T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Khuất Đẩu: NGƯỜI GIỮ NHÀ THỜ HỌ

clip_image001

Chương 1

Ngôi nhà của những hồn ma

Ngôi nhà phập phồng như một trái tim rướm máu. Nó hốt hoảng, kinh ngạc và nếu có thể kêu thét lên được thì nó đã rống lên rồi. Sau đó, nó bắt đầu nghiêng qua nghiêng lại như một gã ngồi đồng. Trong tiếng nổ lốp bốp của tre khô, trong tiếng rú thất thanh của mọi người, nó cố sức nâng mình lên như muốn bay. Xương cốt của nó kêu răng rắc, những xà những trính vặn vẹo uốn éo, và rồi nó bay lên thật. Không cao, không xa, chỉ vừa đủ cho nó đáp xuống khoảng sân phía trước, rồi lụn tàn trong chớp mắt như vàng mã.

Nó cháy nhanh đến nỗi ông Sáu Hủ nhà bên, người hay hắt xì khi có mùi gì lạ trong không khí, chỉ kịp hắt xì đến tiếng thứ mười là mở mắt ra đã không còn thấy nó nữa. Thực ra ngôi nhà vẫn còn lù lù đứng đó. Giống như anh ngồi đồng đã được tháo khỏi chiếc khăn đỏ của phù thuỷ, giờ trông nó ngơ ngác, ngật ngừ. Nó lơ mơ không hiểu là mình đang ở đâu sau khi vừa thoát ra từ địa ngục. Nó hổn hển thở khói, tường và mái bằng đất đỏ hồng như một con hoẵng vừa mới bị lột da.

Chính cái mái bằng đất gọi là da cái trong các ngôi nhà lá mái ở Bình Định đã cứu sống nó. Ngoài việc giữ ấm ngôi nhà trong mùa đông, làm mát trong mùa hè, nhà lá mái còn đủ sức chống chọi được với lửa. Khi cái tai hoạ khủng khiếp nhất của một đời người ụp xuống, toàn bộ hai mái và hai chái làm bằng tre tranh được sức nóng nâng lên cao, giống như tự nó cởi chiếc áo bị cháy ném đi chỗ khác. Vì thế, coi như thần hoả chỉ đưa cái lưỡi đỏ rực liếm được có mỗi cái mái rạ bên ngoài mà thôi. Giờ nó giống như một người vừa mới bị cạo trọc đầu. Mà lại cạo một cách tàn nhẫn nên trông nó lem luốc, thật xấu xí.

Ngôi nhà đang ở tuổi bốn mươi, một cái tuổi hãy còn quá trẻ đối với nhà lá mái. Nó được xây cất khi người giữ nhà thờ họ Phạm mới có hơn mười tuổi. Suốt ngày cậu chỉ táy máy phá phách khiến những cưa những đục của các bác thợ mộc không cái nào là không bị sứt mẻ. Cha cậu nhiều lần đã phải trói cậu vào cột sau khi dùng roi tre đánh đến chục roi quắn đít. Nhà cất đến những ba năm mới xong. Trong ba năm dó cậu đã lớn dần cùng với ngôi nhà. Cậu không quấy phá nữa, đã biết cái khổ của một người thợ khi mài một lưỡi bào, một cái đục do cậu làm hư. Cậu đun nước pha chè cho họ uống, gắp lửa cho họ mồi thuốc, mau mắn và dễ bảo như một anh học việc. Dần dà rồi cậu cũng biết đôi chút về nghề mộc.

Sau này khi đã có vợ, trở thành chủ nhân, những lúc rảnh rỗi ông khoe tài đóng cho bà cái đòn ngồi hay cái ghế đẩu. Nhưng thành nghề thì chỉ có chú Sáu em ông được cha mẹ cho theo hẳn thầy thợ cả. Ba năm mới thành nghề, rồi ba năm trả công cho thầy đã khiến cho quãng đời của hai anh em sống gần nhau chẳng được bao nhiêu. Trong khi ông chăm chút trông coi ngôi nhà mới cất với cái gánh thừa tự đang nặng dần thì ông em theo thầy hết dựng nhà này đến nhà khác. Nhờ vậy, chưa đến hai mươi tuổi, chú đã thành một anh thợ giỏi. Chính chú đã thay cây xà trong buồng vì cô em thứ chín đã chết bằng cách cột dây thòng lọng lên đó rồi đút đầu vào.

Cô em út xinh đẹp nhất nhà, mắt lúc nào cũng ánh lên một nét cười tươi thắm. Khi cô nhoẻn miệng cười là khuôn mặt cô bừng sáng như cả ngôi nhà vừa tháo hết các cửa bằng khoan. Vậy mà cô đã không thiết sống thêm ngày nào nữa, vì chồng cô đã nướng một lúc đến những tám con trâu vào một sòng xóc đĩa chỉ duy nhất có mỗi một con liễm đen. Đó là hai mặt đồng tiền không bôi vôi cùng hiện ra một lúc trên cái đĩa ma quái. Anh chồng sau cái chết oan ức của vợ liền được mọi người thêm vào sau cái tên cha sinh mẹ đẻ hai tiếng Liễm Đen như đóng dấu trên lưng trâu bò. Ai cũng cầu mong anh bỏ được cái thói cờ bạc, nhất là bỏ cái con liễm đen đáng nguyền rủa ấy. Nhưng chắc chị vợ, hoặc là không đủ linh thiêng để phù hộ các con anh, hoặc quá linh thiêng muốn biến anh mau chóng trở thành một thằng ăn mày để trả thù, nên chứng nào tật nấy, anh vẫn mê xóc đĩa và vẫn chỉ một con liễm đen mà thôi. Dù biết chắc mười mươi đó là chẵn trắng tức là liễm trắng, anh vẫn cứ đặt tiền vào con liễm đen. Có người giận quá gạt tay anh ra lấy tiền đặt vào cửa khác, anh vẫn lăn xả vào đặt liễm đen rồi thua để bị cả sòng ngoại trừ nhà cái, chửi là đồ ngu.

Thực ra, anh cũng ranh ma lắm. Đến sòng bài không khi nào anh đặt tiền ngay. Anh đứng xem bọn nhà cái xóc, cái cách nó úp chén lên đĩa, cách nó lắc cho hai đồng tiền đảo lộn, cách nó đặt đĩa xuống chiếu, cách nó mở khui tức là nhấc đĩa lên. Rồi anh tránh ra xa, nghiêng tai lắng nghe những tiếng động trong lòng chén. Tiếng đục, khô, trầm tức là mặt vôi chạm vào đĩa. Tiếng trong, thanh, nhỏ tức là mặt không bôi vôi. Rất trong là liễm trắng, rất đục là liễm đen, còn nửa trong nửa đục là lẻ. Giữa những tiếng ồn ào của đám con bạc, anh vẫn nghe ra được những âm thanh bí hiểm mỏng manh như tiếng gọi của ái tình. Nó làm cho tim anh đập lên rộn rã, anh vỗ hai tay kêu đánh bốp, giống như một con chim cắt bay lượn trên trời cao đã tìm thấy con mồi, anh vội vàng chen vào đặt cửa. Lần thứ nhất: Trúng! Lần thứ hai: lại trúng! Lần thứ ba cũng trúng! Cứ như thần. Đúng là hôm nay ra ngõ gặp đàn ông! Hên quá! Nhưng đến lần thứ tư: thua. Lần thứ năm cũng thua mà thua lớn thâm cả vốn. Lần thứ sáu thì giao cả vốn lẫn lãi. Nhẵn túi! Mười lần như chục, không thắng nổi một đồng.

Ông chú Sáu ấy sau này chết trong một tai nạn chìm đò. Trong một ngày cuối năm ai cũng vội vàng chen lấn trên một chiếc sõng nhỏ nên chỉ mới ra đến giữa giòng đã bị lật úp. Người ta hốt hoảng bấu lấy nhau, ngay cả người biết bơi mà không lặn xuống để thoát ra cũng bị chết chùm. Khi xác được vớt lên, nhiều bàn tay còn nắm chặt tóc hay quần áo của người khác. Chú Sáu lúc ấy lại mang một cái hòm đồ nghề khá nặng không cởi ra được nên đành chết theo nghiệp. Xác chú được vớt lên nhưng không được đem về nhà, chỉ liệm trên bờ sông rồi đưa đi chôn ngay. Đã vậy còn không được vun đất cao thành mồ, không được lập bàn thờ trong ba năm. Tất cả những việc bất nhẫn ấy là để ngăn ngừa chú trở về rủ người khác trong nhà chết thay, vì chú đã hoá thành ma da. Bà thủ bản thương nhớ người em chồng ấy khôn nguôi. Chính chú đã cất nhà bếp, chuồng heo cho bà. Một điều chị Năm, hai điều chị Năm rất chi ngọt ngào. Người như thế mà trời không cho sống lâu, cũng chẳng cho một đứa con nào để nối dõi. Làm ma da quanh năm suốt tháng ở dưới sông lạnh lẽo. Lại còn bị người sống thù ghét nguyền rủa. Người hiền như thế sao lại phải chết ác như vậy?

Mặc dù các thầy ở chùa Thiên An đã lập đàn giải oan đến những ba ngày, nhưng con ma thần vòng và ma da như vẫn còn lảng vảng xung quanh nhà họ Phạm. Dù chưa già, bà vẫn xuống tóc và thỉnh tượng Quan Âm về thờ bên cạnh bức hình Quan Công.

Hai người thứ bảy và tám không có được cái may mắn làm người. Họ chỉ là một vệt máu mới tượng hình chưa biết là trai hay gái đã vội rời khỏi bụng mẹ. Liên tiếp ba người con gái của nhà họ Phạm được sinh ra đã khiến người cha cứ phải thở dài. Cái tội không nối được giống dòng là tội bất hiếu lớn nhất của một người đàn ông. Ba bà chị đi lấy chồng đã mang theo hết một nửa gia tài để làm của hồi môn. Rồi ba chàng rể nếu không đánh bạc thì cũng vợ to vợ nhỏ, chỉ mong sao cái nhà họ Phạm suốt mấy đời độc đinh đến đời này là tiêu để mà chia nhau nửa cái gia tài còn lại. Rốt cuộc trong tám người con của dòng họ Phạm, chỉ có mỗi mình ông là còn sống như một cây cột cái để chống đỡ  từ đường. Đội cả dòng họ trên đầu nặng lắm, ông nói, nhưng biết trút cho ai!

Tuy nhà cháy, nhưng mười sáu cây cột kiềng kiềng vẫn còn vững chắc như bốn con voi đực cùng đứng sát vào nhau. Ông nhớ mỗi cây cột phải mất đến hai mươi bốn ngày mới làm xong. Từ gỗ vuông đẽo tròn mất tám ngày. Từ tròn gọt dũa cho trơn láng thêm tám ngày. Rồi từ láng đến bóng thêm tám ngày nữa. Đây là lúc những đứa bé có thể góp một tay mà không bị ai rầy la. Sau khi người thợ cả gật đầu ưng ý, cây cột được cắm thẳng một đầu vào bồ lúa. Bọn chúng cứ việc tròng dây vào mà lắc cho đến khi mỏi tay. Phải mất bốn ngày để lúa thay giấy nhám hợp cùng bọn trẻ chà cho sạch bóng. Rồi thêm bốn ngày nữa cho một đầu khác. Đó là chưa kể khi nhà dựng xong lại phải dùng lá chuối khô lau từ gốc đến ngọn. Bọn trẻ lại được phép đi cắt tàu chuối quấn đầy mình rồi leo từ trên cao tuột xuống mỗi ngày hàng trăm bận. Có như thế cột mới bóng lạnh như thoa dầu mà không phải dầu. Rồi những xà, những trính, những chày, những cối, những chạm trổ nào nai công, nào nho sóc, những cửa số đẩy qua đẩy lại, những cửa bằng pha có thể tháo ra cho sáng sủa trong những dịp cưới hỏi, giỗ tết.

Đó chỉ mới là cái khung nhà bên trong như một bộ xương. Còn phải gọi thợ làm da cái đến để làm mái ngoài. Họ đắp đất trộn rơm lên những tấm mê như đắp thịt da. Rồi họ dựng trụ thả đòn tay, làm rui mè, lợp tranh như mặc áo. Tranh là lúa tháng ba được gặt phơi hai nắng và phải được thợ giỏi đánh cho thật chắc thật dày. Thợ lợp nhà phải biết dựng bốn góc vểnh lên như đình chùa. Muốn vậy phải chồng tranh hàng ba, có khi hàng tư mới có được độ dày. Sau cùng là cắt đuôi tranh. Cái công đoạn này tưởng dễ nhưng thật ra rất khó. Cắt sao cho thẳng như chăng dây, cho bốn góc cuộn lên như đuôi rồng, cắt như lấy ván dựng vậy, và cái công việc làm đẹp cho ngôi nhà, như khai quang điểm nhãn ấy không ai qua được ông hai Cẩn. Ngồi yên trên một chiếc ghế đẩu, mắt ngước lên để canh chừng lưỡi dao, rất nhẹ nhàng, từ tốn, ngọn dạo răng cưa bén như liềm gặt của ông đưa tới đâu là những cọng rạ thừa lả tả rụng xuống. Hai ngày sau, như một người vừa được húi tóc, mái nhà vàng ửng tinh tươm phơi cái gáy dựng ngược lên trông thật sướng mắt.

Không ở đâu có những ngôi nhà lá mái công phu và những thợ cắt tranh tài giỏi như ở An Định.

Vậy mà, một trong năm cái nhà đẹp nhất làng đã bị bom xăng của giặc đốt. Tưởng chừng như cũng đốt cháy luôn cả lòng ông thủ bản, nhưng tuy ngoài mặt, ông ràn rụa nước mắt mà trong bụng lại mừng thầm. Ông đâu còn nhà cao cửa rộng nữa mà nâng lên hàng địa chủ!

Ba ngày sau ông mới dám bước vào nhà. Sức nóng khủng khiếp của bom xăng đặc đã làm cho bao nhiêu chén bát sành sứ đều rạn nứt. Những chân đèn, lư hương bằng đồng thau vàng choé như vàng thật đã trở nên đen sạm, lem luốc, như được vớt từ đáy ao lên. Các tấm liễn cẩn xà cừ, ốc rời ra chữ còn chữ mất. Các tấm hoành với những đại tự được thếp vàng đã trở nên đen xỉn. Chiếu mền tự mục nát đụng vào mủn như tro. Bao nhiêu áo quần còn lại đều không mặc được khiến cô con dâu ngồi khóc rấm rứt. Ông nói, thôi nín đi, còn sống được là may lắm rồi. Cô con dâu không dám nói gì, đứng dậy lau nước mắt giúp cha chồng dọn dẹp.

Cô gom tất cả những gì đã cháy hay sắp cháy ra đổ trước sân. Giờ chỉ còn lại bộ ván gõ trước bàn thờ, cái giường không còn chiếu của cha chồng và một cái rương xe giống như một cái sập gụ của mẹ chồng lúc còn sống dùng làm giường ngủ. Ngôi nhà trống toang hoác, phơi hết cả bí mật riêng tư của mình ra trông rất tội nghiệp.

Cái bàn thờ chạm trổ công phu với bộ ngũ có con sư tử, cặp chân đèn to cao, hai cây sáp ong mỗi lúc thắp lên thơm ngào ngạt. Cái độc bình sứ giang tây, cái cỗ bồng có hình con cá chép, bộ ấm tách nước men xanh. Tất cả làm nên cái thế giới linh thiêng với bốn mươi hai hộp đựng bài vị phủ khăn đỏ. Đó là nơi chốn đi về từ ông tổ mấy trăm tuổi đến những đứa trẻ mới sinh. Trên cao là trang thờ vừa Quan Công vừa Phật với hai con rồng chầu cái mặt nguyệt đã đen xỉn vì khói nhang. Một cái chuông tối nào cũng vang lên đúng 42 tiếng đều đặn không sót một tiếng nào như thể điểm danh 42 linh hồn người chết. Vợ ông lúc nào cũng hiện ra đầu tiên với cái nhìn vừa bàng hoàng vừa tức giận, mặc dù tiếng chuông dành riêng cho bà là tiếng sau cùng.

Dù hãy còn đủ cả, nhưng cái vẻ huyền bí đến nỗi các cô dâu lần đầu đứng trước bàn thờ gia tiên không ai dám ngước nhìn, đã không còn nữa. Ngọn lửa với những cái lưỡi dài sau khi nuốt trọn bộ cửa bằng khoan đã liếm lên các cây cột. Tuy chưa đốt được vì gỗ kiềng kiềng cứng như sắt nhưng lửa ầm ầm vẫn toả hơi nóng làm cho cái cung phủ bé nhỏ của nhà họ Phạm xơ xác đến thảm hại.

Như thế này, không biết các linh hồn có chịu đi về, lui tới như mọi khi?

Ngày hôm sau, cả một bụi trảy ở góc vườn bị ông chặt sát gốc. Rồi hai cha con cùng làm mầm trỉ, trộn đất với rơm, è ạch mãi cũng làm xong được tấm vách thay hàng cửa bằng khoan đã cháy. Ông chừa một cái lỗ bằng miệng thúng đủ hai cha con chun vào. Như vậy, bốn bức tường bằng đất, mái cũng bằng đất, nên trông từ xa, ngôi nhà giống như một ngôi mộ to tướng. Mà cũng phải thôi, bốn mươi hai người chết, nếu chôn chung một mồ chắc cũng phải to như thế. Đứng nhìn cái ngôi nhà lạ lùng với một cái lỗ như một cái hang, cô con dâu hỏi, chẳng lẽ ông bà tổ tiên nhà mình cũng chui vào như thế này sao cha? Ông gắt, chết rồi thì đi về bằng cách gì mà chẳng được. Tuy nói vậy, nhưng bụng ông cũng thấy hơi bất kính. Trước đây, trong những ngày giỗ chạp, các cửa bằng khoan được tháo hết, ánh sáng ùa vào làm cho những thứ bằng đồng sáng lên rực rỡ. Toàn bộ cây gỗ ngay cả những cây tre cũng lên nước ngời ngời. Chén bát được chùi rửa sạch bóng. Những cỗ bồng đầy chuối, bưởi, cam, quýt. Những bình hoa vạn thọ vàng rực. Sạch sẽ và thơm tho như thế mà vẫn còn sợ bắt tội, huống hồ là rách nát nhem nhuốc như thế này. Thì thôi, tội lệ gì ông cũng đành chịu, giặc giã như thế này còn biết tính sao.

Những lúc như thế này ông thấy nhớ người vợ tội nghiệp. Phải như có bà, mọi sự có thể đã được thu dọn vén khéo và ngôi nhà hãy còn một chút ấm áp. Bà đã bỏ ông mà đi một cách tức tưởi oan nghiệt còn hơn cô em thứ chín của ông.

Buổi sáng hôm ấy, chìu đứa cháu ngoại, bà đã leo lên cây cau cạnh nhà thờ, cây cau to nhất, cao nhất để bắt tổ sáo. Việc leo cau đối với bà dễ dàng còn hơn đi chợ. Bà đã leo cau từ lúc tám tuổi, nhẹ nhàng, thoăn thoắt, còn dám chuyền từ cây nọ sang cây kia. Cha mẹ bà có cả một vườn cau đến mấy trăm cây, lúc chưa lấy chồng chỉ mỗi một mình bà leo lên bẻ buồng. Bà thuộc lòng từng cây một. Cây nào cau ngon để dành bán cho những người kén ăn, cây nào cau thường để bán sỉ. Bà nhớ buồng nào bẻ trước buồng nào bẻ sau. Chưa khi nào bà leo lên mà phải trở xuống tay không vì cau chưa tới lứa.

Khi lấy chồng, của hồi môn của bà là một trăm cây cau con. Chính bà thuê người đào lỗ, xẻ mương dẫn nước để trồng. Chẳng bao lâu, khu vườn lộn xộn không được ai chăm sóc trở thành một vườn cau lúc nào cũng xanh mát. Cả một trời chim đã bay về tranh nhau làm tổ. Nhiều nhất là chim sẻ, chim cu. Giống như những kẻ hạ lưu trong thế giới loài chim, chúng chỉ dám xây nhà trên những buồng cau đầy những cọng râu xồm xàm  như râu hát bội. Chim sáo, chim cưởng và một đôi khi chim nhồng  như những kẻ thượng lưu, rất thích làm tổ trên ngọn. Cây cau to nhất, cao nhất với những tàu lá xanh đen là nơi chúng ưa thích nhất. Vì vậy chúng thường đánh nhau và bao giờ một đôi vợ chồng sáo nâu cũng chiến thắng.

Chẳng riêng gì chim sáo mà ngay cả ông Khứ công an thôn cũng rất thích cây cau ấy. Đã có lần ông xin (thực ra là lệnh) ông thủ bản cây cau to ấy để làm trụ cờ. Ông thủ bản run run gật đầu, quên mất rằng chính vợ ông mới có quyền cho hay không. Đang lúc đưa những nhát rựa vào gốc cau thì vợ ông đi chợ về. Bà bảo thà đi tù chứ nhất định không để cho ông Khứ chặt cây cau ấy. Sau một hồi năn nỉ  bà chịu để cho ông ta chặt một cây khác. Nhưng ông Khứ chê nhỏ không thèm. Bà lớn tiếng bảo, không thèm thì thôi, bà hãy còn cau có chỗ cho chim đậu.

Ông Khứ tức giận bỏ đi. Để che giấu vợ mấy nhát rựa vừa rồi, ông âm thầm lấy đất sét trộn tro, dắp vào như băng bó vết thương. Từ ấy, cây cau dưới nắng mưa, cũng như con người, những vết chém bị nhiễm trùng, mỗi ngày một ít lặng lẽ ăn sâu vào thân. Tuy vẫn còn giữ được cái màu xanh như bao cây khác nhưng ruột gan nó đã rỗng dần. Chính ông cũng không ngờ là tự mình đã báo trước cho người vợ một cái chết thảm. Vì chim sáo vẫn làm tổ, vì vườn cau là nơi chốn bình yên nhất mặc dù chiến tranh đang đến hồi khốc liệt, và vì đứa cháu ngoại được bà cưng nhất, nên bà đã quyết định leo lên mặc dù bà không thích những tiếng thét gào của lũ sáo khi bị cướp mất con. Lúc ấy trời lặng gió, lúa ngoài đồng đang trổ cùng với hương cau thơm ngát, ông đang ngồi uống trà trên chiếc chõng tre dưới một bụi trảy đầy tổ chim dồng dộc. Đứa cháu hồi hộp đi theo bà. Nó đang nghĩ tới những con sáo với cái mỏ vàng như nghệ há họng ra để nuốt lấy những con cào cào mà nó sẽ bắt đầy cả xâu.

Như thường lệ, bà cắt một tay chuối khô, tước hết lá, đánh lại thành hình số tám. Bà xỏ hai bàn chân luôn đi chân đất, ôm lấy cây cau chậm rãi leo lên. Đứa cháu ngửa cổ trông theo. Từng nấc, từng nấc một thật chắc chắn, bà tiến dần đến cái tổ nằm giữa những tàu lá to, dày. Sáo cha sáo mẹ bắt đầu gào lên. Chúng nó bay quanh bà, lượn sát đầu bà như máy bay khu trục. Chúng tuyệt vọng, điên cuồng khi bà thò tay vào nắm lấy tổ sáo. Và đúng lúc ấy cây cau bỗng thét lên lời chào vĩnh biệt. Không có một mụ dì ghẻ nào cầm rựa chặt nhưng nó vẫn ngã xuống. Nó mang theo bà hãy còn ôm cái cổ hũ với những buồng cau non. Và cũng như những buồng cau văng tung toé trong vườn khi chạm đất, bà buông xuôi hai bàn tay, chiếc khăn trùm đầu bay mất để lộ cái sọ tròn rạn vỡ. Mắt bà vẫn mở trừng trừng, in cả vườn cau xanh và cả nỗi bàng hoàng. Trong giây phút cuối cùng, bà vẫn không hiểu vì sao cây cau đẹp nhất, mạnh khoẻ nhất lại có thể gãy đổ dễ dàng như thế.

Ông thủ bản đã đuổi cả hai mẹ con, cấm không bao giờ được về nhà này nữa ngay cả lúc ông chết.

Sau này nghĩ lại, ông thấy chính ông phải giận mình chứ không thể giận con giận cháu. Chính ông quá sợ ông Khứ nên mới ra nông nỗi ấy. Nếu ông mạnh mẽ cương quyết như vợ ông thì làm sao bà có thể ngã xuống dù phải khó khăn lắm (vì phải lên tận ngọn) để bắt chim sáo cho cháu. Ừ, việc gì mình lại sợ nó như thế nhỉ? Nó vừa lùn vừa xấu, hai hàm răng vàng ệch cáu bẩn lúc nào cũng phơi ra vì hai cái môi vừa mỏng vừa nhỏ không đủ che kín dù răng đã cắn chặt. Nó cũng chẳng học hành gì, chỉ võ vẽ năm ba chữ bình dân, cũng chẳng có võ nghệ gì dù ngày trước vẫn tập cầm thương múa một vòng trên sân khấu khi được chọn làm quân sĩ.

Chính bà vợ ông, hôm ấy đã mắng ông: này tôi hỏi ông, có phải ông lấy vợ nó không mà ông sợ đến như vậy? Không lấy hả? Không thì việc gì phải sợ. Ông làm thủ bản giữ việc cúng đình, mà đình phá rồi còn sợ ai nữa? Ông chỉ nhỏ nhẹ, tôi lạy bà, bà im cái mồm giùm cho. Nó mà nghe được thì chẳng những tôi đi tù mà bà cũng còn bị nó đóng gông chứ ở đó mà lý sự. Nó muốn ai sống là sống, muốn ai chết là chết bà không biết à. Thực ra tôi muốn cho nó cả vườn chứ không chỉ một cây đó thôi. Cho nó chặt tuốt để  may ra nó làm ngơ không đưa nhà mình vào diện địa chủ.

Khi cả xã dựng lên câu khẩu hiệu vĩ đại TÍCH CỰC CHUẨN BỊ TỔNG PHẢN CÔNG và ĐẢ ĐẢO CAN THIỆP MỸ thì ông Khứ lệnh cho du kích đến chặt sạch. Ông thủ bản cũng chẳng buồn lấy một cái cổ hũ nào để làm gỏi như trước đây ông vẫn ao ước. Trước đó, trong những đêm trăng mờ, những thân cau trắng đứng song song như những bóng ma làm cho ông mỗi khi thức giấc nhìn ra phải giật mình. Dường như những người đã chết trong họ tộc ông  đều về đứng dựa lưng từng người một vào những cây cau ấy như đã từng đứng sắp hàng lặng lẽ bên cạnh những cái bài vị trên bàn thờ. Không một tiếng động nào nhưng ông nghe như vọng lại từ trăm năm những tiếng rì rầm cùng những tiếng thở than rất khẽ. Ông sợ những tàu cau già chưa chịu rơi xuống đất, cứ lủng lẳng lắc lư trong gió như đó là bóng hình của cô em út đong đưa dưới xà nhà. Ông vẫn còn thấy vợ ông một tay ôm cây cau, một tay cầm tổ chim ngã xuống với đôi mắt mở to tuyệt vọng. Cho nên, chặt hết cả vườn cau ông lại mừng.

Nhưng rồi, vườn cau không còn nữa ông lại thấy buồn. Nắng như nước chảy vào chỗ trũng, sáng đến chói mắt, nóng đến khô người. Chim chóc bỏ đi, ngay cả thằn lằn rắn mối cũng rất khó tìm. Giờ đây ngôi nhà bị cạo trọc mái càng làm cho khu vườn của dòng họ Phạm thêm hoang lạnh trống vắng.

Nằm mãi trong nhà với bóng tối và những bài vị trên bàn thờ, ông cảm giác như mình đã chết mà chưa chôn. Ông chẳng muốn động đậy chân tay, ngay cả thở ông cũng để mặc cho lỗ mũi và hai lá phổi muốn làm gì thì làm. Đã năm mươi năm sống ở đời, lúc này được gọi là tri thiên mệnh, ông thấy cái chết đã đứng lấp ló trong góc nhà, chờn chợ trên các bài vị mờ ảo dưới ánh đèn dầu phụng. Thật dễ dàng là treo một sợi dây lên xà nhà như cô em thứ chín. Có khó khăn gì đâu, chỉ một chân hất nhẹ cái ghế là xong ngay. Nếu sợ xóm làng kinh hãi khi thấy cái lưỡi thè ra thì chụp lên đầu một cái khăn. Nhưng  làm sao ông lại có thể chết được trong khi bốn mươi hai cái bài vị trên bàn thờ chưa biết giao lại cho ai. Đó là chưa nói tới 16 cây cột quen thuộc không muốn để ông chết.

Ông ngồi dậy, chui ra ngoài. Cái lỗ nằm sát đất nên ông phải khom lưng xuống mới bò ra được. Trông cứ như con chó. Rồi cái vẻ nhìn trước ngó sau lại giống hệt một thằng ăn trộm. Chưa bao giờ ông thấy tình cảnh của mình ô nhục như thế. Đường đường một thủ từ họ Phạm mà ra vào nơi chốn linh thiêng lại bắt chước con vật bốn chân. Ông lững thững đi ra ngõ. Muốn ghé nhà ông Sáu Hủ bên cạnh uống chén nước nhưng lai sợ làm khổ ông bạn già. Ra quán Sáu Chơi làm một ly giải sầu lại ngại làm cửa hàng bà ta ế ẩm. Chưa đến nỗi chửi như tát nước vào mặt nhà tổng Bá, nhưng gặp ông, ai cũng quay mặt đi. Vạn bất đắc dĩ, có phải nói đôi câu thì họ ngó trước trông sau, làm như ông đang mang trong mình cả khối vi trùng dịch hạch. Ông cứ bị hăm he đưa lên địa chủ thì họ dại gì mà dây vào ông cho mang cái tội liên quan.

Cô con dâu còn tệ hơn nữa. Nó bị ghép đủ thứ tội, nào buôn gian bán lận, nào đầu cơ tích trữ. Nghề của nó là buôn bán hành tỏi, một cái nghề bất đắc dĩ vì không biết làm gì hơn ngoài việc cấy hái. Chồng đi bộ đội, con cái không có, việc buôn bán khởi sự cũng chỉ để cho vui, cho bớt cái thì giờ làm dâu trống vắng dài dằng dặc. Không ngờ, tỏi mua gom từ các vùng quê đem lên Đập Đá bao nhiêu cũng bán hết. Người ta ăn tỏi để chống sốt rét. Người không ăn được thì đập tỏi cột vào tay. Chẳng biết có hiệu nghiệm gì không chứ người nào mặt cũng vàng ệch, lúc nào cũng cảm thấy lạnh như từ trong xương sống lạnh ra.

Nó mua tỏi mới nhổ, thuê người khác gánh về nhà, rải ra sân phơi thật khô rồi bóc vỏ ngoài, cắt rễ, xâu lại thành chùm. Cứ mười củ nhỏ thành một chục, mười chục xây tròn thành một trăm rất đẹp. Để hấp dẫn khách mua hàng, nó xoay những củ to, trắng ra bên ngoài, giấu những củ nhỏ, sứt cuống vào bên trong. Ai cũng làm như vậy nếu không muốn hàng của mình bị mất giá. Nhưng cô Thảnh bảo như thế là gian lận, là phỉnh gạt nhân dân. Mỗi năm chỉ có một mùa tỏi, nếu bỏ vốn ra mua để có mà bán  quanh năm thì lại bảo là đầu cơ tích trữ. Thỉnh thoảng ông Khứ cho du kích đến soát nhà, nếu dư ra hơn một trăm củ là bị tịch thu ngay! Tội nghiệp, nó phải nhờ ông anh rể nhiều lần đem giấu ở chỗ khác.

Không bắt được nhưng bọn họ vẫn ghép nó vào hàng buôn gian bán lận, tiền muôn bạc gánh cần phải khấu trừ bằng cách kêu thuế thật nặng. Mặc dù không làm ra hạt thóc nào, nó vẫn phải nộp hai tấn lúa vì có đủ khả năng. Cộng với ba tấn nông nghiệp của riêng ông là thành năm tấn, trong khi thu hoạch chưa được 500 ký! Cho nên, dù chưa bị đưa lên địa chủ, cha con ông vẫn sẽ bị đem ra đấu vì cái tội thiếu thuế! Tức là cái tội ù lì phản cách mạng! Như con cá đặt trên vỉ, lật phía nào cũng bị lửa nướng chín. Đã bị ghi đích danh vào bản án ấy tức là vào cái kho tăm tối mênh mông của ganh ghét hận thù, của nhỏ nhen bần tiện, của ngu dốt bạo ngược, thì dù có chết vẫn chưa được yên thân.

Thầy giáo Hiên bị bắn rồi mà vẫn gọi là thằng Việt gian. Ông tổng Bá thắt cổ mà vẫn chưa được phép chết. Ai cho mày trốn nợ nhân dân? Còn ông, thằng thủ bản ăn hết cả cái đình làng An Định hãy đợi đấy mà trả lời với nhân dân. Mà nhân dân là ai nếu không phải cái thằng cha chạy hiệu gặp thời hò hét đó. Lúc nào ông cũng nghe lùng bùng trong tai những tiếng quát tháo, những câu tra hỏi; để đâu, chôn giấu ở đâu, vàng của đình cả trăm lượng giờ biến đi đâu hết, hả, hả? Ông lờ mờ thấy cái ngày mình bị bắt quỳ trên những đám mẻ chai không còn xa. Dân làng được mời tới thực ra là được các tổ trưởng tổ phó đi từng nhà nhắc nhở như lùa những con chó ốm đói ra khỏi chuồng. Bọn họ ngồi chò hỏ trên nền đất, quần xà lỏn nhiều khi không ôm hết cái háng mốc xì, đàn bà đứng sau lưng áo không che hết cái bụng xề, cứ thấy các cán bộ vung tay lên hô đả đảo là hô theo. Tiếng hô càng to, sức mạnh nhân dân càng lớn. Thằng chả đứng vung tay múa chân như lão phù thuỷ Ba bắt quyết trừ tà. Thần chú là lời cao xa của đảng còn tà ma là địa chủ phản động. Khi ông cử Vân, ông tổng Bá bị xoá sổ trên cõi đời thì lại đến lượt ông. Là một tên tử tội dự bị, ông cảm thấy cái lưỡi gươm không phải công lý mà là phi lý đang treo toòng teng suốt ngày đêm trên đầu mình.

Nhân dân, nhân dân, hai tiếng ấy lúc đầu nghe rất chi là thân thiết ruột rà, giờ nghe như tiếng gầm của con sư tử!

Chương 2

Chuông gọi hồn ai?

Đêm thứ nhất, sau khi trét xong cái vách đất biến ngôi nhà thành một cái hang lộ thiên khổng lồ, ông không thể nào chợp mắt được. Cái mùi xăng vẫn còn nồng nặc, rồi mùi của đất ướt ngai ngái, mùi của bóng tối đậm đặc, mùi của cây gỗ bị rang nóng… làm ông ngạt thở. Đã mấy lần ông chui ra ngoài hiên, ngồi đốt thuốc nhìn trời. Ngân hà giống con sông chảy qua làng trong mùa lũ, trông mênh mang cả một trời sao trắng đục. Ông thấy sao con công vẫn còn kéo cái đuôi óng ánh dài lê thê, sao con vịt xấu xí hếch cái mỏ lên trời và ông nghe thấy tiếng con chim heo kêu ụt ụt. Không có tiếng vạc kêu, cũng không có tiếng chim cú ném vào đêm tối những tiếng kêu dài ma quái. Đất trời vẫn yên hàn thanh tịnh, chỉ có lòng người vẫn không ngớt dậy lên những trận phong ba kinh hồn, lúc nào cũng để lại những tiếng dội âm ỉ như tiếng sấm rền trong mây.

Cớ làm sao chỉ một bước mà mình đã lên địa chủ? Rồi một bước nữa là phản động. Đâu phải mình muốn bước mà mình bị đẩy lên, bị nắm tóc kéo lên chỉ sau một tiếng nói của nó. Mình đâu có gây thù kết oán gì với nó? Hay là lúc mình cản không cho nó đem cái áng thờ của đình về nhà? Mình đã nói cái vật này linh thiêng lắm, không còn đình thì đem tới chùa chứ đừng đem về nhà. Mình nhớ ra rồi, lúc ấy nó quắc mắt lên trông rất dễ sợ. Nhưng nó đã mang được của đình về nhà, cứ tưởng thế là xong, không ngờ nó vẫn không quên. Mình ngu quá. Mình bị nó làm khó làm dễ, sắp đem ra đấu tố cũng phải thôi.

Lúc ông chui vào để cố ngủ một chút, ông bất ngờ nghe đâu đó có tiếng nghiến răng. Kèn kẹt, kèn kẹt! Cái âm thanh của những chiếc răng cấm cạ siết vào nhau trong đêm, nhất là trong cái nhà không cửa sổ này, nghe thật khó chịu. Ông giật mình ngồi dậy. Phải một lúc ông mới nhớ ra rằng đó là tiếng nghiến răng của cô con dâu. Tiếp theo là tiếng nuốt nước bọt ừng ực. Làm như thể hai hàm răng đó đang xay bột. Giờ ông mới nhớ ra căn nhà lẫm bên cạnh không có mái đất bên trên, đã cháy. Đó là buồng ngủ của hai vợ chồng cô. Và đó cũng là kho hàng với hàng trăm ký hành rải trên nền nhà, hàng trăm xâu tỏi khô treo nhỏng nhảnh. Cô quen thuộc cái mùi nồng nồng ấy đến nỗi khi nằm chỗ khác, cô cũng thức trắng không tài nào ngủ được. Cô nói sao nó lạt lạt, khó chịu quá. Ông đã mắng, nói tầm bậy, đâu phải nhà làm nước mắm mà thấy lạt, mặn! Cô chỉ cười.

Cái nhà lẫm không còn, cả cha chồng và nàng dâu đành chui rúc trong hang như hai con chồn trong truyện Liêu Trai. Thực là chuyện lạ suốt 12 đời họ Phạm giờ mới có. Cái ngọn lửa của quân thù thực hiểm độc. Chẳng những đốt nhà, nó còn đốt luôn cái bức tường vô hình dựng lên suốt mấy trăm năm. Cô con dâu chưa bao giờ dám ngửa mặt ngó bố chồng chứ nói chi đến chuyện cùng chui ra chui vào như thế. Và dĩ nhiên dù có nghiến răng cũng chỉ quấy rầy cái lỗ tai của chồng chứ đâu có đến bố chồng. Vậy mà giờ đây nó cứ rít lên như dế gáy.

Chỉ còn một chỗ để cho cô ngủ là cái rương xe của mẹ chồng. Đây là một cái sạp bằng gỗ kiềng kiềng rất nặng, có bốn bánh xe để chuyển dịch. Những nhà khá giả khi cất nhà đều làm một cái rương như thế để cất giữ những vật quý giá nhất. Chủ nhà ngủ trên đó như thần giữ cửa. Chỗ của mẹ chồng mà phải nằm lên là đã thấy ngại rồi. Trên đầu cô lại là cái xà định mệnh. Ngủ dưới một cái xà treo cổ làm sao mà ngủ được!

Cô cứ nhìn trừng trừng vào bóng tối. Đã mấy lần cô muốn hét lên khi nghe có tiếng chuột chạy, hay lờ mờ tưởng chừng cái lưỡi của cô thứ chín cứ dài mãi ra, dài mãi cho đến lúc chạm vào da thịt cô, liếm như chó liếm. Nhưng rồi sau những ngày dài căng thẳng mệt mỏi cô cũng thiếp ngủ lúc nào không hay. Và trong khi ngủ say cô lại nghiến răng kèn kẹt như một con tắc kè trong bộng cây.

Ông hơi bất ngờ khi biết mình và cô con dâu cùng phải ngủ trong một căn nhà, cùng hít thở cái mùi không khí cháy sém, khô rốc đến rát họng. Ông vốn khó ngủ, tiếng con thằn lằn, tắc lưỡi, tiếng con chuột chạy, giờ lại thêm tiếng nghiến răng! Ông nhớ lúc nhỏ cũng đã từng bị cái bệnh nghiến răng như thế. Nghiến trèo trẹo cả đêm không cho ai ngủ được. Mẹ ông đã phải mua về mấy cái c… heo đem luộc, giả như da heo trộn gỏi để dụ ông ăn. Từ đó răng ông mới thôi nghiến. Nhưng, nó là gái thì có ăn được không và chẳng lẽ lại bảo nó đi mua cái thứ mà con gái đàn bà nào cũng mắc cỡ đỏ mặt. Thôi thì mặc nó nghiến cọt kẹt nghe cũng đỡ buồn. Thì cũng giống như nghe một anh kéo đờn cò đang thử dây vậy thôi. Ông cười thầm, nằm nghiêng qua một bên cố dỗ giấc ngủ.

Đúng lúc đó ông nghe có tiếng trống tum, tiếng mõ, tiếng phèng la hoà cùng tiếng thùng thiếc. Rồi tiếng hô đả đảo địa chủ, đả đảo ù lì! Tất cả như từ trên trời rơi xuống, từ dưới đất chui lên bao kín ngôi nhà trọc tròi của ông. Đám thiếu niên đã được lệnh quấy phá ông, thế là không cần tuyên bố trước dân làng, ông đã bị quy vào địa chủ  phản động. Từ nay ông hoàn toàn bị bao vây cô lập.

Ngọn đèn dầu phụng nhỏ như hạt đậu leo lét trên bàn thờ chỉ làm cho bóng tối trong nhà như đậm đặc hơn lên. Tiếng động bên ngoài bất ngờ làm cho nó sủi bọt như trong một nồi cám heo. Ông hốt hoảng lăn xuống phản bò đến cái lỗ ra vào. Cô con dâu cũng không còn nghiến răng nữa, tỉnh như sáo, đến kê đầu bên cạnh ông, nhìn ra.

Cả hai cùng nín thở.

Bọn trẻ tụ tập ở ngoài ngõ, nhưng chưa vào trong  sân.

Dường như chúng đang đợi lệnh.

Một cây đuốc chạy như bay tới.

Và bọn chúng lập tức tràn vào.

Hai cha con cũng lập tức thụt đầu vào, lấy ván đậy lại. Vẫn chưa yên lòng, cả hai cùng cố sức đẩy cái rương xe nặng chịch để trấn giữ. Cả hai cùng tựa lưng vào vách thở hào hển. Nếu người này đặt tay lên ngực người kia chắc nghe được tiếng trống ngực dồn dập chẳng khác gì những tiếng hỗn độn ở bên ngoài. Chúng có phá nhà không cha? Cô lo lắng hỏi. Không đâu, ông trấn an, chúng chỉ làm huyên náo vậy thôi. Phải cố giữ bình tĩnh. Có một miếng vách bể ở phía sau, hay là mình lén chui ra, cô thì thào bên tai ông. Không được đâu, chúng đang hung hăng. Chúng mà thấy được thì khổ.

Bỗng: bịch! bịch! Đất cục và gạch vụn ném tới tấp vào nhà. Tấm vách ướt mới trét rung lên. Cùng với tiếng gạch đá là tiếng hô đả đảo, tiếng mắng chửi thủ bản Khâm ù lì. Cái trò này được đặt tên là dạ náo tức là quậy phá làm cho kẻ thù mất ăn mất ngủ. Hằng đêm, chúng tụ tập ở gò đình, sau khi nhảy xôn đố mì mỏi chân liền kéo đến nhà tổng Bá, giờ đến lượt nhà ông. Vì đây là kẻ thù mới nên chúng gõ trống mõ to hơn, đập thùng thiếc mạnh hơn, chúng còn hò reo đòi phá nhà. Chỉ cần mỗi đứa một tay đẩy nhẹ thôi là cả tấm vách đổ nhào. Chúng sẽ xách cổ ông và cô con dâu như xách tai hai con thỏ. Chúng sẽ đốt thêm đuốc dẫn đi quanh làng cho mọi người thức dậy xem. Chúng sẽ bày ra nhiều trò khác mà ngay cả trời cũng không biết được.

Áp mặt mình vào cánh tay cô con dâu, vai ông rung lên. Một chút nước nóng són ra ở đáy quần. Ông xấu hổ muốn khóc. Cô con dâu bỗng mạnh mẽ, đứng dậy. Cô mở nắp rương, nói: Hay là cha chui vào trong rương đi. Nếu chúng vào thì con nói cha đi đâu không có nhà. Không được, không được, ông nói trong tiếng khóc, tóm được là chúng xé xác ra ngay! Đã là địa chủ phản động thì có chui xuống đất cũng không trốn được.

Đả đảo địa chủ! Đả đảo!

Lôi cổ nó ra đây! Lôi cổ!

Hai người cứ chịu trận cái trò dạ náo như thế cho đến lúc chúng ném hết đất đá, mỏi tay, mới bỏ đi.

Đợi cho thật xa, thật yên, hai cha con cố sức đẩy cái rương xe sang một bên. Ông chui ra trước để thở và tìm nước uống. Ông thả gàu xuống giếng, kéo nước lên, nốc một hơi đầy bụng. Còn nước, ông cúi xuống xối ướt cả đầu. Ông ngồi trên hiên, giờ không còn cột và cái mái tranh vểnh cong như mái đình, thở dốc ra như dốc ngược cái bao than trút xuống đất. Quả thật, chưa bao giờ ông sợ đến nghẹn thở như vừa rồi. Ông không hiểu vì sao lại có thể sợ đến thế. Mà lại sợ những đứa trẻ chỉ bằng tuổi cháu ông. Sợ tiếng trống tiếng mõ của chúng, sợ tiếng hô đả đảo, sợ cái cảnh chúng hùa theo đám dân quân dẫn ông đi ra sông như đem chó đi trấn nước. Đột nhiên ông cảm thấy cái yên lặng của đêm tối còn đáng sợ hơn là những tiếng la hét ồn ào. Trong bốn bức tường, dù sao ông cũng được che chắn, còn ở giữa đất trời ông thấy mình hụt hơi đuối sức mà chẳng bám víu vào được một chỗ nào. Ông lại chui vào  nằm ngay trên sàn nhà, thở.

Đã có lần ngôi nhà tươi tắn như một cô gái sắp về nhà chồng. Một rạp to phủ kín mặt sân, những chiếc đèn lồng màu đỏ đu đưa trong gió và có đến những bốn cây tạ đăng làm sáng rực cả ngôi nhà. Những cây cờ đuôi nheo bay phần phật với những cái tua màu đỏ vòng vèo như râu mực. Rồi ban nhạc với đầy đủ trống kèn cò nhị rúc lên những tiếng ai oán trong khi trống đánh hồi một thùng thùng. Đó là lúc người ta đón mừng một tân khoa họ Phạm dưới triều Tự Đức. Ngày ấy đã hơn trăm năm nhưng những người trong họ vẫn tưởng như mới xảy ra hôm qua và ai cũng nói về cái tài thơ phú của người đã khuất với tất cả trịnh trọng nhưng sai lệch. Ai cũng tin rằng mình đúng và hai cánh mũi lúc nào cũng nở to phập phồng với một vẻ đắc thắng và tự hào.

Ông tổ 12 đời của họ Phạm đến lập nghiệp ở làng An Định có một cái mả dài đến những 12 thước rộng 1 thước. Nếu quả thật ông cao đến như vậy người ta chắc phải ghép cau lại để làm hòm cho ông. Phải chục đứa chắt chít gì đó mới giẫy xong cái mộ của ông trong buổi sáng tháng chạp. Cũng có thể là ông làm quan võ khá to vì chẳng hiểu từ bao đời, nhà họ Phạm lại được hưởng mấy mẫu ruộng công thần. Một điều lạ là con cháu các đời sau đều có tên tuổi ngày sinh ngày mất trên bài vị, nhưng ông thì không. Cái bài vị cao nhất đẹp nhất chỉ ghi mỗi một chữ cao tổ mà thôi. Trải qua 12 đời, đã có bốn mươi hai người chết chôn ở núi Mò O và để lại bài vị trên bàn thờ họ Phạm. Ông thủ bản Khâm là cháu đích tôn nên có vinh dự và bổn phận chăm sóc bốn mươi hai bài vị cùng bốn mươi hai ngôi mộ.

Nếu người chết nào cũng phải cúng giỗ thì mỗi năm ông phải làm đúng bốn mươi hai mâm cỗ, đó là chưa nói tới ngày tết. Nhiều người xì xầm rằng ông đã bớt xén trong việc cúng đình để có thể lo nổi bốn mươi hai đám giỗ ở nhà. Ông thề có trời đất chứng giám rằng ông không thèm tơ hào một bụm nếp hay rẻo thịt nào bởi vì ngoài hai cái giỗ cha mẹ không thể không cúng để trả nợ miệng, còn ngoài ra chỉ cây nhang bát nước mà thôi. Ông không sắm nổi hay sao mà phải động đến của thánh thần. Nhiều người có vai vế trong làng đều tin ông vì không ai qua được ông cái tính sạch sẽ tinh khiết. Từ con heo, cân nếp cho đến bình bông nải chuối ông đều tự tay chăm sóc rất cẩn thận. Ngày cúng đình ai cũng được ăn no và ăn ngon, các vị hào mục lại còn được kỉnh nửa cái đầu heo hay tợ thịt. Nhưng cũng chính vì vậy mà ông bị kết tội là cùng ăn cánh với hương lý trong làng nên bị đẩy thêm một nấc nữa là địa chủ phản động!

Vợ chồng tổng Bá đã phải quỳ đến rướm máu để dân hỏi tội. Cụ cử Vân bị đem ra sông nhúng nước trong tiết đông chí. Giờ đến lượt ông. Trong số các địa chủ thì ông trẻ nhất. Ông lại có chút ít võ nghệ nên không dễ gì thoi đạp mà ông chết được. Vì vậy người ta đã phải chặt mấy gốc tre đực chẻ làm tư, lấy những miếng cong cong như gậy đập đậu nành để chờ lệnh là hỏi tội ông ngay. Trong buổi họp chi bộ, đồng chí Khứ đã nêu rõ quyết tâm sẽ đấu với tên ác ôn thứ ba này một trận ra trò.

Tháng mười mưa lụt, trong một đêm bà giật mình thức giấc khi cái rương xe to nặng chứa đầy đồ từ khí của nhà họ Phạm bỗng nghiêng hẳn đi như sắp được nhấc bổng lên. Bà chưa kịp đặt chân xuống đất thì nó đã lật ngửa như một con trâu nằm phơi bụng. Một luồng nước mạnh ùng ục từ dưới đất trào lên đẩy cái rương vào sát vách và ném bà xuống nước. Rất may bà ôm được một cây cột leo lên. Sau đó chẳng những chỉ riêng người nhà họ Phạm mà cả xóm Miễu ai cũng kinh hoàng vì bọn trộm trong mùa nước cạn đã đào một đường hầm từ bờ sông vào tận buồng ngủ của vợ chồng. Khi xong việc chúng đã đốt một cái chòi vịt để dụ hai người ra xem. Và đêm hôm đó, từ dưới đất, chúng đã đẩy cái rương qua một bên, dọn sạch tất cả những gì chứa đựng trong đó. Bao nhiêu những đồ đồng thau, chén bát bằng sứ, những nồi bảy nồi ba, những mâm to chảo lớn đã không còn. Cái giỗ năm ấy ông phải đi mượn của đình đem về cho bà mới đủ lo cho cả trăm người ăn uống.

Ngày đó trước cách mạng và ông đã đem trả cho đình không thiếu một đôi đũa, nhưng ông Khứ vẫn bảo là chưa trả. Ông đã mời ông Khứ đến nhà lục soát nhưng ông Khứ lại bảo cái đường hầm ấy đâu phải trộm đào mà chính nhà ông đào để chuyển tài sản ra đường sông! Mãi đến khi chết ông cũng chưa hiểu được rằng khi những người thay mặt đảng, bảo trắng là phải trắng dù đen, và bảo đen là phải đen dù trắng. Hãy cứ nhắm mắt mà tin vào. Đã không tin mà còn cãi lại thì cái chết là không tránh khỏi.

Ông chưa kịp tiếc thương cái ngôi nhà cùng lớn lên với ông thì đã bị nhốt trong hang. Chẳng những ông bị giặc Pháp căm ghét vì có một cái nhà to như một kho thóc mà còn bị xóm làng xa lánh, bị đám thiếu niên cờ đỏ bao vây. Nằm trong bốn bức tường với một cái lỗ để chun ra chun vào, ông đã hiểu được thế nào là lô cốt. Có điều lô cốt của tây thì làm bằng xi măng kiên cố, có lỗ châu mai bốn hướng để quét từng tràng đại liên. Còn ngôi nhà vừa mới bị tây đốt của ông thì chống đỡ làm sao với sức mạnh điên cuồng của bần cố nông lao động! Nghĩ tới cảnh bọn họ đạp tấm vách mới trét vào lôi cổ ông ra nhét vào bội mạ khiêng đi mà rùng mình. Trước tiên bọn họ sẽ đi diễu quanh làng. Ông sẽ bị gai bàn chải đâm, sẽ phải chịu đau nhức như có hàng trăm con ong vò vẽ cùng bu vào đốt. Bọn du kích sẽ dùng gậy thọc vào ông như thọc vào những con chó trong chiến dịch đại sát cẩu. Cũng có thể bọn họ sẽ bỏ ông xuống hầm tròn rồi hun trấu xung quanh. Và nếu trời không rét bọn họ dám đun sôi nước tạt vào ông. Chiến đấu với bọn gian ác tức là phải nghĩ ra cách gì làm cho chúng khổ sở điêu đứng, muốn chết mà vẫn không chết được. Đã có kẻ nghĩ ra cách chẻ những cây lồ ô rồi bó lại bắt địa chủ cởi quần áo từ trên tuột xuống. Chừng vài lần thì còn gì là da là thịt. Nghe lạnh mình còn hơn Pháp lấy kềm lột móng tay.

Ông ngồi dậy khêu cao cái tiêm dầu phụng. Ông đứng lên phản tìm cái dùi chuông và chậm rãi gõ đúng bốn mươi hai tiếng. Trong những ngày qua, hết nhà cháy đến trét nhà, ông quên mất phải thỉnh chuông để gọi bốn mươi hai linh hồn về với tổ đường. A Di Đà Phật, ông vái hai vái rồi nằm xuống phản. Ông mơ hồ cảm thấy như tiếng chuông hơi bị rè, có lẽ là do sức nóng chứ chuông đâu có rơi xuống đất. Đây là cái chuông quý, được lấy lên từ cái giếng lạng trong vườn. Ngoài quả chuông còn có hai bộ xương một to một nhỏ chắc là của hai vợ chồng. Có người bảo là của Hời nhưng ông cãi Hời làm gì có chuông.

Ông cố dỗ giấc ngủ bằng cách nghĩ tới người vợ. Ông rất nhớ cái cách bà chăm sóc ông. Cứ như mẹ chăm con vậy. Mùa nóng bà cắt quạt mo cho ông quạt, mùa lạnh bà đốt than để dưới gầm giường cho ông sưởi. Không tình tứ, không ồn ào, nhưng từ cọng rau thơm cho đến miếng bánh đều được bà chăm chút còn hơn cho chính bản thân mình. Trong những năm phải ăn độn, chính bà hấp mì khô lên trên để riêng phần bà, còn ông thì phần cơm không độn. Khi bà còn sống, ông coi đó là những chuyện vụn vặt, tầm thường. Có cũng được, mà không có cũng chẳng sao. Nhưng bà mất đi, giờ ông mới thấy những lo toan tỉ mẳn đó sao mà thắm thiết, xót xa đến như vậy.

Kháng chiến đã đem những người con trai vào nơi bom đạn chỉ để lại ở nhà những người già, những cô vợ không chồng, những đứa du kích mặt còn búng ra sữa. Bọn chúng tay cầm gậy, lưng đeo dây dừa, lúc nào cũng nghênh ngang đi khắp đường làng, hạch hỏi những ai ra vào các nhà đã bị ông Khứ quy là địa chủ. Nếu được lệnh áp giải ai đó là chúng sung sướng như được cho quà. Chúng rầm rập bao quanh kẻ tội đồ vừa cầm gậy thúc vào sườn, gõ vào đầu vừa hò hét còn hơn là khi chúng lùa trâu ra đồng. Chẳng cần biết già trẻ, đàn ông hay đàn bà, chỉ biết đó là bọn phản động, bọn bóc lột, bọn tay sai, là chúng đã coi họ còn tệ hơn một con vật.

Sau này, khi mọi sự giống như một bệnh dịch đã qua, chúng ngẩn ngơ không hiểu vì sao lúc đó lại có thể hung hăng đến như vậy. Có người bảo rằng chúng chỉ là thuốc nổ còn ngòi chính là ông Khứ, bà Thảnh. Sau hiệp định Giơnevơ, hai cái ngòi nổ ấy đi tập kết là chúng trở lại làm những nông dân nghèo ít học nếu không muốn bảo là ngu dốt. Chúng được cha mẹ cắt tóc, tắm gội sạch sẽ, mặc áo quần mới rồi đi cưới những cô nữ dân quân cũng ngơ ngáo và ngu như thế về làm vợ. Rồi một thế hệ mới bụng ỏng, mặt mũi nhem nhuốc ra đời, lúc nào cũng chống mắt ra mà nhìn người từ thành phố về như nhìn người ngoài hành tinh. Có một chiếc xe nào chạy qua là chúng vung tay múa chân đuổi theo trong đám bụi mù một cách khoái trá. Và rồi chúng lại lớn lên lấy nhau sinh con đẻ cái. Những vòng đời nghèo đói ít học cứ miên man nối tiếp nhau như thế trong cái tĩnh lặng quen thuộc của xóm làng.

Ông vẫn chưa ngủ được. Có nghĩ đâu đâu rồi cũng loay hoay trở về với những nỗi lo, nỗi sợ chất chứa trong đầu. Bên ngoài, tiếng trống mõ lại nổi lên. Rồi tiếng hô đả đảo, rồi đất đá ném vào nhà. Chúng tấn công lần nữa và hai cha con lại phải xoay cái rương xe để chận cái lỗ ra vào. Thôi mặc, muốn chửi rủa mắng nhiếc ù lì phản động hay gì gì nữa thì xin cứ việc. Đây mệt mỏi lắm rồi. Mà đây cũng đếch thèm sợ nữa. Chết là cùng chứ gì. Ai chẳng phải chết ngay cả sống đến ba trăm năm như ông Bành tổ.

Lặng yên một lúc.

Rồi lại bình bịch, bình bịch!

Hoá ra chúng vào trong sân. Thay vì ném đá, chúng dùng chân đạp vào vách. Cái tấm vách vừa trét chưa khô rung lên, nhiều mảnh đất trộn rơm rơi xuống. Bỗng có một bàn chân chui tọt vào trong. Cô con dâu sợ hãi rú lên nhưng ông chộp lấy rồi dùng hết sức kéo mạnh vào. Nghe bên ngoài có tiếng la hốt hoảng. Ông muốn bẻ quặp cho lọi cẳng ra, nhưng nghe tiếng, ông biết nó chỉ chừng mười tuổi nên đẩy mạnh ra ngoài. Chủ nhân của cái chân hú hồn. Bọn nhỏ cười lớn rồi kéo nhau chạy mất.

Ông giật mình khi nhớ tới đứa cháu ngoại. Nó mười tuổi, chắc cũng vào đội và đêm đêm đi quậy phá những nhà địa chủ. Mẹ nó dù có muốn bắt nó ở nhà cũng không được. Nó không còn là con của cha sinh mẹ đẻ mà là con của đảng, cháu của bác. Có lần ông nghe một người bạn ở Yên Thới kể rằng đứa cháu của ông ấy chui vào nhà địa chủ. Nó được lệnh nằm dưới gậm giường để nghe vợ chồng bàn chuyện trốn thuế hay tẩu tán tài sản. Nó chẳng nghe được gì ngoài tiếng vạt giường kêu răng rắc. Nó sợ sập liền chui vào nằm dưới gậm phản. Rồi mệt mỏi ngủ quên, sáng ra bị chủ nhà bắt được. Nó tưởng bị dẫn tới nhà mắng vốn, nhưng chủ nhà chỉ cười, bảo nó đi về, lại còn cho một trái xoài tượng trên bàn thờ.

Ông ấy bảo dạy trẻ con làm những chuyện như thế thật trái với đạo lý. Đâu có chỉ rình mò như kẻ trộm mà còn bịa không nói có để được khen là ngoan, là có tinh thần đấu tranh cách mạng. Nhiều đứa ranh ma đã dựng nên những chuyện động trời. Như giấu vàng dưới giếng, hay chuẩn bị trốn vào vùng tề. Báo hại chủ nhà thì bị bắt trói còn bọn dân quân phải mất cả ngày để tát cạn giếng, đào bới, và đêm đêm phải canh cả vòng trong lẫn vòng ngoài. Như thế thì có muốn sửa chữa dạy khác đi cũng đâu có được. Nghe đâu ở bên nước bạn Trung Hoa có những nông trang rộng mênh mông, cùng làm cùng ăn, ai làm nhiều ăn nhiều, ai làm ít ăn ít. Ở đó, nam ở một trại riêng, nữ một trại riêng, mỗi tháng gặp nhau hai lần. Con sinh ra có nhà nước nuôi, khỏi phải mắc công chăm sóc dạy dỗ gì cả. Chúng nó suốt ngày ca hát chơi đùa cứ như ở trên thiên đàng.

Nghe nói thế, ông hết muốn có cháu nội.

Bọn chúng đi rồi, ông bảo con dâu giúp ông đẩy cái rương xe qua một bên. Ông muốn chui ra ngoài. Trời đêm thật mát dịu. Vẫn sông Ngân quen thuộc vắt ngang giữa bầu trời, vẫn con công đầu đội mũ bình thiên và núi non cây cối vẫn xanh dịu im lìm, cớ sao những con người ở đây lại khác xưa đến như vậy. Giá như không có kháng chiến, giá như không có đấu tranh giai cấp thì chắc hẳn ông đang ngủ nghê thoải mái và lũ nhỏ cũng ngủ mê, có đứa nói mế có đứa đái dầm. Ông Khứ bà Thảnh chắc cũng như ông Sáu Hủ bà Hai Thành quanh năm chỉ biết có con trâu cái cày và một bầy con cùng với gà  heo lúc nhúc trong chuồng. Cái gì làm cho họ lồng lên như thế? Ông Mác ông Lê là ông nào mà làm cho cả thế giới sôi lên sùng sục? Lại còn ông Xít, ông Mao, ông Kim, ông Phiđen… nhiều ông quá chen chúc trên cái bàn thờ tổ quốc. Cứ mỗi lần có đại lễ thì các ông lại xúm xít quanh ông Hồ, y như bốn mươi hai cái bài vị trên bàn thờ họ Phạm. Mà họ đâu có bà con anh em gì với nhau. Họ bảo cùng lý tưởng giải phóng loài người.

Ông đứng lên định đi tiểu nhưng lại nghe tiếng nước xối ào ào trong bụi chuối gần giếng nên lững thững đi ra ngõ. Chỉ mới mấy tháng trước đây thôi khi chưa phát động chiến dịch đấu tố, rào dậu nhà ông lúc nào cũng thẳng thóm. Những cây duối cành lá đan vào nhau được cắt tỉa cẩn thận trông như một bức tường màu xanh. Cái mái của nhà ngõ cũng toàn duối được dưỡng cao uốn cong trông rất đẹp. Từ Yên Thới qua những đám ruộng lúa chín vàng, ông đã trông thấy cái cơ ngơi màu xanh của nhà họ Phạm. Tất cả là nhờ một tay Bốn Ngọ, một anh tá điền ít nói làm rẽ của ông đến hai mẫu ruộng đã thay ông chăm sóc. Nhưng sau đó được đảng giác ngộ, thực ra là ông Khứ buộc, phải trả lại ruộng cho ông dể khỏi phải làm người nô lệ. Ông bỏ mặc cho cây lá muốn mọc ra kiểu gì cũng được. Cái mái nhà ngõ rũ xuống, nhiều cành muốn chọc vào mắt, ông cũng không thèm cắt bớt. Ông bước ra khỏi ngõ vén quần phóng nước giải xuống ruộng nghe tỏng tỏng.

Cô con dâu tắm xong đã chui vào nhà. Nước mát đã đưa cô vào giấc ngủ. Cô lại bắt đầu nghiến răng. Kèn kẹt, kèn kẹt. Như tiếng một con nhồng học nói, nhưng ông nghe như tiếng của lưỡi cưa chạm vào ngà của một tay thợ tàu chuyên làm đũa ngà cho những cặp vợ chồng mới cưới. Những đôi đũa một đầu vuông, một đầu tròn có khắc những chữ hán bôi sơn đen và đỏ rất đẹp. Cái gã thợ tàu ấy không hiểu vì sao chỉ làm những đôi đũa quý hiếm ấy trong đêm khuya. Gã cắt ngà ra từng khúc, xẻ nhỏ, rồi mới chuốt láng từng chiếc. Gã tỉ mẩn hứng từng chút bột ngà rơi xuống nhỏ mịn như trứng tằm. Để làm thuốc, quý lắm, gã nói. Cũng may là gã sống ở phố Quy Nhơn chứ nếu ở An Định, gần mả Thập miên thì người ta dễ tưởng lầm là gã đào mồ lấy trộm xương lên làm.

Ông nhắm mắt cố ngủ nhưng tiếng kèn kẹt vẫn như lưỡi cưa mỏng đi xuyên qua đầu. Ông lại nhớ tới tiếng con mụ Dĩa khi sỉ vả ông tổng Bá, nó cũng rin rít qua hai hàm răng như thế. Đó là căm thù. Còn con nhỏ thù ai? Chẳng lẽ thù ông hay thù cả nhà họ Phạm này? Mà cũng có thể lắm, nó được gì khi phải sống trong nhà này. Chồng không có, như đứa khác thì đã dắt trai vào nhà, bằng không thì cũng bỏ mặc cái giường lạnh lẽo đó mà chui vào một cái giường khác. Nó ngu hay mình ngu? Ông lại nghe rõ tiếng nước chảy trong bụi chuối, lại mơ hồ thấy nước chảy qua áo qua quần, lại tưởng đến bàn tay đang kỳ cọ, những ngón nhỏ len lỏi…

Ông rùng mình ngồi dậy. Nằm trên phản mà ông tưởng như nằm trên nắp ván thiên. Bốn mươi hai bộ xương lớn bé của nhà họ Phạm kêu lột rột trong đó! Ông đứng lên mò tìm cái dùi chuông và như phát cuồng, ông nện liên hồi kỳ trận vào cái chuông mà không cần biết là bao nhiêu tiếng. Cái chuông tội nghiệp đang say ngủ bỗng giật mình kêu thét lên. Nó vừa kêu vừa nhảy choi choi như một đứa bé bị ăn đòn oan. Bốn mươi hai cái bài vị trên bàn thờ đều nhỏm dậy. Cái chuông bị tra khảo giống như bị đấu tố đành chịu trận cho đến khi đứt dây rơi xuống phản. Nó tự gõ thêm một tiếng choang đau đớn rồi im bặt  Mồ hôi tứa ra, ông cũng ngã vật xuống phản.

Thôi ngủ đi!

Ừ!

Nhắm mắt lại và nhớ tới những đọt tre rung rinh, những tàu cau xanh và mùi hoa cau ngọt lịm, nhớ tới cánh đồng lúa chín có những con cúm núm làm tổ với những cái trứng màu nâu lốm đốm trắng rất dễ thương…

Ừ!

Nhớ tháng giêng xổ cổ nhơn, hát bội, nhớ tiếng hát của cô đào thương, tiếng thét Trương Phi ở cầu Trường Bản và ngủ đi!

Ừ!

Đừng nhớ chi tới cái chân trắng của con đầm lai, đừng nhớ cái cách nó nằm gác chân lên vách để cái váy rơi xuống, đừng nghe nó rên rỉ gầm gừ, đừng nhớ tới tiếng nước chảy trong bụi chuối

Ừ!

Vẫn cứ nhớ à, nhớ như chạm như khắc vào tận xương da thì bắt chước hoà thượng bỏ nhang lên đầu mà đốt, hay lấy dùi nhọn mà đâm vào háng như các cha

Vẫn không ngủ được…

Thì hãy đi ra vườn, ra ngoài đồng, ra bờ sông, đi thật xa cái hang tối tăm này

Chi vậy?

Để quên

Quên?

Quên gì?

Quên mùi mồ hôi nồng nồng, quên mùi nước bọt mặn mặn

Ừ!

Ngủ và ngủ!

Chương 3

Tiếng sấm rền

Cái bản tin dựng bằng đất quét vôi trắng được anh thông tin nắn nón viết 7 chữ đỏ: Đuổi được giặc rồi, bà con ơi! Rõ ràng đây là một câu reo mừng, nhưng mọi người đang bu quanh chẳng ai chịu nhếch mép hay vỗ tay. Có lẽ trong suốt chín năm họ chỉ hoan hô đả đảo khi nào có lệnh chứ còn tự dưng mà hoan hô thì nếu không phải là thằng điên cũng là một tay coi chừng phản động. Chẳng hạn với địa chủ hay đế quốc Mỹ mà hoan hô thì cả họ nhà anh đi tù là cái chắc. Những chữ viết bằng gạch trộn hồ nói lên một điều rằng, suốt ba ngàn ngày chiến đấu giờ đã kết thúc bằng hiệp định Giơneo, Pháp sẽ rút khỏi miền Bắc để bộ đội Điện Biên tiến vào Hà Nội.

Trùng trùng quân đi như sóng

Lớp lớp lưỡi lê sáng ngời

Chúng ta đem vinh quang

Lúc quân thù đầu hàng

Ngay từ thời kháng chiến, với đôi dép lốp và gậy tầm vông, những anh bộ đội hăng hái đi tòng quân đã hát vang như thế mỗi khi đi qua làng. Giờ giấc mộng trong câu hát đã thành sự thực. Nhưng quân thù đâu đã đầu hàng. Nó chỉ nhường cho ta nửa nước như bẻ đôi một cây mía để cho ta một khúc ngọn nhạt phèo. Ngọt sao được khi bốn tỉnh Nam Ngãi Bình Phú này phải giao cho nó!

Những người đứng xem bàn tán. Một người nói: vậy là mình chỉ có nước húp mắm! Sao vậy, người khác hỏi. Còn sao gì nữa, ai đâu ngoài bắc mừng chớ mình mừng gì nổi. Tây nó tới đây ở đó mà mừng! Ờ há, một người khác kêu lên. Bọn họ chừng năm người, áo bà ba quần đùi xăn tới háng, để lộ những cặp chân không phải tươi mướt như cô đầm lai dạo nọ mà đen đúa lỏng khỏng như những khúc thù đâu phơi khô. Trong số họ có thủ ngữ Đực, nó nói, Tây tới đây thì đánh nữa chớ sợ gì. Nó lại hét toáng lên, giặc thua rồi không thấy à? Hoan hô lên chớ, hoan hô! Nhưng chẳng ai hô theo. Chỉ có vài đứa trẻ từ trong xóm chạy ra hô: muôn năm thủ ngữ Đực! Nó vểnh tai nghe rồi cười lớn, muôn năm để dành cho Bác, tao chỉ muốn một trăm năm thôi, hi hi!

Đó là tiếng vọng của bản tin một ngày đầu thu khi hiệp định Giơneo được ký kết sau hai năm kỳ kèo. Cái xóm Miễu một thời rộn ràng cờ xí giờ im lìm mỏi mệt như một con trâu già muốn ợ lên nhai lại nhưng suốt mấy ngày qua chưa có cọng cỏ nào trong bụng.

Nhưng tối đến bọn trẻ con cầm đuốc, cùng với trống mõ phèng la đi khắp làng mang cái tin mừng vĩ đại đó đến khắp mọi nhà. Đuổi được giặc rồi! Được rồi! Được rồi! Chúng vừa hô vừa giẫm chân bành bạch. Nghe ra thực mỉa mai. Bọn trẻ con quên mất rằng, theo như lời cô Thảnh, thì chúng là cái món đồ chơi rất được ưa thích của bọn thực dân. Rằng chúng sẽ bị xỏ xâu từng chùm liệng xuống biển. Rằng những cô gái dù xấu hay đẹp, ngay cả bà già cũng sẽ bị chúng hiếp. Làm như chúng đem bao nhiêu binh đoàn sang đây chỉ để làm mỗi một việc ấy thôi.

Nhờ cái tin chiến thắng ấy mà bọn chúng đã không đến chọc phá nhà ông nữa. Được một đêm không bị những tiếng đả đảo làm cho đầu óc muốn phát cuồng, ông ngồi cột sửa lại dây chuông. Rồi ông đánh đúng bốn mươi hai tiếng như thường lệ, những tiếng chuông rè rè như hơi thở thoát ra khỏi cổ họng của một người bị hen. Không biết do hôm ấy ông đánh quá nhiều tiếng, quá mạnh tay hay vì rơi xuống phản nên bị bể. Dù sao cũng còn có cái để mà đánh thành tiếng gọi hồn bốn mươi hai người chết. Chuông rè chẳng biết ở tận dưới đáy mồ, họ có nghe thấy không. Sắp đối mặt với cái chết đã được báo trước, ông thấy mệt mỏi chẳng muốn suy nghĩ gì thêm nữa. Ông tìm chiếc võng dây dừa đã rách nằm rất xót, nhưng có đưa qua đưa lại một chút may ra mới có thể ngủ được. Cô con dâu giúp ông cột võng rồi chui qua lỗ ra ngoài.

Trời đã vào thu nhưng hãy còn rất nóng. Ông nằm đưa võng nghe tiếng kêu kẽo kẹt lại nhớ tới tiếng nghiến răng của con dâu. Có một cái gì đó rất lạ trong tiếng nghiến răng ấy. Nó mơ hồ gợi ông nhớ tới những hình ảnh xa xưa nửa tỏ nửa mờ. Không phải lạnh lẽo như bóng ma, không phải êm đềm dịu dàng như những ngày thơ ấu. Một cái gì như từ trong xương thịt của chính ông trỗi lên. Một cái gì đó đã lâu bị bỏ quên giờ đang cựa mình thức dậy…

Có tiếng cô con dâu vừa chui vào, cha ơi, còn 5 ngày nữa là giỗ mẹ đó cha! Ông giật mình: ờ, ờ ta nhớ chớ. Có điều như thế này thì biết cúng giỗ làm sao. Cúng chay mà cha, với mẹ chỉ cúng một chén cơm và chút muối thôi mà. Cần nhất là phải có nhang thơm và bông để cắm trên bàn thờ. Việc ấy cũng dễ mà, con sẽ lo cho. Ờ, ông lảm nhảm rồi ngủ lúc nào không hay. Đó có thể nói đó là một đêm bình yên nhất của ông trong suốt chín năm kháng chiến.

Sáng hôm sau, ông Khứ cùng với hai du kích tới tận nhà. Bọn họ cúi xuống lỗ chõ miệng vào gọi tên ông. Ông giật mình té khỏi võng phải lồm cồm bò dậy. Một tay ông nắm cái lưng quần đã đứt mất dây, một tay dụi mắt lò dò chui ra khỏi lỗ. Ông chưa kịp đứng lên đã bị ông Khứ nói như quát: ăn mặc như vậy mà đứng trước mặt chính quyền hả? Dạ, cháy hết rồi, dạ, để tôi vào cột lại đã. Ông cảm thấy vai mình bị ấn mạnh xuống rồi bị đẩy vào lỗ. Một lúc sau, khi tìm được dây nịt của đứa con trai ông nịt ngang lưng chui ra.

Lên ủy ban, ông Khứ ra lệnh. Hai du kích cầm gậy kèm hai bên. Giá như có được hai cái súng thì chúng càng oai vệ hơn nữa.

Ủy ban thực ra là cái trường bình dân học vụ lợp tranh. Nhiều chỗ tranh bị gió nam cuốn đi mất nên ngồi bên trong trông thấy cả màu trời xanh và những đám mây trắng. Một cái bàn thầy giáo nứt nẻ nhiều chỗ vênh lên. Hai cái bàn học có hộc và ba cái băng dài. Ông Khứ ngồi vào bàn thầy giáo nhịp nhịp chân làm chiếc ghế gỗ và cái bàn rung rinh theo. Cuộc hỏi cung bắt đầu.

Hỏi: Tại sao xây vách bịt kín nhà như vậy?

Đáp: Dạ thưa cách mạng, nhà cháy xây tạm để ở.

Hỏi: Nhưng sao lại bịt kín. Âm mưu che giấu cái gì?

Đáp: Dạ chẳng che goấu cái gì cả. Chỉ vì không còn miếng ván nào làm cửa. Không tin mời chính quyền tới khám.

Hỏi: Còn tỏi hành để đâu không thấy?

Đáp: Dạ nó bán hết từ lâu rồi.

Hỏi: Láo, cả tấn mà bán hết rồi à?.

Đáp: Dạ hết thiệt!

Hỏi: Đêm tối mà tiếp ai rì rầm trong đó?

Đáp: Dạ cha con nói chuyện với nhau.

Hỏi: Nói chuyện gì?

Đáp: Dạ chuyện làm đám giỗ vợ tôi.

Hỏi: Định mời những ai?

Đáp: Dạ cúng chay, không mời ai cả.

Hỏi: Nhà sao thờ nhiều bài vị thế?

Đáp: Dạ đã 12 đời nên có nhiều người chết.

Hỏi: Ai chết có nhớ không?

Đáp: Dạ không nhớ nổi.

Ra lệnh: Kê khai tên tuổi những người dã chết, lý do chết. Chiều nay nộp!

Ông thủ bản lùng bùng trong tai, không ngờ lại có một cái lệnh lạ lùng như vậy. Các đảng viên chỉ khai lý lịch đến ba đời là cùng sao ông lại khai đến những 12 đời? Cho dù có đem đi xử bắn hay đi đày (cải tạo) cũng đâu cần khai nhiều như thế.Tuy vậy, ông không thể không vâng lệnh. Không khai là mệt với hắn, ông nói khi cô con dâu thấy ông định tháo từng cái hộp đựng bài vị ra. Đây là việc không nên làm mà vẫn phải làm Tháo bài vị ra cũng giống như quật mồ người chết. Tay ông run run, mắt ông như mờ lệ. Từng miếng gỗ sơn trắng viết chữ đen hiện ra, nhưng chẳng miếng nào đọc được. Không hiểu vì sức nóng hay vì lâu năm giờ chỉ còn là một chút bột trắng như xương của người chết dưới mồ. Ông đành xếp tất cả vào hai cái thúng bảo con dâu nấu cơm ăn rồi mới đi nộp.

Chiều, ông sai con dâu gánh cả thúng bài vị đi theo ông xuống ủy ban. Ông Khứ cùng với cô Thảnh đang ăn dưa gang với đường trên bàn thầy giáo. Thấy cha con ông vào, ông Khứ đẩy miếng dưa sang một bên quẹt tay áo lau miệng, hỏi:

–          Gánh cái gì vậy?

–          Dạ, 42 cái bài vị.

–          Sao lại gánh tới đây?

–          Dạ, mục hết rồi không đọc được.

–          Thì nhớ, ông bà tổ tiên nhà mình mà không nhớ à?

–          Dạ nhiều quá, lâu quá, làm sao nhớ nổi.

–          Vậy là bất hiếu, làm thủ bản mà không biết ai chết để khấn vái thì làm cái kiểu gì.

Ông bị mắng té tát nhưng đành ngậm miệng. Có cãi cũng chỉ để được mắng thêm mà thôi. Có lẽ cô Thảnh thấy cái việc kê khai này kỳ cục quá, chưa thông qua chi bộ nên cô nói: thôi nhớ bao nhiêu khai bấy nhiêu. Về đi!

Giống như những cơn mưa giông, những trò ngang ngược này mới chỉ là một vài cái chớp giật, báo trước cơn cuồng nộ sắp xảy ra. Sẽ còn nhiều trò khủng khiếp hơn. Con mèo đã bắt được chuột mà thả ra là để thử cái vuốt thêm nhiều lần nữa. Hai cha con ông giống như hai con chuột lốm thốm ra khỏi miệng mèo.

Ông bảo cô con dâu đem bài vị vào nhà. Chẳng còn nhớ ai ở trên cao ai ở dưới thấp, ông sắp đại bốn hàng trông cứ như những bia mộ nhỏ xíu. Bàn thờ họ Phạm trở thành nghĩa trang! Cho rằng có một sự lộn xộn làm tổ tiên quở mắng, ông lại đánh 42 tiếng chuông rè để xin được tha thứ. Sau đó ông khó nhọc lắm mới tìm được một tờ giấy và cây bút chì.

Ông ghi:

Cha Phạm văn Mân, chết già.

Mẹ Nguyễn thị Hồng, chết già.

Em trai Phạm văn Đức, chết chìm.

Em gái Phạm thị Hiền, chết treo.

Vợ Trần thị Châu, chết trèo cau.

Thật là một bản kê khai cười ra nước mắt. Không chừng sau cái bản khai này hắn lại xỏ lá để cho đúng vần eo, ghi bản án dành cho ông là chết tùng xẻo! Dám lắm đó. Nghe nói ở Trung Hoa nông dân chưa có lệnh đã nhào vào mỗi người xẻo một miếng thịt của địa chủ để ăn vì căm giận. Cái đám quần chúng ốm đói đó chỉ cần hứa cho một cái chén ăn cơm của bọn nhà giàu là rùng rùng nổi xung thiên lên, và, đúng lúc đó, có kẻ nào hô móc mắt nó ra hay nhổ tóc nó đi là cả trăm cả ngàn con người tay chân khẳng khiu bỗng trở thành cọp beo, chó sói. Để diễn tả cái khối đại đoàn kết khổng lồ đó người ta bảo, chỉ cần mỗi người phun một bãi nước bọt là đủ làm hắn ngập lụt.

Thật là may cho ông, cái tin đình chiến hoà bình đã làm cho đời sống bỗng dưng sắc màu đổi khác đôi chút. Đầu tiên là người ta thoải mái đội một chiếc nón trắng mà không sợ bị trét bùn lên. Các cô gái được khoe chiếc kẹp tóc óng ánh dưới mặt trời. Và người ta cứ thế mà đi ngời ngời không còn sợ máy bay. Để điểm thêm một chút mới lạ vào cuộc sống tăm tối nghèo nàn, người ta mở cả kho chiến lợi phẩm đem ra bán ở gò Vân Sơn. Thế là cả làng rùng rùng kéo nhau đi, dĩ nhiên là không sót một đứa trẻ nào trong đội Cờ đỏ. Nhờ vậy ông có được những buổi chiều yên tịnh và tối đến dù tiếng chuông của ông bị rè vẫn nghe vang vang đủ bốn mươi hai tiếng.

Chợ chiến lợi phẩm bày ra dưới hai cái dù thật to. Tất cả những món hàng trong chợ cũng đều của Pháp, dĩ nhiên là không có súng đạn. Thực ra ngoài món thịt hộp ăn được ngay và một ít xà phòng thơm mà ai cũng muốn hít thử, còn tất cả là hầm bà lằng chẳng biết mua để làm gì. Như những cái nĩa, những con dao găm, những cái quần lót, áo nịt ngực không hiểu sao cũng tịch thu được và giờ đây đem ra bày bán.Tuy nhiên vì là của Pháp nên nhiều người cũng bóp bụng mua thử một vài món để có mà về khoe với xóm làng. Trúng đậm nhất là mấy tay cờ bạc, bọn họ mua được những cỗ bài tây rất đẹp, xoè ra như rẻ quạt. Chắc hẳn bọn họ đang mơ đến những trò đỏ đen mới hấp dẫn hơn chứ không phải những trò bong đôi xóc dĩa đã quá nhàm.

Chợ rất tự do, ai có tiền muốn mua gì cứ mua. Không cần biết anh là bần cố nông hay địa chủ. Vì vậy cô con dâu của ông thủ bản cũng chen vào mua được cho cha chồng một bộ đồ lính và cô một chiếc áo đầm để mặc tạm. Gan nhất và lì lợm nhất, trông trước ngó sau, cô mua cho ông cụ một chai rượu tây mà trong suốt bao nhiêu năm cứ đến giỗ tết là nghe ông nhắc đến một cách thèm thuồng. Cô cũng mua thêm hai hộp cá trích nghe nói rất ngon. Bao nhiêu đó cô phải mất đến cả thúng tiền tín phiếu. Ghé lại nhà ông anh rể cô cho anh một hộp cá để cảm ơn anh đã giấu giùm hàng và tiền. Rồi cô băng đồng mà về trong đêm tối.

Khi thấy những món hàng cô mua được, ông thủ bản mở to mắt như không tin là thực. Nhất là chai rượu. Ông run run cầm lên soi trước mặt, miệng lẩm bẩm: thế này là chết sớm đây, nó mà biết được thì chẳng còn đất sống. Nhưng đã mua rồi thì uống, sợ gì. Đúng là mày gan cùng mình! Dạ, cha cứ uống đi, có cá hộp đây, ngon lắm. Nói vậy chứ làm sao mà uống được bây giờ. Để ta kiếm cuốc đào lỗ chôn.

Ông mò mẫm một lúc trong góc tối, kéo cây cuốc, thò đầu qua lỗ nghe ngóng động tĩnh rồi mới chui ra. Ngó ra sân ra vườn trống trơn, ông thấy chôn chỗ nào cũng có thể bị bọn chúng tìm ra được. Suy nghĩ một lát, ông quyết định chôn ngay ở phía trước lỗ ra vào, tin chắc là chúng không thể ngờ. Ngày mai mình sẽ đổ nước trét cho láng rồi rải đất cát lên, ông nghĩ. Bỗng dưng ông mỉm cười trong đêm tối. Khi uống xong mình sẽ đái vào rồi vặn nút chai lại, giả bộ sao có vẻ khả nghi để nó khui lên. Khà khà. Cứ uống cạn đi, đồ khốn nạn!

Đêm hôm ấy ông đã ăn một miếng cá trích ngon nhất trần đời. Cả xương và thịt cá tan trong miệng thấm dần trong cổ ngọt không chịu được. Quả thật, ông thèm một ly rượu nhưng sợ quá. Chỉ cần nghe mùi rượu là nó phá vách ra lục tung cả nhà. Chết thì không sợ nữa rồi, nhưng nó lấy mất chai rượu thì tiếc lắm. Ngày trước mỗi khi đi xuống Qui Nhơn, chỉ cần một xâu nem một chai rượu là đủ vui ngất trời. Thuê một chiếc xe kéo chạy khắp phố phường cũng chưa hết một đồng. Không biết tiếng Pháp nên chẳng biết chai rượu đó tên hiệu gì, nhưng cứ rượu Pháp là nhất rồi. Sao cái thằng giữ kho chiến lợi phẩm lại đem bán, ngu dữ vây. Nhưng chắc không ngu đâu, nó có cả đống, giả bộ bán vài chai rồi nói hết, ai biết. Chà, truởng kho chiến lợi phẩm, đúng là to hơn cả kho gạo.

Nhiều năm qua, chưa bao giờ ông thấy hả hê sung sướng như lúc này. Không có một giọt rượu nào nhưng ông lại thấy lâng lâng. Ông bỗng ư ử hát một câu hát khách và đánh trống miệng thùng thùng. Ông hứng chí đứng lên, khoành tay giả bộ vuốt râu, cung chân lên, liếc mắt hát bài tẩu mã. Cô con dâu đứng xem, khen cha hát hay quá. Ông nói, dân Bình Định mà, ta hát thì dở, nhưng cầm chầu được lắm. Tụi đào kép rất thích. Đánh chầu mà cứ nện vào trong miệng như mấy thằng khác thì thế nào cũng bị chửi.

Quái, ông nằm trên võng nghĩ, sao của thằng Pháp thứ gì cũng ngon vậy, không có cách gì khác hơn hay sao mà đánh nhau với nó. Mai mốt tới đây, nội cái món cá hộp của nó cũng đủ làm cho tụi du kích quăng gậy đầu hàng. Ờ, mình ráng sống tới ngày đó. Mình có làm gì đâu mà phải sợ. Nhưng thằng con của mình hơi mệt à nghen. Sao nó biệt tăm không tin tức gì về nhà hết. Ngay cả mẹ chết mà nó cũng không về. Không chừng nó bị bắt làm tù binh và đợi chờ trao trả. Cứ còn sống là được. Tù binh mà có cá hộp ăn thì cũng sướng chán! Ông lơ mơ muốn ngủ.

Bỗng bên ngoài có tiếng quát: mở cái lỗ chó chun của nhà mày ra! Ông và con dâu vùng dậy hợp sức đẩy cái rương. Một cây đuốc mù mịt khói thọc sâu vào. Lê thị Cư đâu, mau chui ra đây. Cô con dâu run rẩy ôm lấy vai ông. Ông nói, giờ này ra làm gì? Cãi hả. Nó bị bắt biết chưa. Ông cũng run, không phải vì sợ mà vì giận, Nó làm gì mà bị bắt. Không làm gì cũng bị bắt biết chưa. Ra mau! Ông đành phải gỡ cái đầu của con dâu đẩy nó chui ra. Ông cũng ra theo, nói để trấn an: không sao đâu. Con có làm gì đâu mà sợ.

Bọn du kích đẩy cô đi, mất hút vào bóng đêm. Chỉ còn nghe xa xa có tiếng khóc.

Cơn giận làm cho ông đứng mãi giữa sân không chịu vào nhà. Sao dễ dàng như vậy, còn hơn bắt một con heo trong chuồng. Chẳng lẽ đi mua đồ chiến lợi phẩm cũng bị bắt sao. Nếu thế phải bắt cả làng. Hay là có ai đó thấy nó mua chai rượu. Ờ cỡ như mình mà mua rượu là không được rồi. Nhưng chắc không phải, nếu biết thế thì chúng đã lục tung lên rồi. Vậy thì bắt vì cái gì. À mà như chúng vừa nói, không vì cái gì cũng cứ bắt. Ông bỗng giật mình: nhỡ nó đem đi cho mò tôm thì sao? Lẽ ra mình phải đi theo. Muốn giết phải giết cả hai mới bịt được miệng. Nghĩ thế ông vội vàng chạy ra ngõ. Theo hướng tiếng khóc, ông chạy tới trụ sở ủy ban, giờ cũng giống như một bót cảnh sát.

Cô con dâu được đưa đứng trước mặt mụ Thảnh. Và đây là những lời xét hỏi.

–          Mày đi Vân Sơn mua gì?

–          Chiến lợi phẩm.

–          Ai cho phép mày mua?

–          Ai có tiền thì mua, không cấm.

–          Tiền mày để đâu nhiều thế?

–          Để đâu mặc tôi. Tôi không ăn cắp của ai.

–          Mày ăn cắp của nhân dân.

–          Tôi buôn bán.

–          Buôn bán là ăn cắp.

–          Bán chiến lợi phẩm cũng ăn cắp à.

–          Khác. Đó là lấy của giặc, bán cho dân. Chứ không phải như mày lấy của dân bán cho giặc. Mày phải nôn mửa hết những gì lâu nay mày ăn cắp của dân thì mới được thả ra.

–          Tôi chẳng có gì phải mửa hết.

–          Thì nhốt. Anh em du kích đâu, giam nó lại.

Thế là con nhỏ gan lì cứng đầu ấy bị đưa vào cái miễu bỏ hoang bên cạnh. Ông đứng một lúc rồi đành đi về. Phải nghĩ cách gì đó chớ không thể làm ầm ĩ lúc này. Chồng nó đi bộ đội, dù là con nhà địa chủ cũng chưa ai dám giết nó. Hay là lên Đập Đá gặp thằng anh rể nó, có bao nhiêu tiền gánh đem về nộp thế mạng cho rồi. Nghĩ vậy, không cần về nhà, ông băng đồng đi ngay trong đêm dù lúc ấy đã quá khuya.

Bao nhiêu vốn liếng của nó quả là gửi cho bà chị ruột giữ. Khi nghe nó bị bắt và nghe chính ông là cha chồng nó định đem tiền về chuộc mạng, bà chị và ông anh vừa khóc vừa khiêng tiền ra. Ông anh nói, hay là chú để cháu gánh cho, nặng lắm. Ông nói, gánh được. Không sao đâu. Tôi còn khoẻ lắm mà. Nói thế chứ ông cũng cảm thấy oằn lưng vì mấy chục triệu tiền tín phiếu. Tiền nhiều như vậy đó, cứ hai gánh tỏi là một gánh tiền!

Y như rằng mọi sự từ mắng chửi, bắt bớ, đấu lý đấu lực cũng chỉ để lòi tiền ra mà thôi. Khi một gánh tiền nặng quằng đặt trước mặt ông công an Khứ và bà chủ tịch phụ nữ Thảnh là con nhỏ được thả ra ngay. Bọn họ chỉ thòng một câu đẩy đưa: về lo làm ăn đừng buôn gian bán lận nữa.

Hai cha con trở về, mệt nhoài chui vào hang, nằm vật ra ngay trên nền đất lúc này giống như nền xà lim. Những sự việc cả vui lẫn buồn dồn dập suốt một ngày qua làm cho họ thấy người như bị kéo dài ra còn đầu óc thì kêu vo vo như đang nhóm lửa. Cuộc sống vốn dĩ khó khăn, ai cũng biết vậy nhất là sống trong thời giặc giã, nhưng không ngờ lại khó khăn như thế này. Mà đâu phải trời đất hay tây đen tây trắng gì cho cam, chỉ là những người cùng xóm với nhau. Mới đây thôi, khi chưa có phóng tay phát động quần chúng đấu tranh giai cấp, thì dù có không ưa nhau mấy, lúc gặp nhau vẫn còn hỏi đi đâu đó, còn nói dả lả vài lời chứ đâu có nghiệt ngã như lúc này. Còn hơn cả quan phủ quan huyện, y như cai ngục ở dưới chín tầng diêm vương.

Bên ngoài, không một tín hiệu nào báo trước, trời bỗng trút suống một trận mưa cùng với sấm chớp nhang nháng. Mưa xối xả, mưa ngọt ngào, mưa làm sống lại cả những người đã chết. Mưa giúp họ quên đi mọi tiếng quát tháo, quên tiếng hô đả đảo, quên đất đá ném vào nhà. Cả hai cùng chụm đầu nhìn nước chảy rồi bất ngờ chui ra khỏi hang nhảy tưng tưng như hai đứa nhỏ.

Họ tắm mưa!

Họ uống mưa!

Họ giỡn mưa!

Suốt mười ngày qua họ chưa hề biết đến tắm giặt. Chỉ có mỗi một bồ đồ cáu bẩn đầy mồ hôi  mặc trên mình lúc nhà cháy mà thôi. Họ khổ sở ngứa ngáy mà chẳng biết làm sao. Hôm nay, ông có một bộ đồ của lính ngụy, cô có một cái váy, tuy rộng thùng thình nhưng cũng có để mà thay ra giặt. Họ sung sướng để những giòng nước mát lạnh chảy tràn qua thân mình. Bao nhiêu tức tối, lo sợ, mệt nhọc đều bị nước cuốn trôi. Nước làm cho đầu óc họ trong sáng, da thịt tươi tắn như bông vải đang nở ra. Họ quên mất là cha chồng nàng dâu, té nước vào nhau rồi hét lên. Họ còn tinh nghịch đứng dưới mái hiên để nước mưa trộn đầy đất cát trên mái chảy vào người, rồi kỳ cọ như đang tắm bùn. Họ còn lăn lộn trên sân ngập đầy nước và tro của mái nhà đã cháy. Sau cùng họ đứng lên để nước từ trên trời cao tinh khiết rửa sạch cho đến khi cả người thấm lạnh mới chui vào nhà. Họ âm thầm cởi áo quần trong bóng tối rồi chui vào những bộ đồ mới mua rất lạ lẫm, rất buồn cười. Họ cuộn tròn trong đó như con nhộng trong lòng cái kén.

Ông thấy mình như sống lại bốn mươi năm trước đây. Hai anh em ông trần truồng chạy dưới mưa. Những giọt nước mưa ném vào người rát rát. Ông nhập bọn cùng với bọn trẻ trong xóm. Chúng nó cũng trần truồng, môi tím ngắt vì lạnh, chim đứa nào cũng teo đen như một hột mít lùi. Cả bọn rượt đuổi nhau, lăn lộn trên đường, há họng thét to mỗi khi có tiếng sấm, rồi sau cùng là nhảy xuống sông chia nhau nhận nước. Bốn mươi năm, mới đó mà xa quá xa. Sao mau quá. Nhưng chín năm lại khác. Lại rất dài. Hơn ba ngàn ngày, ngày nào cũng rất dài. Mỗi một ngày cứ như một kiếp. Mà kiếp người thì có đến cả trăm năm! Thôi đừng nghĩ lung tung nữa. Trời mát quá, ngủ!

Cô con dâu chưa ngủ nên không có tiếng nghiến răng. Nước mưa làm cho người cô như toả hương. Cô như bơi trong cái váy to lùng bùng. Cô kẹp tay vào giữa hai đùi cảm thấy mặt nóng bừng khi nghĩ tới chồng. Đã bảy năm xa nhau, cô gần như chẳng còn nhớ chút gì ở anh. Cái mặt nhiều mụn thì còn nhớ đấy nhưng chẳng có thú vị gì. Còn những thứ khác sao nó mơ hồ quá, ít ỏi quá. Môi anh? miệng anh? nói ra làm sao? hôn ra sao? cô quên mất!

Cô giật mình khi nghe có tiếng ngáy và lẫn trong mùi nước mưa có một mùi gì ngai ngái rất lạ làm cô nhắm mắt.

Trời vẫn tiếp tục mưa. Cái mái đất gọi là da cái đang bị bào mòn. Đã có một đội chỗ trôi hết khiến nước bắt đầu chảy xuống trong nhà. Cả một cõi nhân gian nhỏ bé là làng An Định với bao nhiêu xỉa xói hoạnh hoẹ, bao nhiêu đêm học tập, bao nhiêu ngày biểu tình, hô đả đảo đến cháy họng, hô kiên quyết đến hụt hơi, hết đào đường phá cầu đến tiêu thổ kháng chiến… giờ tất cả chìm trong mưa như trong một cơn đại hồng thuỷ.

Thôi mặc xác những gốc tre chẻ làm tư, mặc xác nhưng bãi mẻ chai, hãy quên, quên và ngủ, ngủ. Cha ngủ. Con ngủ. Và mong cho chúng nó cũng ngủ.

Ừ thì ngủ, nhưng còn những cái thùng thiếc, những cái mõ, những cái trống

Mặc kệ nó

Còn những thằng mặt dài như mặt ngựa

Kệ nó

Còn những con vú dài tận rốn

Kệ nó

Còn những Khứ, những Thảnh

Đã nói rồi mà, kệ mẹ nó

Nhưng nó là ai trong ngôi nhà này

Là con dâu

Sao nó nghiến răng dữ vậy

Cũng như mình ngáy thôi

Sao nó lại đi mua cái bồ sứt cạp đó mà mặc

Tối mặc ngủ chớ có đi đâu

Mặc thế nó có lạnh ở trỏng không

Lạnh ấm gì kệ nó

Nó muốn bắt chước mụ đầm lai đó à

Đã bảo câm họng lại ngủ đi

Ừ!

Ngủ!

Ngủ!

Cha ơi!

Cha ơi1

Tiếng cót két của bốn chân giường

Tiếng thằn lằn tắc lưỡi

Tiếng sột soạt gãi ngứa

Tiếng bánh xe sắt nghiến

Tiếng con dế kêu trong hang

Tiếng con cóc coọc nghiến răng

Tiếng đập bàn quát

Tiếng há họng ra la

Tiếng chuông của chùa Thiên An

Tiếng mõ của thằng mất dạy

Tiếng chuông bể kêu rè rè

Tiếng khóc thút thít

Và mùi xăng còn thấm trong các bức vách

Mùi đất khô tẩm nước mưa

Mùi đất nhão thành bùn

Mùi củi cháy

Mùi mồ hôi

Mùi của giống cái

Mùi của giống đực

Cha ơi!

Cha ơi!

Chương 4

Bão đầu mùa!

Con đường hầm mà bọn trộm đào từ bờ sông vào đến tận buồng ngủ, không biết chúng đã đào trong bao nhiêu lâu, nhưng ông bà thủ bản Khâm đã phải mướn đến năm lực điền dùng xe cút kít đẩy đất trong ba ngày mới lấp xong. Họ phải đổ đất và nén chặt từ bờ sông rồi lấp kín lòng hầm, chui xuống đó như bọn trộm, xong mới lấp cái miệng to như cái nia ở giữa buồng. Họ bảo phải làm như thế chứ không phải chỉ lấp ở ngoài bờ sông thôi như nhét một cái nút chai bằng cùi bắp. Chịu sao được với sức mạnh tràn bờ của nước lụt. Đó còn là một cách tránh không cho bọn trộm chui vào một lần nữa. Vì vậy, dù trời có sắp lụt, nước sông có tràn vào soi lên ngập đường, ông cũng không việc gì phải sợ.

Ông đã ngủ đến hai ngày đêm, một giấc ngủ có lẽ dài nhất trong đời. Cô con dâu thì đã dậy ngay trong buổi sáng hôm ấy và dùng nước mưa giặt áo quần cho chính cô và cho ông. Cái váy của cô quá rộng và quá dài khiến cô làm việc rất khó khăn. Nước bẩn bắn lên dính đầy những cái hoa to tướng in trên váy. Ông thủ bản không hay biết gì hết vẫn há họng ra mà ngáy to như kéo súc.

Trời mưa. Không một cây củi, một nắm than. Chẳng biết làm cách nào để nấu cơm, cô đành ngủ đói. Ngày hôm sau trời vẫn mưa và cha chồng vẫn chưa chịu dậy. Cô lại để bụng không mà ngủ thêm một đêm nữa.

Khi thức dậy ông ngạc nhiên thấy nước mưa lênh láng trong nhà. Ngạc nhiên hơn nữa là ông đã ngủ đến những 48 tiếng. Và, khi biết chính cô con dâu cũng phải ngủ đói vì không có chỗ và không có củi để nấu cơm, ông liền lấy rựa chẻ ngay một chiếc ghế đẩu làm củi. Cũng may là có một cái lò, ông liền đặt ngay lên mặt rương làm bếp, Ông bảo khi nào ngủ thì lấy lò xuống. Cơm nấu xong, chỉ có mỗi một thứ muối hột nhưng vì ai cũng đang đói nên ăn rất ngon. Mà lại ăn nhiều nữa, nấu đến những hai bơ gạo mà vẫn ăn hết.

Giờ không còn lo người mà lo trời. Phải làm sao chống dột đây?Tranh thì không có mà lớp đất trên mái đang tã ra nên nước và đất cứ theo những cái khe của những tấm mê bằng tre rơi xuống. Các bức vách ngoằn ngoèo những đường nước chảy và rải rác có những con sên dài và mỏng như cá thờn bơn lặng lẽ bò lên cao. Bàn thờ cũng ướt nhẹp và đầy sên. Các hộp đựng bài vị góc cạnh méo mó, đã lạnh lẽo trông càng lạnh lẽo hơn. Ông chỉ biết đứng nhìn, đành lắc đầu phó thác cho trời. Nếu cứ mưa mãi như thế này thì đến cả bàn thờ cũng phải chẻ ra làm củi mất!

Mưa gió đúng là nhếch nhác khó chịu thật. Mới có hai ngày mà như đã trải qua một mùa đông dài. Nhưng vẫn còn hơn nắng ráo mà phải chịu sự tra khảo của trống mõ thùng thiếc, những lời quát nạt của dân quân du kích, của ông Khứ bà Thảnh. Bây giờ vị trí cao nhứt là trời chứ không phải đội (cải cách). Bần cố nông cũng sợ lụt như địa chủ nào có khác gì. Dưới đảng thì có cấp nọ cấp kia chứ dưới trời chẳng có cấp nào hết, ai cũng như nhau, rất công bằng. Cũng có kẻ ác người lành đấy, nhưng giấu kín trong cuốn sách trời nào ai biết được. Nếu biết thì chẳng đứa nào dám ở ác.

Ông đẩy tấm ván chui ra khỏi lỗ. Nước mưa theo gió quất tới tấp vào mặt ông, lạnh buốt. Như thế này là sắp có bão rớt đây. Ở cái đất Bình Định này bão không chỉ thổi qua một lần mà cứ chà qua xát lại kỳ cho cây cối trốc gốc, nhà cửa đổ sập hết mới thôi. Nhà ông thì chẳng còn gì để sợ bão. Nhưng nếu cứ mưa mãi, lớp đất trên mái trôi hết thì  biết ở đâu bây giờ? Chẳng lẽ cả cha lẫn con đều chui vào trong rương!

Để khỏi nghĩ tới những cảnh kỳ cục, ông bèn chui vào lấy nón đi ra sông xem nước lụt. Đường luồng mới đó mà trâu bò đi lại đã làm cho nhão bấy, trơn trượt. Mọi nhà đều đóng cửa, nhưng cả xóm vẫn ồn ào. Những đứa trẻ mới hôm qua còn cầm mõ, thùng thiếc đi nghênh ngang gọi ông là ù lì, giờ trần truồng chạy đuổi bắt nhau. Có đứa thấy ông, đưa tay lên mặt vuốt nước mưa, nhe răng ra cười. Ông cũng cười lại. Dưới mưa tất cả bỗng dưng cùng vui vẻ.

Nước sông đục ngầu đang lên, đã ngập tràn bãi cát ở địa đầu thôn Trung Lương. Cái chòi của bà Sáu Chơi chỉ còn thấy hai mái bé xíu úp trong làn nước bạc như một chiếc nón rách. Hai mẹ con chắc đã đem nhau vào trú trong miễu. Ông nhớ nước đang xuống như thế này đơm kìm rất nhiều cá. Những con cá chạch mình dẹp như lá tre có ba cái chấm đen ở phần đuôi. Cái miệng bé tí của nó không thể nào ăn câu được. Chỉ có mùa lụt mới bắt được nó bằng cách cắm đó ở lưng chừng bờ sông. Người ta đặt cái đó ngược với dòng nước, dùng cọc tre dài kẹp hai bên, lấy cuốc đào một rãnh nhỏ để làm đường đi cho cá. Biết cách đặt và nếu gặp luồng, có khi cá chui vào đến nghẽn toi. Những con cá chơn láng như lươn không cần mổ bụng làm ruột, xỏ nguyên con vào lụi tre đem nướng sơ rồi kho với mắm cua chua, ăn với cải non cơm nóng trong khi trời mưa lạnh thì dẫu cá hộp của Pháp cũng không ngon bằng. Nhưng nước xuống nhanh và bất ngờ quá, không biết có ai đơm kịp không.

Ông đi qua cầu. Phía bên kia có một người đang đứng nhá. Không biết bần hay cố đây! Người ấy xoay cái áo tơi và cái nón về hướng gió để tránh mưa. Trông rách rưới quá. Gặp phải thủ ngữ Đực thì bỏ mẹ. Nhưng thủ ngữ Đực giờ này đâu thèm đứng nhá dưới mưa. Nghĩ vậy, ông liền mạnh dạn tới gần. Có khá không? Ông hỏi. Người ấy nói cũng được. Ông ngồi xuống bên cạnh. Té ra là biện Quế, một người cùng họ nhưng không cùng từ đường. Dẫu sao cũng là một chút máu mủ trong cái họ Phạm trôi nổi đến tận đây. Ông cũng hơi yên tâm, dẫu biết rằng trong cuộc đấu tố, nhiều làng cha con anh em chồng vợ tố nhau tưng bừng huống hồ là chỉ cùng một họ xa.

Ông ta kéo cái đụt đang ngâm trong nước lên khoe. Những con cá tươi rói nhảy choi choi phơi những chiếc vảy trắng sáng rất đẹp. Ông trầm trồ, nhiều quá, toàn là cá trôisốc không hà, thiệt là ngon! Biện Quế móc gói thuốc mời ông làm một điếu cho ấm còn ông ta thì cúi xuống bứt một cọng cỏ chỉ thật dài xỏ chừng năm con cá trôi  to đến nửa bàn tay. Cầm lấy đem về nấu bát canh, ông ta nói. Ông thủ bản ngần ngừ: để bán chớ. Bán chác gì, ông ta gạt đi.

Một lúc sau ông ta nói, thôi về đi. Ông hiểu ý đứng lên, nói lí nhí: cảm ơn.

Không ngờ, qua trận lụt này ông lại tìm được chút ấm áp nghĩa tình của ngày xưa tháng cũ. Có vẻ như mọi sự đang trở lại bình thường. Cái ao tĩnh lặng phủ đầy bèo cám bị quậy tung lên trong bao nhiêu ngày qua, giờ như đang lắng xuống.

Ông kêu cô con dâu ra lấy cá, còn ông đi rảo trong vườn tìm rau. Ông bẻ được mấy nhánh măng ở bụi trảy, tìm được mấy trái chuối mốc già, bứt một nắm rau răm, hái thêm mấy lá dấp cá, rồi kiếm vài trái ớt nữa là đủ. Canh chưa nấu ông đã thấy ngon. Vị ngọt của cá tươi, vị dắng của măng, vị chát của chuối, vị cay nồng của ớt và rau răm cọng với cái lạnh của bão rớt, ôi chao lại thêm một chén rượu tây nữa thì còn gì bằng. Chiều nay thế nào cũng khui chai rượu. Mưa gió thế này cho dù có là một thằng cha ưa rình mò thì hắn cũng chẳng dại gì chịu ướt át mà đến nhà mình. Hắn đâu có vì nước vì dân hết mình, hắn cũng phải vì vợ vì con nữa chớ. Hắn sẽ cơm no bò cỡi rồi ngủ tới sáng.

Ông kêu con dâu đưa cho ông cây cuốc. Ông chống cuốc ngó ra ngõ, nhìn lướt qua hàng dậu hai bên nhà, rồi cẩn thận đào. Chai rượu còn nguyên, ông liền đẩy vào bên trong, lấp lại cái lỗ, lại còn chà qua chà lại cho láng. Giờ ông thở phào, nhẹ nhõm. Ông nhớ hồi còn vợ, một con rắn lục không biết từ đâu nằm khoanh trên gác bếp, bà hốt hoảng la lên. Lúc đó ông đang cầm rựa vót nan, liền móc nó rơi xuống đất, nhanh tay chụp lấy cái đuôi cầm giơ lên cao. Ông lấy cái thạp, bỏ con rắn vào, đậy nắp lại. Rồi ông mua rượu ngon đổ vào, lấy rơm trộn đất sét đắp lên trên. Ông đem chôn ngoài vườn, đúng 100 ngày ra đào. Không ngờ cái thạp nứt, do con rắn quậy hay do cuốc ông chạm vào, mở nắp ra chẳng thấy rượu bách nhật đâu, chỉ thấy  có bộ da rắn nhầy nhầy. Chuyện đó khiến bà cười nhạo ông hoài. Bổ dương bổ thận đâu không thấy chỉ thấy có bổ củi!

–       Cơm xong rồi vào ăn chớ nguội, cha ơi!

–       Ờ, để ta rửa chân đã.

Ông ra giếng, nước lên tận miệng Ông chỉ cần lấy gáo múc chứ không cần gàu. Trời đã ngớt mưa nhưng gió thổi mạnh hơn. Những tàu lá chuối bị gió xé rách toang kêu lạch tạch. Những ngọn trảy cúi rạp mình xuống sát đất như một người điên đang xõa tóc quằn quại. Lá trảy rụng đầy vườn. Ông nghĩ, hết mưa sẽ chặt cả trảy trong vườn để làm mái, tạm qua hết mùa đông rồi hãy tính. À, phải làm một cái nhà nhỏ cho nó nữa chớ. Đâu có thể chung chạ như thế này mãi được. Ai đời cái từ đường họ Phạm giờ lại ra nông nỗi này. Lộn tùng phèo cả, đến nỗi bếp mà phải để trên giường nằm!

Bữa cơm nóng sốt được bày ra trên cái rương xưa. Vẫn còn cái lò bên cạnh và mùi thơm của canh cá bốc lên làm át cả mùi khói. Ông lại bàn thờ mò tìm cái tách uống trà bằng sứ men trắng. Ông nín thở vặn nút mở chai rượu. Một mùi thơm dìu dịu, mùi của nắng gió, sương tuyết tận trời tây chứ không phải mùi bùn đất cây cỏ nồng nàn ở trời đông. Ông run run rót những giọt rượu đầu ra chén. Một màu vàng nhẹ trong vắt như màu của nước trà thượng hạng. Linh thiêng và tinh khiết làm sao. Ông rất cảm động, vội đem chén đặt lên bàn thờ để mời người khuất mặt uống trước. Ông cũng đứng lên đánh đúng bốn mươi hai tiếng chuông một cách khoan thai dù chuông đã bị rè. Ông châm tửu đúng ba lần cho đầy tách, mô phật, rồi đem ra ngoài mâm cơm coi như đã cúng xong người chết để người sống hầu tàn.

Cô con dâu xới một chén cơm nóng, hai tay trịnh trọng để trước mặt ông. Cô so đôi đũa thật bằng, đưa cho ông cầm, miệng nói: dạ mời cha! Ông nói, ờ ăn đi. Ta uống một chút rượu trước đã. Ông bỏ đũa xuống mâm, nâng tách rượu lên ngang miệng, nghiêng qua nghiêng lại để ngửi mùi thơm, rồi rất nhẹ chạm môi vào cái thứ nước kỳ diệu mà suốt ba ngàn ngày mới được nếm. Ông lè lưỡi liếm môi, gật gật đầu. Ông đã nghe ra cái mùi vị không xa lạ của cái thời gọi là Pháp thuộc mà ông anh họ đi lính tây đã từng mang về. Nó êm ái đậm đà làm sao. Dĩ nhiên nó thơm ngon gấp mười lần rượu Bầu Đá. Ông chậm rãi cho rượu vào miệng như người ta rót nước mắm nhĩ vào chai, dù có giặc tới bên hông cũng không để mất đi một giọt. Khi đã đầy một ngụm, ông nhắm mắt nuốt và nghe cái thứ nước kỳ lạ đó như một con rắn lửa trườn êm qua cổ họng mình. Đi tới đâu nó đem lửa tới đó, một thứ lửa đầm đầm, êm êm làm thức dậy những niềm thương nỗi nhớ cũ tưởng chừng đã chết.

Cô con dâu đã ăn xong bữa, nhưng ông vẫn ngồi trầm ngâm bên tách rượu. Ông chỉ rẽ một chút cá chứ không và một miếng cơm nào. Ông bảo cô dẹp hết đi khiến cô ngạc nhiên hỏi: sao vậy cha? Cha đau rồi sao mà không ăn cơm. Hay là con nấu cháo cho cha? Ông bảo, đâu có đau ốm gì. Rượu này mà ăn cơm vào thì uống mất ngon. Cất đâu đó khuya đói ta ăn cũng được. Nói rồi ông bỏ chân xuống đất đi lại cái phản của ông. Cái đĩa dầu trên bàn thờ đã gần cạn. Trời đang tối và bão cũng sắp bắt đầu. Những tàu lá chuối đập vào nhau mạnh đến nỗi nghe như tiếng súng máy. Những đọt trảy quét sàn sạt trên mặt đất. Nhưng ngôi nhà với 16 cây cột cái  vẫn đứng vững. Những bài vị trên bàn thờ vẫn lặng im như những con cóc ngồi chờ kiến. Một sự tĩnh lặng gần như đông cứng khi cô con dâu dọn dẹp xong đã lặng lẽ leo lên trên cái rương xe nằm chờ giấc ngủ. Ông đưa chén rượu lên môi, uống một mình.

Ông đã uống đến một góc tư. Cứ cạn xong mỗi chén, ông nghĩ nên thôi, nhưng tay ông lại rót tiếp. Thực ra, ông muốn để dành chờ con trai về. Giờ nó đã lớn, ngồi uống với ông cũng được, đâu có lỗi phải gì. Sắp tới đây nó sẽ thay ông mà chăm sóc bốn mươi ba ngôi mộ và bốn mươi ba cái bài vị dù đã không còn tên tuổi nữa ngoại trừ tên ông. Cái nhà này có thể sập nhưng dòng họ Phạm nhất định không thể. Nó phải làm một cây cột cái vững chắc như ông. Có điều mai mốt phải đúc một cái chuông mới, to hơn, thanh hơn để nó ngân nga cho cả xóm cùng nghe như tiếng chuông ở chùa Thiên An vậy. Nhưng nó phải về mau mau lên để con vợ nó già rồi thì đẻ đái gì được nữa. Cuộc chiến tranh này ngoài những kẻ chết vì bom đạn còn có rất nhiều kẻ chết vì mỏi mòn chờ đợi quá lâu.

Ông tợp một hơi cạn chén. Thôi, lần này nhất định không uống nữa, ông dứt khoát đem giấu chai rượu dưới bàn thờ, cởi áo làm gối, ngủ. Ông thấy hơi rượu chạy lăng quăng như những đứa nhỏ lên ba. Chúng trần truồng, sạch sẽ, thơm tho đang nhảy múa trên bụng trên ngực ông. Rồi chúng bay chầm chậm lên trần nhà và mỗi đứa như có hai sợi dây đã buộc sẵn từ bao giờ nhẹ nhàng nâng ông dậy. Ông cũng thấy mình như đang bay là là trên mặt phản. Và trong vẻ mơ màng đó ông như thấy vợ ông tay cầm tổ chim sáo cùng bay ngang như thế, rất gần. Ông đưa tay ra với nhưng không cách gì chạm được. Ông như nghe tiếng bà trách ông đã già đầu mà còn sợ một thằng con nít. Ông định cãi, rằng đâu có phải chỉ già thôi đâu, ngay cả người chết, cho đến cả thánh thần cũng còn phải sợ nó nữa huống gì ông. Rồi ông lại mơ hồ nghe dặn thôi ngủ đi, đừng có mà nghĩ bậy bạ. Ông gật đầu và cảm thấy quả là mình đang rơi xuống trên một tấm nhung êm. Ông khép mắt và bắt đầu ngáy.

Tiếng ngáy đậm, mạnh đôi lúc kêu lụp bụp cùng với tiếng gió rít ở bên ngoài làm cho cô con dâu trằn trọc mãi không ngủ được. Ngôi nhà vẫn găm những cái chân xuống đất một cách vững chắc. Các trính và đà của nó vẫn ngậm chặt lấy nhau với những con mộng chưa hề xê xích đi một ly. Cái rương xe cô đang nằm trên đó cũng vững như đá bàn thạch. Vậy mà sao cô thấy cứ lo lo sờ sợ. Không như lúc bị giam ở miễu thượng. Dù nghe đồn có một con quỷ thả rơi từng cánh tay, từng ống chân, từng cái mình và đầu rồi ráp lại đứng lên… cô vẫn không sợ. Vậy mà giờ đây, cô tưởng chừng như cô thứ chín từ trên cây đà đó bước xuống, đưa tay mò mẫm trong bóng tối. Tay cô ấy đen và khô như củi, những móng lâu ngày không cắt dài ra và uốn cong lại như vuốt mèo. Rồi cô nghe tiếng ai như tiếng một người đàn ông kêu lạnh quá ở bên ngoài. Phải chăng đó là tiếng chú Sáu chết chìm. Và, sau cùng là bà mẹ chồng, tay vẫn cầm cái tổ chim, không biết bằng cách nào đã chui được vào nhà. Bà đang đứng sát cái rương cô nằm, kéo váy cô lên bảo đây là chỗ của bà. Quá hoảng sợ, cô kêu thét lên: cha ơi!

Cô đã kêu như một người sắp chết đuối và người được gọi lao tới như một người đang đi trên cầu thấy có người ngã xuống nước. Ông thấy trong tay mình không phải là một người ướt sũng nước mà là một thân thể khô ráo nếu không muốn nói là rất ấm áp. Ông vừa lay mạnh vừa hỏi: gì vậy, ngủ mớ hả? Dạ bão to quá, con sợ. Không sao đâu, ngủ đi. Dạ. Ông rời khỏi rương, về lại cái phản của mình. Ông đặt lưng xuống, cảm thấy cái phản cứng như đá. Ông nghĩ, mình sẽ mua một chiếc chiếu, ngủ ở trên phản cái lưng đau như bị ai dần. Cái võng thì chỉ nằm chơi chứ ngủ suốt đêm sao được. Nó làm cho cái lưng của mình cong vòng, còn tệ hơn là nằm phản.

Ngọn đèn trên bàn thờ cạn dầu đã tắt. Bão đã tới và đang túm lấy những mái tranh xác xơ của dân nghèo, như người ta túm cổ những con vịt đang kêu cạp cạp đem đi cắt tiết. Những tấm tranh bị bứt ra, bị ném tung lên như lông vịt vừa mới nhổ thả bay trong gió. Cả xóm bị ném ra khỏi nhà, hay là bị bão cướp mất nhà để họ kêu la khóc lóc giữa trời. Nhà ông lại khác, như một cái hang lộ thiên. Toàn đất và đất. Gió thổi phù phù mặc gió, ông vẫn cứ nằm yên mà chờ giấc ngủ. Không như bao người được vinh dự gọi là  bần cố nông ấy, lúc này trong đêm tối ướt át, đang hốt hoảng gọi nhau. Con tuyệt vọng gọi mẹ. Mẹ tuyệt vọng gọi cha. Cha tuyệt vọng gọi trời. Chẳng ai gọi đảng. Dĩ nhiên cũng không còn gọi địa chủ ù lì. Trước đây ông không thù ghét gì họ, nhưng từ khi đảng tập họp họ lại, bao vây và định tiêu diệt ông thì giữa họ và ông đã dựng lên bao nhiêu là gươm giáo. Nghĩ tới cảnh khổ của họ trong lúc này ông lại thấy sướng,  mặc dù ông biết rằng như vậy là bất nhẫn.

Ông chợt nhớ là mình chưa ăn cơm. Canh cá ngon thế nhưng rượu còn ngon hơn. Mình đã uống một bữa đã đời, ông nghĩ. Cái rượu này cứ như rượu bổ, uống vào thấy mát ruột chứ không cồn cào. Thằng Khứ và con mụ Thảnh biết được mình vẫn sang như tây, chắc ngày mai sẽ đem mình ra giữa cầu tố khổ rồi đạp xuống sông cho nước lụt cuốn đi. Mình có làm gì hại nó đâu mà sao chúng căm thù mình đến thế. Mà có phải chỉ mỗi một mình thôi đâu. Căm thù giống như một dịch bệnh xa lạ từ đâu lan tới. Hệt như bệnh sốt rét, ai cũng run lên vì căm thù mà không hiểu vì sao. Trước thì căm thù thực dân Pháp, phong kiến, tiểu tư sản, giờ căm thù can thiệp Mỹ, địa chủ ác ôn, phú nông ngoan cố. Căm thù đã trở thành thước đo của tiến bộ, của năng lực và dĩ nhiên là của lòng yêu nước. Yêu nước phải căm thù và căm thù là yêu nước! Bọn họ đã nói ra rả suốt ngày đêm như thế.

Đúng là con mụ đã đem ô trọc tới cái nhà này và làm cho tất cả cùng kêu lên kèn kẹt như bị quỷ ám. Bốn mươi hai cái bài vị đang nhảy loi choi trên bàn thờ và bốn tấm ván dưới lưng ông như đang chòng chành. Bão ngoài trời đã dịu đi nhưng trong ông bão lại nổi lên. Cũng có tiếng gió hú, tiếng thét gào, có tiếng kêu cứu. Ông định đánh một vài hồi chuông thì nghe có tiếng nghiến răng của cô con dâu. Tiếng kèn kẹt như nó đang nhai một cái gì đó trong miệng. Hình như đó là những miếng tai mỏng của ông. Thế mà ông lại không sợ. Ông ngồi dậy, định đi ăn cơm. Dù tối nhưng ông vẫn biết cái chạng để thức ăn đặt ở chỗ nào. Ông thòng chân xuống phản, bước qua ngạch cửa. Khi đi ngang qua cái rương ông lại nghe tiếng hai hàm răng siết vào nhau. Rõ ràng như nó đang ngấu nghiến nhai nuốt cho mau hết cái vành tai vô tích sự của ông. Ông dừng lại định lay vai nó. Ông đưa tay ra quờ quạng. Bàn tay của ông với năm ngón như những cái que cua lần đi trong hang, bỗng tần ngần dừng lại. Ông cảm thấy như ngạt thở. Và cũng như nó, ông cảm thấy như mình cũng đang nhai một cái gì. Ông cố nuốt vào cổ họng mình tiếng kèn kẹt vẫn cứ không ngớt tuôn ra.

Không phải đôi vai mà là đôi bàn chân với những ngón nhỏ và ấm. Ông đứng sát vào rương. Cái rương cao quá gối, trong bao nhiêu năm ông lạ gì nó, dù mấy ngày qua cứ xê dịch hết che cái lỗ ra vào lại dùng làm bếp nấu cơm. Ông nhớ mặt rương cũng bóng như mặt phản, cái nắp của nó đôi khi đậy không sát cũng kêu lên khiến ông giật mình. Ông nắm cái cổ chân tròn và nhỏ trong tay. Sao nó mỏng manh và vừa tay đến thế nhỉ. Mình chưa bao giờ được nắm một cái cổ chân như thế này. Con nhỏ vẫn đang nghiến răng như cắc kè trong bộng cây gõ nhịp. Ngày mai mình sẽ kiếm một con nhện chửa nướng cho nó ăn. Nghe nói ăn nhện nướng cũng hết nghiến răng.

Rất bất ngờ, vì chính ông cũng không ngờ được, ông bỗng chụp lấy một cổ chân nữa rồi kéo cả hai về phía mình. Cái váy rộng rũ xuống. Ông ôm hai cái chân dựng ngược áp sát vào ngực. Rồi ông lắc như điên như dại với tất cả căm thù, tất cả tủi hận, tất cả xấu hổ trong suốt những ngày qua. Ông cũng kêu lên, rít lên như những con mụ tố khổ, như bọn trẻ hô đả đảo, có lúc gầm gầm gừ gừ như thằng Khứ hỏi cung. Cái rương với bốn bánh xe bằng sắt rỉ cũng tới cũng lui và kêu kít kít. Ông đã bắt được kẻ thù giấu mặt và đang đánh nhau với nó. Ông thở hồng hộc, mệt muốn đứt hơi. Ông đánh mãi cho đến khi ông bắn vọt ra như xả một tràng đạn súng máy vào ngực con mụ Thảnh. Lúc đó ông mới bàng hoàng bỏ hai ống chân không phải của mình xuống đất.

Ông mò mẫm trở về chỗ của mình.

Ông không còn nghe tiếng nghiến răng nữa mà nghe tiếng khóc.

Khi đã nằm yên trên phản, tuy tối đen, ông vẫn trông thấy đứng trước mặt mình là ông em thứ sáu, cô em thứ chín và người vợ với cái tổ chim. Ông cũng thấy bốn mươi hai cái bài vị sắp hàng tư trên bàn thờ như rung lên giận dữ. Rồi mười sáu cây cột mà cây nào lúc nhỏ ông cũng đã từng leo tuốt trên cao tuột xuống như nhúc nhích muốn bước đi khiến những xà những trính của nó xệch xạc sắp rời ra. Giống như ông tổng Bá đang đứng trước nhân dân, có điều đây là một đám nhân dân yên lặng. Không tiếng nói, chỉ có mắt nhìn không thôi. Ngay cả cột kèo cũng có mắt nhìn, những con mắt to và buồn như những cái hố bom chưa được lấp.

Ông co gối lên tận ngực, hai tay ôm lấy đầu.

Như một thằng ăn cắp bị đem ra nọc trước sân đình.

Bên ngoài bão vẫn chưa dứt. Những đôi cánh to lớn của nó vẫn mang những đám mây sũng nước và tiếp tục trút xuống. Đất trên da cái nhão ra trôi tuột chỉ còn lại rơm mục không đủ sức cản nước mưa khiến căn nhà suốt mấy mươi năm khô ráo giờ ướt sũng. Nước chảy dọc theo mười sáu cây cột, theo bốn cái xà, tám cái trính. Nước chảy trên bốn vách bằng đất và vách xông bằng gỗ. Nước rơi tong tong trên mặt phản, trên mặt rương và trên bàn thờ với bốn mươi hai tấm bài vị. Bàn thờ bây giờ giống như một bãi tha ma thu nhỏ ướt át, dơ bẩn, lạnh lẽo. Cóc nhái, chuột bọ cũng bắt đầu chui vào nhà. Ngoài những con sên còn có cả những con trùn khoan, những con rít nhiều chân và cả bò cạp. Thỉnh thoảng có tiếng dế gáy lảnh lói như một tiếng cười lạc điệu. Ngôi nhà mỏi mệt cố đem cái sức tàn để giữ cho mười sáu cái chân khỏi đổ sụm xuống.

Nó thấy tiếc là không được chết chóng vánh trong ngọn lửa của quân thù.

Người con trai cuối cùng của dòng họ Phạm đã trở về sau khi tham dự cuộc duyệt binh mừng chiến thắng và quốc khánh mồng hai tháng chín ở sân bay Phù Cát. Đây là một cuộc biểu dương lực lượng hùng mạnh trước khi tập kết ra Bắc. Với một bộ đồ xita mới, một đôi dép lốp, một chiếc mũ nan bọc vải và lưới, một cây súng trường dài ngoằn, anh oai vệ bước đi trong hàng quân. Anh nhìn cái rừng người mặc toàn những bộ đồ đen bạc thếch, đang há hốc mồm trước những chiếc xe thiết giáp và những khẩu đại bác. Trong đám đó, ai là cha, là mẹ, là vợ? Sau chín năm, sao họ trông giống nhau đến như vậy. Cũng làn da khô đen như da người bị chết đói. Cũng đôi mắt sâu hoắm trõm lơ. Đàn ông, đàn bà và cả trẻ con cũng đều đội mỗi một thứ sờn rách như nhau là nón lá. Sự nghèo đói, sự thiếu thốn đã bắt họ phải đồng phục như đang sống trong một nhà tù không chấn song vĩ đại.

Buổi sáng hôm ấy họ đã hoan hô không ngớt khi trông thấy đoàn quân với những xe những pháo đi qua truớc lễ đài, dưới cái nhìn của các vị lãnh tụ từ Các Mác cho đến Kim Nhật Thành. Họ say men chiến thắng để rồi mệt mỏi trở về với xóm làng vẫn chưa nguôi hận thù trong những đêm đấu tố. Sự nhỏ nhen, ti tiện từ ngàn năm được thổi bùng lên và như những con gà ghét nhau vì tiếng gáy, họ lao vào đấu đá mà quên mất là đã bị bỏ rơi.

Thôi mặc họ, hãy về với gia đình.

Sau lễ, anh được phép về thăm nhà trong ba ngày. Anh nôn nao biết chừng nào Anh đi suốt đêm và khi trông thấy cái nhà không mái lạ lùng, ướt sũng nước mưa, anh như không tin vào mắt mình. Cha anh đã nói vắn tắt cho anh hay mọi sự nhất là cái chết của mẹ anh, ông chỉ nói bà cảm gió mà chết.

Buổi chiều, ông đem chai rượu bày ra trên thềm nhà vừa được quét dọn sau cơn bão. Ông bảo con trai ngồi uống với ông. Anh con trai bảo không biết uống. Ông nói rượu tây đấy, ngon lắm. Không biết cũng uống thử một chén. Anh ngồi đối diện với cha. Anh muốn nhìn khuôn mặt của cha mình sau chín năm nhưng ông nghiêng người quay nhìn ra ngõ. Ông nói, đi bộ đội có gì vui mà đến tận bây giờ mới về nhà. Anh nói, vui vẻ gì đâu. Đã lỡ đi là phải đi thôi. Với lại đâu có bỏ mà về được. Có mà đi tù. Vào đảng chưa? Ông hỏi. Có cảm tình nhưng chưa được, anh lắc đầu nói. Thôi đừng vào, ông thở dài. Sao vậy cha? Chẳng sao cả, ông cười buồn, vào để lại tố cha là địa chủ phản động à! Thành phần của nhà mình là địa chủ sao? Anh ngạc nhiên hỏi lại. Chứ còn hỏi gì nữa, nếu không có chuyện đi tập kết thì đã bị đem ra đấu rồi. Thôi uống đi, đừng hỏi nữa, buồn lắm. Ông dốc ngược chén lên, cạn một hơi. Anh đưa rượu lên mũi ngửi, cảm thấy rất thơm. Anh nhấm nháp như mèo liếm nước.

Mặt đỏ gay, ông lại càng không dám nhìn anh con trai. Phải như trước mặt mình là một người đàn ông xa lạ, ông nghĩ,  mình sẽ thú tội và để hắn ta muốn đâm muốn chém gì cũng được. Mình sẽ nói, chén rượu này là chén rượu tội lỗi, ta xin uống cạn. Nhưng đây là con trai của ông, nó đang ngồi vô tư trước mặt ông, nó có biết gì đâu và đang nóng ruột không phải vì rượu mà vì muốn được cùng vợ lên giường. Nói làm sao? Cha xin lỗi con à? Mình sụp xuống chân nó mà lạy như Tào A Man lạy Quan Công à? Bỗng dưng như trêu như ghẹo, nó hỏi: Mẹ mất rồi, cha có định cưới vợ nữa không đây? Ông nghe xương thịt mình kêu rôm rốp. Ông nói, hỏi gì lạ vậy… Thôi vào trong đó đi, ta qua chùa Thiên An thăm sư cụ. Ông đứng lên xách chai rượu một mình đi ra ngõ.

Ông quay lại nhìn ngôi nhà, nhìn anh con trai qua làn nước mắt, nói lớn: đi tập kết hả, ừ đi mạnh giỏi!

Đó là lần cuối cùng anh nhìn thấy cha mình. Không buồn, không vui. Nhạt nhạt cứ như chào hỏi một người hàng xóm.

Anh chui vào. Vợ anh đang quay mặt vào trong vách, khóc. Anh nằm xuống bên cạnh, lật ngửa nàng ra. Không nói không rằng anh trút tất cả nỗi thèm muốn căng cứng vào nàng. Anh cũng thả chìm vào đó những nỗi sợ hãi, những ước mơ thanh xuân và cả những bóng hình tục tĩu. Đây là trận công đồn mà anh thích nhất. Với lưỡi lê tuốt trần, anh lao lên phía trước. Anh sướng điên người khi nghe có tiếng rên rỉ của kẻ thù. Khi anh thầm hô xung phong thì cũng là lúc anh nghe hai tiếng “anh ơi” đắm đuối như một tiếng reo thắng trận.

Khi hai người trẻ trung khát khao chờ đợi đến những mấy ngàn ngày để bù đắp cho nhau thì mười sáu cây cột cái cũng muốn rung rinh, các xà trính cũng muốn lung lay và bốn mươi hai cái bài vị trên bàn thờ cũng muốn múa nhảy.

Ngồi tựa lưng vào cái cửa ngõ chưa bị phá của đình làng An Định, ông thủ bản ngó lên hai con kỳ lân hãy còn đứng vểnh râu. Ông nhớ tới  những ngày thần thánh cũ. Khi ấy với chức thủ bản ông đã đem hết cả tâm trí và đức hạnh của mình ra phụng sự đình làng. Ông coi đình như nhà mình, thuộc từng ngóc ngách, nhớ từng cái chén, cái đĩa, những cờ những phướn. Cái rương sơn đen đựng những tờ sớ, những sắc phong của triều đình được ông nâng niu gìn giữ còn hơn cả bốn mươi hai bài vị của nhà họ Phạm. Ông tận tụy như thế chỉ mong, khi chết đi được làng đưa tới mộ với cờ trống rập rình như trong lễ rước sắc thần.

Chưa được bao lâu thì đình bị phá. Rồi  những tai họa nối đuôi nhau giáng xuống: em chết, vợ chết, những cuộc đấu tố, những đêm trong ngôi nhà bít bùng như một cái hang, những tiếng nghiến răng trèo trẹo… và ta đã làm gì, có phải là ta đấy không? Có phải cơn bão hôm ấy tuy không xô ngã nhà nhưng lại xô ngã ta? Vì tiếng gió rít, vì tiếng thét gào đả đảo hay vì tiếng nghiến răng? Khi nghe hai tiếng “cha ơi” sao ta chưa tỉnh ra mà lại càng lao tới? Ta đần độn, si ngốc, dâm đãng, quay cuồng giữa bốn bức tường tối ám trong căn nhà âm u không có ánh mặt trời.

Ông cũng biết rằng sẽ có một ngày như thế, một ngày mà đứa con trai đứng trước mặt ông vừa là ông chủ vừa là quan toà, một ngày tất cả bỗng chói loà như cả cái mái bằng đất nặng nề bị ném sang một bên để trời xanh và nắng đỏ cùng trút xuống.

Một ngày mà cha phải sợ khi đứng trước mặt con. Một ngày như hôm nay là để cho ông, chính ông đấu tố ông. Cuộc đấu tố này mới thực sự khốc liệt, ông sẽ phải tự mình lột da mình, sẽ phải thực tình khai báo không phải trước nhân dân mà là trước bốn mươi hai cái bài vị trên bàn thờ của nhà họ Phạm. Ông sẽ bị đeo bảng trước ngực dong đi không phải trong làng mà đi vòng quanh bốn mươi hai ngôi mộ nằm lạnh lẽo trên tận núi Mò O.

Tu một hơi, nhăn mặt khà một tiếng, ông đứng lên.

Không thể được, ông nghĩ, không thể làm nhơ bẩn nơi này dù chỉ còn là gạch đá. Ông đi ra sông. Bầu trời sau cơn bão vẫn còn nhem nhuốc. Không một ánh sao.

Ông ngồi lại bên cầu nhìn xuống dòng nước. Ông nghe tiếng chuông chùa Thiên An ngân nga. Âm thanh của nó như được cán mỏng, rất mỏng trải trên mặt sông. Nó trôi là đà, mênh mang. Đúng là chỉ có nước mới rửa sạch được tất cả. Nước cũng sẽ ôm vào lòng mọi bất hạnh, mọi căm thù. Nước không đấu tố ai cả, nước là mẹ.

Rượu cũng là nước, một thứ nước rất tinh khiết vì được chưng cất công phu. Nhưng sao nó làm hại mình? Có phải nó pha trong đó cái sắc dục của những con đầm? Màu rượu là màu tóc của nó? Cái vị nồng nồng ngọt ngọt là thịt da của nó? Mả cha cái bọn thực dân. Chẳng những đốt nhà mình, chúng còn nhốt những con quỷ trong các chai rượu. Ừ, chỉ có thế mới hại được mình.

Mà sao mình cứ đổ thừa mãi thế. Mình phải chịu trách nhiệm chớ. Chẳng ai xui ai khiến mình cả. Tự trong mình nó muốn vậy thì phải làm vậy. Mình không nên đổ lỗi, lại càng không nên xin lỗi. Cái lỗi to như hòn núi Đất thì xin sao được. Ai mà gánh nổi đổ xuống biển giùm cho. Ông khổng lồ từ lâu đã không còn nữa.

Rượu hết. Ông định đái đầy chai đem bỏ trước nhà kẻ đã làm ông khổ nhục suốt mấy năm qua, nhưng ông lại thôi. Nó không xứng đáng được uống cái thứ nước đựng trong cái chai đẹp đẽ này cho dù đó chỉ là nước đái. Ông ném chai xuống sông, nghe một tiếng “bũm”. Chẳng còn gì để cho ông chần chừ. Phải vậy thôi. Người ta có thể sống mãi với lòng thù hận, với sự trí trá gian ác nhưng không thể sống mãi với lòng ân hận.

To hơn tiếng cái chai một chút, cũng một tiếng “bũm” vang lên khi ông gieo mình xuống con sông đầy nước. Lúc ấy, tiếng chuông chùa Thiên An đang trôi trên sông đã làm cho cái tiếng “bũm” mờ đi, bớt thô tục.

Hôm đó là ngày mồng ba tháng chín năm một chín năm tư.

Tiếng vọng

Hai mươi hai năm sau…

Một buổi chiều đầu thu, người thừa tự thứ 14 của dòng họ Phạm trở về. Đó là một ông già buồn hơn cả mọi ông già buồn của làng An Định. Ông mặc một bộ đồ màu cứt ngựa, mang dép nhựa màu nâu, đội mũ cối. Như bộ đội mà không phải bộ đội. Ông vác một cây gậy Trường Sơn, phía sau đu đưa một cái soong méo, một cái ấm sứt quai, một cái ca sắt. Ông đứng ở đầu làng, nhướng đôi mắt mỏi mệt về nơi ngày xưa ông đã được sinh ra trong tiếng chim ríu rít của vườn cau.

Ông nôn nao không biết có còn gặp lại cha mình?.

Ông bước gấp về phía vườn nhà.

Chẳng còn gì cả ngoài một đống đất đầy cỏ dại và những cây tảo nhơn, cây thù đâu.

Ông ném cây gậy xuống đất. Những ấm, những soong kêu loảng xoảng. Ông tháo ba lô con cóc trên lưng, ngồi tựa vào một cây cột còn sót lại. Ông lấy thuốc ra hút, thở ra những làn khói đậm đặc. Ông nghe lòng mình vang dội những tiếng kêu đau đớn.

Có một người hàng xóm già, khô quắt, ông Sáu Hủ thấy ông về ghé qua thăm. Ông ta kể chuyện làng bị đốt, dân làng phải chạy dạt lên chợ Bò và sau cùng hỏi:

–          Ra ngoài đó làm tới chức gì rồi?

–          Chẳng làm chức gì cả.

–          Đi tập kết mà sao không làm chức gì?

–          Con địa chủ, không chết đã là may, chức tước gì nữa.

–          Vậy làm gì để sống?

–          Chăn bò.

–          Sao vậy?

–          Thì chăn bò chớ sao. Nông trường giao chỉ tiêu chăn 5 con.

–          Cách mạng ngộ nhỉ!

–          Ngộ quá chớ còn gì nữa!

–          Cha cậu mất rồi nhưng vợ còn sống đó, về ở bên An Đông.

–          Vậy hả?

–          Cậu có một đứa con trai, biết chưa?

–          Một đứa con trai?

–          Ừ.

–          Mừng quá. Chắc tôi phải qua bên đó.

–          Ừ, đi đi!

Ngay tối hôm đó, ông lội sông qua nhà cha vợ. Biết ông đến, bà lánh mặt. Từ bên trong bà nói vọng ra:

–          Nó là dòng dõi họ Phạm đấy. Nhưng tôi không còn là vợ anh!

Khuất Đẩu

(Sửa lần cuối tháng 8-2013)

©T.Vấn 2013

Bài Mới Nhất
Search