi. Như một định mệnh, chuyện nhà Huy trùng hợp với chuyện đất nước, với truyền thuyết Sơn tinh Thủy tinh, với bao gia đình thời chia đôi Nam-Bắc.

Ở Bắc: Người cha làm báo Sáng Tạo
Người cha ở Bắc tham gia Nhân văn Giai phẩm. Thực ra, ông không ở trong Nhân Văn Giai Phẩm, mà ở nhóm Điện ảnh kịch trường, hồi ấy có hai nhóm: Thụy An-Phan Tại và Trần Thịnh-Trần Công.
Cao Nhị, cha Huy, trong nhóm thứ nhì.
Họ chủ trương thành lập một hội điện ảnh độc lập. Đả phá phim tuyên truyền của Liên Xô. Đổi mới kịch nghệ và điện ảnh theo đường lối Tân hiện thực Ý, Nhật và đề cao phim Anh, Mỹ. Thụy An, Trần Công, Cao Nhị, Nắng Mai Hồng, Vũ Phạm Từ, Kỳ Nam… viết những bài giới thiệu, phê bình điện ảnh, hoặc tổ chức chiếu lại những phim hay, những kiệt tác tân hiện thực như Miếng cơm cay đắng (Riz amer), Chiếc xe đạp (La bicyclette) của Ý, Rashomon, Những đứa trẻ Hiroshima, Anh gắng nuôi con của Nhật, Hamlet của Anh, v.v…

Người ta thường nhắc đến Nhân VănGiai Phẩm, nhưng không mấy ai biết đến Sáng Tạo[1]. Sáng Tạo do Trần Thịnh chủ nhiệm, Cao Nhị thư ký toà soạn. 5/11/1956, Sáng Tạo ra đời, hai hôm trước ngày khai mạc Liên hoan phim Liên Xô.

“Tội trạng” của Sáng Tạo được nêu rõ như sau:

“Nửa tháng “Liên hoan phim Liên Xô” khai mạc vào ngày 7-11-56, thì đúng ngày 5-11-56, Giai phẩm mùa thu tập III xuất bản, trong đó có đăng bài “Chúng ta gắng nuôi con”, hoạt cảnh của Chu Ngọc, đả kích không tiếc lời vào phim Liên Xô. Cùng ngày 5-11-56, báo Sáng Tạo ra số đầu, đã lộ ngay ý định xấu đối với phim Liên Xô.

Ngày 20/11/56, báo Nhân Văn số 5 lại đăng bài “Mấy bộ phim dở” của Cao Nhị. Cùng ngày ấy báo Sáng Tạo ra số 2, càng đả kích sống sượng hơn nữa vào các phim Liên Xô đang chiếu. (…)

Những bài như trên phải được đặt bên cạnh bao nhiêu bài khác của Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Lê Đạt, Trần Dần, v.v… đang nhan nhản lúc bấy giờ ở các số Nhân văn, Giai phẩm thì mới thấy đầy đủ tính chất nguy hiểm của nó” [2]

Cao Nhị, trong bài tự kiểm thảo, cũng “nhận tội”:

“Tôi nhận làm thư ký toà soạn báo Sáng Tạo, tờ báo chuyên đả kích phim ảnh Liên Xô và đả kích lãnh đạo trên mặt sân khấu và điện ảnh. Sáng Tạo chỉ ra được hai số rồi chết. Thế nhưng hai số đó cũng gây ra một số tác hại đáng kể với những bài của Trần Công, Nắng Mai Hồng, Phan Vũ, Vũ Phạm Từ, Kỳ Nam, v v … “ [3]

Trong bài kiểm thảo này, Cao Nhị xác nhận trách nhiệm lựa chọn bài vở, viết những bài trên Sáng Tạo và trên các báo Cứu Quốc, Hà Nội Hàng Ngày, Độc Lập… phê phán điện ảnh Liên Xô và tổ chức điện ảnh doanh nghiệp của miền Bắc.

Qua bài “Nửa tháng liên hoan phim Liên Xô: Mấy bộ phim dở” của ông đăng trên Nhân Văn số 5, chúng ta có thể thấy cách ông phê bình một số phim Liên Xô, đang chiếu trong Liên hoan như thế nào. Riêng về nội dung phim Ngai vàng sụp đổ, ông viết:

“Anh đi dẹp giặc, chị ở nhà đợi anh, trong cơn binh lửa, chị mắc tai ương; nhưng đến khi giặc tan, anh chị lại gặp nhau, gia đình đoàn tụ, vui vẻ cả. Nhưng ác một điều, câu chuyện tình đó đã lồng vào nhiều câu chuyện khác: âm mưu thắng đế quốc, dũng khí của nhân dân, tài đánh nhau của bộ đội, lại cả bộ mặt nham hiểm gớm ghiếc thằng địa chủ đi ăn cướp ái tình. Người xem rất kêu về cái đoạn kết dựng lên cái ngai vua rồi đạp nó gục xuống, tượng trưng cho ngai vàng sụp đổ. Nhưng tôi không nói tới diễn xuất hay những màn bố trí giả tạo. Điều quan trọng hơn, là công chúng xem phim rất không hài lòng về cái lối xây dựng phim, xây dựng con người rất vá víu, chắp nối ấy, nó không tài nào đi sâu và thể hiện được đúng hình dáng con người thật. Kinh nghiệm trong các tác phẩm văn nghệ Việt Nam mấy năm nay, kịch hay chuyện nói đến một trăm thứ và đều đá thêm một tí tình cho nó có “yêu đương”. Đó là lối xây dựng công thức không thế làm thoả mãn người xem.”

Và đến phim Hai sĩ quan, Cao Nhị cho rằng: “Tịnh không bắt gặp con người thực, một anh đại úy có thực (…) Mặc dầu báo điện ảnh Liên Xô khen: “Hai sĩ quan nói lên một cuộc tình son sắt và dũng cảm…”, tôi chỉ thấy tình yêu đó là giả tạo, vì lẽ giản dị cặp tình nhân đó phải lao vào nhiều tình huống ly kỳ, lằng nhằng, nghĩa là cũng giả tạo nốt. (…)

… mấy bộ phim Liên Xô khác được hoan nghênh trong năm nay như Nữ tài tử dạy hổ hoặc Người yêu phương xa thì thực chất nó như thế nào? Con người trong phim rất nhạt, tình yêu lại càng nhạt hơn. Và cái lối xây dựng chủ đề tình yêu nhẹ nhàng, công thức gán ghép gợi cười cho người xem bằng những trò hiểu lầm nghộ nghĩnh không thể đáp ứng được với những đòi hỏi của người xem có suy nghĩ (…)

Tôi đơn cử ra hai bộ phim Ngai vàng sụp đổ và Hai sĩ quan, không phải để phân tích sâu xa vì nó dở quá, không biểu hiện được gì, ý tôi muốn để chúng ta cùng rút kinh nghiệm trong việc làm kịch bản phim hiện nay”. [4]

Với những dòng “phạm thượng” như thế, người cha, sau Nhân Văn, bị cấm sáng tác, nhưng vẫn làm thơ chui, cho mình. Bà chị là người duy nhất thuộc hết thơ em.

Khi Huy về thăm cha tại Hà Nội, năm 2002, định in một tập thơ cho bố, nhưng bà bác đã mất vài năm trước rồi.

Trong Nam: Người con đi lính và đi tù

Nhắc lại lời người cha phê bình những tác phẩm điện ảnh của Liên Xô năm 1956 ở miền Bắc, để thấy cái gan Cao Nhị trong bối cảnh toàn trị thời ấy và cũng để hiểu cái gan của người con trong một bối cảnh khác, xung vào Thủy quân lục chiến, một binh chủng dữ dội của miền Nam: hai bối cảnh, cùng một dòng máu, cùng một lá gan.

Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1978, người cha Sáng tạo-Nhân văn tìm đến thăm con ở trại cải tạo Thanh Hoá, nhưng không được vào, lại lặn lội trở về, cái ba lô thăm nuôi con cũng không nhận được.

Năm 1979, hai cha con gặp nhau lần đầu tại trại Bình Điền, Huế. Bố nói: “Mày ăn thịt gà đi, thịt gà này chú Phùng Quán làm cho mày đấy”. Người con cảm động tưởng mình có họ với chú Phùng Quán, tác giả những câu thơ mà anh đã thuộc lòng từ nhỏ: “Yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét; Dù ai cầm dao dọa giết, cũng không nói ghét thành yêu”. Bố hỏi: “Mày ghét Cộng sản lắm hay sao mà đi cái thứ lính ác ôn này?”. Con nói: “Ghét thì con không ghét, có thù oán gì đâu, nhưng gặp đâu thì bắn đó”. “Thế mày bắn cả bố mày à?”… [5]

Đó là câu chuyện giữa hai cha con năm 1979 mà Cao Xuân Huy thuật lại cho Trần Văn Thủy một đêm họp bạn ở Cali. Sau câu hỏi là những chấm chấm. Hình như con không trả lời. Hình như “bố con nói với nhau vài câu chẳng ra làm sao cả”.

Không có trả lời nào cho một câu hỏi như thế. Không có câu hỏi nào, cho một đất nước như thế. Người bố gọi cái thứ lính mà con đi ấy là lính ác ôn. Lính thủy quân lục chiến ngoài Bắc gọi là lính thủy đánh bộ.

Nhưng người cha đã biết gì về thứ lính ác ôn này? Bao nhiêu người ở Bắc đã biết gì về thứ lính thủy đánh bộ này, ngoài hai chữ ác ôn? Bao nhiêu người trong Nam biết gì về thủy quân lục chiến, trừ hình ảnh: dữ dằn, cảm tử.

Xa nước từ 1962, tôi cũng không biết gì về thủy quân lục chiến. Là người chống chiến tranh, tôi nghĩ ai vào thủy quân lục chiến là người thích đánh nhau, hiếu chiến.

Bởi lúc đó chưa có Tháng ba gẫy súng, chưa ai biết Cao Xuân Huy.

Tháng ba gẫy súng

 

Tháng ba gẫy súng [6] đưa người đọc vào những cạm bẫy không ngờ: Tước đoạt ở họ những thành kiến cố hữu. Làm cho họ mất hẳn “nhân tính”, thứ nhân tính từ chương, viết hoa, đạo đức giả của xót thương vô tận, của niềm nhớ khôn nguôi, của ngụy tạo tình cảm, ngụy tạo ngôn ngữ, ngụy tạo “dân tộc, tổ quốc”.

Tháng ba gẫy súng đặt họ vào môi trường khốc liệt của những con người không có lựa chọn nào ngoài đường chết, của đám tàn quân thua trận, hết đạn, cấp trên phản bội bỏ họ giữa đường, của đám quân dân hỗn loạn, bạn đồng hành đào ngũ, của những kẻ để tìm đường sống phải giết người, phải dẵm đè lên nhau mà chết, ở một cửa bể, một ngày tháng ba 1975.

Tháng ba gẫy súng, với thứ ngôn ngữ trần trụi của người lính “chưa từng viết văn bao giờ”, đã lột trần một thứ nhân tính khác của con người: tham sống, sợ chết, hèn nhát, phản bội, dã man, tàn bạo. Mọi bộ mặt đều bị lột trần trước cửa tử, cái xấu cái tốt không thể giấu được qua lớp son phấn bề ngoài của đạo đức xã hội. Con người lộ hẳn thân thể trần truồng với lục phủ ngũ tạng, như bị giải phẫu bất ngờ, không kịp phòng bị. Ở cái tư thế ấy, ngôn ngữ cũng trần truồng, không che đậy.

Tháng ba gẫy súng là thứ ngôn ngữ tồng ngồng ấy, mà người “có học”, mà cấp thượng lưu trí thức, mà những nhà làm văn chương thường gọi một cách khinh bỉ là “ngôn ngữ lính tráng”. Vì thứ ngôn ngữ ấy mà nhiều người không muốn, không dám hay chỉ miễn cưỡng gọi Huy là nhà văn, không coi Tháng ba gẫy súng tác phẩm văn học, mà chỉ là một cuốn hồi ký chân thật, bởi một tác phẩm văn học thì phải có văn chương, chứ đâu lại câu cú thô tục thế này.

Tháng ba gẫy súng, chửi thề là vai chính. Những câu chủ chốt đều có chửi thề.

Bởi mỗi chửi thề là một thái độ, phản ánh một tình cảm, một nguyện vọng: yêu thương, hắt hủi, oán giận, ăn năn, hối hận, mắng mỏ, sai bảo, dã man, tàn bạo…

“Đụ mẹ, ông về đại đội liền bây giờ!” là mệnh lệnh của ngưòi tiểu đoàn trưởng, mắng mỏ, nhưng khoan hồng, không phạt vì tội ba gai trình diện trễ.

“Đù má, lâu dzậy mảy?”. Là sự chờ đợi và vui mừng phía người chửi. Là sự hoàn hồn phía người nghe, kẻ một mình đang đêm tìm về đơn vị, mò mẫm trong rừng đầy địch và mìn… Tiếng chửi chấm dứt nỗi sợ, triệt tiêu viễn ảnh của cái chết. Tiếng chửi là tiếng sống.

“Đụ mẹ, đi đâu về trễ vậy cha nội” tiếng chửi là tiếng mắng yêu của đồng đội.

“Đụ mẹ, không tin thằng nào hết, giấy tờ giả thiếu chó gì. Ông cho tôi biết nó người Bắc hay người Nam”, tiếng chửi là tiếng nghi ngờ của chỉ huy, là lệnh khám xét kẻ lạ, một mệnh lệnh phân biệt ta địch: tiếng Bắc là địch, tiếng Nam là ta. Một mệnh lệnh lô-gích nhưng éo le: Huy người Bắc 100%, nếu căn cứ vào giọng Bắc-Nam để phân biệt ta-địch, chuyến này chắc chết!

“Đụ mẹ, mình bị bỏ rơi rồi”. Tiếng chửi thề thất vọng gần như vô vọng, tuyệt vọng.

“Đụ mẹ, tao đếm tới ba, không nhẩy xuống biển tao bắn”, tiếng chửi thề dã man phi lý của thần chết: kẻ có súng uy hiếp kẻ không súng, một thuỷ quân lục chiến uy hiếp một bộ binh.

Cao Xuân Huy sử dụng tiếng chửi như một ngôn ngữ, ngôn ngữ của sự thật, ngôn ngữ lính tráng, ngôn ngữ thủy quân lục chiến. Tiếng chửi nhấn lời nói mạnh hơn, làm tình cảm sâu đậm hơn: cho yêu thương thương yêu hơn, cho bạo tàn tàn bạo hơn. Tiếng chửi tiềm ẩn nỗi khốc liệt trong tâm cảm nhà văn. Tiếng chửi là tính thủy quân lục chiến trong con người. Tiếng chửi giấu nỗi hoang mang, che sự sợ hãi, ẩn nỗi kinh hoàng của những người phải thường trực xung phong đối đầu với cái chết.

Cao Xuân Huy chỉ dùng tiếng chửi thề, nói tục, cho đồng bạn, đôi khi dùng cả cho người lính địch (trong Vài mẩu chuyện), như để chào đón và trân trọng kẻ cùng thuyền. Không thấy Huy đặt vào miệng những kẻ chỉ huy phản bội một tiếng chửi thề nào.

Tiếng chửi trong Tháng ba gẫy súng là tiếng thoát ra từ con tim, là tiếng cao quý của tình bạn, tình đồng đội, tình người mà những kẻ hèn nhát không được quyền sử dụng. Huy không cho phép họ dùng thứ tiếng cao quý ấy.

Việc chuyển hoá những âm thanh thô tục thành cao quý, không phải ai cũng làm được. Huy làm được bởi anh không nhận mình là nhà văn nên không bị cái bổn phận làm văn chương của bọn nhà văn chi phối. Nhưng việc nói tục không dễ, làm sư hổ mang như Lục Tổ lại càng khó hơn, bởi ăn tục nói tục là con dao hai lưỡi, nếu nội lực không thâm hậu, tất cả sẽ chỉ trần trụi là sự tục tĩu.

Ngôn ngữ trong Tháng ba gẫy súng là ngôn ngữ ngắn, gọn của những người luôn luôn đối diện với cái chết. Sống và biết mình có thể chết bất cứ lúc nào. Thời giờ của họ bị giới hạn. Đích của họ là sống đến ngày mai, sống từ sáng đến tối, từ trưa đến tối, từ giờ này đến giờ khác, từ phút này đến phút khác. Vì vậy họ không thể “mất thì giờ” cho việc nói. Họ phải kiệm lời. Không dài dòng văn tự. Họ là những người lính thủy quân lục chiến, họ là những người luôn luôn sẵng sàng bước vào cửa tử, đùa giỡn với cái chết:

“Em đào sẵn cái hố cho hai thầy trò mình nằm thoải mái. Nếu lỡ có chết chỉ việc lấp cát là êm – Đụ mẹ, trù ẻo mày”

Mắng yêu cái chết: “Đụ má, chết sớm dzậy mày?”

Rủ nhau chết:

“Hồi nãy tụi nó tự tử nhiều quá, hay là mình tự tử luôn đi ông thầy”

Những câu chuyện tiếu lâm như thế trải dài trên con đường triệt thoái về chỗ chết của họ. Tính chất khôi hài trong tác phẩm như những giọt rượu mạnh, rót vào cổ họng người lính xung phong, cho họ quên sợ, cho máu họ chai đi, họ được bọc thép trước cái chết. Tinh thần thủy quân lục chiến là tinh thần kỷ luật tuyệt đối, phải đạt mục tiêu cuối cùng bất kể giá nào, dù phải nhận những mệnh lệnh ngu xuẩn nhất, dù cấp trên đã hèn nhát bỏ đi, dù súng đạn đã hết, dù bạn bè đã chết, dù cái chết đang chờ trước mặt.

Họ là người lính của nước cờ đầu và của nước cờ cuối, họ phải đổ bộ ở những nơi nguy hiểm nhất. Họ được giao cho những trách nhiệm chết người: phải mở đường máu. Phải đi đoạn hậu. Phải giữ trật tự khi lính làm loạn…Nhưng cũng những người lính đó, khi đã mất chỉ huy, họ có thể phạm những tội dã man nhất, tàn bạo nhất.

Cửa biển Thuận An, sáng 26/3/1975:

“Chiếc tàu bắt đầu kéo bửng, những người bám vào bửng tàu được nâng lên cao khỏi mặt nước, một số người may mắn rơi ngay vào trong lòng tàu, số còn lại lần lượt rơi xuống biển

Bửng tàu đã được kéo lên hoàn toàn nhưng không khép kín nổi vì giữa bửng và thành tàu đã kẹp cứng một thân người. Người bị kẹp nửa thân trên nằm trong lòng tàu, nửa thân dưới thò ra ngoài, hai chân giãy giụa, đạp đạp trong không khí được chừng nửa phút rồi ngay đơ. Hai cái chân của người xấu số trở thành có ích cho nhiều người còn ở dưới nước, họ bám vào đó để tiếp tục leo lên tàu. Lúc đầu hai cái chân còn đủ hai ống quần, dần dần chẳng còn gì cả và cuối cùng, cả hai chân đều bị gãy. Nhưng gãy thì gãy, người ta vẫn bám vào đó để leo lên tàu. Ít ra cũng có đến cả chục người leo được lên tàu nhờ cặp chân đó. Và chắc chắn sẽ còn được thêm nhiều người nữa nếu…

Chiếc tàu phụt khói từ từ quay mũi ra biển.

Chân vịt đạp nước đẩy không biết bao nhiêu người ra xa tàu, và không biết là đã chém đứt bao nhiêu người.

Thân tàu quay ngang đập vỡ không biết bao nhiêu đầu người, và không biết đã nhận chìm bao nhiêu người xuống sâu dưới đáy tàu.

Biết bao nhiêu người đã chết vì chiếc tàu quay mũi.

Nhưng…

Chiếc tàu đã không ngừng quay khi cái mũi đã hướng ra biển. Mà, chiếc tàu vẫn tiếp tục quay, mũi tàu lại từ từ hướng vào bờ.

Chân vịt lại chém thêm không biết là bao nhiêu người.

Thân tàu lại đập vỡ thêm không biết là bao nhiêu cái đầu, và lại nhận chìm thêm không biết là bao nhiêu người xuống sâu dưới đáy tàu.

Tại sao chiếc tàu bỗng dưng quay đúng một vòng tròn để làm chết biết bao nhiêu là người như vậy?

Ðã có những xác chết trôi nổi dập dềnh xen lẫn với những xác sống đang cố bơi ra tàu hoặc đang cố giữ cho mình không trở thành xác chết.

Chiếc tàu lại nằm im như đang mời gọi.

Chúng tôi ở cách xa vùng mặt trận có đến nửa cây số, tiếng súng chỉ nghe văng vẳng, nhưng chết chóc lại nhiều hơn có đến cả trăm lần.

Ủa, tại sao lại có người từ trên tàu nhảy xuống biển, không lẽ mắt tôi đã hoa lên vì rượu. Không phải một người, hai người mà là rất nhiều. Rõ ràng là mắt tôi trông thấy người ta leo qua lan can tàu, có người còn ngần ngừ, có người không ngần ngừ nhảy xuống biển. Lại có người lao mình qua lan can tàu để nhảy xuống biển.

Không tin nổi ở mắt mình mặc dầu tôi đã dụi mắt thật nhiều lần. Tôi hỏi Sĩ:

“Mày có thấy người ta nhảy từ trên tàu xuống biển không?”

Sĩ cũng ngạc nhiên không kém tôi.

“Ðụ mẹ, kỳ quá mày!”

Chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, nhưng chúng tôi không có thời giờ để ngạc nhiên. Hai chiếc M-113 chở đầy người chạy từ hướng mặt trận đã cán bừa lên những người vừa từ biển lên còn đang nằm vật ra mà thở, và cán luôn cả những người không kịp chạy tránh đường.
Vừa thấy bóng thiếu úy Ngô Du – một trung đội trưởng của đại đội tôi – từ dưới biển trở lên, đang lảo đảo như muốn ngã gần mé nước, tôi và Sĩ chạy vọt tới đỡ và kéo Du chạy thật nhanh vừa kịp chiếc M-113 chạy lướt qua sát người chúng tôi.

Hai chiếc M-113 lội xuống nước để ra chiếc tàu.

Những cái bánh xích đua nhau cán lên đầu của không biết bao nhiêu là người đang nhấp nhô từ bờ ra đến tàu.

Ra đến nơi, chuyển hết người lên tàu xong, hai chiếc xe lội nước quay đầu lội vào bờ. Lại không biết bao nhiêu là đầu người bị nghiền nát bởi những cái bánh xích.
Vào đến bờ, hai chiếc M-113 ngừng lại. Từ vị trí tài xế, một cái đầu thò ra, nhìn quanh rồi la lớn.

“Ai muốn lên tàu thì leo lên tôi chở ra.”

Lúc đầu nhiều người ngần ngại, nghi ngờ, nhưng rồi lác đác cũng có người leo lên. Có đến cả 15 phút mà hai chiếc M-113 vẫn chưa đầy người.

Cái đầu lại thò ra, nhìn quanh rồi la lớn.

“Leo lên gấp đi mấy cha, tôi ra chuyến này không trở vô nữa đâu.”

Lại có thêm vài người leo lên.

Tôi phân vân trong sự chọn lựa. Nên hay không nên leo lên. Tôi hỏi Sĩ:

“Lên không mày?”

Sĩ lắc đầu:

“Tao không muốn chạy thoát bằng cái chết của những người đang lóp ngóp dưới kia.”

Câu nói của Sĩ đã cho tôi một quyết định:

“Mẹ kiếp, có mày có tao hay không có mày không có tao thì những người đang lóp ngóp dưới kia cũng sẽ bị những cái xích sắt này cán. Ðừng có triết lý ba xu thằng con trai.”

Sĩ cười bướng:

“Tao có nói khác gì mày đâu, nhưng tao không.”

“Ðược rồi, phụ tao đưa thằng Du lên.”

Sĩ và tôi đưa thiếu úy Du lên thiết vận xa. Trước khi leo lên, tôi nắm chặt vai Sĩ:
“Hy vọng sẽ gặp mày ở Ðà Nẵng.”

Sĩ nhìn tôi cười:

“Ðụ mẹ, đồ cải lương, cút mẹ mày đi thằng con trai.”

Hai chiếc M-113 lại lội nước ra tàu.

Lần này tôi mục kích tận mắt những cái xích sắt nghiến nát những đầu người. Tiếng máy nổ và tiếng nước vỗ đã át đi những tiếng thét tiếng la và có thể, cả tiếng vỡ của những cái đầu, nhưng không có gì có thể che lấp được những mảnh quần áo và mầu đỏ của máu cuộn theo chiều quay của xích sắt. Màu đỏ của máu và những mảnh vải cuộn theo chúng tôi suốt cả lộ trình khoảng một trăm thước. Màu đỏ của máu và những mảnh quần áo chắc chắn còn dính cả thịt còn trồi lên, trồi lên xen lẫn với bọt nước phía sau chúng tôi. Không hiểu tôi có dã man không, không hiểu tôi có chai đá không, không hiểu tôi đã trở thành súc vật chưa, hay vì tôi đã nhìn thấy quá nhiều cái chết từ sáng đến giờ, hay vì tôi đã yên tâm trên đường ra tàu an toàn mà tôi rất thản nhiên, lòng tôi rất bình thản khi nhìn những cái chết, quá nhiều cái chết ngay dưới chỗ mình ngồi, bị chết bằng ngay cái phương tiện mình đang sử dụng. Tôi nhìn những cái chết như một kẻ bàng quan, vô thưởng vô phạt” (trang 114- 119).

Cảnh này, đã được trực tiếp đưa lên các kênh truyền hình thế giới những ngày cuối tháng ba: Một con tàu đầy người, những thân người cố gắng trèo lên và những thân người rơi xuống biển. Một người viết hồi ký sẽ kể rõ hơn rằng: “Chiếc tàu dành riêng bốc thủy quân lục chiến, bị bộ binh và thường dân chen nhau trèo lên. Lính thuỷ quân lục chiến dùng võ lực bắt họ nhẩy xuống biển”. Lời thuật có tính thông tin, không gây một cảm xúc gì.

Đọc Tháng ba gẫy súng, hiện cảnh bày ra hãi hùng với những chủ thể can phạm:

Trước hết là cái bửng tàu. Cái bửng tàu kẹp cứng một thân người, bản dạo đầu của tội ác. Kế đến hai chân của người bị kẹp, hai chân người chết tức khắc trở thành một vật, khiến cho cả chục người leo được lên tàu nhờ cặp chân đó. Người sống đã mất hết “nhận định”, mất hết “nhân tính”, chỉ còn nghĩ đến “nhân mạng” của mình.

Tiếp đến là cái chân vịt, và cái thân tàu. Rõ ràng là chiếc tàu có nhiệm vụ cứu người, nhưng cái chân vịt của nó đã cắt đứt bao nhiêu thân người và cái thân tàu đã cán bao nhiêu mạng và nhận chìm bao nhiêu mạng nữa xuống biển.

Rồi hai chiếc thiết giáp chở lính thủy quân lục chiến ra tàu, chúng có nhiệm vụ cứu người, nhưng những xích sắt của chúng nghiền nát bao nhiêu đầu người…

Sự kinh hoàng đến từ sự kiện: Những kẻ sát nhân ở đây không phải là người mà là vật: Bửng tàu, chân vịt, thân tàu, xe tăng. Tất cả đều bị đảo lộn. Vật trở thành người. Và người trở thành vật: Tôi nhìn những cái chết như một kẻ bàng quan.

Nhưng vô cảm vẫn chưa phải là tội ác, mới chỉ là bản dạo đầu của tội ác.

Nội dung tội ác đến sau:

“Người trên tàu phần lớn là Thủy Quân Lục Chiến (…)

Chưa kịp tìm chỗ ngồi, tôi nghe một tiếng súng nổ.

Hai người lính Thủy Quân Lục Chiến cúi xuống khiêng xác một người lính Bộ Binh vừa bị bắn chết ném xuống biển. Một người lính Thủy Quân Lục Chiến khác đang gí súng vào đầu một trung úy Bộ Binh ra lệnh:

“Ðụ mẹ, có xuống không?”

“Tôi lạy anh, anh cho tôi đi theo với.”

“Ðụ mẹ, tao đếm tới ba, không nhảy xuống biển tao bắn.”

“Tôi lạy anh mà, tôi đâu có gia đình ở ngoài này.”

“Ðụ mẹ, một.”

“Tôi lạy anh mà, anh đừng bắt tôi ở lại, anh muốn lạy bao nhiêu cái tôi cũng lạy hết.

Tôi lạy anh, tôi lạy anh.”

“Ðụ mẹ, hai.”

“Trời đất, mình đồng đội với nhau mà, anh không thương gì tôi hết. Tôi lạy anh mà.”

“Ðụ mẹ, ba.”

Tiếng ba vừa dứt, tiếng súng nổ.

Người trung úy Bộ Binh ngã bật ngửa ra, mặt còn giữ nguyên nét kinh hoàng. Viên đạn M-16 chui vào từ đỉnh đầu. Xác của anh ta được hai người lính Thủy Quân Lục Chiến khác khiêng ném xuống biển.

Tên lính vừa bắn người thản nhiên tiếp tục chĩa súng vào đầu một thiếu tá Bộ Binh đang sợ hãi nằm mọp người ở cạnh đó, mặt lạnh băng đầy sát khí:

“Ðụ mẹ, tới thằng này, mày có xuống không?”

Ông thiếu tá Bộ Binh này hơi lớn tuổi, mặt cắt không còn hột máu, run lên cầm cập, năn nỉ:

“Anh tha cho em, anh tha cho em.”

“Ðụ mẹ, một.”

“Thôi, thôi, thôi anh để em xuống.”

Lết ra tới lan can tàu, ông ta quay lại năn nỉ lần chót:

“Anh tha cho em, anh thương em với.”

“Ðụ mẹ, hai.”

Biết là không thể năn nỉ, xin xỏ gì được, ông ta vừa khóc vừa nhảy xuống biển. (Trang 120-122).

Chiếc tàu dành riêng đón thủy quân lục chiến, vì vậy lính thủy quân lục chiến dí súng vào đầu lính bộ binh bắt buộc họ phải rời tàu, nhảy xuống biển”. Một người viết hồi ký sẽ ghi như vậy.

Và như vậy là đúng với sự thật, đúng luật, đúng những gì khán giả được xem trực tiếp trên truyền hình rồi, còn nói gì được nữa?

Nhưng với những “đụ mẹ, một; đụ mẹ, hai; đụ mẹ, ba” Cao Xuân Huy đã xoay trở tình thế, đã đổi trắng thành đen, đã đảo luật thành vô luật, đảo luật thành tội ác, bất nhân, đã tạo sự phi lý phi thường.

Mấy ai có khả năng đạt được “công tác” ấy với vài ba dòng chữ?

Cách xoay trở tình thế như thế đã khiến Tháng ba gẫy súng trở thánh tác phẩm chống chiến tranh mãnh liệt nhất mà văn học Việt nam có được trong nửa thể kỷ vừa qua. Chỉ với hoạt cảnh kinh hoàng ở cửa Thuận một sáng tháng ba, Huy đã khắc cái án tử hình lên mặt chiến tranh, trên đầu những người bị nghiền nát vì xích xe tăng, vì cái bửng, vì cái chân vịt của con tàu “cứu người” trên mặt biển.

***

Tại sao một người có nụ cười hiền như Huy, ăn nói nhẹ nhàng như Huy và ẩn trong một thân thể cường tráng, một bộ râu hùm, là cái e thẹn gần như rụt rè của một người con gái, như Huy, lại xung vào Thủy quân lục chiến?

Bởi vì người cha. Huy có dòng máu Nhân Văn trong người. Dòng máu chạy trong tĩnh mạch, có da che đậy, người ngoài không nhìn thấy. Chính cái dòng máu ấy, đã chi phối đời Huy, một đời chống chiến tranh, nhưng không trốn được đi lính. Một đời thanh niên xuống đường, chống chính trị, nhưng phải xông vào cuộc chiến, do bọn người chính trị hai miền gây ra.

Đã phải đi lính, thì chọn ngành nào đích thực là lính. Thế thôi. Chứ có thù hận gì. Chọn Thủy quân lục chiến vì là thứ lính đánh trận tới nơi tới chốn. Vì thế Huy không trả được lời cha: Thế mày bắn cả bố mày à? Mà có thì cũng sẽ là: Bắn chứ, trận địa mù mịt biết ai là ai?

Điều Huy biết chắc: đã đi lính thì phải chiến đấu như một người lính, đến lệnh cuối cùng. Huy không bỏ cuộc. Trận Cửa Việt 1972, đánh đến đúng giờ ngừng bắn, dù đồng đội đã chết gần hết. Mang nạng gỗ về Sài gòn. 1975, đang nghỉ phép, dù người cậu biết rõ tình thế, khuyên cháu nên đào ngũ, ở lại Sàigòn. Huy vẫn ra Quảng Trị. Bởi không thể để “chúng nó” xoay sở một mình. Ăn nói làm sao với “chúng nó” khi gặp lại nhau.

Người ta tin Huy nói thật, vì người ta thấy Huy đã sống như thế nào: Ở hải ngoại, Huy làm báo Văn Học, làm với tinh thần ba gai thủy quân lục chiến. Nguyễn Mộng Giác có lần than phiền: “Cái thằng! Bài nào không ưng là nó bỏ sọt rác!”. Hẳn là bài của những “chức sắc” trong làng văn mà ông chủ bút không thể từ chối.

Huy tổng thư ký bèn quyết định dùm anh Giác. Bởi Huy chẳng sợ ai.

Thủy quân lục chiến với văn học thì có gì chung nhau đâu? Có. Chung nhau một sự dọc ngang nào biết trên đầu có ai, và một sự không bỏ cuộc, dù thế nào đi nữa.

Nhà văn đích thực không sợ ai, càng không sợ sự danh tiếng.

Nhà văn đích thực không bỏ cuộc giữa đường. Người bỏ cuộc là người amateur, người tài tử. Nhà văn đích thực viết tới lúc chết. Huy viết ít, nhưng viết tới lúc chết.

Huy làm tờ Văn Học tới lúc mọi người đã bỏ cuộc, độc giả bỏ báo, vẫn làm. Ung thư mắt, vẫn làm. Chỉ đến khi vừa bệnh, vừa thất nghiệp, Huy mới nghỉ. Nghỉ một năm thì chết: Huy làm báo Văn Học với tinh thần thủy quân lục chiến. Làm tới chết.

Người ta tin Huy nói thật, vì người thấy Huy chết như thế nào: Vẫn nụ cười hiền rất trẻ, không thể gọi Huy là ông, dù Huy đã hơn sáu mươi. Bệnh đã đại thắng, Huy phải lui dần, nhưng vẫn chống cự: Râu hùm chỉ còn lác đác. Vai năm tấc rộng thân mười thước cao đã co lại, nhẹ hẫng. Từ Hải không ngồi dậy được nữa, không ăn được nữa, không uống được nữa, không ngủ được nữa, nhưng đôi mắt vẫn sáng lên khi nghe bạn kể chuyện văn học, vẫn cười khi nghe bạn pha trò. Minh âu yếm hỏi chồng: Anh uống tý sữa nhá. Huy gật. Minh phân bua: có bạn vui mới gật, thường thì chỉ lắc đầu. Nhìn Minh, biết là Huy có phúc.

Huy không ký được nữa, nhưng vẫn dặn vợ tặng bạn cuốn sách cuối cùng, vừa in xong cách đây vài tháng. Với tính khiêm nhượng cố hữu, Huy đặt tên nó là Vài mẩu chuyện. Chuyện chứ không phải truyện. Đến chết vẫn không chịu nhận mình là nhà văn. Huy chết như một người thủy quân lục chiến.

Khiêm nhượng vì Huy gọi Tháng ba gẫy súng là hồi ký, và cứ nhất quyết chỉ là hồi ký.

Ai cũng có thể viết hồi ký. Sang, hèn, có tài, bất tài, đều có thể viết hồi ký. Nhưng không phải ai cũng viết được tiểu thuyết, chỉ nhà văn mới viết được tiểu thuyết. Không phải cuốn hồi ký nào cũng trở thành tiểu thuyết. Một cuốn hồi ký đạt được tầm cỡ nào đó, mới trở thành tiểu thuyết: tức là khi những cá nhân trong tác phẩm đã nhẩy ra khỏi vị trí riêng tư của mình để trở thành nhân vật mà nhiều người có thể nhìn soi mình trong đó. Cái tôi trong hồi ký là cái tôi riêng của một người tên A, sinh năm X, tại tỉnh Y, kể lại chuyện mình và chuyện  người khác trong những quan hệ cá nhân, có tính chất kê khai, tài liệu. Cái tôi trong hồi ký là cái tôi cá nhân, cái tôi xác định.

Cái tôi trong tiểu thuyết là cái tôi bất định của một nhân vật nào đó trong xã hội loài người. Cái tôi trong Tháng ba gẫy súng đã thoát khỏi cá nhân Cao Xuân Huy, trung uý, đại đội phó đại đội 4, tiểu đoàn 4 Kình ngư, thuộc lữ đoàn 1 thủy quân lục chiến, để trở thành một người lính thuỷ quân lục chiến, rồi một người lính, rồi một con người.

Tác phẩm Tháng ba gẫy súng sẽ tồn tại như lịch sử môt người lính bại trận trong những ngày cuối cùng của một trận chiến, không biết ở đâu.

Câu chuyện của cá nhân Cao Xuân Huy trong hồi ký đã trở thành tiểu thuyết vì sự thật và hư cấu trùng hợp đến xương tủy, nó chấm dứt là câu chuyện của một người để trở thành câu chuyện của muôn người, nó trở thành phổ quát

Vài mẩu chuyện

 

Hai mươi nhăm năm sau Tháng ba gẫy súng, Vài mẩu chuyện [7] ra đời. Tháng ba gẫy súng in chữ to, 177 trang, chữ nhỏ chắc chỉ được độ 120 trang. Vài mẩu chuyện, 80 trang chữ nhỏ. Là bởi Huy lười. Lười nhưng thấu suốt mọi lẽ: viết nhiều mà làm gì! Nhà văn lớn đến thế nào, rồi thì cũng chỉ được ký ức văn học giữ lại một vài cuốn là cùng.

Cao Xuân Huy đã lựa trước những dòng đáng đọc nhất của mình. Và cũng lại vẫn khiêm tốn đặt tên nó là Vài mẩu chuyện, để gián tiếp không nhận mình là nhà văn. Nhà văn viết truyện, còn Huy kể chuyện. Nhưng lần này, chuyện của Huy cũng lại bị trở thành truyện, tức là tác phẩm văn học.

Mười truyện ngắn: Miếng ăn, Người muôn năm cũ, Quyền tối thiểu, Cái lưỡi câu, Ngu như lợn, Vải bao cát, Hành phương nam, Chờ tôi với, Mai thảo, Trả lại tiền.

Vài mẩu chuyện trả Huy lại với đời thường.

Đời cải tạo: miếng ăn, quyền tối thiểu, cái lưỡi câu, ngu như lợn,

Đời nhìn lại chiến tranh: người muôn năm cũ, hành phương nam, chờ tôi với.

Đời làm văn, làm báo: Mai thảo.

Đời sống: trả lại tiền.

Vài mẩu chuyện khép lại quỹ đạo chiến tranh để “nối vòng tay lớn”.

Vài mẩu chuyện đằm hơn Tháng ba gẫy súng, những cơn đau nhẹ hơn nhưng tiến sâu hơn, như giữa hai đợt tấn công, cơ thể ung thư được hưởng vài giờ hưu chiến. Huy đã gặp Thạch Lam trong lối viết nhẹ nhàng mà đứt ruột. Mỗi truyện ngắn như một sợi tóc vướng trong hệ thần kinh của con người đã trải qua kinh nghiệm chiến trường hãi hùng như thế, không thể nào kéo nó ra được. Ở những người lính Mỹ không biết viết văn, đã có hội chứng Việt Nam.

Miếng ăn, quyền tối thiểu, cái lưỡi câu, ngu như lợn, mỗi truyện dàn dựng như một bi kịch mà tính bi đát đi đoạn hậu. Phải đọc đến câu cuối mới thấy kinh hoàng. Huy không dùng bất cứ một hình ảnh ghê rợn nào, đôi khi còn đùa cợt nữa, nhưng cái kinh hoàng khám phá ở đoạn cuối bao giờ cũng là bản chất của con người.

Ở những hồi ký viết về trại cải tạo, cái “ác ôn” thường được chĩa vào “quản giáo”, cái ngu si đần độn thường được chĩa vào “cán ngố”, tạo sự căm thù đôi khi bật ra những nụ cười khả ố.

Ở Cao Xuân Huy, dù “cái đói, cái thèm, đeo đẳng hành hạ con người hết ngày này tháng nọ, năm nào, ngày nào, tháng nào,giờ nào, cái đói cũng bám chặt lấy dạ dày, cái thèm lúc nào cũng bám chặt lấy đầu óc”, thì cái “ác ôn” vẫn không chiếu vào cán bộ, mà chiếu vào “anh em”, vào những kẻ được tiếp tế mừa mứa, ăn thừa đổ đi, trong khi người bạn nằm cạnh đắp chăn chặn đói (Miếng ăn). Nội soi bao giờ cũng nguy hiểm hơn ngoại cảnh. Huy đã chiếu cái “ác ôn” vào bản chất con người, không chiếu vào “địch”. Trong những năm tù, thế nào Huy chẳng gặp quản giáo ác ôn, nhưng Huy khác người vì sự lựa chọn đó.

Vì vậy những mẩu chuyện của anh thoát khỏi vòng hồi ký, thoát khỏi một câu chuyện, đề trở thành truyện ngắn, thành một tác phẩm nhân bản, giải giới cho những thù hận thường tình. Sự lựa chọn của Huy dường như không do một toan tính văn học. Tự bẩm sinh con người Huy như thế.

Vải bao cátquyền tối thiếu là hai trường hợp phi thường của người tù cải tạo thèm sex đến cực độ mà lại từ chối sex. Ở quyền tối thiểu, người tù được hưởng “ân huệ” chăn chiếu với vợ khi người vợ đến thăm nuôi, nhưng Toàn đã từ chối “ân huệ” này: Việc vợ chồng là chuyện tự nhiên, là quyền tối thượng của con người. Khi được ban phát như một ân huệ, nó trở thành không thể chấp nhận được. Thành nhịn. Nhịn để giữ trọn tiết khí. Giữ trọn quyền sống tối thiểu của con người.

vải bao cát, một trường hợp lạ lùng khác: Một ngày trong trại cải tạo, người ta tải vào một thiếu nữ bị trúng mảnh đạn M-79 khi đang cuốc đất. Bao nhiêu dồn nén sinh lý lâu ngày trồi lên xục xạo thân thể người tù trẻ, chưa vợ, Toàn trả cho một bạn tù bữa cơm sáng để mua cái việc được cầm đèn và cởi quần áo cô gái trúng đạn cho bác sĩ giải phẫu.

“Toàn háo hức đắm chìm theo những tưởng tượng…

Bất ngờ, hai mắt đang hau háu chợt dịu lại.

Lúng túng.

Hai tay đang tụt quần cô gái chợt khựng lại.

Ngập ngừng.

“Làm gì mà đứng nghệt ra vậy?”

Toàn như không nghe tiếng bác sĩ Thông, vẫn đứng trơ ra, mắt như dán vào mảnh vải che phần dưới thân thể cô gái.

Đờ đẫn.

Thẫn thờ.

Mắt Toàn như dại đi.

Trong đầu, chập chùng những hình ảnh. Giao thông hào, lô cốt, hầm chữ A, hầm chữ T. Tiếng bom, tiếng mìn, tiếng lựu đạn, không giật, sơn pháo. Những đợt tấn công, phản công. Những xác người, xác ta, xác địch, xác bạn, xác dân. “ (Trang 58-59)

Lỗi tại chiếc quần lót. Chiếc quần lót của người con gái làm bằng vải bao cát. Vải bao cát xuất hiện trên khắp các mặt trận, hồi ấy, nhưng tại sao nó còn sót ở đây, trên thân thể này? Chiến tranh đã chấm dứt rồi mà. Hoà bình đã lập lại rồi mà. Nhưng hoà bình không thể lập lại. Lỡ giết nhau rồi. Lỡ tan xác rồi. Làm sao “lập lại” được?

Toàn lẩm bẩm với người con gái như một ăn năn, như nói với chính mình:

“Chiến tranh đã qua lâu rồi mà, mọi chuyện rồi sẽ phải qua đi… đừng sợ “ (trang 60)

Một “chiều đông”, ba người lính thuỷ quân lục chiến, trên đường hành quân, dừng chân trên phá Tam Giang, bên một “quán nhậu dã chiến” bên đường. Người thứ nhất đọc Hồ trường và thơ Quang Dũng. Người thứ hai nghe. Người thứ ba đọc Hành phương nam[8] tuy hướng của họ là phương bắc, chiếm lại những mảnh đất vừa bị mất. Người thứ nhất cãi: đâu phải thơ Nguyễn Bính. Đang cãi nhau sôi nổi, họ bị gọi lên đường hành quân…

Một chiều xuân, trên nghiã địa Sàigòn, người thứ ba, mang nạng gỗ, một mình ngược hướng xuôi nam, đốt bài Hành phương nam dưới đề rõ tên tác giả Nguyễn Bính trên mộ bạn, như muốn nói nhỏ: của Nguyễn Bính thật, tao đâu có nói dối mày.

Hành phương nam của Nguyễn Bính là bài thơ.

Hành phương nam của Cao Xuân Huy không phải là một bài phê bình, nhưng lại toát ra cái gì sâu sắc, đòi đoạn, không tìm thấy ở những bài phê bình thơ Nguyễn Bính. Dường như (tức là bài Hành phương nam của Huy) hiểu Nguyễn Bính hơn ai hết, từ thơ Nguyễn Bính, đưa người đọc vào không gian những người lính đã thoát khỏi vòng thủy quân lục chiến để trở thành tráng sĩ. tạo ra một trận địa mới, một lối chết mới: chết với thơ, chết trong thơ. vinh thăng một tình bạn không chết theo cái chết.

Mai Thảo như cây cổ thụ giữa đám lau sậy. Như ông vua có quần thần hộ tống. Đàn em, ai chả muốn được làm quen với Mai Thảo. Vậy mà Huy không. Không chào. Nhất định không chào Mai Thảo. Một hôm Mai Thảo ngồi với đám thương nhân giàu có đang rôm rả khoe thành tích. Mai Thảo thần mặt ra. Huy lại gần nói nhỏ vào tai: anh muốn về không em đưa anh về. Mai Thảo ừ ngay lập tức.

Bài mai thảo là một chân dung văn học, chân dung Mai Thảo, nhưng Huy cũng lại biến Mai Thảo thành mai thảo một hình tượng văn chương, và chính Huy trở thành một hình tượng khác của văn chương: một cây xanh bên cây cổ thụ.

Chỉ ở một lời: anh có về không em đưa anh về, đã bao cảm thông, đã bao trìu mến, đã xoá bao cách biệt, đã dẹp bao hào quang, để thấy tình người.

 

Trả lại tiền là một truyện độc đáo: ngắn, gọn, chỉ có ba nhân vật: một gã lính ngụy vừa được thả. Một gã dân phòng và một ả điếm. Đối thoại cộc lốc. Cả câu lẫn chữ đều ngắn đến cực điểm. Mặc cả:

“Nhiêu?

Hai chục

Không có đủ

Dzậy có nhiêu?”

Tác giả gói tròn mối tương quan giữa ba nhân vật, ba cõi đời, trong một thoáng ngôn ngữ, một nhoáng thời gian: Gã dân phòng, đáng lý bắt kẻ phạm pháp, nhưng khi biết là lính ngụy, lại diụ giọng: Phải kiếm chỗ kín kín một chút chớ. Rồi hỏi: “Nó lấy cha nhiêu?”

Ả điếm, lợi dụng kẻ lạ không biết giá, lấy cao kiếm lời.

Gã dân phòng quát chị đàn bà: “Trả tiền lại cho người ta”. Rồi đi.

Gã lính ngụy không nỡ ăn quỵt, trả tiền lại cho chị điếm.

Chị điếm hối hận cũng không lấy tiền “Thôi giữ lấy xài đi”.

Bi kịch xây dựng trên tình người, nhưng với lối viết thật ngắn tác giả đã vót nhọn tình thương khiến nó trở thành dấm dẳn, thô bạo, thoát khỏi vòng nhân ái cổ điển, tạo ra một thứ tình người thô nháp như đá, khó nhận diện được.

***

Với Vài mẩu chuyện, Huy đã tha thứ cho mình, cho người. Huy đã trả lời câu hỏi cha:

Mày bắn cả bố mày à? Không con không bắn. Bởi cuối cùng hai cha con đều chết, như người lính thủy quân lục chiến và người bộ đội (trong Chờ tôi với) cùng quê Hà nội, gặp nhau sáng 28 tháng giêng 1973, trao đổi với nhau vài mẩu chuyện rồi cùng chết vì những tiếng súng cuối cùng của cuộc đình chiến.

Dường như Huy trước khi chết đã tìm ra chân lý: sự đánh nhau trong cuộc chiến không giết nổi con người. Sự hành hạ nhau trong trại tù không giết nổi con người. Chỉ tạo ra những xác người mà phần tinh túy nhất vẫn còn đọng lại ở một nơi nào khác: phần của yêu thương, của tha thứ, của nhìn nhau, của nhận nhau.

Việc đời trùng điệp phơi bày trước mắt. Nhà văn không thể viết hết mà phải lựa chọn sự kiện nào, yếu tố nào nên đưa vào tác phẩm. Giống như công việc của nhà nghiên cứu, tài liệu đầy tay, nhưng phải chọn dữ kiện nào có thể sử dụng. Giống như công việc của một con người, phải lựa chọn một đạo sống nào cho mình. Chính sự lựa chọn ấy làm nên con người, làm nên tác phẩm. Làm nên Cao Xuân Huy. Làm nên Tháng ba gẫy súng. Làm nên Vài mẩu chuyện.

Huy có thể yên tâm ra đi. Huy đã nối vòng tay lớn với cõi sống và cõi chết. Bảo đảm với Minh và các cháu hai tác phẩm của Huy sẽ trụ lại. Rất lâu, không biết đến bao giờ.

Bao giờ hết chiến tranh…

Paris 24/11/2010

Thụy Khê

 

Đọc Cao Xuân Huy

Lưu Na

Cuối cùng rồi mình cũng đọc quyển hồi ký ấy, quyển hồi ký gắn liền với một cái tên suốt 25 năm dài. Làm như người ấy tái sinh với tên cũ dài hơn: Cao Xuân Huy Tháng Ba Gãy Súng. Muốn hiểu tính cách của con người tái sinh ấy ra sao thì cứ đọc phần Cao Xuân Huy trả lời Trần Văn Thủy trong Nếu Đi Hết Biển, nhưng nếu muốn biết anh đã viết những gì sau hồi ký đó thì cũng hơi nhọc nhằn. Mình nhớ đã từng đọc Cao Xuân Huy ở đâu đó. Tìm lại, thấy anh có truyện/bài đăng rải rác trên Tạp chí Văn Học, một vài tạp chí khác, và trên mạng.

Cao Xuân Huy viết ít. Trong sáng tác, chuyện ít nhiều không làm nên giá trị của tác phẩm, nó chỉ làm đậm thêm hoặc phai mờ đi một tên tuổi với những tác phẩm đã tạo thành. Nhiều mà dông dài thì thà ít. Dài mà rườm rà thì thà ngắn. Cao Xuân Huy không những viết ít mà còn viết ngắn và viết đơn giản. Điều hơi lạ là không hiểu sao sau khi đọc những truyện ngăn ngắn ấy mình lại cứ liên tưởng đến một bộ truyện dài: Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn Mộng Giác. Ngạc nhiên, và buồn cười.

Khác biệt giữa những truyện thật ngắn đó và một truyện thật dài thì quá nhiều. Sông Côn Mùa Lũ dùng sự thật tạo nhân vật giả, dựa vào lịch sử để sáng tác. An. Lãng, và Huệ, v.v… là của Nguyễn Mộng Giác. Những truyện ngắn của Cao Xuân Huy dùng nhân vật giả để trưng bày sự thật, dựa vào sáng tác để nhìn lại một góc lịch sử mới vừa qua. Cao Xuân Huy dùng cái riêng để gợi đến cái chung, từ cái hư cấu vẽ ra cảnh thực. Người lính là của lịch sử, con người là của lịch sử. Nhân vật là nhân vật chung của thời đại, bất cứ người lính nào cũng thấy đời mình trong đó, bất cứ người tù nào cũng thấy mình trong đó, bất cứ người dân nào lứa tuổi nào cũng thấy phận mình trong cái tang thương chung.

Truyện dài cho phép mình nhẩn nha suy ngẫm, ngắm nghía từng nhân vật với từng cá tính tâm tình, tách biệt và biến chuyển của mỗi tâm hồn theo với biến động xã hội và thời gian. Sông Côn Mùa Lũ cho mình thấy suy nghĩ, tâm tư, và xúc động nữa, của An, từ thuở mới lớn cho đến khi quá tuổi trưởng thành; một Nguyễn Huệ từ thuở còn đến học với giáo Hiến cho đến khi xa vời trên ngai… Truyện ngắn Cao Xuân Huy không có nhân vật để nhớ, không có biến chuyển để theo. Đọc xong chỉ thấy ngậm ngùi hay thông cảm, hay thấm đọng một niềm đau chung cho một hoàn cảnh, tình huống. Chỉ biết gật gù đồng cảm.

Với những khác biệt sờ sờ ra như vậy, đâm nghĩ ngợi về những gì anh đã viết và cách anh viết. Thì ngắn và đơn giản!!! Nghĩ ngợi mà vẫn không tránh được đối chiếu.

Sông Côn Mùa Lũ viết về những con người của một thời vàng son tao loạn đã qua: thời Nguyễn Huệ và nhà Tây Sơn. Những truyện ngắn của Cao Xuân Huy khi gom lại cũng tương tự trong tầm vóc nhỏ hơn, viết về người lính thời chiến tranh Việt Nam. Tao loạn, và dù xã hội cũ không hoàn chỉnh nhưng vẫn là một thuở vàng son, trong đó những người lính Cộng Hòa dù thua dù mộng không thành cũng từng làm bạt vía kẻ thù. Những truyện ngăn ngắn ấy đứng riêng một mình thấy đơn điệu. Bên cạnh trường thiên chúng trở thành những trang rời, những chương nhỏ của bộ trường thiên Chiến Tranh Việt Nam, vì trọng tâm vẫn là người lính – trong cuộc chiến, lúc tàn cuộc, khi sa cơ, và trong lòng chế độ cộng sản.

Cao Xuân Huy chỉ viết chuyện người lính. Nhưng người lính của Cao Xuân Huy mang thân phận con người bình thường chứ không anh hùng không sắt thép, không hy sinh đẫm máu hay cao cả bạo tàn. Những người lính ấy cũng biết buồn biết sợ biết tủi nhục. Phản ứng của họ trong những hoàn cảnh khắc nghiệt chính là nét tâm lý sâu sắc trong thân phận con người. Bị chà đạp thì phản ứng lóe lên như ánh chớp nhưng phải tắt trước nòng thép lạnh để giữ thân (Ngu như lợn) còn sống được nhờ biết sợ. Ráng giữ nhân phẩm mà thành ra đánh bạn vì miếng tồi tàn (Miếng ăn). Về làm phó thường dân cũng muốn liều mà đành không thể “ăn quịt chơi lường” (Trả lại tiền)… Những điều anh viết đưa ra một cái gì rất thật của người lính, tưởng như sờ chạm vào được. Sông Côn Mùa Lũ, Nguyễn Mộng Giác cũng đưa ra hình ảnh một Quang Trung Đại Đế – Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ như một người bình thường của số phận: Huệ phải lập chánh cung và An phải lấy Lợi. Cũng đành, nhưng chiếc áo đăng quang phải chính tay An vẽ kết, không thể nào khác. Tình yêu và số phận chi phối vua và dân như nhau. Thật dài và thật ngắn, cả hai tác giả đều “con người hóa” những biểu tượng anh hùng.

Viết ngắn, nhưng Cao Xuân Huy khéo dùng chi tiết trong truyện của mình. Sông Côn Mùa Lũ, Nguyễn Mộng Giác không cho Huệ nói được một lời yêu, chỉ cho Huệ chạm tay vào má An lúc giã từ mà tình yêu như đã được khẳng định. Cái tình không nói ấy lơ lửng trong không gian suốt bề dài của truyện. Với An, khi cho An thảng thốt ngập ngừng “đừng anh Huệ…” thì tình tuyệt vọng như đã mơ hồ xuất hiện trong cái lúng túng bối rối của cô gái mới lớn vừa đối mặt với tình yêu. Đó là với 2,000 trang chữ. Trong vài trang chữ, Cao Xuân Huy đưa ra cái nhìn đọng lại vài giây của cô gái đứng đường trong “Trả lại tiền” để nói – và nói lên được tình cảnh xã hội và lòng người với nhau qua cuộc bể dâu. Những ngày ấy biết bao thương xót. Một đồ sộ một đơn giản, cả hai tác giả đều đưa vào tác phẩm của mình những chi tiết vụn vặt không mấy ai để ý mà khi đã được nêu ra thì đọc thấy thấm thía.

Truyện ngắn của Cao Xuân Huy làm mình liên tưởng Sông Côn Mùa Lũ chính ở tính cách tinh tế đó.

Liên tưởng thôi, chứ không thể so sánh cái đồ sộ công phu với cái vắn vỏi đơn giản. Cũng như nói chuyện lịch sử hay sự thật chỉ là bàn cho tới nơi một cảm nhận của người đọc mà thôi. Gán cho Cao Xuân Huy chuyện cao cả quá coi chừng bị mắng là vẽ rắn thêm chân. Vì chữ và lời của Cao Xuân Huy giản dị lắm. Văn khô khan không xúc tích, đọc văn thì không có ấn tượng gì nhưng nếu phải chỉ ra một lời văn rườm rà một chi tiết dư thừa hay một bố cục lỏng lẻo chắc khó. Chữ, nó là cái tĩnh, khi Cao Xuân Huy viết xong nó thành cái động – hình ảnh đối thoại và dẫn giải nối liền pha trộn. Ngay cả phút suy tư cũng là hình ảnh lồng trong cảm xúc (Vải bao cát). Đọc Sông Côn Mùa Lũ có cái thú là vừa đọc văn vừa đọc truyện, vừa thưởng thức vừa ngẫm nghĩ, chữ nối chữ. Đọc Cao Xuân Huy không có khoảng trống đó, một phần vì ngắn, nhưng chính yếu vì cách viết: hình ảnh sự kiện lướt lướt qua trước mắt, âm thanh nối nối qua tai, không có bề dầy thời gian cho nhân vật và sự việc.

Cách viết ấy có cái hay: đọc không phải là đọc mà là xem một đoạn phim ngắn, một cảnh nào đó của một cuốn phim: “Hành phương nam” cứ như một đoạn ngắn của phim “Chân trời tím”… “Trả lại tiền” đọc vào là “nghe” được đôi lời dẫn nhập, vài cái phác họa là thấy ra một cảnh trước mắt với hoặc lời dẫn giải hoặc lời đối thoại nghe rất thực: “dzậy có nhiêu,” “không thì nhiêu,” chữ “bao” là chữ câm khi phát ra tiếng. “Người muôn năm cũ”, cứ mỗi chữ “Cô Hiền” là mỗi lời êm êm buồn buồn phát ra từ cái radio nghe trong đêm Mẹ Việt Nam rất đau buồn vì có những đứa con sinh Bắc tử Nam… Cũng có lúc mình liên tưởng, như “Miếng ăn” làm mình nghĩ đến cô gái già trong “40 year old virgin…” giới thiệu đứa nhỏ là con của con gái mình vì không muốn nói mình là bà ngoại. “Chờ tôi với” có đối thoại rất hay và lạ – lời chồng lên lời, thấy trước mắt mình cảnh hai đứa trẻ cùng nói một lúc về cùng một đề tài nhưng mạnh mày mày nói mạnh tao tao nói. Thú vị.

Nhưng thú vị nhất với mình là nét cười cợt và như có một niềm hãnh diện, nhạt nhòa, cái sự quyết không hèn trong mọi hoàn cảnh. Cái quyết ý đó cảm mà không thấy ở chỗ nào, chỉ bàng bạc đó đây ở những điều không nói những chữ không viết. Để hiểu, phải trở lại với tính cách của tác giả qua những lời đã nói.

Với Trần Văn Thủy trong “Nếu đi hết biển”, “tôi” khóc vì có Bố thăm, tôi hãnh diện vì Bố quen Phùng Quán, tôi sợ không đến gặp lúc Bố vào Nam vì công an bao vây, tôi đánh giặc cừ, ở binh chủng thiện chiến, và tôi còn tưởng Bắc tiến… Tóm lại, Cao Xuân Huy nói tôi chỉ là một người dân bình thường nhưng làm trai cho đáng nên trai (!!), một thái độ kiêu ngầm. Bên cạnh những nhà giáo khoan hòa như Trương Vũ, Nguyễn Mộng Giác, Nhật Tiến, Cao Xuân Huy biểu lộ một phong cách trượng phu: trọng bổn phận, có ý thức trách nhiệm chung, và thẳng thắn rốt ráo (về mình, với người).

Với Lê Quỳnh Mai, (phỏng vấn Cao Xuân Huy), tính cách và thái độ đó càng đậm nét:

Lê Quỳnh Mai: Là một trong những nhà văn hải ngoại có mặt trong Nếu Đi Hết Biển. Tại sao ông quyết định nhận lời mời phỏng vấn của tác giả Trần Văn Thủy?

Cao Xuân Huy: Giản dị thôi. Tình trạng sách báo ở hải ngoại không vào được trong nước, đây là dịp để tôi có thể nói cho người dân trong nước những suy nghĩ của mình về cuộc chiến vừa qua. Rõ rệt là quyển sách này đã được rất nhiều người trong nước đọc. Nhân việc trả lời này, tôi đã nói được chuyện quân đội miền Nam đang chuẩn bị lấy lại Hoàng Sa ngay lập tức sau khi bị Trung Cộng chiếm hồi đầu năm 1974, nhưng đã bị bộ đội miền Bắc cố tình cầm chân để Hoàng Sa hoàn toàn lọt vào tay Trung Cộng. Hơn nữa, tôi thích đạo diễn Trần Văn Thủy, dù chưa gặp mặt, qua hai cuốn phim “tài liệu” Chuyện tử tếHà Nội trong mắt ai. Hai cuốn phim này là hai cái tát vào mặt chế độ. Tôi cũng muốn nhân đó mà tát vào mặt đảng Cộng Sản Việt Nam một cái chơi.

Xác đáng, rõ ràng, và thẳng thắn – không thể nào khác.

Trượng phu và kiêu, tính cách thấy qua lời nói cũng ẩn hiện trong tác phẩm.

Kiêu, nên dễ hiểu tại sao Cao Xuân Huy không gắn huy chương không tô vẽ chiến công cho nhân vật của mình. Người lính của Cao Xuân Huy cũng như chính tác giả, phải là mình, chỉ là mình. Sự thật có chỗ đứng của nó, nhân vật của Cao Xuân Huy có đặc tính thật, những con người bình thường gặp nhau trong binh đoàn thiện chiến với mẫu số chung là can đảm, trung thành, trọng nghĩa, và trọng luật chơi. Trượng phu, nên không kể thành bại, chỉ cần sống xứng đáng và không thể hèn. Truyện của Cao Xuân Huy có những người lính bình thường chiến đấu một cách can trường và bất khuất lúc sa cơ, gợi nên nét kiêu dũng thầm lặng. Kiêu dũng, mà chỉ cảm được thôi, nó lơ lửng trong không gian như mối tình của Huệ và An trong 2,000 trang chữ, vì Cao Xuân Huy có nói gì đâu trong truyện của mình. Tác giả chỉ cho nhân vật của mình cười cợt – khi xông pha đối mặt kẻ thù, lúc ngã xuống, và khi bị chà đạp trong tù. Cười cợt bất cứ lúc nào có thể. Không nói chuyện cao cả anh hùng, không viết lời xưng tụng, Cao Xuân Huy chỉ dùng cái cười cợt để biểu lộ quyết ý không hèn của người lính, đây mới là chỗ độc đáo.

Độc đáo thì có độc đáo, nhưng không đã. Cứ thấy như mình bị tác giả ăn gian vì phải suy đoán một tính cách, ngẫm nghĩ một cảm nhận. Cái cười cợt không chỉ của nhân vật mà còn của chính tác giả, như viết chỉ là viết láo mà chơi. Phải chăng tác giả đã tự giới hạn mình?

Chọn lọc và cô đọng, Cao Xuân Huy là cây viết sắc sảo. Nhưng là khi viết in ít, viết ngăn ngắn, trong một đề tài. Biết cái sắc sảo đó có còn khi viết nhiều hơn, viết rộng hơn, và trong một tác phẩm dài hơi? Trong lúc chờ câu trả lời đành phải chịu xem láo chơi.

Lưu Na

 

 

Một Cao Xuân Huy khác

Ngô Thế Vinh

Trong tình bằng hữu nhiều năm với Huy, được sự đồng ý của chị Cao Xuân Huy và hai cháu Chúc Dung & Xuân Dung, bài viết thiên về khía cạnh y khoa này, nói về một Cao Xuân Huy khác, người bệnh Cao Xuân Huy chênh vênh trên con dốc của tử sinh, đã can trường chống chỏi với bệnh tật cho tới những ngày và giờ phút cuối cùng và đã ra đi với tất cả “phẩm giá”.

Melanoma là loại ung thư phát triển từ những tế bào sản xuất sắc tố melanin / melanocytes, yếu tố định hình màu da của mỗi chủng tộc. Thông thường melanoma là loại ung thư da / melanoma skin cancer, nhưng mắt cũng có thể là nơi phát triển loại ung thư này, tuy khá hiếm. Ung thư sắc tố melanoma trong mắt thì không dễ phát hiện như ở ngoài da. Khi phát hiện thường là đã trễ.

Đó là trường hợp Cao Xuân Huy, rất tình cờ, khi Huy nheo một bên mắt thì mắt kia không thấy gì . Huy báo tin cho tôi biết.

Khi đột ngột mất thị giác một mắt, phải nghĩ tới những nguyên nhân khẩn cấp khác [ như bong võng mạc / retinal detachment, tai biến mạch máu não / stroke, thiên đầu thống / migraine, cao áp nhãn / glaucoma…] thay vì nghĩ ngay tới ung thư mắt. Một bác sĩ nhãn khoa Việt Nam đã khám ngay cho Huy, chẩn đoán lâm sàng đầu tiên cho đây có thể là do một loại nấm khá hiếm mọc trên võng mô / retina.

Nhưng cũng rất sớm, những ngày sau đó, UCLA đã có một chẩn đoán chính xác cho Huy: ung thư sắc tố mắt / ocular melanoma. Trong suốt bài này chỉ đơn giản gọi là “melanoma-mắt.”

Không rõ nguyên nhân, nhưng số người mắc bệnh melanoma-mắt thì cao hơn ở nhóm người da trắng, mắt xanh [ không phải Huy], hoặc cũng có thể vì “hiệu ứng gây ung thư / oncogenic effects” do phơi ngoài nắng lâu dài; riêng đặc tính này thì Huy được xem như “overqualified”, do những năm dài lính tráng hành quân khắp bốn vùng chiến thuật và sau đó là thêm những năm lao động khổ sai tù đầy ở một xứ sở nhiệt đới như Việt Nam. Nói thêm, theo thuật ngữ y khoa, thì đây có thể là do “sai lầm của gene biến thể / mutated gene” đã ra lệnh hoảng cho các tế bào sản xuất melanin tiếp tục phát triển thay vì bình thường theo chu kỳ lão hóa và rồi chết đi. Y khoa bước đầu cũng đã tìm ra những “dấu ấn phân tử / molecular markers” trong nhiễm sắc thể / chromosome để phát hiện rất sớm các di căn.

Melanoma-mắt là loại ung thư hiếm, rất thầm lặng và khi phát hiện thường là trễ với hơn 50% đã có di căn, nên tuổi thọ / life expextancy của những bệnh nhân này rất là ngắn, còn khoảng từ 2 tới 7 tháng; chỉ có khoảng 15% bệnh nhân là sống lâu hơn 12 tháng. Lý do chính là melanoma mắt với di căn tới gan, hầu như kháng lại mọi điều trị.

Melanoma-mắt có thể hoàn toàn không có triệu chứng gì ban đầu, khi có triệu chứng cũng không đặc thù như lóa mắt / flashing lights, mờ mắt / blurred vision hay với triệu chứng nhức mắt do tăng nhãn áp / glaucoma hoặc mất thị giác / vision loss [ trường hợp của Huy ], và diễn tiến lâm sàng thì rất bất định về thời gian trước khi có di căn tới các bộ phận khác ngoài xa mắt như gan, phổi, não và xương.

Các xét nghiệm và phương pháp chẩn đoán bao gồm: thử máu chức năng gan, siêu âm mắt để phát hiện bướu trong mắt, chụp mạch máu mắt với chất cản quang, và có thể cần tới sinh thiết / biopsy vùng bướu trong mắt để xác định loại ung thư. Tiếp theo là theo dõi định kỳ, cũng với xét nghiệm máu, hình phổi, CT scan thay MRI để phát hiện sớm vùng bị di căn. UCLA đã cung ứng cho Cao Xuân Huy gần như đầy đủ những “tiêu chuẩn” như vậy.

Nhưng yếu tố thời gian vẫn là tiên quyết. Thử chức năng gan đôi khi vẫn bình thường nhưng có thể ung thư đã lan tới gan, với những di căn rất nhỏ / micrometastases.

Melanoma-da và melanoma-mắt, tuy cùng tên gọi nhưng lại là hai loài “dã thú” khác nhau. “Hóa trị / chemotherapy” có thể hiệu quả với melanoma-da nhưng lại gần như “bất trị” đối với trường hợp thứ hai. Kinh nghiệm điều trị di căn / metastases gan từ melanoma-mắt không nhiều. Hiệu quả điều trị được định nghĩa như bướu di căn thu nhỏ lại 50% hay hơn. Nếu đáp ứng chỉ được 15% không khác với hiệu ứng placebo/ giả dược thì việc tiếp tục điều trị thêm nữa chỉ làm thống khổ thêm người bệnh trong những tháng ngày ngắn ngủi còn lại.

Cao Xuân Huy không là con bệnh của phẫu thuật / surgical candidate. Khởi đầu, Huy được xạ trị / radiation therapy trên vùng mắt bệnh hay từ chuyên môn còn gọi là brachytherapy, như một loại kim phóng xạ / radioactive seeds.

Sau bước điều trị ấy, Huy vẫn được UCLA thường xuyên theo dõi. Do chỉ còn nhìn được với một mắt nên tầm thị giác của Huy bị giảm đáng kể, mất khả năng lượng giá chiều sâu / depth perception, nhưng Huy thì vẫn thản nhiên sinh hoạt bình thường, hàng ngày lái xe khá xa từ nhà ở Lake Forest đi làm ở Little Saigon, khi lái xe về nhà ban đêm Huy đã thấy khó khăn hơn.

Hóa trị liệu được dùng trong điều trị melanoma da và mắt. Thuốc cho qua đường tĩnh mạch, theo đường dẫn của máu tới vùng ung thư nhằm nhanh chóng giết chết các “tế bào ác”. Cũng không tránh được thuốc ấy giết hại cả những tế bào lành. Và dĩ nhiên có vô số những biến chứng phụ / side effects do thuốc, khiến không ít số bệnh nhận phải bỏ cuộc, bao gồm: trầm cảm, mỏi mệt, nôn mửa xuống cân, thiếu máu, giảm bạch cầu nghiêm trọng / neutropenia làm mất khả năng đề kháng dễ bị nhiễm trùng nặng gây tử vong…Tiến bộ của y khoa đã có những thuốc mới làm giảm thiểu các phản ứng phụ này. Chỉ khoảng 20% bệnh nhân malanoma-da có đáp ứng điều trị. Chưa có hóa trị liệu nào chứng tỏ có hiệu quả đối với di căn melanoma-mắt xuống gan, như trường hợp Cao Xuân Huy.

Bướu di căn của loại melanoma này không phải chỉ có một, do có nhiều bướu nhỏ trong gan, nên phẫu thuật cắt bỏ / resection không có chỉ định trong trường hợp này.

Nói chung, một số loại ung thư có thể chữa lành, nhưng melanoma-mắt với di căn gan thì không có hay đúng hơn là chưa có trong danh sách ấy, nó thuộc loại rất “ác tính” vẫn còn là một thách đố với tiến bộ của y khoa trong thế kỷ 21.

Cũng như khi cầm bút, Huy viết về cái xấu cái tốt của mình một cách thản nhiên, thì nay nói về bệnh ung thư mắt của mình cũng với một sự thản nhiên như vậy, trong khi người nghe thì không tránh được nỗi xúc động hay cả hốt hoảng. Một người bạn thân sau khi gặp Huy đã phát biểu: “Huy bệnh ngặt nghèo như vậy mà chính mình lại như được nó an ủi.”

Theo dõi Huy, mới thấy Huy là người bệnh khá mẫu mực, dứt bỏ rượu dễ dàng, rất kỷ luật trong từng giai đoạn điều trị, Huy cũng đã nhận được những chăm sóc y khoa tiên tiến nhất mà anh rất xứng đáng được hưởng. Đổi lại, Huy đã cống hiến cho y khoa một “case study” tốt nhất trong cuộc chiến đấu khuất phục loại ung thư mắt dữ dằn này. Huy đã can đảm chịu đựng, vượt lên trên những thống khổ do hậu quả của các bước điều trị mà ngay từ bước đầu đã không có một hứa hẹn thắng lợi nào. Anh cũng được báo trước rằng khi chấp nhận điều trị, phẩm chất những tháng ngày còn lại của anh có thể sẽ bị ảnh hưởng không những thế quỹ thời gian của Huy còn có thể bị rút ngắn hơn. Huy đã can đảm chấp nhận tất cả.

Huy và tôi, qua cell vẫn liên lạc với nhau hàng tuần, thường là ngày thứ Năm sau ngày tái khám ở UCLA về. Thường là tôi phone cho Huy, nhưng lần này Huy gọi tôi báo tin cho biết CT scan mới phát hiện có bướu nhỏ trong gan. Nhiều phần có thể là do di căn từ ung thư mắt nhưng cũng có thể là một bướu gan tiên khởi / primary tumor không có liên hệ gì tới melanoma-mắt, khi mà tỉ lệ ung thư gan do viêm gan siêu vi B của người Việt Nam hay các sắc dân Á châu nói chung khá cao. Dù trường hợp nào thì điều trị cũng là rất khó khăn.

Tuần lễ sau đó, con gái Huy đưa bố vào UCLA làm biopsy / sinh thiết gan, và chưa bao giờ nghe Huy mở miệng than đau. Kết quả sinh thiết gan xác định bướu gan là do di căn từ ung thư mắt. Không thể giải quyết bằng phẫu thuật, mà xạ trị / radiation therapy hay hóa trị / chemotherapy đều không có hiệu quả với loại di căn này.

Cuộc chiến đấu sắp tới của Huy có phần gay go hơn. Huy rất biết có một dự hậu / prognosis không sáng sủa như vậy nhưng vẫn chấp nhận “một vòng / cycle hoá trị liệu” đầu tiên, mỗi tuần vào ngày thứ Tư trong 6 tuần lễ. Huy vượt qua vòng đầu một cách dễ dàng dĩ nhiên cũng phải trải qua tất cả những biến chứng phụ do thuốc. Thời gian này, Huy vẫn tự lái xe đi làm và cả cuối tuần thì gặp gỡ các bằng hữu. Tái lượng giá sau vòng 1 hoá trị, vùng di căn ổn định, không lớn ra hay phát tán thêm. Như một chút ánh sáng cuối đường hầm, nhưng không thể nói điều trị đã có hiệu quả. Trong cuộc chiến rất không cân xứng ấy, thắng lợi đầu tiên không phải là diệt mà là “cầm chân địch”.

Và Huy chấp nhận thêm một “vòng hóa trị thứ hai”, cũng mỗi tuần trong 6 tuần lễ nữa.

Không biết bên địch tổn thất bao nhiêu, nhưng rõ ràng Huy bắt đầu phải trả giá. Tuần lễ đầu tiên, sau lần hóa trị của vòng 2, Huy cho biết, ngoài các phản ứng phụ đã trải qua như ở vòng đầu, thì lần này khắp mình mẩy thêm cái “đau như xé thịt” _ chữ của Cao Xuân Huy. Huy chưa bao giờ biết than đau, có nghĩa là ngưỡng chịu đau / pain threshold của Huy rất cao, cái đau 10/10 vẫn không khiến Huy có ý định bỏ cuộc. Tuần lễ thứ hai, với sự dè dặt của toán điều trị, nhưng Huy vẫn yêu cầu tiếp tục bước thứ hai. Vẫn cái “đau xé thịt” ấy nhưng cường độ thì lớn hơn và kéo dài hơn mấy ngày sau khiến Huy phải cần thuốc giảm đau. Đây là một khúc rẽ quan trọng, do sức người có hạn, Huy không thể đi những bước tiếp theo, theo lượng định của toán điều trị chứ không phải do Huy. Sự can trường với sức mạnh tinh thần vốn có của Huy đã không tỉ lệ với thể trạng của Huy bây giờ.

Huy cần một “thời gian dưỡng thương” trước khi có thể hoạch định một bước điều trị khác.

Rồi bước tái lượng giá tiếp theo, Huy được báo cho biết bướu di căn cũ thì đã lớn hơn và có thêm nhưng di căn mới trong gan. Riêng Huy cũng cảm thấy vùng gan bây giờ không chỉ cứng hơn mà còn lớn hơn và ăn uống thì khó khăn. Từ đây Huy xuống sắc, xuống cân và yếu đi rất nhanh, duy tinh thần thì vẫn vững vàng. Như từ bao giờ, Huy vẫn với thái độ rất thản nhiên, và như không có gì để hối tiếc.

Có lần gặp Huy đã quá yếu, không còn đứng vững trên hai chân, sắp ngã quỵ mà Huy vẫn không muốn vịn trên cánh tay người bạn đứng bên mình.

Như vậy UCLA cũng đã bó tay, và gửi trả Huy về với bác sĩ gia đình. Thay vì đưa vào hospice / nơi chăm sóc người cận tử, thì Huy vẫn sống với sự chăm sóc đầy ắp thương yêu của gia đình với vợ và hai con.

clip_image004

Chủ Nhật 07/11/2010, lễ hứa hôn con gái thứ hai của Huy [ cháu Xuân Dung ] được tổ chức sớm hơn trong gia đình cho Huy vui và Huy đã thực sự vui với ngày vui ấy của con gái. Sau này tôi khám phá ra một điều, một Cao Xuân Huy tuy cứng cỏi nhưng cũng biết sợ, rất sợ đứa con gái thứ hai.

Huy có thể không nghe đôi lời khuyên của tôi, nhưng những gì nhắn qua qua Xuân Dung, như mệnh lệnh của trái tim, tôi biết chắc Huy sẽ làm.

Những ngày sau đó, các cơn đau khiến người Huy co lại nhưng Huy vẫn không muốn dùng nhiều thuốc giảm đau. Cuối cùng thì phải cần tới morphine với liều lượng càng ngày càng tăng mỗi hai tiếng và cũng chỉ phần nào giảm các cơn đau đổ ập tới. Huy thì vẫn khắc kỷ chịu đựng, không rên siết hay một lời than đau và vẫn không thiếu nụ cười hiền với người thân và các bằng hữu rất quý Huy tới thăm.

Năm ngày sau, 4 giờ 53 chiều thứ Sáu 12 tháng 11, Huy đã yên tĩnh và mãn nguyện ra đi vẫn bên sự chăm sóc thương yêu của vợ con và có thêm hai người bạn vô cùng thân thiết: một từ thuở thơ ấu, Bs Nguyễn Đức mới tới từ Florida, một từ thời quân ngũ TQLC, anh Trần Như Hùng đã đến kịp từ Úc Châu.

Bước trên con dốc chênh vênh của tử sinh, trong cuộc chiến không cân sức ấy, Cao Xuân Huy như một người bệnh mẫu mực, đã can trường hoàn tất cuộc chiến đấu cuối cùng của đời mình, với tất cả sức mạnh tinh thần và đã ra đi với nguyên vẹn phẩm giá / with dignity.

Ngô Thế Vinh

 

 

“Vài mẩu chuyện” và Cao Xuân Huy

Vũ Ánh

clip_image006

Chiều ngày Lễ Tưởng Niệm, con cái và lũ bạn chúng đi chơi xa, còn lại hai vợ chồng già, không muốn nấu nướng nên rủ nhau đến cháo cá Chợ Cũ. Tình cờ gặp lại “Tháng Ba Gãy Súng” Cao Xuân Huy và vợ. Chúng tôi là đồng nghiệp báo bổ kiếm sống qua ngày không thân, nhưng quí mến nhau. Dĩ nhiên là có màn hỏi thăm sức khỏe, về bệnh tình của ông. Tôi thấy Huy không có gì thay đổi, vẫn sừng sững, vẫn còn cứng cỏi tinh thần, coi bệnh hoạn chẳng là cái gì cả. Huy nói: “Ðể tặng anh cuốn sách.” Huy ra xe và lấy sách. Cuốn sách là một tác phẩm mới của ông nhan đề “Vài Mẩu Chuyện” với bìa do Doãn Quốc Vinh trình bày.

Tại đất Little Saigon người ta không đủ thời giờ để đọc hết những tác phẩm viết về thảm kịch 30 tháng 4, nhưng thật ra vẫn thiếu những tác phẩm như “Tháng Ba Gãy Súng.”

Cao Xuân Huy không bao giờ nhận mình là nhà văn, tác phẩm ông cho in cũng ít và không dày, nhưng để lại nhiều ấn tượng mạnh. Sách ông phổ biến đến nỗi cứ nói đến “Tháng Ba Gãy Súng.” người ta biết ngay tác giả là Cao Xuân Huy, một cựu sĩ quan của một đơn vị nổi tiếng đánh đấm ra trò, Thủy Quân Lục Chiến. Ðộc giả yêu những bài viết và tác phẩm của Cao Xuân Huy chỉ vì ông viết thành thật, không mài giũa những từ ngữ để nó trở thành một tác phẩm văn chương, cao siêu chữ nghĩa. Người ta đọc ông bởi chuyện riêng của ông đã trở thành chuyện chung của mọi người, đã trở thành cuộc sống, thành hơi thở, hoàn cảnh khó khăn, khốn đốn của ông đã trở thành hoàn cảnh khó khăn, khốn đốn của cả một dân tộc trên một khúc quanh khá dài của lịch sử Việt Nam.

“Vài Mẩu Chuyện” dày đúng 125 trang, nhưng những mẩu chuyện của ông–như Trần Như Hùng viết trong Tựa–là chuyện về kiếp nhân sinh, của riêng một người mà cũng là chuyện chung của nhiều người, rất phổ quát và cũng rất riêng tư. Chuyện lính, chuyện tù không phải chỉ là câu chuyện và những trải nghiệm của Cao Xuân Huy mà là chuyện của cả thế hệ chúng tôi trong cơn bão của những đổi thay.

Những mẩu chuyện của Cao Xuân Huy không phải là chuyện cầu kỳ, gồm những chuyện đội đá vá trời hay những chuyện lý tưởng cao siêu. Không, hoàn toàn không. Chúng chỉ là những chuyện tầm thường, thậm chí có khi chúng chỉ là chuyện của những thất bại sau những ước mơ. Chuyện tù đầy là chuyện mà hầu như người nào thuộc thế hệ chúng tôi trong cộng đồng này cũng từng trải qua. Nhưng Cao Xuân Huy kể thì lại khác. Chẳng hạn như trong “Quyền tối thiểu” từ trang 29 đến trang 33, Huy kể chuyện tù cải tạo được “cho phép” gặp gia đình và “được phép ngủ lại với vợ” ở nhà thăm nuôi. Câu chuyện này nếu không phải Cao Xuân Huy kể mà do chúng tôi kể với nhau trong chốn trà dư tửu hậu những lần gặp nhau cà phê cà pháo chắc chắn sẽ bị những “tên” khác trong đám bạn tù kê tủ đứng ngay: “Thôi biết rồi, khổ ‘nắm’, ‘lói’ mãi, đổi tần số đi!”

Nói đến chuyện nhà thăm nuôi trong một trại tù Cộng Sản là nói đến vui, buồn, đến những bi kịch và trong nhiều trường hợp, cả nỗi nhục. Nào là chỉ được gặp 15 phút, có khi nửa tiếng, có khi vài giờ, nào là gặp 36 tiếng, 48 tiếng, 72 tiếng. Giờ giấc được gặp mặt gia đình ngoài nhà thăm nuôi mau hay lâu là tùy thuộc vào “công cán” hay “phản động, không an tâm cải tạo” của tù nhân. Nhưng cũng có trại thì việc thăm gặp gia đình và ở lại với gia đình ngoài nhà thăm nuôi được ban phát đồng đều, trừ những người tù bị kỷ luật, nhất là trong thời kỳ trại tù do bộ đội Cộng Sản quản lý.

Các nhân vật trong “Quyền tối thiểu” là Toàn và Thành, các nhân vật có vẻ hư cấu nhưng là thật vì đó là mẫu những cựu sĩ quan quân đội VNCH bị lưu đầy trong các trại tù ở ngoài Bắc cũng như trong Nam sau 30 tháng 4, 1975. Ở trang 31, Cao Xuân Huy mô tả Toàn là mẫu người hiền lành, không muốn phiền hà vi phạm nội qui của trại giam. Anh lao động như mọi người khác trong trại và được người vợ xa cách đã lâu lần mò ra Bắc thăm gặp. Trên nguyên tắc, Toàn được ngủ đêm với vợ ở nhà thăm nuôi. Thành, bạn tù thân của Toàn thấy bạn mình từ chối “ân huệ” của trại thì ngạc nhiên lắm. Hãy đọc Cao Xuân Huy với những đoạn đối thoại sau đây giữa hai người bạn tù ở trang 32 và 33, xin trích:

“Bao nhiêu thằng bon chen, nịnh hót, kiếm điểm, làm ăng ten, bôi mặt hại anh em đồng đội, chỉ để mơ ước được một ân huệ là được ngủ đêm với vợ ngày thăm nuôi. Mày ‘bất chiến tự nhiên thành.’ Vậy mà mày lại bỏ con vợ trẻ ngon lành nằm trơ ra với muỗi mà mày chịu được à?”

“Mày tưởng tao không đau khi quyết định bỏ vào trại à?”

Thành dịu giọng:

“Mày nói thật đi, có gì trục trặc giữa vợ chồng mày không?”

“Không trục trặc mẹ gì cả. Tao không thích, thế thôi. Và dĩ nhiên là vợ tạo không biết là tao được ngủ lại nhà khách (nhà thăm nuôi hay có khi bọn cai tù còn gọi đó là nhà hạnh phúc-VA).

“Gàn, ngày trước mày đi lính chứ có phải là thày giáo chó đâu mà giở thói đồ gàn ra đây. Mẹ kiếp… con không ăn muối con ươn, con không ngủ với vợ trăm đường… vợ con hư, nghe không con.”

“Nếu chỉ vì không ngủ với chồng một đêm mà vợ tao hư thì tao cũng đành chịu thôi.”

“Tiên sư cha nhà anh, vậy thì anh là thằng ngu nhất rồi, chứ không còn được hưởng ân huệ hạng nhì nữa. Không phải đêm nay chỉ có nghĩa đơn thuần là một đêm, hiểu không con trai. Bao nhiêu năm chờ đợi trước đây, và sau hôm nay, bao nhiêu năm sau này nữa, vợ anh không biết còn được gặp cái mặt mẹt của anh hay không…”

“Thì tao cũng đành chịu thôi, Thành ạ!”

“Chịu thôi?” Thành ngạc nhiên. “Như vậy là nghĩa làm sao?”

Toàn gằn giọng:

“Nghĩa là làm sao? Nghĩa là làm sao hả? Các anh được hưởng chính sách khoan hồng nhân đạo của cách mạng. Cách mạng đã tha tội chết cho các anh, giáo dục các anh trở thành người tốt cho xã hội, lại còn gia đình đến thăm, lại còn được hưởng đặc ân ngủ với vợ nữa…”

Thành cười:

“Chứ còn gì nữa, mẹ kiếp, mày đừng lập lại như một con vẹt những câu thằng nào cũng thuộc chứ.”

“Tao tưởng mày khá hơn một chút. Ừ hãy động não thử xem. Vợ chồng ngủ với nhau là một đặc ân à? Ngủ với vợ cũng phải có thằng cho phép à? Thú vật ngủ với nhau cũng không phải là đặc ân của ai hết mà. Hừ, thái độ ngạo nghễ thi ân. Tao hèn, tao không dám chống đối, nhưng ít nhất tao cũng còn có cái quyền tối thiểu là không thèm nhận sự ban phát ấy chứ.”

Ðấy là lối kể chuyện của Cao Xuân Huy, khinh bạc nhưng trái tim ông vẫn còn đầy những rung động. Trong biết bao nhiêu tác phẩm viết về tù đầy ở đây, người đọc có lẽ mới chỉ thấy được mặt ngoài của sự tàn bạo và những cuộc tranh đấu để chống lại sự tàn bạo ấy, mới chỉ thấy được mặt ngoài của những tấm gương bất khuất. Còn những người như Toàn? Có cần phải xếp Toàn vào hàng ngũ những người bất khuất không?

Trong môi trường tù đầy trong các nhà tù Cộng Sản, tôi đã từng thấy có những người nhịn ăn đến chết trong các căn biệt giam nhỏ nơi rừng thiêng nước độc chỉ vì không chịu khai gian cho một người bạn tù. Tôi cũng đã từng nhìn thấy một bạn tù vạch áo chỉ vào ngực và thách một vệ binh súng dài bắn. Anh la lớn: “Tao thách thằng nào ngon bắn tao coi. Chúng mày nên nhớ, bắn chết tao ngay lúc này là chúng mày khoan hồng đấy. Chứ sống kiếp của một con vật như thế này thì sống làm đ… gì.”

Nhưng tôi cho rằng cả hai hành động này còn dễ làm hơn là quyết định của Toàn. Từ chối một ân huệ trong cảnh tù đầy như Toàn, như Thành là một hành động âm thầm, nhưng dũng cảm. Chỉ có những người vượt lên trên cái bản ngã của mình mới có thể làm được. Một đàn anh tôi trong nhà tù trừng giới với một kỷ luật vượt xa kỷ luật của kiểu trại Ðầm Ðùn hay Lý Bá Sơ là trại A-20 ở tiền sơn quận Ðồng Xuân đã nói với tôi như thế này: “Tao không cần những ông bò lục, bò ngũ đứng ra tranh đấu chống lại bọn cán bộ trại giam, tao chỉ cần các ông ấy là người hiền lành và biết âm thầm từ chối những ân huệ mà bọn khốn ấy muốn dùng để hạ nhục các ông ấy và hạ nhục chúng mình.”

“Vài Mẩu Chuyện” của Cao Xuân Huy là những mẩu chuyện nho nhỏ, nhưng hào sảng trong đời lính và đời tù, từ “Miếng ăn,” “Người muôn năm cũ,” “Cái lưỡi câu,” “Ngu như lợn,” “Vải bao cát” cho tới “Hành phương Nam,” “Chờ tôi với,” “Mai Thảo” và “Trả lại tiền…” câu chuyện nào cũng thấm đậm một niềm xót xa cho những cảnh ngộ của một dân tộc.

Sự chân thật, những tình cảm giản dị, cách nhìn tinh tế của Cao Xuân Huy đã biến những sự việc đã cũ, đã xa, thành những sự việc vẫn còn mới và rất gần như hơi thở, cơm ăn và nước uống hằng ngày của chúng ta.

Bởi thế, khi đọc “Vài Mẩu Chuyện” của Cao Xuân Huy, những người đọc gốc lính, gốc tù cải tạo sẽ thấy mình trong đó. Có thể chúng ta sẽ chỉ thấy một hình ảnh bàng bạc về niềm đau.

Vũ Ánh

 

Tiếng cười bi phẫn của Cao Xuân Huy

trong mẩu chuyện “Trả lại tiền”

Trịnh Y Thư

Đọc truyện ngắn “Trả lại tiền” in trong tập truyện “Vài mẩu chuyện” của nhà văn Cao Xuân Huy (tạp chí Văn Học xuất bản, 2010), tôi không khỏi mỉm cười bởi cái phong cách khôi hài đen của câu chuyện—truyện của Cao Xuân Huy đa phần đều như thế—và mặc dù tính hài hước thấm đẫm toàn truyện, người đọc vẫn dễ dàng nhận ra khuôn mặt hết sức xấu xí và tàn bạo của đời sống, của lịch sử. Nhưng có thật Cao Xuân Huy viết truyện ngắn này—có vẻ như được cách điệu hoá đến cực độ, và bên dưới cái phong cách sần sùi, thô nhám, tiềm ẩn một nghệ thuật làm văn độc đáo, đầy cá tính—chỉ để cho chúng ta mỉm cười, dù là nụ cười chua xót, cười ra nước mắt, hay cạnh đấy còn có nhiều điều khác đáng cho chúng ta suy ngẫm?

Trả lại tiền” là một truyện ngắn ngắn, nói theo hành ngôn thời thượng, một truyện cực ngắn, hoặc theo chính tác giả, một mẩu chuyện. Toàn truyện, phần tự sự, trần thuật rất ít, giảm thiểu đến độ chỉ còn lại đôi ba câu, mà không câu nào dài, thậm chí có câu chỉ gồm một từ duy nhất. Đối thoại chiếm phần lớn, nhưng cũng là những câu đối đáp cụt ngủn, lửng lơ, cộc cằn, giắm giẳn, xẳng xớm. Không có phân tích tâm lí nhân vật, không độc thoại nội tâm. Phần miêu tả cũng hoàn toàn vắng bóng, chúng ta không hề biết tuổi tác, danh tính các nhân vật trong truyện là gì. Diện mạo, nhân dáng họ ra sao, tác giả cũng tuyệt đối không cho người đọc một chi tiết cỏn con nào. Cũng không có ẩn dụ, phúng dụ nào ở đây. Các biện pháp tu từ, khoa đại chữ nghĩa lên một chiều kích mới, đều không có mặt. Sự vật trần trụi đến độ không thể trần trụi hơn. Sự cảm thụ của người đọc tùy thuộc vào đối thoại bởi ở đây đối thoại là cái sườn chủ đạo cho câu chuyện.

Tác giả bắt người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng của mình để “viết” truyện chung với tác giả. Với một kĩ thuật và văn phong như thế, tác giả khá thành công khi thuật câu chuyện một anh chàng lâu ngày thèm đàn bà, đi tìm gái điếm ngoài công viên và chẳng may bị dân phòng bắt gặp trong lúc đang đê mê dưới gốc cây. (Trong văn học, văn phong và nội dung đi đôi với nhau như hoà âm và giai điệu trong âm nhạc. Chẳng thể nào đem hoà âm của Tchaikovsky vào giai điệu của Stravinsky hay Janacek).

Nhìn từ góc độ xã hội (người ta rất dễ rơi vào cái bẫy này khi đọc các tác phẩm văn học), truyện ngắn “Trả lại tiền” của Cao Xuân Huy, tuy rất kiệm lời, nhưng đã vẽ ra một cách khá đầy đủ hình ảnh bi đát, cùng quẫn của xã hội, con người miền Nam Việt Nam vào thời điểm ngay sau khi cuộc chiến-tranh-ba-mươi-năm kết thúc. Qua một chi tiết nhỏ, chúng ta biết gã đi tìm gái là sĩ quan chế độ cũ, một tù nhân cải tạo mới được thả về. Có lẽ gã sống lang thang lếch thếch trong thành phố, kiếm sống bằng những nghề lao động chân tay vặt vãnh đắp đổi qua ngày. Chỉ biết đến thế về gã đàn ông, người đọc tha hồ tưởng tượng thêm về hoàn cảnh của gã. Về cô gái điếm cũng thế. Thân thế cô như thế nào—cô là gái điếm chuyên nghiệp hay cô là người đàn bà bình thường như trăm ngàn người đàn bà khác, do hoàn cảnh quẫn bách của thời đại đã phải bán trôn nuôi miệng—thì chúng ta không được rõ lắm. Cả cô lẫn gã đàn ông là người của bóng tối, bóng tối hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Bóng tối đó phủ chụp lên thân phận những con người đáng thương. Chi tiết ở cuối truyện, cô gái điếm trả lại tiền cho gã đàn ông, chứng tỏ cô là người có lòng nhân ái, biết thương người. Cô cảm thấy thương cảm (hay thương hại) gã đàn ông cùng cảnh ngộ nghèo đói như mình.

Cái nhìn xã hội là cái nhìn mang nặng tính trữ tình. Bởi thế người đọc, dù là người không biết chút gì về tình trạng xã hội Việt Nam thời hậu chiến, cũng nhìn ra ngay tính cách bi thảm của truyện. Tuy thế điều đáng nói ở đây là truyện không có chủ đích phê phán xã hội, lại càng không phê phán lịch sử. Tác giả, khi bước chân vào ngôi nhà văn học, đã không tự sắm cho mình chiếc áo nhà xã hội học, hay chính trị gia, hay sử gia. Nhờ thế, tính nghệ thuật của tác phẩm không bị sứt mẻ. Nhờ thế, nó đã không lâm vào nguy cơ biến thành bài văn tuyên truyền nhảm nhí và lố bịch. Tính phê phán của nó được người đọc hiểu ngầm, nếu người đọc muốn hiểu như thế, xuyên qua những nhận thức chủ quan, là nó hàm chứa một thông điệp nào đó.

*

“Dzô sát trong đây.”

“Nhiêu?”

“Hai chục.”

“Không có đủ.”

“Dzậy có nhiêu?”

“’Thổi’ không thì nhiêu?”

“Mười.”

“Vẫn không đủ.”

“Dzậy chớ muốn nhiêu?”

“Có năm thôi.”

“Hổng được. Đụ má… Chưa mở hàng.”

“Nguyên một ngày lương! Không được hả? Thì thôi.”

Tôi thấy đặc biệt khoái trá với đoạn đối thoại này trong truyện. Nó cực kì sống sượng, suồng sã và bởi thế, đầy chất sống. Đối thoại trong văn xuôi Việt Nam thuở trước mang nhiều tính kịch của sân khấu. Lúc thì rành rọt, hùng hồn như nhà hùng biện, lúc khác chải chuốt, mượt mà như cô tiểu thư khuê các. Có lẽ nhà văn Lê Xuyên đã làm thay đổi diện mạo ấy. Từ Lê Xuyên đến ngày nay, hơn nửa thế kỷ trôi qua, thủ pháp đem đối thoại đời thường vào tác phẩm văn học không còn là cái gì mới lạ nữa, nó không mang một ý nghĩa hay giá trị ngoại tại nào đáng kể mà chỉ đóng vai trò phái sinh từ một ngữ cảnh đặc trưng, bởi thế nó chỉ đắt khi được dùng đúng chỗ, đúng thời. Khi bị lạm dụng một cách vụng về, ngay lập tức, nó trở nên lố bịch, đỏm dáng một cách kỳ quái như mụ già to béo, xấu xí mặc chiếc váy ngắn sặc sỡ hở rốn, hở mông.

Kỳ thực, tác giả của truyện ngắn “Trả lại tiền” có chọn lựa nào khác cho đối thoại trong sáng tác của mình không? Đương nhiên là không. Bất cứ một không khí đối thoại nào khác cũng phá tan cảm quan thẩm mỹ của tác phẩm, thậm chí khiến nó rơi vào chỗ phi nghệ thuật. Chính phần đối thoại, như một hình thức biểu đạt, đã định đoạt cho sự thành công và sức sống của truyện ngắn này. Nó hiện diện như đối tượng cho sự miêu tả và chính nó đã gồng gánh công việc chuyên chở nội dung. Ở đây, hình thức và nội dung đan xen, chồng chéo nhau, có cái này không thể thiếu cái kia và ngược lại.

***

Chi tiết ở đoạn cuối—cái nhìn của cô gái điếm đậu vào mặt gã đàn ông vài giây như đánh giá con người gã, đoạn cô trả lại tiền cho gã kèm theo câu nói “Thôi, giữ lấy xài đi”—hiển nhiên, là mô-típ then chốt của truyện: Nó được dùng làm nhan đề. Câu hỏi được đặt ra là tại sao cô gái trả lại tiền? Phải chăng cô là cô gái giang hồ sòng phẳng, con lợn lòng của gã đàn ông chưa được thỏa mãn đã bị gã dân phòng đến cắt ngang, cô chẳng thể nào nhận tiền của gã, mặc dù số tiền ấy chỉ vỏn vẹn là năm đồng bạc. Nhưng phần lớn chúng ta, chẳng ai muốn nghĩ như thế. Qua câu nói của cô gái điếm, người ta nghe như có hơi hướm của tình thương. “Thôi, giữ lấy xài đi.”

Một chút thương cảm, một chút thương hại. Tụi mình đều là những con người khốn cùng trong cái xã hội khốn khiếp này, anh cũng như tui thôi, đói thấy mẹ. Niềm cảm thông bỗng nhiên dâng tràn và cô gái “trả lại tiền” cho gã đàn ông. Tình cảm biết đâu từ đó nhen nhúm để tiến tới chỗ sâu đậm hơn. Điều này không trái tự nhiên. Có những người như cô gái điếm ấy trong bất kỳ môi trường, hoàn cảnh nào của xã hội. Khi cùng chịu cảnh khổ như nhau, người ta thường có cái nhìn nhân ái hơn với đồng loại. Nhìn xa hơn chút nữa, người ta còn có thể xem đấy là bài học đạo đức, con người dù ở hoàn cảnh nào cũng nên có tình nghĩa với nhau, nó là chút thiên tính cuối cùng còn sót lại ở cái buổi hoàng hôn của nhân loại này, nó ngợi ca tính nhân bản, nó khiến người ta vẫn bám vào hy vọng và tin tưởng vào cuộc đời. Vân vân và vân vân.

Nhưng một tác phẩm nghệ thuật có nên là bài tụng ca về tính nhân bản, về những lý tưởng cao đẹp của con người không? Đa phần người ta đều nghĩ thế, muốn thế, và chẳng đời nào tôi ngu dại đi ngược lại dòng thác lũ ấy. Dễ tan xác lắm. Tôi chỉ thấy tội nghiệp cho văn học, nhất là ông lão văn học Việt Nam lọm khọm, bao nhiêu đời hì hụi, ép mình dưới các thế lực chuyên chế, hết “tải đạo” đến “tải đạn”, hết “tải đạn” đến “tải thương”, hết “tải thương” đến “tải lương” mà vẫn chưa bao giờ được thanh thản vui chơi!

Bên trên tôi có nói lướt qua về cái khôi hài đen trong truyện ngắn “Trả lại tiền” của nhà văn Cao Xuân Huy. Nói cho rõ hơn, tính hài hước ở đây tuyệt đối không phải là sự chọc cười hiểu theo ý nghĩa bình dân thông thường. Nó là cảm xúc chủ quan về tính phi lý của đối tượng, một đối tượng không có gì đáng cười bởi tính cách bi thảm của nó. Đối tượng càng bi thảm, tiếng cười càng thấm thía. Tiếng cười ở đây nghiêng hẳn về mặt tích cực. Nó khác xa cái trào phúng kiểu mỉa mai, nhạo báng, bỉ báng, bởi bản chất của mỉa mai là châm chọc, lăng mạ, xúc phạm một cách cay độc, cố ý gây thương tổn cho đối tượng. Hài hước bênh vực đối tượng bởi nó chứng tỏ được sự khoan dung trước bản chất nghịch lý của sự vật.

Từ những dòng chữ mở đầu truyện ngắn “Trả lại tiền” của Cao Xuân Huy, tính hài hước đã hiển lộ. Mạch văn hài hước cứ thế tuôn tràn, thấm đẫm toàn truyện, ngay cả hành động “trả lại tiền” của cô gái điếm cũng là một thái độ hài hước. Đối với tôi, hài hước là hình thức biểu đạt sinh động, khả tín duy nhất còn sót lại khả dĩ giúp chúng ta có một nhận thức sáng sủa và đúng đắn hơn về sự vật. Thế giới càng lúc càng chao đảo bởi người ta càng ngày càng nghiêm túc mà quên mất tiếng cười.

Trịnh Y Thư

 

Cao Xuân Huy – tác giả và tác phẩm

Nguyễn Mạnh Trinh

Viết về chiến tranh, có lẽ là một đề tài lớn của không những văn học Việt Nam và cả văn học thế giới nữa. Những tác phầm như Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh của E.M. Remarques hay Chiến Tranh và Hòa Bình là những danh tác mà ở đó chiến tranh đã được nhìn ngắm với con mắt của tâm hồn vĩ đại của nhân loại. Ở chiến tranh Việt Nam, cũng có nhiều nhà văn viết về chiến tranh có chất lửa và biểu hiện được một phần tâm tư của thời đại. Cao Xuân Huy là một trong những nhà văn đã viết lên những trang sách trung thực viết về cuộc chiến mà ông tham dự. Tản mạn về chân dung và tác phẩm Cao Xuân Huy có lẽ là một đề tài thú vị, nói về một tác giả mà tôi nghĩ gần gũi với chúng ta, những người tị nạn đã trải qua một thời thế có một không hai của lịch sử Việt Nam.
Ở thời điểm cuối tháng Ba năm 1975, lịch sử Việt Nam bắt đầu những khúc quanh mới. Và ở không gian thời gian này tạo thành nhiều lý do để chúng ta nói chuyện về Cao Xuân Huy. Tháng Ba Gãy Súng là một cuốn hồi ký ghi chép lại những diễn biến của mặt trận Thừa Thiên Huế mà tác giả là người kể chuyện lại. Cuốn sách đã được tái bản đến mười lần và có mặt trên 58 thư viện lớn trên toàn thế giới.
Nhưng, khi tôi đọc một đoạn trên mạng Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia thì tôi lại thấy một sự kiện lạ. Theo đó thì ông Cao Xuân Kiên nêu lên một câu hỏi “Theo tôi, chú tôi, Cao Xuân Huy, là một nhà tư tưởng lớn và có vị trí quan trọng trong nền tảng văn hóa Việt Nam. Ông Cao Xuân Huy (nhà văn-Tháng Ba Gãy Súng) cũng là một người có tiếng hiện nay. Làm sao để có cả hai trong Wiki?
Và ông Nguyễn Hữu Dụng, người phụ trách trang định hướng của Wiki trả lời: “Bạn Cao Xuân Kiên, một trong những điều quan trọng nhất của Wiki là tính trung lập. Vì vậy bạn không thể nêu lên những ý kiến quá mang tính cá nhân như: “Theo tôi chú tôi Cao Xuân Huy là một nhà tư tưởng lớn và có vị trí quan trọng trong nền tảng văn hóa Việt Nam”. Bạn hãy viết thêm cho đầy đủ về Cao Xuân Huy, ví dụ ông ấy có vị trí quan trọng trong nền tảng văn hóa Việt Nam, như thế nào, có tư tưởng gì lớn… Nếu thực sự ông ấy chưa đạt được như vậy thì chúng ta nên xóa. Tôi có thử Google “Cao Xuân Huy” thì chỉ được 982 kết quả trong đó phần nhiều nói về nhà văn hải ngoại Cao Xuân Huy kia…”

Ông Cao Xuân Huy ở trong nước là một nhà tư tưởng lớn. Học giả Cao Xuân Huy (1900-1983) là một nhà nghiên cứ chuyên về lịch sử tư tưởng triết học phương Đông từng được gọi là nhà đạo học ngay từ thuở mới khoảng 30 tuổi. Ông được xem là một trong những người có những đóng góp to lớn trong việc đào tạo các nhà nghiên cứu cổ học Việt Nam. Ông để lại một số giáo trình đại học có giá trị về Kinh Dịch, Luận Ngữ, Mạnh Tử, Bách Gia Chư Tử. Ông còn là một giáo sư của Viện văn Học. Con ông là Cao Xuân Hạo là một nhà ngôn ngữ học dịch giả nổi tiếng tại Việt Nam. Và tên ông đã được đặt cho một con đường ở Phường 25 Quận Bình Thạnh thành phố Sàigòn. Thành phố Vinh cũng có một con đường mang tên ông. Tóm lại, tên tuổi Cao Xuân Huy là một tên tuổi rất lớn ở trong nước. Thế mà, ở trên trang mạng điện tử thì nhà văn Cao Xuân Huy ở hải ngoại lại được nhắc nhở nhiều hơn.
Có lẽ, chúng ta không nên so sánh học giả Cao Xuân Huy ở trong nước và nhà văn Cao Xuân Huy ở hải ngoại như vậy. Mỗi người có một vị trí riêng. Nhưng, tôi liền có ngay ý nghĩ. À, thì ra nhà văn tác giả Tháng Ba Gãy Súng Cao Xuân Huy mặc dù ở hải ngoại nhưng cũng rất nổi tiếng ở trong nước. Nói chuyện về một tác giả như thế chắc độc giả không nỡ bảo là áo thụng vái nhau. Như vậy, còn chần chờ gì nữa, đây sẽ là một đề tài lý thú. Nhất là trong thời điểm đáng nhớ của những người tị nạn nói chung và những người lính cũ, những người tù cải tạo như chúng tôi nói riêng. Dù đã đọc hồi ký này nhiều lần, dù đã viết bài đọc sách, đã phỏng vấn tác gỉa, tôi thấy vẫn cần thiết để chúng ta nói chuyện về một chân dung nhà văn, viết mà không có ý định làm nhà văn.
Hai mươi bốn năm về trước, 1986, tôi đã viết bài đọc sách “Tháng Ba Gãy Súng” và phỏng vấn Cao Xuân Huy. Bây giờ, năm 2010, tôi lại viết bài đọc sách “Vài Mẩu Chuyện” và cũng cùng Nhã Lan phỏng vấn Cao Xuân Huy trên Hồn Việt TV và Little Sàigòn Radio. Có nhiều người bảo tôi “ca” Cao Xuân Huy quá mức…
Riêng tôi, một cách thành thực, tôi chỉ nói lên và viết lên ý nghĩ chân thành của mình. Tôi không hề “ca” một ai cả. Thích thì viết, không thích thì lờ đi coi như không có. Tôi không phải là người phê bình, chỉ là người đọc sách. Tôi chỉ đọc những cái gì tôi thích và viết về nó. Tôi không muốn làm người đo đếm để khen chê phê phán. Nhưng, dù vậy, tôi thấy điều gì đúng thì tôi làm. Tôi vẫn đề cập đến tác giả và tác phẩm theo nhận xét của mình. Có lẽ, tôi nhìn thấy ở Huy có một điều gì khác với những người thường qua cuộc sống và tác phẩm. Tôi thấy đó là một người lính viết văn, trung thực, và dám bày tỏ ý kiến của mình một cách tự tin. Khi trả lời phỏng vấn, tác giả Cao Xuân Huy nói không có ý định làm nhà văn khi viết Tháng Ba Gãy Súng. Đó có phải là sự thực?
Có lẽ phải hỏi lại câu hỏi trực tiếp này với Cao Xuân Huy! Nhưng, hình như anh đã khẳng định: “Tôi là một người lính? Đúng. Tôi là một nhà văn? Điều này còn phải xét lại. Còn chuyện muốn bước qua nhà văn. Dễ ẹc. Cái chính là nhà văn như thế nào?”
Và khi bị hỏi là anh làm “văn chương” như thế nào, và có xử dụng “hư cấu” ra sao thì anh trả lời: “Hư cấu? Tôi chưa hề là một người viết, tôi chưa hề muốn trở thành một nhà văn, tôi chưa hề nghĩ Tháng Ba Gãy Súng là một tác phẩm văn chương, tôi chỉ muốn kể lại một câu chuyện đã xảy ra, thay vì kể bằng miệng chỉ có một ít người biết, tôi đã kể bằng chữ để cho nhiều người cùng biết. Và tôi chấp nhận tất cả những gì xảy đến cho mình từ những điều tôi viết. Như vậy làm gì có hư cấu trong tiểu thuyết này.”
Cao Xuân Huy trả lời ra sao về văn chương từ Tháng Ba Gãy Súng? Anh trả lời, rất… Cao Xuân Huy, tự nhiên nhưng có một điều gì hơi mỉa mai, hơi ngang ngang khác người “Văn chương? Sau khi viết xong và nhất là sau khi in sách tôi mới quen biết với các nhà văn và tôi cũng mới được (hay bị) gọi là nhà văn. Tôi không hiểu văn chương nằm ở chỗ nào trong quyển hồi ký này. Tôi xin lập lại nguyên văn một câu phê bình của một nhà văn viết rất nhiều về lính là Nguyên Vũ “Cậu viết có hồn nhưng kỹ thuật còn kém” và tôi đành “Tôi viết làm chó gì có kỹ thuật mà kém với không kém”. Kể lại một câu chuyện thật đã xảy đến cho mình và đồng đội mình, như vậy mà cũng cần có kỹ thuật à? Chẳng hóa ra làm văn chương khó hay dễ như vậy sao? Mà cho tôi xin hỏi thật một câu “Văn chương là cái mẹ gì vậy?”
Thật là khó mà trả lời cho tác giả Tháng Ba Gãy Súng, có mà không, trong cái không đã sẵn cái có, nhất là ở trong tâm thái của Cao Xuân Huy. Muốn làm văn chương nhưng chưa chắc đã được, nếu không có duyên khởi, nếu không có tâm thành.
Nhắc đến duyên khởi khi Cao Xuân Huy viết Tháng Ba Gãy Súng thì đó là một tình cờ lý thú. Anh kể: “Tôi ở trại tị nạn qua Mỹ được đâu khoảng một năm. Ở nhà của nhà văn Hoàng Khởi Phong với cha con nhà văn Nguyễn Mộng Giác. Tôi đọc được trên báo lời phát biểu của một ông tướng “làm mất nước là tội chung của mọi người lớn tội lớn bé tội bé” tôi điên tiết lên. Chỉ có những kẻ bỏ đơn vị mà chạy, chỉ những kẻ có quyền hành trong tay đã đánh lừa thuộc cấp để chạy lấy thân, những kẻ “chiến đấu đến giọt máu cuối cùng của người khác” mới là những kẻ có tội. Tôi viết để chứng minh tôi và những người lính cầm súng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng không có tội.
Khi viết được khoảng vài chục trang tự nghĩ là mình chữ nghĩa kém nên bỏ ngang không viết tiếp. Trong bữa nhậu với mấy đồng đội cùng tiểu đoàn, chúng tôi nhắc lại chuyện bị bắt trong cuộc rút quân, kiểm điểm bạn bè đồng đội ai còn ai mất. Nhà văn Nguyễn Mộng Giác tình cờ ngồi nghe sau đó hỏi tôi sao không viết tiếp. Nhà văn nguyễn Mộng Giác lấy đọc rồi tự ý đăng trên một tờ tuần báo mà anh đang làm chủ bút. Thế là sau đó cứ đăng hết từng đoạn, anh Giác lại thúc tôi viết tiếp. Nếu không có anh Nguyễn Mộng Giác tự ý đem đăng và đòi bài như đòi nợ thì đã không có quyển “Tháng Ba Gãy Súng” và không có “nhà dzăng” Cao Xuân Huy, vì hồi ký viết cho mình thì lai rai viết tà tà bao giờ chả được”
Với tư cách là một người đọc, tôi có cảm giác gì khi đọc Tháng Ba Gãy Súng? Rất cảm khái, khi tôi đọc hồi ký này. Phong cách diễn tả tự nhiên bình dị không màu mè lên gân. Ngôn ngữ xúc tích. Đối thoại gần gũi đời thường chuyên chở được ý nghĩ trung thực. Viết về chiến tranh, đầy những cảnh chém giết nhưng vẫn có nét nhân bản của con người chứ không phải sự say máu của loài vật. Tuy nhiên, khi gập lại quyển sách, người đọc là tôi vẫn còn giữ nguyên sự bàng hoàng của một người không tin vào sự thực. Lẽ nào, ở trên mặt đất này có một sự vô lý như thế. Khi người thua bại là hơn bốn ngàn binh lính của một lữ đoàn TQLC binh chủng thiện chiến nhất của quân lực VNCH dũng mãnh nhất mà bị làm tù binh. Mà kẻ thắng lúc đó chỉ hơn một đại đội du kích mà những tên lính nhiều khi ở tuổi chưa trưởng thành mới mười lăm mười sáu tuổi… Và lẽ nào, có những cảnh tượng kinh hoàng hỗn loạn của những kẻ cầm súng khơi khơi giết người vô tội. Cũng như lẽ nào, có cảnh thiết vận xa cán lên những đầu người đang bơi trên biển để cập vào tàu hải quân. Lẽ nào và lẽ nào, tôi như ngợp đi trong thảng thốt ấy. Có nhiều người đã cho rằng tôi quá nhạy cảm về những chi tiết kể trong Tháng Ba Gãy Súng. Quân lực VNCH, mà những đơn vị Tổng Trừ Bị như Thủy Quân Lục Chiến lại bị thua thiệt cay đắng như thế. Viết và nói về những nhạy cảm ấy có thể gây phản ứng cho nhiều người. Nhưng, như thế chúng ta không thể nói lên sự thực hay sao, khi ao Xuân Huy là một nhân chứng sống đã mô tả một cách xác định như thế.

Cao Xuân Huy đã viết gì về chiến tranh trong những ngày tháng Ba ấy? Thời gian của Tháng Ba Gãy Súng là hồi ký anh ghi chép lại từ những ngày sau khi thành phố Ban Mê Thuột bị thất thủ và chấm dứt khi bị bắt làm tù binh. Không gian là mặt trận ở Huế, của nơi chốn mà tác giả đã cùng với đơn vị của mình đổ máu, mồ hôi để giữ vững qua những thời kỳ chiến đấu ác liệt. Chàng sĩ quan trẻ tả lại cảm giác của những người lính tuy cam chịu những hy sinh của đời lính chiến đấu thực sự ngoài tiền tuyến nhưng hình như trong lòng có sự dằn vặt vì sự nghi ngờ về khả năng cũng như sự công bình liêm chính của những cấp chỉ huy bất xứng mà trong đời quân ngũ của anh phải chịu nhiều hậu quả. Người đổ xương máu cho chiến trường thì không được tuyên dương trong khi những tay chân “con ông cháu cha” ở hậu cứ thì lại được hưởng nhiều ân sủng. Tuy vậy, anh cũng rất kính trọng những cấp chỉ huy xứng đáng và những người lính can trường, những người coi đơn vị như là trong gia đình và lúc gian nguy không quay mặt bỏ rơi đồng ngũ bạn bè.
Từ đời sống thực để trở thành chữ viết chắc phải là một công việc không dễ dàng. Chắc nhà văn CXH phải có nhiều động lực lắm như sự xúc động tạo thành nỗi niềm dằn vặt trong cuộc sống?
Đúng như vậy, CXH trả lời: “Một cái ấn nút. Tất cả mọi hình ảnh bi hùng tất cả mọi diễn biến của trận đánh đã in đậm trong đầu tôi như một cuốn phim. Sức đẩy? Không. Dằn vặt? Không. Xúc động? Đúng. Người ta đã bán đứng anh em chúng tôi. Vậy mà bây giờ ở bên này người ta còn huênh hoang nhiều trò, người ta còn tiếp tục làm hề, và người ta bắt chúng tôi chịu chung tội để “mất nước” mà mất nước là tội chung của mọi người, lớn tội lớn bé lỗi bé”. Chính câu này là cái ấn nút để tôi viết Tháng Ba Gãy Súng. Hình ảnh những cái chết anh hùng của đồng đội tôi, của bạn bè tôi đã bị bôi nhọ, bị bôi bẩn. Trường hợp tôi anh nghĩ sao?”
Nếu tôi trả lời CXH, thì chữ “người ta” ấy chỉ là một phần rất nhỏ của người tị nạn. Và không phải tất cả những người đang tranh đấu để chống lại chế độ độc tài toàn trị hiện nay không phải toàn là “huênh hoang nhiều trò”, hay “tiếp tục làm hề”. Cũng có những người làm việc nghiêm chỉnh thật. Và điều mà CXH vì phẫn nộ quá mà phát biểu có lẽ còn phải cần nhiều tranh luận…
Nhiều người đọc Tháng Ba Gãy Súng và thấy rằng đáng lẽ câu chuyện còn phải tiếp tục. Nhà văn CXH kết cuộc đột ngột quá chăng? Không biết lý do nào mà nhà văn lại ngưng ngang xương như thế. Có thể vì lười và không thích viết tiếp. Có thể vì muốn để dành cho những tác phẩm khác tốt hơn, dữ dội hơn. Tôi không dám làm… thầy bói. Nhưng có khi tôi lại nghĩ. Kết cục đột ngột như thế nhiều khi lại tình cờ trở thành một nét đặc thù của CXH thì sao?
Có một bạn đọc nhận xét rằng đối thoại của Tháng Ba Gãy Súng ngắn gọn và là văn nói “thứ thiệt”. Nhưng độc giả này thấy có một cái gì dữ… dữ… ở trong những câu đối thoại ấy. Riêng tôi thì không thấy có cái gì dữ… dữ… trong những câu đối thoại của CXH. Có lẽ vì tôi cũng là lính và cũng hay ăn nói và xài giấy bạc 500 hoặc 1,000 hơi nhiều. Tôi có hỏi CXH trong bài phỏng vấn và anh trả lời: “Chịu chơi? Sai rồi. Tôi không phải là một tay chịu chơi. Tôi chỉ là một thằng thích sự thành thật. Những mẫu đối thoại của lính, bất cứ là lính gì cũng đều có đệm những tiếng chửi thề cho nên khi viết lại tôi đâu có đạo đức đến độ không dám viết ra. Tôi chỉ lập lại. Còn tục hay không là tùy theo người đọc, và còn những tiếng chửi thề của chính tôi, tôi hỏi thật anh bạn khi tức giận anh bạn có chửi thề không có văng tục không? Kể cả những người tự coi mình là đạo đức khi tức giận có văng tục không? Hơn nữa tiếng chửi thề tôi không cho là xấu, nó chỉ là một “hùng dũng từ”, một tiếng đệm của giống đực. Dĩ nhiên là đừng có lúc nào cũng muốn chứng tỏ là mình hùng dũng…”
Người lính như CXH chắc đời sống tình cảm “ngầu” lắm… CXH nói về mình: “Tôi nghĩ ra sao về tình yêu, tình dục? Anh hỏi bây giờ hay lúc bàn tay tôi còn mò trong poncho? Tình yêu là cái mẹ gì đối với một thằng lính tác chiến? Dĩ nhiên là loại trừ những tay đã có người yêu từ trước khi về TQLC. Anh thử nghĩ mỗi năm được về phép bảy ngày thấy một cô gái chưa kịp làm quen đã hết phép thì yêu thế chó nào được và con gái thành phố thời đó hầu như thích cặp kè với lính “thứ dữ” chỉ để đi bát phố rước đèn chứ đâu phải để yêu thương. Có bao nhiêu người con gái đã yêu thứ người cả năm mới gặp một lần rồi sau đó đợi “ngày mai đi nhận xác chồng” đâu.
Còn tình dục, cũng vậy thôi. Khi về phép thì kiếm chị em ta còn khi hành quân thì… với chị năm…”
Tôi nghe câu trả lời của CXH lại nhớ đến câu thơ Nguyễn Bắc Sơn chợt nảy trong trí óc:
“Nếu mai đụng trận may còn sống.
Về ghé Sông Mao phá phách chơi.
Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm.
Đốt tiền mua vôi một đêm vui.
Ngày vui đời lính vô cùng ngắn…”
Viết về chiến tranh có rất nhiều tác giả và tác phẩm. Một số nhận xét về Tháng Ba Gãy Súng có chút gì tương tự với một vài danh tác mà tôi được đọc. Nếu nói là so sánh thì không đúng, nhưng đó chỉ là một vài liên tưởng. Đọc Hemingway, đọc E. M. Remarque, đọc Phan Nhật Nam tôi đã hỏi CXH thì Huy nhận xét: “Chiến tranh giống nhau. Sự cực khổ giống nhau. Sự sợ cái chết giống nhau. Thằng lính giống nhau. Nhưng mỗi cuộc chiến mỗi khác. Nhân vật của Hemingway và Remarque có những cấpchỉ huy không giống với cấp chỉ huy mà chúng ta đã có. Còn Phan Nhật Nam ông ta viết từ một cái nhìn ở nơi cao hơn chỗ ông ta viết. Và cao hơn chỗ tôi được biết”
Có lẽ đó chỉ là nhìn ở một góc cạnh thôi và nếu muốn đầy đủ thì phải “tản mạn” nhiều hơn. Riêng tôi, tôi có một chút đối chiếu giữa Tháng Ba Gãy Súng và Nỗi Buồn Chiến Tranh, giữa CXH và Bảo Ninh. Tiểu thuyết Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, một nhà văn trong nước nổi tiếng. Cả hai, CXH và Bảo Ninh đã nhìn chiến tranh với đôi mắt quan sát và suy tư khác nhau. Bảo Ninh tham dự cuộc chiến của một người trẻ lớn lên từ chế độ XHCN và tuy có lúc suy tư đi ngoài những quy định bắt buộc. Văn chương ông có lửa, có ghi chép lại sự thực nhưng là sự thực được đãi lọc. Và cái nhìn của Bảo Ninh về người lính VNCH giống y như trong tuyên truyền, nhiều hận thù, nhất là khi viết về những người lính thám báo hoặc kể lại sự chống cự mãnh liệt của người nữ quân nhân VNCH ở Ban Mê Thuột. Còn CXH, thì nhân bản hơn và trong Tháng Ba Gãy Súng đã phác họa đúng một chân dung người lính chiến đấu VNCH. Sự thực được kể lại thành thực trong hồi ký có lẽ khả tín hơn trong tiểu thuyết với hiện thực và hư cấu tạo thành…
Còn với, “Vài Mẩu Chuyện”? Tôi nhìn thấy chân dung một người lính rõ ràng hơn. Nói là kiếp nhân sinh của một người mặc quân phục như lối nói của Trần Như Hùng cũng là một nhận xét đúng. Chuyện ở tù Cộng Sản. Một chút. Chuyện được tha trở về. Một chút. Chuyện sang sống lưu lạc xứ người. Một chút. Chuyện chiến đấu thuở xưa. Một chút. Tất cả những một chút ấy trở thành nét phác họa, tưởng là mờ nhạt nhưng lại là những nhát dao giải phẫu đến tận cùng những kiếp nhân sinh, tuy là chuyện riêng của CXH nhưng cũng có thể chung của nhiều người trong chúng ta. Những chuyện ấy, đã quen thuộc nhưng không thành tầm thường. Bởi vì, phảng phất ở đâu đó, những nỗi niềm mang theo, những chua chát lắng sâu trong ngày tháng của những cuộc đời trôi nổi theo thời thế. Và, sâu hơn nữa, là những thoáng hy vọng về tình người, dù ở trong hoàn cảnh nào cũng thắp sáng được phần nào những biển cả u trệ đen tối…
Cao Xuân Huy viết ngắn lời nhưng dài ý. Những câu đối thoại ngắn cụt lại bất ngờ chuyên chở những liên tưởng lạ. Hãy đọc thử một truyện ngắn chỉ dài chừng hơn hai trang giấy. Truyện ngắn “Trả lại tiền”. Ngôn ngữ quen thuộc của đường phố. Ba nhân vật. Gã. Ả. Và tên dân phòng. Cùng vài khúc đối thoại ngắn. Thế mà, tả được tình đời, nói được tình người. Một cuộc mua dâm nửa chừng. Đáng lẽ, phải là chuyện trụy lạc, chuyện xấu xa xảy ra hàng ngày trên đường phố của một xã hội đang xuống cấp, của những cuộc đời tàn tạ. Gã. Người tù cải tạo được tha trở về thành phố. Ả. Cô gái điếm hạng bét nghèo khổ. Và người dân phòng, người đóng vai thông cảm. Cả ba, trong một vở kịch của đổi đời. Tự nhiên tôi nghĩ đến nhân vật đôi vợ chồng trong một truyện ngắn trong tập “I am đàn ba” của Y Ban. Cũng làm tình vụng trộm trên đường phố. Nhưng ở Cao Xuân Huy, thấy ngấm hơn và cảm hơn mà lại xúc động mạnh hơn. Theo tôi, đó là một truyện viết của CXH, thực mới dù chỉ là chuyện cũ thường ngày. Viết tự nhiên, không cần kỹ thuật, không cần ẩn dụ. Hữu chiêu hay vô chiêu, có kỹ thuật hay không, tôi dường như không cần chú tâm tới. Chỉ biết, qua hai trang tôi cảm nhận được tình đời và tình người… Gián tiếp nhưng sâu sắc. Không thấy bóng dáng của cầu kỳ hoa mỹ, của làm dáng trí thức. Nói thẳng băng, viết đơn giản, có lẽ đó là một cá tính rất rõ nét của tác giả biểu hiện trong tác phẩm.
CXH viết về trại tù Cộng Sản. Với phong thái khinh bạc, nhưng lại đẫm chất xót xa của những người bị hạ thấp giá trị, mà chế độ cai tù đã dùng những đặc quyền đặc lợi xét ra tầm thường ở ngoài đời nhưng lại vô giá trong hoàn cảnh tù ngục. Những nhân vật như Toàn trong “Quyền tối thiểu”, trong “Vải bao cát”, trong” Cái lưỡi câu”, hay Mạnh trong “Ngu như lợn”, hay nhân vật xưng tôi trong “Miếng ăn”, có thể là CXH nhưng cũng có thể là một trong những hàng trăm ngàn người tù nhân của Cộng sản. Chuyện tù ngục mang danh cải tạo thì nhiều lắm, kể hoài không hết mà cũng không đủ. Mỗi người một cảnh không ai giống ai, nhưng đều có một chút biểu tượng chung của một thời thế chung.
Miếng ăn là miếng tồi tàn, nhưng ở trong tù lại là những điều vĩ đại. Cũng như chuyện ăn ngủ của vợ chồng cũng bị đem hạ giá thành một đặc ân để không chế những người tù. Và, những người trong âm thầm đã từ khước nó, bởi không thể đặt mình xuống ngang hàng với một sinh vật thèm ăn khát uống ham mê nhục dục được…
Đọc “Vài mẩu chuyện”, tự nhiên tôi thấy đời sống mình cũng như có điều gì gửi gấm vào trong đó. Kỳ lạ, có phải là tâm cảm chung của những thằng lính không? những mẫu số của một thời thế “chó chết” của những con chốt thí của cuộc cờ tàn chiến tranh. Nội Chiến? Chiến tranh ủy nhiệm? Chiến tranh giữ nước bảo vệ tự do? Chiến tranh giải phóng? Những danh từ “chó chết” của những cai thầu chiến tranh, của chũ nghĩa Mác Lê Nin buôn xác người… Dù không muốn bấm cò súng nhưng vẫn phải bắn, không chọn lựa chiến tranh nhưng vẫn phải lao vào lửa đạn. Tâm sự ấy, chung hay riêng, của những người muôn năm cũ đang lưu lạc trong cuộc thế ngửa nghiêng bây giờ…

Nguyễn Mạnh Trinh

 

Đọc truyện ngắn của Cao Xuân Huy :

 

Miếng ăn

Tôi đã giữ được bao nhiêu năm, nhưng rồi cuối cùng, vẫn bị vướng vào một điều nhục nhã: miếng ăn.

Tôi là một thằng vô sản chuyên chính, vì cả ba bốn năm nay tôi luôn luôn là con bà phước, không bao giờ tôi có quà cáp, đồ ăn thức uống gì được gửi đến hoặc được đem đến tiếp tế từ những người thân ở ngoài đời.

Ngoài tiêu chuẩn ăn uống hằng ngày của trại cấp phát, tôi phải tự “mưu sinh” để được bồi dưỡng bằng những con cóc, con nhái, con rắn, con chuột ở ngoài ruộng, ngoài bìa rừng trong những lúc đi lao động, chỉ có những con vật nào không nhúc nhích hoặc nằm ngửa mới thoát khỏi cái mồm của tôi, hoặc tôi đã tự “cải thiện” bằng rau má, rau tàu bay, cây và bắp chuối rừng… Tóm lại, vừa tiêu chuẩn của trại, vừa kiếm chác thêm, tôi đã cầm cự được với cái đói trong nhiều năm nay.

Nhưng, nếu sự đói khổ, thiếu thốn được chia sẻ, phân phối đồng đều cho mọi người trong cùng một hoàn cảnh, tức là mọi thằng tù đều vô sản như nhau, không có cách biệt nào của kẻ thiếu người thừa, thì sự thiếu thốn được cảm thấy nhẹ hơn, ít hơn. Ðằng này, tuy cùng một hoàn cảnh tù tội như nhau nhưng có những thằng vô sản như tôi, mà cũng lại có những thằng tư bản, lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm luôn luôn đầy đủ, đầy đủ đến độ thừa thãi, thì sự thiếu thốn của những thằng vô sản không thể nào cảm thấy nhẹ nhàng, dễ khắc phục được. Hằng ngày nhìn người khác ăn uống thoải mái, mức độ thèm thuồng của tôi được tăng lên theo cấp số nhân, quay quắt hơn, bất ổn hơn.

Vào những ngày cuối năm, trời lạnh, thường thì vào buổi tối, sau khi học tập chính trị bằng cách nghe đọc báo, sau khi kiểm điểm công tác lao động trong ngày, và sau khi điểm danh tối là đến giờ ngủ, giờ sung sướng, thoải mái nhất trong sinh hoạt mỗi ngày của chúng tôi, giờ mà mọi người chờ đợi trong ngày để nghỉ ngơi, để dưỡng sức, thì chính lúc này mới lại là lúc tôi bị hành hạ nhiều nhất. Trước khi ngủ, những tay bạn tù nằm cạnh, nằm quanh ít ra cũng có miếng đường, thìa bột cho vào mồm làm ấm dạ dày, có điếu thuốc “thẳng”, có “bi” thuốc lào làm đê mê đầu óc trước khi sống lại những cảnh no đủ, ấm cúng và hạnh phúc trong giấc mơ. Còn tôi, vì là thành phần bần cố nông cốt cán nên thay vì có miếng gì đó nhét vào mồm giống như người ta, tôi chỉ có đủ khả năng “làm” luôn một lon gô đầy nước lạnh để đánh lừa dạ dày.

Vì đánh lừa dạ dày bằng nước, cộng với trời lạnh bên ngoài nên nước trong người tôi được thải ra thật nhanh qua ngả tiểu tiện. Vì phải ra ngoài trời lạnh đi đái nên nhiệt độ trong người giảm xuống cũng thật nhanh, đắp một cái chăn cũ không đủ ấm nên lạnh. Vì lạnh không ngủ được nên cái đói kéo đến hành hạ. Vì đói mà không có gì ăn nên lại phải uống nước để đánh lừa dạ dày. Vì làm đầy dạ dày bằng nước nên đi đái. Vì đi đái ngoài trời nên lạnh. Vì lạnh nên ngủ không được. Vì ngủ không được nên đói. Vì đói nên phải uống nước… Cái vòng luẩn quẩn đói, uống, đái, lạnh, mất ngủ, đói, uống, đái, lanh, mất ngủ, đói… cứ như vậy quần tôi cho hết đêm. Cái đói và cái rét là một “đôi bạn chân tình”, vậy mà tôi còn bị cái đói hành hạ trong mùa rét nơi rừng núi miền Trung thì quả là đến nơi đến chốn. Ðể chống lại cái vòng luân hồi quái ác diễn ra hằng đêm như vậy, những thằng bạn tù bần cố nông như tôi đã tổ chức “đi bay”. Những chuyến “bay đêm” thật hấp dẫn, vừa kích thích lòng mạo hiểm, vừa có những chiến lợi phẩm có giá trị thiết thực cho dạ dày. Những củ khoai, củ sắn sống nhai nghe ròn tan trong những cái chăn trùm kín mít, những tiếng cười khúc khích hả hê cũng “ròn tan” thỏa mãn cho dạ dày cứ xoáy mãi, xoáy mãi vào tai tôi từng đêm, từng đêm.

Trong hàng ngũ những kẻ “bay đêm”, có loại lương thiện và ít mạo hiểm là những người khoanh vùng mục tiêu ở những nơi “oanh kích tự do” là những vạt sắn, vồng khoai quanh trại. Tuy là vùng “oanh kích tự do” nhưng đôi khi những tay “phi công” loại này cũng có người “gãy cánh đại bàng”, bị đem ra “vặt lông” trước “tòa án nhân dân” hoặc “cắt tiết” ngay tại chỗ tùy theo mức độ buồn vui của cán bộ trại nằm phục kích. Có loại rất “sịn” là những tay chỉ chấm một vài mục tiêu cố định nằm sâu trong lòng địch, những “cứ điểm trọng yếu”, những “căn cứ chiến lược” của địch là nhà kho, nhà bếp của cán bộ trại. Loại “phi công” này dễ bị “bắn rơi” hơn nhưng oai hùng hơn và được sự thán phục của đám bạn tù. Còn một loại hèn nhát và vô liêm sỉ, không cần biết một điều gì khác ngoài cái dạ dày của mình, chuyên “bay” loanh quanh những mục tiêu gần như an toàn tuyệt đối trong vùng đất của mình, là những ba lô, túi, sắc, của đám bạn tù tư bản nằm chung trong lán.

Theo nội quy và những điều quy định của trại là ai làm nhiều ăn nhiều, làm ít ăn ít, không làm thì không ăn… Tôi có một quan niệm và thái độ rất đứng đắn và sòng phẳng với nội quy, tuy tôi có đổi vế của điều lệ, tôi chỉ lao động ở mức độ tương ứng với số lượng calories tôi nhận được hằng ngày theo tiêu chuẩn của trại cấp phát – dĩ nhiên không kể số lượng thực phẩm mà tôi đã “cải thiện linh tinh” được – cho nên tôi luôn luôn bị phê bình mỗi tối khi kiểm điểm công tác trong ngày, và luôn luôn được “bêu dương” trong mọi lần bình bầu những người lao động tốt vào mỗi cuối tuần. Ðược “bêu dương” là một thành tích mà tôi vẫn ngầm hãnh diện vì nó thuộc vào tội “hộ” chứ không phải là tội “hình” như những chàng “phi công” bị gãy cánh. Cho nên đói thì đói, tôi không gia nhập vào một “phi đoàn” nào, tức là tôi không thuộc vào một nhóm “phi công” nào hết.

“Miếng ăn là miếng nhục, dù có thiếu thốn đến đâu đi chăng nữa, dù có thèm thuồng đến đâu đi chăng nữa, miếng ăn vẫn không thể nào làm nhục con người của mình được. Ðừng bao giờ để cho người ta khinh mình, chửi mắng mình vì miếng ăn”. Tôi đã tự ra lệnh như vậy và tôi đã thi hành lệnh này một cách triệt để và nghiêm túc trong suốt mấy năm trời nay. Lệnh này được tôi đặt ra từ những ngày Sài Gòn chưa mất, những thằng tù chúng tôi vẫn còn trong tư thế hiên ngang của những thằng tù binh, tiêu chuẩn lương thực 7 lạng gạo mỗi ngày – của đáng tội, thời gian ở nhà binh, tiêu chuẩn 700 gram gạo mỗi ngày bị ăn xén ăn bớt chúng tôi ăn vẫn còn không hết, vậy mà 7 lạng gạo trong tù dù có bị cân thiếu, có bị mối mọt, chúng tôi cũng không thể nào bị đói đến độ…

Trong một buổi sáng tập thể dục, cán bộ trại đã thông báo một chuyện vừa xảy đêm hôm trước, “thau cơm của chó đã bị ăn cắp hết sạch”. Ai ăn cắp? Có thể là đám tù chúng tôi – dĩ nhiên là nếu thau cơm của chó bị đánh cắp thì còn ai ngoài đám tù – cũng có thể là thau cơm của chó đã không bị mất cắp. Ai mà biết chuyện này có thật hay không, ngoại trừ mấy người cán bộ đưa tin và người ăn cắp nếu có. Tuy nhiên, dù có hay không, dù đúng hay sai, vấn đề miếng ăn phải được cảnh giác và bắt buộc phải được đặt vào vị trí đi song song với danh dự của con người, nhất là danh dự của những thằng vừa bị ngã ngựa như chúng tôi, tuy là tù binh nhưng lại nhìn bọn cai tù chỉ là một lũ người bị khinh miệt một cách đáng thương. Vật chất không phải là cứu cánh của đời người. Ít ra, lúc này, ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn.

Nhưng, giữ không cho bị nhục vì miếng ăn không phải là một chuyện dễ làm trong một chế độ trại tù mà cán bộ luôn luôn bóp chặt dạ dày, luôn luôn dùng miếng ăn để chi phối tinh thần, để bắt đám tù lúc nào đầu óc cũng chỉ nghĩ đến làm cách nào để kiếm chác một thứ gì hầu nhét cho dầy dạ dày. Nếu bị đói một ngày, hai ngày, một tuần, hai tuần, người ta có thể cưỡng chống nổi một cách dễ dàng sự cám dỗ của miếng ăn, nhưng nếu, cái đói, cái thèm đeo đẳng hành hạ con người hết ngày này tháng nọ, năm nào, tháng nào, ngày nào, giờ nào cái đói cũng bám chặt lấy dạ dày, cái thèm lúc nào cũng bám chặt lấy đầu óc, đến nỗi một cục muối bỏ vào miệng ngậm cũng còn thấy ngọt, thì chuyện giữ nổi cho mình không bị nhục vì miếng ăn thì quả là một vấn đề lớn.

Lòng cương quyết của tôi về miếng ăn đã nhiều lần bị chao đảo. Tôi đã cố gắng tránh né tất cả mọi bữa ăn “hàm thụ” của bạn tù trong những lúc rảnh rỗi. Tôi cũng đã cố gắng từ chối lời mời tham dự vào những “chuyến bay” của đám bạn bè “phi công”. Ðôi khi tôi cũng được mời ăn “liên hoan” trong chăn, nhưng vì quan niệm phải sòng phẳng, có làm mới có ăn, nên tôi đã không cho phép được tham dự những bữa “liên hoan”, và thực tế cũng không ai muốn mời một thằng chỉ “liên hoan” mà không bao giờ chịu “đi bay”, nên cuối cùng, những tiếng nhai, những tiếng cười “ròn tan” trong chăn lại cứ xoáy mãi, xoáy mãi vào tai tôi từng đêm, từng đêm.

Nhưng tất cả chỉ có vậy thôi thì tôi đã không có gì để kể. Ngày thăm nuôi vừa rồi là ngày giáp Tết. Ai cũng háo hức ra gặp thân nhân, rồi sau đó là gồng, là gánh, là ôm, là vác những túi, những xách, những bao bố đựng đầy những thứ mà đã mấy năm rồi tôi chưa được một lần nếm lại, nào là bánh chưng, nào là bánh tét, nào là đường là đậu, nào là thịt là cá, nào là gà ram, nào là lạp xưởng, nào là thuốc lào, thuốc rê, thuốc thẳng, nào là kẹo, bánh, mứt – tình cảm gia đình được đánh giá, được cân đo bằng sức nặng của những túi quà thăm nuôi mà – và vì là ngày Tết nên số lượng quà cáp không bị giới hạn. Ngày thăm nuôi giáp Tết này được coi như một ngày hội lớn, một ngày nhộn nhịp thật là nhộn nhịp, một ngày ăn uống ê hề thật là ê hề. Chỗ này ngong ngóng nghe loa gọi tên ra thăm nuôi, chỗ kia ơi ới gọi nhau mời mọc.

Tôi biết thân tôi, một thằng không bao giờ nhận được thư nhà chứ đừng nói là quà cáp hay thăm nuôi, nên tôi đã phải trốn lên phòng đọc sách để ngồi cho vắng, để tránh xa cái ê hề, cái nhộn nhịp của một ngày thăm nuôi gần Tết. Tôi không ngong ngóng vì biết chắc chẳng có ai thăm nuôi. Tôi không lượn qua lượn lại để người ta thấy mặt người ta thương hại người ta bố thí cho một lời mời, vì không bao giờ tôi có gì để mời lại họ, có qua có lại mới toại lòng nhau chứ. Và chắc chắn cũng chẳng có ai thèm mời tôi vì tôi thường xuyên từ chối lời mời của họ, mất công mang ơn, mất công nghe kể lể. Nhưng nếu đèn nhà ai nấy sáng thì cái đói đã không quay quắt tôi bao nhiêu, đằng này, thể theo lời đề nghị của đa số trại viên – dĩ nhiên là những tay có thăm nuôi – tiêu chuẩn ăn của những ngày thăm nuôi giảm xuống còn một nửa, nửa còn lại để dành để thêm thắt cho những ngày sau, mà mỗi mâm ăn vẫn phải chia đều cho đủ phần sáu người. Với đủ tiêu chuẩn lương thực trong ngày đã không thể làm đầy dạ dày, vậy mà tôi chỉ có được một nửa tiêu chuẩn trong bụng ngồi bên cạnh những kệ sách thu hoạch năm tấn, mười tấn mỗi hếch ta, chủ nghĩa bách chiến bách thắng, sỏi đá cũng thành cơm… để trốn cái thèm thuồng, cái đói khát. Tôi ngồi mặc đói, mặc lạnh để tránh phải nhìn cảnh những thằng bạn tù lăng xăng nấu nướng, phủ phê ăn uống. Tôi không muốn ai thương hại tôi, tôi không muốn phải thấy những cặp mắt “thương xót”, tôi không muốn nhận của bố thí – nếu có – từ lòng thương hại của những kẻ đã thừa mứa.

Tôi cứ ngồi một mình chịu đói, chịu lạnh như vậy cho đến khi kiểng điểm danh đêm tôi mới trở về lán. Ðêm này, đêm của ngày thăm nuôi nên chỉ có điểm danh mà không có kiểm điểm công tác, không có đọc báo để học tập, nên từ lúc điểm danh đến lúc ngủ thời gian còn lại kể cũng khá dài. Mọi người lại quây quần ăn uống. Tôi không thể ra ngoài vì trời đã quá lạnh, đành phải về chỗ nằm.

Cứ hai cái chiếu rộng một thước là ba người nằm. Khốn khổ cho tôi là tôi lại nằm giữa hai tay tư bản gộc. Hai tay tư bản này nấu một nồi chè lớn, mời bạn bè cùng giai cấp đến ăn. Tôi phải nằm co chân lên cho họ có chỗ ngồi. Chăn trùm kín đầu, mắt nhắm nghiền nhưng nào tôi có ngủ được, tất cả mọi tiếng động chui vào tai tôi rõ mồn một, kể cả những tiếng động nhỏ nhất. Tiếng khoắng môi múc chè, tiếng húp chè xùm xụp, tiếng kéo thuốc lào xòng xọc, tiếng nói cười tràn đầy thỏa mãn.

Tiệc tan, mọi người giải tán, hai tay tư bản cạnh tôi vừa dọn dẹp vừa nói với nhau.

– Còn một tô, mày ăn nết đi.

– No thấy mẹ rồi còn ăn gì nổi nữa. Mày ăn đi.

– Tao cũng ăn hết nổi rồi, mà đổ đi thì uổng. Hay mình chia đôi.

– Ðổ đi. Chỉ cần húp thêm một miếng nữa là tao ọc ra hết.

Người tôi run lên bần bật, tôi mím môi, bạnh hàm, nghiến chặt răng, nuốt liên tục mà sao nước dãi cứ ứa ra, đầy mồm rồi trào ra mép. Với một sự cố gắng vượt bực, tôi vẫn không thể kềm giữ nổi nước dãi, nước mắt tôi cũng tự động ứa ra, không hiểu tại sao. Ðưa tay quẹt mồm và dụi mắt liên tục vẫn không ăn thua gì. Trời ơi, tôi bất lực rồi, tôi không còn kiểm soát được tôi nữa rồi. Tôi thua cuộc rồi. Tôi lẩm nhẩm, cầu xin trong đầu: “Mời tao đi, mời tao một tiếng, một tiếng thôi. Hãy mời tao một tiếng để cho tao từ chối. Có được mời và tiếng từ chối được phát ra thành tiếng, nước dãi tao mới hết chảy. Mời tao đi, mời đi, một tiếng thôi”. Nhưng chẳng ai mời tôi tiếng nào. Hai người cứ chỉ mời qua mời lại, rồi cuối cùng đem đổ.

Tai tôi nóng bừng lên, đầu tôi như vỡ tung ra hàng trăm nghìn mảnh. Tôi hét to lên một tiếng, và tôi không còn biết mình là ai, tôi không còn biết mình đã làm những gì nữa.

Cho đến tận bây giờ, mọi người có mặt trong lán, kể cả hai nạn nhân vẫn không biết lý do tại sao lại bị một trận đòn thù đến nỗi phải đi nằm trạm xá, và tôi, bị cùm để được ăn một cái Tết trong xà lim.

 

Quyền tối thiểu

“Không, không thể có chuyện đó được”, nét mặt Toàn biến đổi thật nhanh, lúc hân hoan, lúc đau khổ, “Tao không tin được…”

Thành cười hóm hỉnh:

“Kính thưa mày, lúc gánh tranh về trại, chính mắt bố thấy vợ mày vào văn phòng ‘khung’, dù nhìn từ xa, dù vợ mày thay đổi khá nhiều, nhưng bố mày lầm thế chó nào được.”

“Tao không bảo mày lầm hay không lầm, tao chỉ không tin là vợ tao bị kẹt lại, và bây giờ mò ra tận đây thăm tao. Làm sao nó biết được là tao ở đây.”

“bố mày chỉ trình với mày như vậy. Còn tin hay không là việc của mày, và mày được ra gặp hay không là việc của ‘khung’. Bố mày đếch có trách nhiệm.”

Toàn trầm ngâm:

“Phải chi lúc nãy tao gánh tranh về…”

“Mày vẫn không tin? Mặc xác mày. Thôi, cắt tranh đi con trai. Bố mày đếch nó chuyện với mày nữa.”

Toàn thắc mắc:

“Mày biết quá rõ gia đình tao. Vợ tao vượt biên đã gần cả năm nay. Tại sao lại có chuyện ra thăm nuôi…”

“Vấn đề không ở chỗ vợ mày bị kẹt lại hay không bị kẹt lại, mà vấn đề ở chỗ, một chút nữa, mày có được thăm nuôi hay không.”

Mặt Toàn ngẩn ra:

“Chắc là phải được thăm nuôi chứ. Tuy không bao giờ được biểu dương, nhưng tao chưa bao giờ bị ‘bêu dương’, chưa bị phạt, bị kỷ luật. Nhưng mà… Có chắc là vợ tao không đã… Hay mày nhìn gà hóa cuốc…”

“’Một trăm em ơi’ là vợ mày…”

“Vậy thì chắc chắn tao phải được thăm nuôi… vì tao chưa phạm phải điều gì mà trại gọi là sai trái.”

“Ừ, thì cứ hy vọng đi con. Nhưng, mày nhớ một điều, hôm nay không phải là ngày thăm nuôi. Thôi,” Thành nhìn ra vạt tranh, “cắt hết vạt này chắc là đủ một gánh nữa. Bố bó lại cho mày gánh về.”

“Giờ này mới gánh về thì còn nước mẹ gì nữa.”

*

Trời lạnh cóng tay, gió thổi buốt mặt, tranh ướt sương nhớp nháp, bẩn. Khó chịu. Toàn cúi xuống tiếp tục cắt tranh, lưỡi liềm cắt vào tay, máu lẫn vào sương ướt đỏ cả nạm tranh.

Toàn đưa ngón tay chảy máu vào miệng. Máu mặn. Anh tưởng anh đang uống những giọt nước mắt của em, người đàn bà đã chia sẻ với anh những tháng ngày hạnh phúc và khổ đau. Anh tưởng như đang ôm em vào lòng, đang ôm tấm thân bé bỏng nồng cháy, đang ngửi lại mùi thơm của mái tóc dài mà anh say mê ngay từ phút đầu gặp gỡ. Anh tưởng như đôi môi nứt nẻ vì lạnh, vì đói của anh đang ấp lên đôi môi em. Anh tưởng như anh đang hòa nhập vào em, tan ra trong thân thể vợ anh, nghe lại những lời nói dịu dàng của người đàn bà mãi mãi là của anh.

Toàn ngồi phệt xuống, ngả lưng trên đống tranh chưa bó. Không, anh và em sẽ không thể nói một lời nào, bởi vì vợ chồng mình có quá nhiều điều để nói. Khi người ta có quá nhiều điều để nói, người ta sẽ không nói được gì. Người vợ yêu quý của anh, em có biết anh nhớ em đến là chừng nào, anh yêu em biết là chừng nào… Em yêu của anh, chỉ vài tiếng đồng hồ nữa thôi, không lâu lắm đâu phải không em, không lâu đâu phải không em. Anh đang như điên lên đây em biết không?

Cùng với những tưởng tượng miên man, Toàn ngạc nhiên thấy những cảm xúc nôn nao, háo hức tưởng từ lâu không còn, đang cuồn cuộn như sóng dâng lên trong lòng. Người chàng hừng hực như làm tan biến cả cái lạnh buốt của mùa đông.

*

Tiếng Thành oang oang mắng nhiếc:

“Tiên sư nhà anh, bao nhiêu thằng mơ được ngủ ở nhà khách với vợ, anh lại vác mặt vào đây. Chắc là vợ anh có thằng khác, đếch cho anh ngủ chứ gì. Hay là anh đã liệt dương mẹ nó rồi, không còn làm ăn gì được nữa, sợ vợ nó chê, nó về kiếm thằng khác… Tiên sư nhà anh…”

Toàn nhíu mày, nói nhỏ:

“Nói thật với mày, không phải tao không yêu, không phải tao không thèm, cũng không phải tao không đủ sức, mà vợ tao cũng chẳng có gì thay đổi cả, tuy có xấu đi một chút, già thêm một chút. Nhưng, không được… tao không… thích, thế thôi.”

“Đồ ngu. mày là thằng đàn ông ngu nhì trên thế gian này, mày hiểu không?”

Toàn ngớ ra:

“Sao lại ngu nhì?”

“Vì tao luôn luôn là thằng nhân đạo. Nhân đạo thật chứ không phải nhân đạo vẹt như mình vẫn nghe ra rả hằng ngày đâu Không bao giờ tao cho ai điểm nhất, và cũng không bao giờ cho ai điểm bét. Hạng nhì để còn chừa chỗ cho thằng khác hy vọng sẽ lên hạng nhất, và tao cho mày ngu nhì là để an ủi mày, để mày hy vọng may ra còn có thằng ngu hơn. Nhưng cái ngữ mày, tao thấy khó có hy vọng lắm.”

“Đồ đểu.”

“Chứ không à? bao nhiêu thằng bon chen, nịnh hót, kiếm điểm, làm ‘ăng ten’, bôi mặt hại anh em đồng đội, chỉ để mơ ước một ân huệ là được ngủ đêm với vợ trong ngày thăm nuôi. Mày ‘bất chiến tự nhiên thành’, vậy mà mày lại bỏ con vợ trẻ ngon lành của mày năm trơ ra với muỗi mà mày chịu được à?”

“Mày tưởng tao không đau khi quyết định bỏ vào trại à?”

Thành dịu giọng:

“Mày nói thật đi, có gì trục trặc giữa vợ chồng máy không?”

“Không trục trặc mẹ gì cả. Tao không thích, thế thôi. Và dĩ nhiên là vợ tao không biết là tao được ngủ lại nhà khách.”

“Gàn, ngày trước mày là lính chứ có phải là thày giáo chó đâu mà giở thói đồ gàn ra đây. Mẹ kiếp, con không ăn muối con ươn, con không ngủ với vợ, trăm đường… vợ con hư, nghe không con.”

“Nếu chỉ vì không ngủ với chồng một đêm mà vợ tao hư, thì tao cũng đành chịu thôi.”

“Tiên sư cha nhà anh, vậy thì anh là thằng ngu nhất rồi, chứ không còn được hưởng ân huệ hạng nhì nữa. Không phải đêm nay chỉ có nghĩa đơn thuần là một đêm, hiểu không con trai. Bao nhiêu năm chờ đợi trước đây, và sau hôm nay, bao nhiêu năm sau này nữa, vợ anh không biết có còn được gặp cái mặt mẹt của anh hay không. Bố anh muốn nói lỡ một đêm là lỡ cả một quãng đời dài, nghe thủng ra không con trai? Sao anh dại thế? Anh hãy giải thích cho bố anh nghe đi.”

“Thì tao cũng đành chịu thôi, Thành ạ!”

“Chịu thôi?” Thành ngạc nhiên. “Như vậy là nghĩa làm sao?”

Toàn gằn giọng:

“Nghĩa là làm sao? Nghĩa là làm sao hả? Các anh được hưởng chính sách khoan hồng nhân đạo của cách mạng. Cách mạng đã tha tội chết cho các anh, giáo dục các anh trở thành người tốt cho xã hội, lại còn cho gia đình đến thăm, lại còn được hưởng đặc ân ngủ lại đêm với vợ nữa…

Thành cười:

“Chứ còn gì nữa. Mẹ kiếp, mày đừng lập lại như một con vẹt những câu thằng nào cũng thuộc chứ.”

“Tao tưởng mày khá hơn một chút. mày hãy nghĩ xem. Ừ, hãy động não thử xem. Vợ chồng ngủ với nhau mà là một đặc ân à? Ngủ với vợ cũng phải có thằng cho phép à? Thú vật ngủ với nhau cũng không phải là đặc ân của ai hết mà. Hừ, thái độ ngạo nghễ thi ân. Tao hèn, tao không dám chống đối, nhưng ít nhất, tao cũng còn có cái quyền tối thiểu là không thèm nhận sự ban phát ấy chứ.”

 

Cái lưỡi câu

Thạnh năn nỉ:

“Mày thông cảm, tao chỉ có hai thìa.”

Tường lắc đầu:

“Ba là ba.”

Thạnh thở dài:

“Hay mày cho tao thiếu.”

“Thiếu? Rồi lấy gì mày trả?”

“Thì…”

“Không.”

Thạnh thất vọng:

“Thôi thì, lấy cái hạng nhì vậy.”

“Đưa đây.”

Thạnh móc trong túi ra một miếng vải được buộc túm chặt bằng lạt tre, cẩn thận gỡ sợi lạt. Một dúm muối hột đen bẩn hiện ra. Thạnh trân trọng, nâng niu múc, vừa chẵn được hai thìa, đổ vào bát của Tường. Tường chăm chú nhìn Thạnh đong muối. Xong xuôi, Tường chùi cái lưỡi câu thêm một lần trước khi đưa cho Thạnh. Thạnh cầm lưỡi câu, mắt nhìn với theo bát muối trên tay Tường. Còn một ít muối vụn dính vào miếng vải, Thạnh thè lưỡi chấm chấm. Vị ngọt lan nhanh trong miệng, nước bọt ứa ra.

Những sợi chỉ tháo từ cái ba lô rách trở thành dây cước, Thạnh buộc vụng về nhưng cẩn thận vào cái lưỡi câu vừa “mua” được. Có thế chứ, cuối cùng mình cũng đã có được cái lưỡi câu. Dù không bằng cái hạng nhất làm từ kim băng, nhưng, vẫn là một cái lưỡi câu, hạng nhì.

*

Để chống lại cái rét căm căm của mùa Đông núi rừng miền Bắc, hơn bốn chục người tù phải bốc thăm để chia nhau một cái áo ấm. Ngoài sân, lửa phải đốt suốt ngày. Đêm, phải mang than hồng lót dưới sạp nằm. Lúc nửa đêm, cái lạnh nhức xương làm Thạnh thức giấc, than đã tàn, Thạnh ra đống lửa ngoài sân hút một điếu thuốc lào.

Vừa đặt điếu xuống, Thạnh thấy thốn đau ở ngực, cổ họng như có cái gì muốn trào ra, mà không phải là nôn. Chúi đầu xuống đống lửa, Thạnh há miệng, nước lẫn bọt từ trong ngực dồn lên, rồi tự động tuôn ộc ra khỏi miệng từng đợt từng đợt.

Toàn, cũng không ngủ được, đang ngồi hơ lửa, hốt hoảng kêu lên:

“Thạnh! Mày ói ra máu!”

Thạnh đưa tay quệt ngang miệng, giơ ra ánh lửa. Màu đỏ tươi dính trên tay áo. Thạnh lại gập người xuống, há hốc miệng vào đống lửa, máu lại trào ra.

Toàn chồm tới, đưa tay đỡ lấy ngực Thạnh:

“Để tao lên bệnh xá xin thuốc cầm máu.”

Toàn đứng dậy, dợm bước. Thạnh thều thào gọi giật lại:

“Thôi Toàn, để họ ngủ.”

“Nhưng máu ra nhiều thế kia.”

“Có thuốc đâu mà xin. Mà… cũng không cần. Chỉ cần mày… làm chứng… cho tao… là đủ rồi.”

Làm chứng tao mửa ra máu, may ra, tao sẽ được nghỉ lao động một ngày. Được nghỉ những nguyên một ngày lao động… Bỗng dưng, đám máu tươi bầy nhầy không làm Thạnh sợ choáng người như lúc vừa nôn. Ngược lại, nó đã trở thành những tia hy vọng.

Thạnh nhìn Toàn, hy vọng…

Toàn chỉ lắc đầu, lẩm bẩm trong miệng:

“Không có thuốc, rồi làm sao qua được mùa Đông này…”

Thạnh đưa tay chận ngực, hổn hển:

“Qua được hay không qua được, nói làm gì. Mày nhớ… làm chứng… cho tao nghe.”

*

Cái phao động đậy, Thạnh hồi hộp đợi. Cái phao vẫn động đậy. Chờ cho đến khi cái phao đứng yên, Thạnh cẩn thận nhấc cần. Con giun mồi biến mất, chỉ còn trơ ra cái lưỡi câu.

Cái phao lại động đậy, Thạnh hồi hộp. Cái phao đứng yên, Thạnh lại cẩn thận nhấc cần. Con mồi biến mất, lại chỉ còn trơ ra cái lưỡi câu.

Cái phao động đậy. Lần này, Thạnh không đợi nữa mà, vút… Thạnh giựt mạnh cần.

Nặng tay. Sợi dây cước căng hết cỡ làm cong đầu cần.

Thạnh giựt giựt cần, vẫn nặng tay.

Chắc là một con cá to, phải là cá to chứ. Cái hố bom B-52 kín đáo, nằm khuất sâu trong rừng già, mới chỉ có một mình Thạnh tìm ra. Cái hố bom mà Thạnh phải thật gian nan mới vào đến được, chưa kể phải đánh dấu để khỏi lạc đường về trước khi trời tối. “Một con cá to,” Thạnh nhớ ngay đến Toàn, chắc cũng phải tìm cách chia cho nó một phần. Nghĩ đến đây, Thạnh hứng chí, mẹ, thằng vua “cờ tây” suốt ngày ngâm nga “sống trên đời…”, con vật “ăn đủ thứ” ấy mà bạn tao còn khen ngon, thì huống gì mày, cá ơi là cá! Bất kể mày ăn cái gì ở dưới hố bom này, chúng ông cũng ăn mày, chúng ông cũng ăn mày cho đã đời. Thạnh liếm môi, hít hít mùi thơm tưởng tượng, nuốt ực miếng nước bọt vừa ứa ra.

Nhưng, nhìn lại, cái phao không còn động đậy, Thạnh đâm nghĩ ngợi. Nếu là cá to, thì cái lưỡi câu hạng nhì và cái gọi là dây cước, nó chỉ cần táp nhẹ một cái là đã đi đời nhà ma rồi, chứ sao lại nặng. Hay là… rắn? Hay… một con quái vật rừng già nào khác? Hay là, lưỡi câu đã lọt thỏm vào giữa hàm răng của… một cái đầu lâu đã thành tinh dưới đáy hố bom cũng là đáy huyệt? Thạnh chùn tay, đảo mắt nhìn quanh, bỗng nhận ra, trong cái không gian âm u đầy đe dọa của núi rừng hoang rợ vào lúc buổi chiều đang dẫy chết này, Thạnh chỉ có mỗi một mình, với cái hố bom ma quái.

Gió bắt đầu thổi mạnh, luồn qua khe núi, thốc qua những lùm cây, những bụi gai rừng, rít lên từng chập. Tiếng côn trùng rền rĩ càng làm khung cảnh thêm thê lương. Thạnh gai người, nhớ lại những đêm hành quân lởn vởn những xác người và chờn vờn những bóng ma.

Nghĩ đến ma, Thạnh nhớ lại câu chuyện một người lính kể vào một đêm trời cũng chập choạng tối như đêm nay:

Đơn vị em vừa tái chiếm một ngọn đồi, sau một trận đánh khốc liệt. Mùi máu tanh như vẫn còn vướng vất trên những lùm cây. Em ngồi gác, trong bóng tối nhá nhem của buổi chiều, khu rừng già trước mặt như vẫn còn đầy bất trắc. Trong không gian im vắng, đột nhiên em thấy như có gì di động trong rừng cây. Phản xạ của một thằng lính gác là mở chốt an toàn của khẩu súng trên tay. Nhưng trong khoảnh khắc, em chợt nghe rõ “cách”, tiếng mở khóa an toàn một khẩu M-16 khác ngay bên cạnh. Em giật mình quay lại, một thằng lính lạ mặt, không cùng đơn vị đã đứng cạnh em từ lúc nào. Quái lạ và vô lý, em đang gác ca đơn, ca gác đơn không thể có hai người. Thằng này ở đâu ra?

Nó nhìn em:

“Vô sự. Gió đấy thôi!”

Kinh ngạc và hoang mang, em hỏi nó:

“Mày là ai? Sao lại ở đây?”

Nó co ro:

“Lạnh quá, cho tao ngồi chung với. Giờ này là ca gác của tao.”

Rôài nó tự động lót mũ sắt ngồi xuống. Em nhìn phù hiệu trên tay áo nó:

“Mày có lộn không?Đây là đơn vị tao, mày về đơn vị mày mà gác.”

Nó cãi:

“Đơn vị tao ở đây”.

Nó vừa nói vừa chỉ tay xuống đất, ngay dưới chỗ hai đứa đang ngồi.

Lúc em nhìn lên, nó biến mất, em vụt nhớ lại khuôn mặt nó, khuôn mặt xanh lè của một xác chết, với bệt máu còn đọng trên mép chưa khô, phù hiệu đeo trên tay là của một đơn vị bạn từng đóng trên ngọn đôài này, đã chết không còn ai, trong một trận tấn công của địch mấy tháng trước, xác không kịp mang đi, được lấp vội vàng tại đây, ngay dưới chân vọng gác này.

*

Gió rít mạnh hơn, tiếng rít của núi rừng hay tiếng rít ai oán của những thây ma đang nằm rên rỉ dưới đáy hố bom? Thạnh rùng mình kéo cao cổ áo. Người anh em phía bên kia muốn về báo hận ta chăng? Thôi, hận nhau làm gì nữa, các anh nằm dưới đáy hố bom thì cũng đâu khác gì tôi đang ngồi dưới đáy vực của cuộc sống này. Nói cho cùng, chúng ta không phải là đồng đội, nhưng là đồng nghiệp với nhau đấy chứ. Các anh không thấy sao? Chúng ta đều là những người trẻ, đi lùng giết nhau để tranh giành những thung lũng, những ngọn đồi đầy xác chết.

Thạnh dợm người, với tay kéo mạnh chiếc cần câu. Chiếc cần vẫn cứng ngắc như có ai ghì lại dưới đáy. Mặt nước bây giờ đã đầy bóng tối. Thạnh căng mắt nhìn.

Không còn thấy cái phao.

Bõm…

Có ai vừa nhảy xuống nước, hay tiếng của một vật gì rơi.

Thạnh giật mình hốt hoảng, định bỏ chạy, nhưng cái cần câu trên tay kéo giữ Thạnh lại.

Và, Thạnh thoắt nghĩ đến cái lưỡi câu.

Ừ, cái lưỡi câu. Thạnh không thể để mất cái lưỡi câu. Hai thìa muối, cả một gia tài đã mất, một quyết định lớn đã làm sau bao đêm suy nghĩ đắn đo. Cái lưỡi câu và những con cá mơ ước, có lẽ nào Thạnh lại chịu thua.

Thạnh toát mồ hôi. Phải quyết định. Giật mạnh cần thì sẽ mất cái lưỡi câu. Lội xuống nước mò theo sợi dây cước tìm cái lưỡi câu thì… Thạnh rợn người không muốn nghĩ tiếp.

Bóng tối bây giờ dày đặc. Thạnh co dúm người, gục đầu xuống hai tay đang ghì chặt chiếc cần câu.

Lạnh, và sợ. Nỗi sợ hãi ập xuống cùng bóng đêm, cái lạnh cào xé cùng gió buốt. Thạnh run rẩy, tuyệt vọng. Và muốn bật khóc. Nhưng cùng lúc ấy, hình ảnh cái lưỡi câu và những con cá béo nhẫy hiện ra. Can đảm lên Thạnh ơi, chỉ cần mò theo sợi dây cước, lặn xuống nước thì sẽ “cứu” được cái lưỡi câu, sẽ có cá ăn. Sẽ có cá ăn..

.

Bỗng dưng, Thạnh nhận ra mình đang đói.

Cái đói cồn cào ruột gan, cái đói quắt quay trí não, cái đói thúc giục chân tay, nó kéo đôi chân cong queo của Thạnh đứng lên, nó đẩy thân hình xác xơ xiêu vẹo của Thạnh chập choạng bước tới.

Thạnh nhắm mắt. Hai tay ôm ngực chận cơn nôn. Méo miệng cười, nhào xuống nước…

 

 

Vải bao cát

 

Toàn mơ màng, suy nghĩ. Đã nhiều lần anh chàng tự nhủ, ừ, tại sao lại không, tại sao lại không nghĩ nhỉ. Không có gì quý hơn độc lập tự do, thì tại sao lại không tận hưởng cái quyền độc lập và tự do không giới hạn này, nghĩ. Nghĩ thế, Toàn cứ một mình tiếp tục ung dung suy nghĩ, đố đứa nào báo cáo, chúng mày có giỏi thì kiểm thảo xem. Nghĩ, miên man hết chuyện này sang chuyện khác. Chuyện giày cao gót, chuyện giày saut, chuyện dép râu, rồi thì chuyện củ sắn củ khoai… Kể cả chuyện một mai anh trở về dang dở đời em…
Ấy thế mà, cái phần gia tài duy nhất ấy rồi cũng cạn dần theo năm tháng. Toàn bây giờ như phiến đá, như cây rừng. Thôi ngủ yên đi con, ngủ cho qua cơn mộng dữ này. Đừng vui, đừng buồn, đừng hy vọng thì lấy gì mà tuyệt vọng.
“Toàn, mày tiếc bữa ăn sáng phải không?”
Lại cái thằng Phương lý tài, Toàn dấm dẳn:
“Tiếc cái con củ cải tao ấy, càng đỡ phải nhịn đi cầu.”
“Không tiếc thì tại sao lại cứ thừ người ra như vậy?”
“Thừ với thiếc cái mẹ gì. Có bốn cái khoái trên đời…”
“Áp-phe thì phải vậy chứ. Muốn được cái nọ thì phải bỏ cái kia. Bỏ cái khoái thứ nhất đổi lấy cái thứ ba, lời thêm được cái thứ tư, cái đỡ phải nhịn… còn than gì nữa?”
“Cái khoản thứ ba ấy à, cái khoản này, mẹ, ’nhìn’ còn không có, có chi ‘chi’. Tao với cái khoản ấy đã ly tán từ cơn gió bụi này rồi.”
“’Ly tán’? Sắp ‘tha hương ngộ cố tri’ chứ.”
“Ừ thì ‘ngộ cố tri’.”
Không muốn nói chuyện thêm với Phương, Toàn quay đi. Nhưng cái vụ “ngộ cố tri” cứ lẩn quẩn trong đầu.
Đã bao năm rồi không thấy nó,
Mà ta vẫn sống, có lạ không?
Toàn lắc đầu, vậy mà cũng đòi làm thơ, lạ mẹ gì, thi sĩ mà không có óc tưởng tượng, hoặc kiếm được gì gợi hứng cho sự tưởng tượng, anh mới than thân như vậy. Chứ còn như ta đây:
Ta “sờ râu” ta cho đỡ nhớ
Không thanh tâm tuyền,
Không Thanh Tâm Tuyền!
Toàn bật cười, vừa ngâm nga một cách thú vị, vừa đưa tay xoa xoa, sờ sờ cái cằm lởm chởm râu. Bộ râu chẳng phải vật “tư hữu” của Toàn là gì. Vậy mà, có mỗi bộ râu để “sờ”, anh chàng cũng phải để một cách lén lút. Mà râu thì ở ngay trên mặt, ở ngay trên cằm chứ có kín đáo gì cho cam, để lén thế quái nào được, làm sao mà để “chui” cho được, hơi lởm chởm thế này cũng đã là một kỳ công rồi. Thành thử ra…
Ta sờ râu ta cho đỡ nhớ…
Râu thì cũng lại đành là, có đủ đâu để mà sờ, nhưng chút nữa đây, một chút nữa thôi, cái “cố tri”, cái mà Toàn phải sờ râu “cho đỡ nhớ” sẽ hiện ra, ngay trước mặt, bằng “xương”, bằng thịt.
Mắt Toàn sáng lên khi thấy toán tải thương thấp thoáng ngoài cổng trạm xá. Ta đợi em từ ba mươi năm. Cuối cùng thì Toàn cũng sẽ được nhìn, có thể còn được cả chạm tay vào cái “em”, cái mà lâu nay anh chàng chỉ được nhìn ngắm, chiêm nghiệm qua trí nhớ, mà mấy năm nay anh chàng chỉ được sờ, được mân mó qua chính cái… cằm của mình. “Cái ấy” đang đến gần, đang tình cờ đến gần và lọt thỏm vào tầm tay Toàn.
Toàn đã phải năn nỉ, ỉ ôi, đã phải nộp nguyên phần ăn sáng ngày hôm sau cho cái thằng Phương nhất định giành “công tác” cầm đèn với mình. Đói thì đã đói rồi, nhịn thêm một bữa ăn sáng cũng vẫn là đói, chứ có thằng Tây nào chết đâu. Nhịn phần ăn sáng để đổi lấy việc cầm đèn.
Cầm đèn!
Ừ, cầm đèn.
Chỉ cần nghĩ đến cảnh một chút nữa đây, tay trái cầm đèn soi thật rõ để tay phải lần cởi cái cúc áo, nhẹ nhàng cởi cái dải rút… Trời ơi, Phương ơi, dù có phải nộp mười phần ăn sáng cho mày tao cũng ừ, chứ đừng nói là có mỗi một phần. Thiên hạ cứ hay nói “ăn cái dải gì” một cách ngon lành, mà chắc gì đã hiểu được cái giá trị “kinh tế vĩ đại” này. Thế hóa ra cái “dải rút”, trong một vài trường hợp cũng “ăn” được đấy chứ, Phương nhỉ.
Toán tải thương dùng võng cáng vào phòng mổ một người con gái bị trúng mảnh đạn M-79 khi cô nàng đang cuốc đất. Nhìn con mồi mơn mởn nằm trên võng, mắt nhắm nghiền, mặt tái xanh, Toàn mỉm cười. Qua kinh nghiệm, rõ ràng là cô nàng thiếp đi vì sợ, chứ vết thương tuy nhiều, máu ra cũng khá, nhưng, ối giào, một loại kiến cắn, cao lắm cũng chỉ ngang với gà mổ là cùng, đâu nguy hiểm đến nỗi mà phải ngất đi như thế kia.
Bác sĩ Thông, buông dao đang băm dây lang nấu cháo heo xuống, rửa vội tay trong thau nước, quẹt quẹt hai tay vào hai bên hông, rồi chạy thẳng vào phòng mổ. Thiên chức thầy thuốc khiến bác sĩ Thông nhà ta đành phải buông dao nuôi heo chuyển sang cầm dao cứu người.
Phòng mổ, một gian nhà tranh, vách trét đất, bên trong kê một cái bàn bằng gỗ tạp để dao kéo.
Giường mổ, một cái chõng tre, có giăng mùng để che ruồi.
Toàn mặt mũi hớn hở đứng sẵn trong mùng, tay cầm đèn quơ qua quơ lại trên thân thể cô gái lúc đó vẫn chưa tỉnh, miệng không ngớt réo Phương đang ngồi hì hục quay máy phát điện bên ngoài:
“Mạnh tay lên chút coi. Đèn mờ quá.”
“Mờ cái gì? Có câm mồm đi không?”
“Mẹ kiếp, một bữa ăn sáng, nhớ nghe con.”
Bác sĩ Thông cười cười:
“Cũng mua bán được à?”
“Mua chứ! Ba bốn năm nay mới có một thuở mà, ông ơi. Vợ con thì đã chẳng…”
“Còn thằng Phương?”
“Nó dân địa phương ông ơi, vợ nó ở ngay đây, lâu lâu vẫn ‘mang’ vào cho nó. Ít nhất thì dù lén lút, ‘xuân thu’ nó cũng còn được ‘nhị kỳ’.”
“Thôi đủ rồi cha nội, làm việc đi. Mà cởi từ từ thôi nghe. Chỗ mấy vết thương, nhẹ tay nghe cha.”
“Yên tâm đi bác sĩ. Chỗ nào cũng nhẹ tay hết. Mọi chỗ, mọi chỗ đều nhẹ tay, nhẹ tay…”
Dù hai hàm răng đang trong thời kỳ giống như miền Nam vào những ngày cuối tháng Tư, Toàn vẫn dùng răng ngậm đèn để rảnh tay cởi quần áo cô gái. Cố gắng dùng thật ít ngón tay để cởi cúc áo, mấy ngón còn lại Toàn cố tình vi phạm hiệp định, lấn đất giành… da!
Người con gái vẫn nằm bất động, hai mắt nhắm nghiền.
Bác sĩ Thông nhìn Toàn, khó chịu, hơi gắt:
“Nhanh tay lên! Cái ngữ anh, chỉ cần làm y tá một buổi là tôi tống cổ ra tác chiến rồi.”
Hai hàm răng Toàn vẫn cắn lấy cái đèn:
“Thế ông mới là bác sĩ. Chứ tôi có phải là bác sĩ đâu mà ông không cho tôi động lòng… lương y như từ mẫu.”
Toàn vừa banh áo cô gái ra, vừa lẩm bẩm một mình:
“Cha mẹ ơi, gái quê, suốt ngày ngoài nắng mà sao da thịt trắng đến thế này!”
“Ông đang ‘khấn tiên sư’ gì đấy?”
“’Con khô mực’ này đâu có banh ra được, phải cởi ra chứ?”
“Làm lẹ đi cha nội!”
“Ông cầm hộ tôi cái đèn.”
Toàn vòng hai tay ra sau lưng cô gái, mũi dí sát vào một bên cổ cô nàng hít hít. Mùi khét nắng từ tóc, mùi hơi thở từ miệng, mùi da thịt giống cái từ dưới vành tai thốc thẳng vào mũi Toàn. Mê mẩn, lúc này, mùi gì từ trong thân thể cô gái toát ra mà chẳng làm anh chàng mê mẩn. Không biết vì lâu ngày không “nhớ chỗ” hay vì cố tình lính quýnh, mà anh chàng cứ như thằng hậu đậu, loay hoay mãi mới tháo được cái móc.
Ôi chao trắng quá nhìn không “da”.
Toàn liếm môi, Bộ ngực bi thương “co… ó…” rợn tình. Hai cái núm như hai “nốt ruồi son” đỏ hồng, con gái nguyên si? “Vú em chum chủm chũm cau; Cho anh bóp tí, nhỡ đau anh đền”. Trời ơi. Thế này thì có chết người ta không cơ chứ. Chết chứ, chết thật chứ chẳng chơi. Đền, nhất định là anh đền, dù đền bằng gì anh cũng vẫn cứ đền. Vẫn là cứ đền…
Những vết thương loang máu trên bụng, trên ngực làm cho nước da càng như trắng thêm. Da trắng thế này mà bì bạch thì phải biết! Anh chàng ngẩn ra, bị hai “nốt ruồi son” thôi miên mất rồi.
“Cởi nốt cái quần, rồi xê ra cho tôi làm việc.”
Tiếng bác sĩ Thông khiến Toàn chợt tỉnh. Bây giờ mới bắt đầu vào cao điểm của “chiến dịch tiến chiếm mục tiêu”.
“Cố tri” ơi, ta sắp “ngộ” nhau rồi!
Hai mắt Toàn hau háu.
Hai tay Toàn lính quýnh.
Toàn từ từ kéo quần cô gái xuống.
Hồi hộp.
Đợi chờ.
Trời ơi, bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng, bao nhiêu ngày; Hôm nay tao mới gặp mày, “cố tri” ơi. Không còn phải tưởng tượng nữa, không còn phải sờ râu nữa. Tao sẽ nhìn mày tận mắt, tao sẽ bắt mày tận tay, tao sẽ day mày tận…
Toàn háo hức đắm chìm theo những tưởng tượng…
Bất chợt, hai mắt đang hau háu chợt dịu lại.
Lúng túng.
Hai tay đang tụt quần cô gái chợt khựng lại.
Ngập ngừng.
“Làm gì mà đứng nghệt ra vậy?”
Toàn như không nghe tiếng bác sĩ Thông, vẫn đứng trơ ra, mắt như dán vào mảnh vải che phần dưới thân thể cô gái.
Đờ đẫn.
Thẫn thờ.
Mắt Toàn như dại đi.
Trong đầu, chập cToàn những hình ảnh. Giao thông hào, lô cốt, hầm chữ A, hầm chữ T. Tiếng bom, tiếng mìn, tiếng lựu đạn, không giật, sơn pháo. Những đợt tấn công, phản công. Những xác người, xác ta, xác địch, xác bạn, xác dân. Bữa ăn vội vã bên bìa rừng, một viên đạn bắn sẻ, thằng đệ tử ruột ngã ngửa, bát cơm biến thành bát máu. Đôi dép râu với cặp chân xanh mét vắt ngang giao thông hào. Và, bao cát, những bao cát đẫm máu một người dân, người thiếu nữ chết banh thây trên nóc một hầm trú ẩn, thịt da dính bầy nhầy trên những bao cát, óc trắng, tóc đen hòa với máu đỏ trộn lẫn với đất từ những bao cát… Cái chết bi thảm, cái hình ảnh tang thương của người thiếu nữ xuân thì ấy đã in đậm trong tâm trí Toàn, trở thành nỗi ám ảnh triền miên.
Và, bao cát, phương tiện thô sơ tận cùng, có mặt khắp mọi ngõ ngách của chiến tranh, bảo vệ người sống, chôn vùi người chết, đẫm máu người banh thây, mà lại còn có mặt như thế này sao? Phải thôi chứ, phải hết rồi chứ. Bao cát, sao lại bao cát, chiến tranh đã hết rồi mà, đã hết lâu rồi mà.
Chém giết đâu còn nữa mà trong đầu Toàn chập cToàn những hình ảnh cố quên. Đạn bom đâu còn nữa, mà trong tai Toàn vang dội những âm thanh đã cũ. Chỉ vì miếng vải thô nhám này sao?
Toàn dụi mắt, quẹt mồ hôi trán, cố trấn tĩnh nhìn lại thêm một lần nữa miếng vải duy nhất còn lại trên thân thể cô gái. Và bỗng dưng, thấy tràn ngập trong lòng một niềm cảm động, xót thương.
Bằng tất cả gượng nhẹ, với tất cả ân cần, Toàn cúi xuống gỡ nốt phần vải thô nhám loang những vết máu khô. Chàng lẩm bẩm nói với cô, như thầm nói với người thiếu nữ thịt da bầy nhầy dính vào những bao cát trên nóc hầm trú ẩn ngày nào:
“Khốn khổ cho cô, và cũng khốn khổ cả cho tôi, đã đành. Khốn khổ cho đất nước tang thương này. Nhưng chiến tranh đã qua rồi, chiến tranh đã qua lâu rồi mà, mọi chuyện rồi sẽ phải qua đi. Yên tâm đi cô bé, vết thương cô sẽ lành. Mọi vết thương đều sẽ phải lành. Ngủ yên đi cô. Thôi nhé, hãy ngủ yên và đừng sợ hãi. Sẽ không có ai làm gì cô đâu.
Một ngày nào đó, chúng ta sẽ không còn phải dùng bao cát để làm gì nữa. Không dùng bao cát để làm hầm trú ẩn, không bao cát để đắp giao thông hào. Và, như những phụ nữ may mắn được sống trong những nước không bị tan nát bởi chiến tranh như đất nước chúng ta, cô sẽ có lụa là mềm mại để mặc lên thân mình con gái, chứ không còn phải dùng bao cát để làm vải che thân nữa!
Chiến tranh đã hết rồi mà…”
Người viết xin mạn phép mượn thơ của các thi nhạc sĩ Linh Phương, Trịnh Công Sơn, Thị Lộ, Nguyễn Bính, Tuấn Huy, Thanh Tâm Tuyền, Vũ Hoàng Chương, Bút Tre, Hàn Mặc Tử, Đinh Toàn, Đoàn Thị Điểm.

 

 

Hành phương nam

 

Một chiều cuối Ðông.

Nắng quái hắt những vệt lăn tăn loang loáng từ mặt phá Tam Giang lên tấm bạt nhà binh, mái che của một quán nhậu dã chiến, ven làng, gần chỗ dừng quân.

Trong “quán”, bàn là những thùng gỗ đạn pháo binh, nằm chỏng chơ, ghế là những thùng đạn. Có hai “bàn” còn khách, cạnh nhau. Một bàn hai người. Một bàn ba người. Năm người lính, còn trẻ.

Bàn hai người, có những câu nói lè nhè không đầu không đuôi.

Một người ư ử hát:

Chiều trên phá Tam Giang

Anh chợt nhớ em

Nhớ ơi là nhớ…

 

– Mày còn em đếch nào mà bầy đặt nhớ…

Nhớ ơi là nhớ đến bất tận

Em ơi…

 

– Bộ mày nhớ mấy chị em ta…

– Câm cái miệng mày lại.

– Nó theo thằng khác rồi, nhớ làm mẹ gì nữa.

– Mày im đi, để tao hát. Buồn thấy mẹ…

– Mày mà buồn? Ðừng bầy đặt làm tao mắc cười chớ!

– Tết sắp tới rồi. Tội nghiệp bà già tao còn có một mình…

Nói xong người lính bật khóc.

Từ bàn ba người, Toàn quay sang ra lệnh:

– Tụi bay xỉn rồi, về đi.

– Tụi em chưa xỉn mà ông thầy.

– Tao nói đi về là đi về.

Giọng lè nhè, tiếng dính vào nhau, người tỉnh hơn năn nỉ:

– Cho hai thằng em làm một xị nữa rồi về, ông thầy.

– Thôi. Ði về.

Hai người lính đứng dậy, một người ngã chúi xuống bàn, những vỏ chai không văng xuống đất. Người còn lại lọng cọng móc túi trả tiền, rồi cúi xuống dìu bạn. Hai người lính ngả nghiêng dìu nhau ra khỏi quán, lần theo con đường đất hẹp, quanh co len giữa hai hàng tre, về chỗ đóng quân.

Nhìn theo hai người lính say dìu nhau khuất sau một khúc quanh, Chí đề lô quay lại, ví von:

– Ngày trước Quang Dũng có “lính râu ria”, bàn tay như rễ cây, bộ râu hơn bàn chải… bây giờ mình có “lính say sưa”, sáng xỉn chiều say, để rồi anh trở về dang dở đời em…

Trọng chiến tranh chính trị thở dài:

– Chiến tranh thời Quang Dũng khác với chiến tranh thời mình. Ðó là thời lãng mạn, lãng mạn từ thơ văn đến con người. Thời của lý tưởng. Hai chữ “kháng chiến” làm mê hoặc lòng người, chàng trai nào cũng ôm mộng đi kháng chiến, cả nước muốn đi kháng chiến. Hình ảnh những chàng bộ đội trong mộng đẹp làm sao. Khi lý tưởng bị phản bội, cuộc chiến lãng mạn thời Quang Dũng dẫn đến cuộc chiến tàn khốc mà thế hệ mình lãnh đủ. Những chàng trai hăng hái “lên đường theo tiếng gọi non sông” ngày trước biến thành những kẻ mang “dép râu giết chết đời son trẻ…” ngày hôm nay.

Chí thi sĩ đề lô phụ họa:

Quán Bên Ðường của Quang Dũng chắc cũng y như cái quán mình đang ngồi:

Tôi lính qua đường trưa nắng gắt

Nghỉ nhờ đây quán lệch tường siêu

Giàn mướp nghèo không hứa hẹn bao nhiêu

Mùa gạo đắt đường xa thưa khách vắng

 

Cùng một hình ảnh, hai thời hai ý nghĩa khác nhau.

Toàn tác chiến giễu:

– Thơ với phú, thời với thế, ý với nghĩa, lính nào chả là lính, quán nào thì cũng quán. Thằng Trọng méo mó nghề nghiệp. Câm cái họng chiến tranh chính trị của mày lại. Nhậu đi.

Chí đề lô cười cười không thèm chấp:

– Thơ thẩn gì cái thứ võ biền như mày, ngoài cái nghề phá bĩnh ra, còn biết cái gì nữa không?

Trọng chiến tranh chính trị đề nghị:

– Thôi, đọc Hồ Trường đi, Chí.

Toàn tác chiến gạt phắt:

– Thằng Trọng thối nhất là cứ hơi “xừng xừng” là đòi thằng Chí đọc thơ.

Chí đề lô lờ như không nghe, cất giọng:

Ðấng trượng phu không hay xé gan bẻ cật

Phù cương thường

Hà tất…

 

Nhìn đôi mắt sáng và khuôn mặt trẻ trung, ngược với cái giọng làm ra tráng sĩ cổ thi của Chí đề lô, Toàn tác chiến buồn cười, rồi sợ thằng này ngon trớn chơi luôn nguyên bài, bèn khua khua tay chận ngang:

– Mẹ, trong đầu cả một bồ thơ, mà hễ cứ hả họng ra là “Hồ Trường”. Bố mày ớn lắm rồi.

Trọng chiến tranh chính trị phân tích:

– Thiên thời là lúc này, địa lợi là chỗ này, nhân hòa là giọng đầy đam mê của nó.

Chí đề lô “diễn nghĩa” thêm:

– Thiên thời là buổi chiều giáp Tết mà được nghỉ quân. Ðịa lợi là phá Tam Giang lịch sử. Nhân hòa là cả ba thằng mình còn sống và đang lai rai đón Tết. Hồ trường là bầu rượu, đúng quá rồi. Mày còn mong gì hơn nữa, hả thằng con trai?

Toàn tác chiến ba hoa:

– Sao tụi mày cứ nhất định Hồ Trường. Hay đến đâu cũng phải nhàm chứ. Bố mày nghe thối tai rồi. Cả thế giới ngâm Hồ Trường, cả nước đọc Hồ Trường, nhậu vào là Hồ Trường. Bộ cứ “nam nhi chi chí” là phải ông ổng “Hồ Trường” à? Vừa thôi chứ. Lôi thơ Nguyễn Bá Trác ra “ngâm” cho nát bét, ổng dậy ổng đập thấy mẹ.

Ực một tợp rượu lớn ra cái điều tráng sĩ, Chí đề lô cười khẩy, bĩu môi khinh miệt:

– Tiên sư cái thằng “tai trâu”. Không Hồ Trường thì mày có bài nào khác, đọc cho mấy bố mày nghe đi.

Toàn tác chiến phán:

– Một bồ thơ là mày, có thơ đăng báo dài dài là thằng Trọng. Sao lại tao?

Hồ Trường lại tiếp tục:

Ta biết rót về đâu

Rót về Ðông phương,

nước biển Ðông chảy xiết sinh cuồng loạn

Rót về Tây phương,

mưa tây rơi từng trận chứa chan

Rót về Bắc phương,

ngọn bắc phong vi vút cát chảy đá dương

Rót về Nam phương,

có người quá chén như điên như cuồng

Nào ai tỉnh,

Nào ai say…

 

Toàn tác chiến khua tay lia lịa:

– Dẹp, dẹp ngay lập tức. Ðể ông dạy cho bài mới.

Chí đề lô và Trọng chiến tranh chính trị thích chí, nhìn nhau:

– Mẹ, nó đọc thơ! Nói giỡn hay nói chơi dzậy cha?

– Thơ. Bố mày đọc thơ Nguyễn Bính.

Trọng chiến tranh chính trị nhận định:

– Thơ Nguyễn Bính? Nguyễn Bính toàn thơ tình dân giã, không hợp thiên thời địa lợi nhân hòa…

– Mày dẹp mẹ nó cái thiên thời địa lợi của mày đi. Mẹ, thơ chứ có phải kế hoạch hành quân đâu.

Rồi cất giọng vịt đực, Toàn tác chiến lè nhè:

Ðôi ta lưu lạc phương Nam này

Trải mấy mùa qua én nhạn bay

Xuân đến khắp trời hoa rượu nở

Mà ta với ngươi buồn vậy thay

 

Cả Chí đề lô lẫn Trọng chiến tranh chính trị tròn mắt nhìn, vẻ ngạc nhiên trên hai khuôn mặt “sắp tới bến” làm Toàn tác chiến phì cười:

– Mình ba thằng, trong “thơ tình dân giã” chỉ có hai thằng thôi, đôi ta lưu lạc phương Nam này, tức là khi “…rồi có một ngày, có một ngày chinh chiến tàn, anh trở về quê…”, chỉ có hai thằng xuôi Nam về được Sài Gòn…

Chí đề lô ngắt lời, nhận định tiếp:

– Mẹ, sao đang thơ Nguyễn Bính, mày lại chêm nhạc Duy Khánh mảy? Mà sao chỉ có hai thằng về Sài Gòn thôi mảy? Nhưng thôi kệ tía nó, trong hai thằng “anh về thủ đô chúng tôi chờ mong…” phải có tao. Ông đề lô pháo binh, mạng ông lớn nhất. Thằng Trọng chiến tranh chính trị, mạng lớn nhì. Còn mày, mày là thằng suốt ngày đánh đấm, thằng nằm lại là mày chứ ai. Hờ hờ hờ… Anh… hỡi anh ở lại Charlie…

Toàn tác chiến khiếu nại:

– Sao đang nhậu ở phá Tam Giang, mày liệng tao qua Charlie, mảy? Cụng ly chứ, sao lại Sạc ly!

Trọng chiến tranh chính trị cười khoái trá:

– Nghe đây Toàn, “đôi ta” là tao và thằng Chí. Không có mày. Ðọc tiếp đi.

Toàn tác chiến đọc tiếp:

Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu

Mà không uống cạn mà không say

 

Vừa đọc, Toàn tác chiến vừa nhấc ly:

– Dzô…

– Dzô…

Từng hụm lớn rượu đế cay xé cuống họng trôi tuột vào bụng ba thằng.

Nợ tình chưa trả tròn một mối

Sòng đời thua đến trắng hai tay

Quê nhà xa lắc xa lơ đó

Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay

 

Chí đề lô thắc mắc:

– Mày có chắc bài này của Nguyễn Bính không?

Toàn tác chiến cười cười:

– Chỉ có Nguyễn Bính hoặc tao, mới làm nổi những câu như thế này.

Ngươi đi buồn lắm mà không khóc

Mà vẫn cười say chén rượu đầy

Vẫn dám tiêu hoang cho đến hết

Ngày mai ra sao rồi hãy hay

 

Chí đề lô đăm chiêu:

– Tao ngờ ngợ.

– Ngờ ngợ cái mẹ gì?

– Mày phải đọc hết bài để tao nghiệm xem. Tao không tin là của Nguyễn Bính. Tên bài thơ là gì?

Toàn tác chiến mỉm cười, vẻ mặt trở nên mơ màng:

– Hành Phương Nam.

Chí đề lô lẩm bẩm, suy nghĩ:

– Hành Phương Nam… Hành Phương Nam… Nguyễn Bính có vào sống trong Nam, nhưng hơi thơ không phải Nguyễn Bính.

Toàn tác chiến phà một hơi thuốc, đọc:

Ta đi nhưng biết về đâu chứ

Ðã dậy phong yên lộng bốn trời

Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ

Uống say mà gọi cố nhân ơi!

 

– Dzô… dzô…

Toàn tác chiến dụi điếu thuốc:

– Bài này là một bài hành.

Trọng chiến tranh chính trị:

– Hèn chi mày bầy đặt đọc nhỏ giọt lấp la lấp lửng cho chúng ông thèm, hành tỏi chúng ông.

Chí đề lô:

– Mày đọc nguyên bài đi.

Toàn tác chiến khoái trá:

– Mẹ, cả một tủ thơ trong đầu mà không biết bài này. Ừ thì ông đọc nguyên bài.

Toàn tác chiến hắng giọng, chưa kịp cất tiếng thì một người lính xuất hiện trên con đường đất ven làng dẫn đến quán. Người lính đến gần nói nhỏ với Toàn tác chiến. Toàn tác chiến đứng dậy:

– Thôi không xong rồi, chương trình “tao đàn” hẹn tụi mày sau Tết. Cũng là “hành”, nhưng không phải tao “hành” tỏi gì tụi mày, mà là “hành” quân. Tao phải về họp gấp.

Bỏ lại một nắm tiền trên bàn, Toàn tác chiến cầm mũ sắt đội lên đầu, đi ra với người lính. Trọng chiến tranh chính trị thở dài:

– Từ Mậu Thân đến giờ, không cái Tết nào mình được yên, tụi nó lại vi phạm ngưng bắn rồi.

Chí đề lô nhìn theo Toàn tác chiến:

– Ðêm nay mà đi thì tới phiên nó đi đầu.

Chí đề lô và Trọng chiến tranh chính trị nhìn nhau, bùi ngùi thương bạn. Một cơn gió tạt vào quán mang hơi lạnh từ phá Tam Giang. Chí đề lô và Trọng chiến tranh chính trị cũng đứng dậy:

– Ðiệu này chắc cũng đến phiên mình, về thôi.

***

Một chiều cuối Xuân.

Nắng quái hắt dài bóng những ngôi mộ trên mặt đất.

Toàn tác chiến tay cầm chai rượu, tay chống nạng, khập khiễng đi sâu vào nghĩa trang, vừa lần mò tìm ngôi mộ vừa lẩm nhẩm đọc thầm:

Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu

Mà không uống cạn mà không say

Quê nhà xa lắc xa lơ đó

Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay

Ngươi ơi! Hề ngươi ơi!

Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh

Ngõ trúc ta về lạnh mấy mươi!

 

Mộ mới đắp, mới tinh như bộ quần áo trận chưa kịp sửa, rộng thùng thình Toàn đang mặc.

“Chí ơi, tụi nó tan hàng mà mình cũng bị khá nặng, đồ đạc banh hết, nhưng nếu mày chỉ bị thương như tao thì áo mới của mày cũng như của tao, chứ đâu phải cái áo quan chôn dưới huyệt đất này. Thằng Trọng “nằm” lại ngoài đó, đang hành quân. Còn tao với mày đã “hành phương nam…” về tới Sài Gòn, thảm như vầy, Chí ơi…”

Toàn bật khóc, ngồi xuống cạnh mộ, dựa đôi nạng vào mộ chí, lọng cọng mở nắp chai rượu, rưới lên mộ, rồi ngửa cổ tu một hơi. Những dòng nước mắt lăn dài trên khuôn mặt râu ria không cắt tỉa. Ðốt điếu thuốc cắm vào một chân nhang, Toàn móc túi lấy ra tờ giấy xé từ một quyển sách:

“Chí, tao mang cho mày bài Hành Phương Nam, có đề tên Nguyễn Bính là tác giả hẳn hoi, như buổi chiều trước hôm hành quân mày thắc mắc, tao chưa kịp đọc…”

Toàn nghẹn ngào đọc không hết bài thơ, đứng dậy, tay run run bật lửa, nghiêm trang đốt bài thơ rắc lên mộ Chí, như người ta hóa vàng:

“Mày” sang bên ấy sao mà lạnh

“Nạng gỗ” tao về lạnh mấy mươi.

 

Chờ tôi với…

 

Tiếng rít của vỏ đạn hỏa châu phá tan cái im lặng của mặt trận, vỏ đạn rơi thẳng xuống chỗ Toàn nằm. Sợ vỏ đạn rơi xuyên qua thân thể mình, Toàn co rúm người lại, thu nhỏ thân hình. Trời lạnh, mưa mỏng hạt, ánh trăng hạ tuần nhờ nhợ lẫn vào màu cát. Toàn căng mắt nhìn, không thấy gì. Màu vàng nhợt xóa mờ đường ranh giữa trời và đất. Ánh sáng hỏa châu nhập nhòe đường nét vùng quan sát.
Tựa lưng vào thành giao thông hào, Toàn hồi hộp đợi lệnh tấn công lần chót trước giờ ngưng bắn. Ðã quá bốn giờ sáng, chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa là đến giờ. Một cuộc ngưng bắn toàn diện, chính thức được hai bên thỏa thuận và quốc tế công nhận bằng hiệp định Paris, đã được thông báo, phổ biến trong toàn quân. Tám giờ sáng, đúng tám giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973, cuộc chiến kéo dài gần hai chục năm chấm dứt. Vĩnh viễn.
Mục tiêu là Cửa Việt, căn cứ cũ của Hải Quân, nơi phòng thủ của một trung đoàn địch. Ðơn vị Toàn, một trong sáu đại đội trực thuộc lực lượng đặc nhiệm Tango, thành lập để, bằng mọi giá tái chiếm Cửa Việt. Lính của Toàn là những tay cảm tử, xem cái chết “nhẹ tựa hồng mao”, những cái lông hồng này đã rụng hơn ba phần. Ðại đội Toàn tả tơi qua những đợt tấn công liên tục trong ngày. Một chọi mười không chột thì cũng phải què, cánh quân bên kia thế nào không biết, cánh của Toàn từ điểm xuất phát gần hai trăm, sau hai mươi tiếng đồng hồ, còn hơn ba mươi, đang nằm dọc theo giao thông hào vừa chiếm được, hồi hộp đợi lệnh tấn công đợt chót.
Tuổi trên dưới hai mươi, những thằng em còn lại của mình phải sống. Chỉ còn vài tiếng đồng hồ thôi, Toàn, mày phải sống, mày phải là người chứng kiến giờ phút lịch sử này. Phải bám vào cái chuyển mình này của lịch sử. Bỗng dưng, Toàn đâm sợ chết.
*
Máy truyền tin PRC-25 kêu “khè” một tiếng, Toàn chụp vội ống liên hợp:
– Hoa Biển – Sao Mai.
– Sao Mai – Hoa Biển.
– Rồi. Hướng mười giờ.
– Nhận năm.
Cuộc tấn công chót bắt đầu.
Toàn nhìn đồng hồ, mới sáu giờ sáng. Còn hai tiếng nữa.
*
Ðúng tám giờ. Trời sáng rõ. Tiếng súng vẫn còn nổ.
Toàn bảo thằng máy:
– Kháng, mày la lên là tới giờ ngưng bắn rồi.
Kháng nghiêng đầu, quay miệng chếch lên, la:
– Tám giờ rồi. Tám giờ rồi nghe.
Toàn bật cười:
– Tám giờ rồi thì sao?
Kháng cũng cười theo, lại chếch miệng lên, la tiếp:
“Tám giờ rồi, tới giờ ngưng bắn rồi nghe.”
Tiếng súng vẫn chưa ngưng.
Những đồi cát hình cánh cung toàn là địch, thầy trò Toàn nằm lọt vào giữa. Ước lượng theo tiếng súng, Toàn đoán ít nhất địch vẫn còn đông gấp chục lần mình. Lúc nãy, khi khởi sự cuộc tấn công lần chót, trời còn tối dễ nhập nhằng, nhưng bây giờ, trời sáng rõ. Thầy trò Toàn đang nằm chịu trận. Giờ ngưng bắn đã bắt đầu có hiệu lực, nhưng thực tế, đủ các loại đạn vẫn hướng về phía Toàn mà nổ.
Tám giờ năm, tiếng súng vẫn chưa ngưng.
Toàn lại nhắc Kháng:
– Mày la nữa lên.
Kháng lại chếch miệng lên, la tiếp:
– Tới giờ rồi, tới giờ ngưng bắn rồi nghe.
Chỉ có tiếng súng trả lời.
Toàn bảo Kháng:
– Mày giơ thử ngón tay lên coi tụi nó còn nhắm bắn mình không.
Kháng tròn mắt nhìn Toàn:
– Bộ ông giỡn hả?
– Mày ngu thấy mẹ. Nếu nó bắn cụt ngón tay, có phải là mày được giải ngũ không?
Kháng nhìn quanh, vớ được nhánh dương cong queo trong mức an toàn duy nhất, giơ lên khỏi đầu. Chưa đầy chớp mắt, nhánh dương bị bắn gẫy.
Toàn gọi máy qua cánh quân bên phải:
– Sao Mai – Hoa Biển.
– Hoa Biển – Sao Mai.
– Phía ông ngưng chưa?
– Chưa.
– Ông ‘thọc’ mạnh lên. Sườn tôi hở, lạnh thấy mẹ.
Tiếng súng rộ lên phía bên phải. Toàn và Kháng nhào lên chốt địch phía trước. Tâm, tên cao bồi của Toàn, chồm người tung quả lựu đạn. Lựu đạn vừa rời khỏi tay Tâm, Toàn nghe tiếng thét:
“Chết tui.”
Toàn quay lại nhìn, Tâm nằm ngửa bất động trên cát, máu trong bụng nhỉ ra.
Cùng lúc, Toàn và Kháng tung lựu đạn vào trong hầm rồi vọt theo, làm chủ cái chốt. Toàn nhào ngược về đằng sau, nắm chân Tâm kéo thụt xuống sau mô cát.
Tâm nhìn Toàn:
– Ðù má nó. Ngưng bắn rồi mà sao tui chết hả ông thầy? Ông rán sống nghe ông thầy!
Nói dứt câu, người Tâm giựt mạnh rồi mềm xuống.
Toàn vuốt mắt Tâm rồi nhào lên với Kháng:
– La lên nữa đi!
Kháng:
“Ðù má, tới giờ ngưng bắn rồi nghe.”
Tám giờ mười lăm, tiếng súng thưa dần.
Tiếng súng thưa dần rồi im hẳn. Toàn nhìn đồng hồ, tám giờ hai mươi lăm.
Cho chắc ăn không còn là mục tiêu, Toàn bảo Kháng:
– Mày giơ ngón tay lần nữa coi.
Không tìm đâu ra nhánh dương nào khác, Kháng giơ ngón tay trỏ lên ngang mắt ngắm nghía, cười cười thủ thỉ: “Ðụ má, đừng bỏ tao đi nghe mảy!”
Toàn gắt:
– Ðù má mày, giơ ngón tay lên.
Kháng rụt rè đưa ngón trỏ lên khỏi đầu, cao hơn mô cát một chút, rồi lại thụt xuống. Nhấp nhứ như vậy một lúc, Kháng để hẳn ngón tay cao hơn mô cát. Không thấy động tĩnh gì, Kháng nhích tay cao hơn, cao hơn tí nữa. Kháng giơ cả bàn tay, vẫn yên lặng. Toàn nhìn quanh kiểm soát đám đàn em. Tất cả đang nhìn Toàn chờ.
Toàn đẩy đẩy cái mũ sắt của mình lên cao khỏi mô cát. Không có gì.
Toàn ghếch đầu nhìn lên phía trước. Dãy đồi cát hình cánh cung trước mặt Toàn đầy người. Tất cả đều đứng dưới giao thông hào, chỉ lộ từ ngực trở lên.
Toàn đứng hẳn dậy. Lính tráng chỉ đợi có thế, cũng đứng hẳn lên. Tháo dây đạn, bỏ súng, bỏ mũ sắt xuống.
Binh nhất Phước đen, một tên cao bồi khác của Toàn, vụt băng mình lao về phía trước. Toàn hốt hoảng ra lệnh cho lính ứng chiến ngay lập tức, sợ có gì nguy hiểm cho Phước đen. Nhưng không, những người bộ đội phía bên kia nhào lên khỏi giao thông hào, ôm chầm lấy Phước đen. Phước đen móc trong túi ra gói thuốc mời, mời, mời… hết người này đến người khác.
Lính hai bên ùa lên phía trước, ôm nhau hò hét:
“Hết đánh nhau rồi! Hết chiến tranh rồi!”
Những bộ quân phục rằn ri miền Nam trộn lẫn những bộ quân phục cứt ngựa miền Bắc. Cố không khóc nhưng nước mắt Toàn cứ ứa ra, không kềm được. Nhưng việc gì phải kềm chứ! Toàn mặc cho nước mắt trào ra.
Có tiếng nghẹn ngào bên cạnh:
– Anh khóc đấy à?
Toàn quay qua, một người bộ đội nước mắt cũng đang nhòe nhoẹt. Chẳng nói chẳng rằng, cả hai ôm lấy nhauà
Toàn bảo lính buộc cờ vào những lùm dương thấp lè tè rải rác quanh chỗ vừa chiếm được. Bắc quân ở tại chỗ nên có sẵn cây, sẵn cột để cắm cờ.
Có lá cờ buộc không kỹ rơi xuống cát, người bộ đội vỗ vỗ Toàn, chỉ:
– Anh ơi, cờ của anh rơi kìa!
*
– Chào anh.
Toàn nhận ra người bộ đội lúc nãy:
– Chào anh.
– Anh ăn cơm chưa?
– Sao anh lại hỏi ăn uống giờ này?
– Xin lỗi anh. Ðó chỉ là câu chào quen miệng của chúng em.
– Vậy hả? Anh khỏe không?
– Anh nói giọng Bắc? Ngoài Bắc anh ở đâu?
– Tôi dân Hà Nội, vào Nam từ 54, còn bé quá nên nên chẳng biết bao nhiêu về Hà Nội cả.
– Em cũng dân Hà Nội.
– Thế à? Vậy mình là đồng hương đấy nhỉ? Thế anh xa Hà Nội bao lâu rồi?
– Hơn bốn năm rồi anh ạ.
Toàn nhìn người bộ đội, cũng khoảng tuổi trên dưới hai mươi như lính của mình, nước da men mét tái có lẽ do sốt rét, nhưng mặt mũi sáng sủa. Trên mũ cối, những hàng chữ viết tên các địa danh như Cùa, Ba Lòng, Khe Sanh, Làng Vey, đường Chín… bên hông mũ gắn tấm ảnh bẩn, vàng ố vì thời gian, chụp bán thân một người đàn bà luống tuổi vấn tóc trần.
Toàn chỉ tay lên địa danh viết trên mũ sắt của mình:
– Hóa ra mình là đồng hương, và cũng đã gặp nhau qua những chỗ này rồi đấy nhỉ!
– Em đi trận đã ba năm rồi, toàn quanh quẩn vùng này!
Thấy Toàn nhìn chăm chăm vào tấm ảnh, người bộ đội ngượng nghịu nói:
– Ảnh mẹ em đấy! Em mang theo từ khi đi nghĩa vụ.
– Thế anh không có người yêu à?
– Có anh ạ, nhưng… cô ấy đang học đại học.
– Học đại học thì tại sao lại nhưng?
Người bộ đội ngập ngừng, nói qua chuyện khác:
– Ở trong Nam, các anh muốn được học đại học phải có những điều kiện gì?
Toàn bỡ ngỡ với câu hỏi nhưng cũng trả lời:
– Ðiều kiện ấy à? Một điều kiện duy nhất là phải học xong trung học, tức là phải có bằng tú tài, thế thôi. Mới mấy năm sau này, khi cuộc chiến khốc liệt, những người học đúng tuổi mới được học tiếp lên đại học, còn những người dù chỉ học trễ một năm, cũng phải đi lính đã.
– Ở ngoài Bắc thì ‘học tài thi… lý lịch’, vào đại học không theo sức học hay tuổi tác.
– Lý lịch phải tốt anh mới được đi bộ đội chứ?
Người bộ đội cười nhẹ:
– Anh chẳng hiểu gì cả. Ở ngoài em, lý lịch tốt thì học đại học. Ông nội em bị đấu tố trong kỳ ‘cải cách ruộng đất’, mẹ thuộc gia đình tư sản ở Hà Nội, thì em phải đi B thôi.
– Sao gia đình anh không di cư vào Nam năm 54?
– À, gia đình em là gia đình liệt sĩ, bố em chết trận thời kháng chiến chống Pháp, lúc đang làm đại đoàn phó. Mẹ em nghĩ gia đình có công với cách mạng nên không đi. Hơn nữa, mẹ em muốn đợi hòa bình lập lại để đi tìm xác bố em. Chỉ có người anh ruột của em theo ông chú vào Nam thôi.
– Thế anh của anh làm gì ở trong Nam?
– Có lẽ anh của em cũng đi lính. Trước khi đi B, mẹ em dặn là nếu ra trận cố tránh đừng bắn vào anh mình.
– Làm sao mà tránh!
– Thì thế à !
Người bộ đội thở dài, đổi chuyện:
– Lúc này sắp Tết rồi và máy bay Mỹ đã hết đánh phá, chắc Hà Nội đang trưng bán đầy hoa Tết.
– Ở ngoài Bắc… Hà Nội… Thế Hồ Gươm bây giờ ra sao?
– Ra sao là gì, anh?
– Có tu bổ, có chỉnh trang gì không? Có còn đẹp không?
– Không đâu anh ơi. Trên bờ thì bẩn và dưới hồ thì đầy rác.
– Có một buổi tối ngày lễ, ngồi trên vai mẹ xem bắn pháo bông ở Hồ Gươm. Ðêm ấy người đâu ra mà đông đến thế.
– Em thường lang thang nghịch ngợm ở Hồ Gươm.
– Nhà ở ngõ Lê Ðại Hành, gần Chợ Ðuổi, đằng sau Nhà Diêm.
– Em ở phố Duy Tân.
– Có một lần suýt chết đuối vì không biết bơi mà dám nhảy xuống hồ, thấy người ta bơi mình tưởng là dễ.
– Em cũng có xuống chơi dưới Chợ Ðuổi.
– Bị xe đạp đâm vì thích nhắm mắt đi qua đường.
– Em thích nhảy tàu điện.
– Ði theo mấy anh lớn nhặt quả sấu, quả cơm nguội. Cây cơm nguội sao mà to và cao thế.
Cả hai đang hào hứng thao thao nói chuyện không đầu không đuôi, chẳng ngô chẳng khoai gì hết về Hà Nội. Bất chợt, người bộ đội không nhìn thẳng vào mặt Toàn nữa, mà nhìn lệch sang một bên, rồi thì thào thật nhanh:
– Mình ăn cây nào thì rào cây nấy anh ạ. Anh đừng nghe tuyên truyền. – Rồi đổi giọng đanh thép, chậm và rõ từng tiếng: – Bây giờ anh đã thấy được là chính nghĩa thuộc về chúng tôi chưa?
Toàn ngơ ngác và chợt hiểu. Một người bộ đội nữa đang đi đến từ phía sau lưng.
*
Không phải là hưu chiến, mà là ngưng bắn, là hết bắn giết nhau, là chấm dứt chiến tranh. Chấm dứt chiến tranh. Toàn say sưa hít thở không khí một đêm yên tĩnh của ngày hòa bình đầu tiên. Tưởng tượng sẽ đi theo chàng bộ đội về Hà Nội thăm những cây cơm nguội, những hàng sấu, ngắm nhìn hồ Hoàn Kiếm… Nằm dài trên cát, gác chân lên mũ sắt, Toàn châm điếu thuốc, mơ màng, mặc cho ý tưởng lang thang những nơi Toàn đã sống trong thời thơ ấu…
“Uỳnh…”
Nhanh như chớp, Toàn chụp khẩu súng, nhào xuống giao thông hào. Một quả đạn đại bác không giật bắn vào ngay giữa vị trí phòng thủ. May không ai bị thương.
Sáng hôm sau, cảnh mũ sắt, mũ cối quấn quýt nhau chỉ còn là giấc mơ cũ.
Không khí căng thẳng. Ðịch tăng cường một trung đoàn từ phía Bắc xuống. Toàn báo cáo về bộ chỉ huy tiểu đoàn. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh nằm tại chỗ và tuyệt đối không nổ súng vì bất cứ lý do gì. Lệnh nhấn mạnh: “Hiệp định ngưng bắn đã hiệu lực. Ai nổ súng sẽ ra tòa án quân sự mặt trận”. Thế hóa ra chỉ có một bên ngưng bắn thôi à. Nó quất cho vỡ mặt cũng phải nhịn à. Mẹ kiếp.
Trời chập choạng tối. Ðột nhiên, đèn pha chiếu sáng rực sang phía đơn vị Toàn. Hai chiếc T-54 xuất hiện. Tiếng xích sắt ken két nghiến vào nhau dữ dội. Toàn lạnh người, sởn gai ốc. Toàn dương khẩu súng chống chiến xa M-72, kê lên ba lô, nhắm vào một chiếc T-54, miệng lẩm bẩm: “Mẹ, còn mỗi một khẩu, không đủ gãi ghẻ bố mày cũng chơi. Có chết bố mày cũng phải ‘ôm’ theo dăm đứa chúng mày, các con ạ”.
Ðêm thứ hai của ngày hòa bình, đơn vị Toàn bị tấn công.
Những đợt tấn công đầu bằng đặc công của địch, đơn vị Toàn đẩy lui dễ dàng bằng lựu đạn. Toàn đã sẵn sàng chờ T-54 lâm trận, nhưng không, sau vài đợt tấn công dọ dẫm, địch dùng bộ binh đánh biển người, ồ ạt xung phong vào vị trí của Toàn. Thì ra mấy chiếc T-54 chỉ để “nhát ma”. Khi địch tràn ngập, lưỡi lê và lựu đạn thay cho súng.
Sau một lúc quần thảo bằng lưỡi lê, Toàn gập người, ngã chúi xuống phía trước, mắt hoa đi, mũ sắt văng ra. Mất mũ là mất mạng. Phản xạ tự nhiên của bản năng sinh tồn bật dậy, Toàn nhoài người, vói tay về phía cái mũ. Cả thân thể lẫn cánh tay như không còn theo lệnh Toàn, chỉ nhích từng chút từng chút. Toàn cố nhoài người lên, với tay. Cuối cùng, tay Toàn cũng chạm được vào cái mũ. Dùng hết sức bình sinh, Toàn kéo cái mũ nặng nghìn cân về phía mình. Cái mũ nhích tới. Nhích tới gần. Cái mũ tới sát mặt Toàn.
Mắt Toàn dại đi, cái mũ trong tay không phải là mũ sắt, mà là mũ cối. Trên cái mũ cối mà Toàn đã một lần nhìn thấy, những hàng chữ viết tên các địa danh và ảnh người đàn bà vấn tóc trần Hà Nội rõ lên rồi nhòa dần, nhòa dần. Tiếng gào thét giết chóc vẫn vẳng vào tai cùng lúc loáng thoáng hình ảnh Toàn sánh vai người bộ đội đồng hương lang thang bên hồ Hoàn Kiếm… Dường như Toàn nghe rõ tiếng mình gọi “Anh bộ đội ơi, chờ tôi với…”.

 

Trả Lại Tiền

Cơn thèm đàn bà bắt gã đạp xe loanh quanh trong thành phố.

Đường Hồng Thập Tự lác đác chị em ta đứng thập thò dưới các gốc cây. “Xe qua lại nhiều quá, không được.”

Gã đảo quanh công viên trước cổng Dinh Độc Lập cũ. Tối. Mỗi gốc cây đều thấp thoáng bóng người. Vài tay cũng đạp xe rảo rảo giống gã. “Ðược rồi.”

Gã tấp vào một gốc cây.

Một ả ló ra kéo tay gã:

“Dzô sát trong đây.”

“Nhiêu?”

“Hai chục.”

“Không có đủ.”

“Dzậy có nhiêu?”

“‘Thổi’ không thì nhiêu?”

“Mười.”

“Vẫn không đủ.”

“Dzậy chớ muốn nhiêu?”

“Có năm thôi.”

“Hổng được. Đụ má… Chưa mở hàng.”

“Nguyên một ngày lương! Không được hả? Thôi.”

Gã quay đi. Ả kéo lại:

“Thôi, có nhiêu lấy nhiêu!”

Gã đứng tựa lưng vào gốc cây. Tụt quần.

Ả ngồi xổm xuống. Làm việc.

Ánh đèn pin bất ngờ chiếu thẳng vào khuôn mặt gã, kèm tiếng quát:

“Đứng yên!”

Gã mở choàng mắt, kéo vội quần lên.

Ả bật dậy, co chân định chạy.

Tiếng lên đạn lách cách. Tiếng quát:

“Đưa giấy tờ coi.”

Gã lúng túng moi ra tờ giấy: “Ra Lệnh Tha”, Tội danh: “Can tội sĩ quan ngụy”.

Ánh đèn pin dừng lại trên những hàng chữ, ngập ngừng.

Gã phân bua:

“Tôi mới được thả. Lâu ngày… thèm quá…”

Hắn nhỏ giọng:

“Anh tui cũng bị mấy năm như cha, mà đâu có tầm bậy tầm bạ như dzầy. Phải kiếm chỗ kín kín một chút chớ.”

“Tôi cũng muốn vậy, nhưng tiền đâu mà mướn phòng.”

“Nó lấy cha nhiêu?”

“Năm đồng.”

“Năm đồng?” Hắn bật tiếng cười.

Quay sang phía ả, hắn ra lệnh:

“Trả lại tiền cho người ta!”

Không hiểu, ả hỏi lại:

“Tiền? Trả lại…”

Hắn quát nhỏ:

“Trả lại cho người ta. Rồi đi đi.”

Ả ngập ngừng định lên tiếng, nhưng đành im lặng trả lại tiền.

Gã lên xe, đạp đi. Đợi hắn đi khuất, gã vòng xe lại, đến gần ả.

“Này. Tôi trả lại năm đồng.”

Ả quay lại. Cái nhìn đậu trên mặt gã vài giây, rồi nói:

“Thôi, giữ lấy xài đi.”

Cao Xuân Huy

 

 

 

©T.Vấn 2011

Bài Mới Nhất
Search