T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Khuất Đẩu: Đọc Tro Tàn Rực Rỡ của Nguyễn Ngọc Tư

clip_image002

Hình – Courtesy of http://phannguyenartist.blogspot.com

 

“Lúc đó nửa đêm rồi, lửa cao ngọn lắm. Cao hơn đọt dừa. Tàn đóm tán loạn mỗi khi gió thổi qua quăng quật đống lửa. Mấy cây trúc ven vách chịu nóng không nổi, vặn xoắn lại trước khi nổ như pháo chuột. Lần này nhà không lợp ngói nên không nghe ngói nổ, lửa cháy coi bộ êm đềm”.

Bằng một giọng bình thản nếu không muốn nói là lạnh lùng, người đàn bà hai con ngồi rủ rỉ kể chuyện cháy nhà hàng xóm cho chồng mình nghe.

Chồng thì bảo: “lần nào cũng như lần nấy. Hay ho gì mà coi”. Nhưng vợ bảo mỗi lần mỗi khác. Và nàng tỉ mỉ phân tích: mỗi đống lửa mang một mùi khác nhau. Mùi những con mối cánh bén lửa, mùi lá mục, hay mùi nhựa khét xộc ra từ tấm bạt xóc nóc nhà và những sợi dây câu. Em phân biệt được đám cháy nào có mùi những con chuột bị nướng trui trên mái ngói, hay những cái trứng kiến quá lửa, đám cháy nào lẫn khuất mùi cơm sôi do Nhàn đang bắc nồi cơm lên bếp thì đằng trước Tam rê quẹt gas vào mái lá.

Hóa ra anh ta đốt nhà mình. Và đốt những 5 lần!

Đương nhiên anh ta say. Nhưng không phải vì say mà đốt nhà. Mà chỉ vì Nhàn mệt quá ngủ quên không ngồi chờ bên cửa, chỉ vì con chó hàng xóm sủa dữ quá, và Tam nghĩ “nó khinh ta”, hay vì cái rễ cây me tây gồ lên khỏi mặt đường làm anh ta vấp té.

Đọc tới những cái “chỉ vì” đó nhiều người sẽ kêu lên: Đúng là dân Nam bộ! Lúc nào cũng say xỉn, ngang ngược hết biết!

Nhưng Trời ạ, anh ta đốt nhà vì ghen!

Anh ta ghen vì cô vợ có hai mặt con với anh đã từng yêu người khác. “Phải khóc được thì tôi đâu có đốt nhà”, anh ta thú thiệt. Và, người khác đó chính là, chồng em đang nằm cuộn tròn như cái kén trên võng kia.

Cái bí mật đớn đau cả xóm không ai hiểu, cứ tưởng bọn họ bị mắc đàng dưới, khật khùng đốt nhà coi chơi. Chồng thì đứng nhìn một cách say sưa, còn vợ thì tỉnh queo, không khóc.

Nhưng người kể chuyện xưng em lại thấy ngọn lửa đó thật lộng lẫy, xáo động em đến cả mấy tháng sau. Em thấy mình chính là Nhàn kia, một con đàn bà thèm khát được chồng nhìn thấy.

Cứ như thế, câu chuyện cay xè được em bóc dần như những củ hành trong truyện của Gunter Grass, bóc để được chảy nước mắt. Cái nút thắt ghê gớm của câu chuyện mở ra như thể là tình cờ, chuyện nọ xọ chuyện kia thực ra là âm ỉ trong em rồi bùng lên còn hơn ngọn lửa đốt nhà của Tam, khi anh nấc lên và đổ sụp xuống da thịt nhễ nhại của em mấy tiếng Nhàn, Nhàn ơi! khi anh vùi em vào trong một đống rơm, vùi vào giữa hai đùi em nóng hổi.

Đúng là em cũng đang ghen. Còn ghen sâu, ghen dai dẳng, ghen nghiệt ngã hơn cả Tam. Tam say xỉn, mất bình tĩnh, có lúc đánh đập vợ nhưng em chịu nghèo cực ép từng trái chuối phơi khô để khi chồng về, em ngồi kể và kể, rất chi là ngọt ngào, rất chi là nhỏ nhẹ, nói như rót mật vào tai chuyện của người mà anh kêu lên Nhàn ơi, Nhàn ơi! em kể lê thê chuyện nhà cháy, mùi của từng con chuột nướng chín, của trứng kiến sém lửa, cảnh “người ta” đi khắp xóm xin gạo, cảnh bị chồng đá vào bụng để cho anh đứt từng khúc ruột như khi Thúc Sinh nghe Thúy Kiều đàn trước mặt Hoạn Thư.

Tam không khóc được nên phải đốt nhà!

Em không khóc được nên phải kể, vậy thôi. Em cũng đau đớn lắm, chứ có sung sướng gì đâu. Có điều thấy “người ta” tàn đời và anh thì đau khổ, em cũng được an ủi, hả hê. Em là vậy đó, đàn bà mà, thù dai một chút có sao đâu!

Một lần nữa người đọc lại bắt gặp cái ghen trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư. Không phải cái ghen ầm ĩ thô tục của những người đàn bà đổ keo dán sắt vào chỗ kín con điếm Sương hay ‘sát” đàn bà như Út Vũ, người chồng bị vợ bỏ theo trai trong Cánh đồng bất tận. Mà là một cái ghen bình thường ít nhiều được kìm nén, nên người ghen không bị khinh ghét, trái lại còn có thể cảm thông, tha thứ. Người bị ghen tuy đau hơn nhưng vẫn âm thầm chịu đựng cho đến khi không chịu đựng nổi nữa.

Ngòi bút của tác giả trong truyện này đã trở nên trầm tĩnh, sâu sắc hơn. Cách dựng truyện cũng được nâng lên một tầm cao, phải nói là thật khéo.

Truyện chỉ có vài ngàn chữ, tưởng là chuyện say xỉn, quậy phá ở miệt biển, không ngờ lại là chuyện tình cay đắng của hai cặp đôi đói nghèo. Tác giả không phân tích tâm lý, không mổ xẻ nhân vật, chỉ để em kể những chuyện tưởng không đâu vào đâu nhưng thực ra là có sắp đặt một cách kín đáo.

Thường, từ tình yêu mới đến tình dục, nhưng với em thì ngược lại, từ cái đêm anh vùi giữa hai đùi em nóng hổi, em đã yêu anh, yêu đến nỗi cái mùi tóc hơi tanh cá và khét nắng còn vướng vất lại trên võng đến cả tuần, hành hạ em tới ổ.

Yêu, ghen, thù và trả thù là chuyện của muôn đời, nghĩa là quá xưa, quá cũ, nhưng được tác giả phơi mở rất lạ, rất mới.

Khác với nhân vật xưng tôi trong Cánh đồng bất tận khiến cô bé Nương trở nên già trước tuổi, ở đây người kể chuyện xưng em, nghe thật ngọt ngào, nhún nhịn rất hợp tình mà cũng hợp lý.

Nhưng coi chừng, đó là cái tiếng em lạnh lẽo nhất trần gian kia đấy, tiếng em làm người chồng chết ruột chết gan. Cũng là tiếng em nhỏ nhẹ của một người đàn bà cô đơn thủ thỉ tâm sự với chính mình.

Một tiếng em buồn xiết bao!

Với một câu chuyện nỉ non như thế, nên giọng văn cũng rủ rỉ, tỉ tê, đôi chỗ đẹp một cách không ngờ như khi nói tới những phút giây không thể nào quên trên tấm thảm rơm, hay những con chữ ngộ nghĩnh trong tro tàn rực rỡ, trong khóe miệng đìu hiu

Không kỳ cục, xa lạ như trong Cánh đồng bất tận, không triết lý vẩn vơ như trong Gió lẻ, bốn nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư qua Tro tàn rực rỡ đã sống thực với nỗi đau của chính mình: lặng lẽ yêu nhau, lặng lẽ làm khổ nhau cho đến lúc chia lìa. Đó là những bi kịch muôn đời của những xó quê nghèo đói xa xôi.

Không phê phán, không kêu than, tác giả với ngòi bút đã trở nên thâm trầm sắc sảo, vẽ nên những cảnh buồn không chịu được. Không chịu được nhưng cũng phải chịu vậy thôi vì đó là cái góc khuất tối tăm của không chỉ một, hai mà rất, rất nhiều những cặp đôi như thế ở những nơi mà nhân phẩm của người nữ muôn đời vẫn là một cái gì  rất xa lạ.

Khi, chỉ một mình lên tiếng phê phán những nhân vật trong Cánh đồng bất tận, tôi đã từng viết:… với Nguyễn Ngọc Tư, xin cô hãy quay về với đồng đất tuy có mùi phèn nhưng vẫn thơm ngát hương rừng Cà Mau. Hãy bám rễ trên quê hương như rừng đước Năm Căn, hãy giữ vững bản lĩnh của một cây bút mạnh mẽ mọc lên từ đất như cây mắm cây bần, mặc cho những cơn sóng tâng tiu hay những cơn bão nịnh nọt.

Và, hôm nay, giữa đám tro tàn rực rỡ, cô đã trầm tĩnh quay về. Xin cảm ơn cô.

Khut Đu

 

©T.Vấn 2014

 

Phụ Lục :

(Nguồn : Viet Studies)

Tro tàn rực rỡ

Truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư

Lúc đó nửa đêm rồi, lửa cao ngọn lắm. Cao hơn đọt dừa. Tàn đóm tán loạn mỗi khi gió thổi qua quăng quật đống lửa. Mấy cây trúc ven vách chịu nóng không nổi, vặn xoắn lại trước khi nổ như pháo chuột. Lần này nhà không lợp ngói nên không nghe ngói nổ, lửa cháy coi bộ êm đềm. Không giống như cây rơm trước sân cháy bạo phát bạo tàn, nhà của Tam và Nhàn cháy rất lâu, ánh sáng của nó rọi xa đến tận từng nóc nhà của xóm Thơm Rơm.

“Cô lại bỏ chị em con Tí để chạy lại đó ? Đã nói rồi, hay ho gì mà nửa đêm lặn lội…”, chồng càu nhàu trong tiếng võng đưa kèn kẹt. Em ấn mạnh thớt gỗ trên vào trái chuối, hai bả vai ê ẩm. Hôm nay chắc lại mưa chiều, mớ chuối ép phơi không đặng nắng, thâm xịt lại dưới bóng mây cụm ba cụm bảy. Mùi mật chuối đặc sệt trong sân, đầu mũi em như ướt đẫm đường.

– Ông Tam đốt nhà phải đến năm lần rồi  – Em nhẩm tính bằng mấy ngón tay đen kịt mủ chuối.

– Thì lần nào cũng như lần nấy, mắc gì phải coi.

Không phải, chồng chưa từng nhìn thấy một đám cháy nào nên chẳng biết mỗi đống lửa mang một mùi khác nhau. Mùi những con mối cánh bén lửa, mùi lá mục, hay mùi nhựa khét xộc ra từ tấm bạt xóc nóc nhà và những sợi dây câu. Em phân biệt được đám cháy nào có mùi những con chuột bị nướng trui trên mái ngói, hay những cái trứng kiến quá lửa, đám cháy nào lẫn khuất mùi cơm sôi do Nhàn đang bắc nồi cơm lên bếp thì đằng trước Tam rê quẹt gas vào mái lá… Em có thể nhớ mồn một những lần nhà Nhàn cháy, nhớ bao lâu thì đám cháy rụi đi. Và tàn tro của chúng cũng khác nhau, ít dần ít dần, có khi gom lại không đầy hai thúng. Đám cháy đầu, nhà Nhàn còn trơ được bộ cột cái cháy xém và những mảnh ngói vỡ ám khói. Ngôi nhà tương đối khang trang đó, là quà ra riêng hai bên sui gia góp lại. Sau này, lửa nhấm nháp đến trơ ra nền đất rám mặt, vì nhà của vợ chồng Nhàn ngày càng tạm bợ. Nhàn cười, nói với em, “trước sau gì anh Tam cũng đốt, làm tử tế chi uổng công. Tụi này cũng đâu có khá giả gì”. Và cái tối vừa rồi, thứ dào dạt tan đi trong lửa, chỉ là cái chòi cột cặm, không hơn.

– Nhưng nó cháy lâu lắm, lâu nhất từ trước tới giờ.

Em nói, khi hai bả vai đau nhừ nhẫm lại gồng lên lần nữa. Trái chuối bẹt ra như một bàn tay xòe. Nghe cái mùi tóc hơi tanh cá và khét nắng của chồng phảng phất ở lưng. Mai chồng đi, mùi ấy còn vướng vất lại trên võng đến cả tuần, hành hạ em tới ổ.

Em thường kể lại mấy vụ cháy Tam gây ra, vì chồng không bao giờ chạy đến đó, kể cả lúc ghe biển vào bờ và chồng về thăm nhà. Tỉnh rụi và dửng dưng, như vợ chồng Nhàn chưa bao giờ là xóm giềng, bè bạn. Dù vậy, em lại nghĩ là chồng muốn biết chuyện Nhàn làm gì sau mỗi bận nhà cửa hóa tro than.

– Chị Nhàn không khóc đâu, tỉnh bơ luôn…

Bới tàn tích ra chỉ mấy cái nồi cà ràng còn nguyên vẹn, chị đi dài xóm xin gạo, mót mớ củi ngoài sân nấu cơm. Ăn cái đã, rồi sống tiếp. Tam không bao giờ ăn cùng, anh không đói. No nê thỏa thuê, bụng căng đầy lửa, anh ngủ đến cả ngày sau. Nằm vạ vật bất cứ chỗ nào.

Nhàn không bao giờ xin gạo ở nhà em, nhưng có lần hỏi mua ít lá dừa nước. Em bảo tụi mình với nhau mà bán chác gì, em cho, có mấy cây so đũa bên hè, chị đốn luôn đi. Nhàn nhặt nhạnh, kết lại cái tổ đủ hai vợ chồng chị chui ra chui vào. Nhìn chị kéo mớ lá về, đuôi lá quét lên cỏ một vệt ướt đẫm, em không làm sao nhịn được việc nghĩ đến kết cuộc của chúng : một đống tro than. Ý nghĩ ấy nếu biến thành lời người ta sẽ cho em là đứa ăn nói xui xẻo, trù ếm. Nhưng ở cái xóm Thơm Rơm này, ai mà không biết Tam say xỉn suốt ngày, và những lúc ấy anh ta hay lên cơn tủi thân. Chỉ vì Nhàn mệt quá ngủ quên không ngồi chờ bên cửa, chỉ vì con chó hàng xóm sủa dữ quá, và Tam nghĩ “nó khinh ta”, hay vì cái rễ cây me tây gồ lên khỏi mặt đường làm anh ta vấp té.

– Phải khóc được thì tôi đâu có đốt nhà. Tam phân trần, mặt hiền queo xẻn lẻn.

Má Tam bảo Nhàn bỏ thằng trời đánh phứt cho rồi. Bây muốn ở vậy thì ở với má, bằng không lấy chồng khác má cũng cúng heo ăn mừng. Chị kêu trời đất, con mà bỏ ai cất nhà cho ảnh đốt, lỡ đốt nhà hàng xóm, kỳ lắm. Bà già đó thở hắt ra, điệu bộ của ông thầy lang đứng trước con bệnh không thuốc chữa, sau khi dỗ dành chúng tôi đã cố gắng hết sức. Từ phát hiện ra chồng có thể tủi thân chỉ vì cọng cỏ, ngọn gió chướng, tiếng chim kêu nước… Nhàn mang gởi những thứ chị nghĩ là cần thiết, để lúc lửa bén nóc nhà chị chỉ cần vơ lấy cái kẹp tóc, rồi lách mình khỏi đám cháy sắp bùng lên, chị kiếm một chỗ ngồi nhìn Tam.

Nhưng trong mắt Tam chỉ có đám cháy rực rỡ. Không có Nhàn. Như mọi đàn ông ở cái xó quê này, họ thường không còn nhìn thấy vợ mình chỉ sau đám cưới vài ba tháng, nhiều lắm là vài ba năm. Có khi đứng, khi quỳ, giữ một khoảng cách vừa phải với lửa, Tam say đắm, tê mê ngắm chúng cho đến khi những cái lưỡi đỏ khát thèm liếm láp đến mẫu gỗ cuối cùng. Vẻ mặt rạo rực đó là của một con người khác, không còn là thằng Tam nghèo, chịu nhiều mất mát. Xóm giềng hồi đầu còn xúm lại tát nước cứu nhà, rồi thấy thằng chồng say sưa đứng ngó mái lá bị lửa ăn rào rào, và con vợ thì đắm đuối nhìn chồng, cả hai không có vẻ gì xa xót. Bà con nản, “thôi kệ cha cái tụi mắc đằng dưới, nghèo mạt rệp không lo, đốt nhà coi chơi là sao là sao là sao ?”

Em cũng đến đám cháy như một người coi hát. Vở tuồng của những con người đổ nát. Hồi con Tí còn nhỏ, em bồng nó theo, rồi kệ nó ngủ trên tay, em ở đó cho đến khi lửa rụi tàn. Thứ ánh sáng lộng lẫy đó xáo động em đến cả mấy tháng sau. Em thấy mình chính là Nhàn kia, một con đàn bà thèm khát được chồng nhìn thấy.

Em, chồng và Tam, Nhàn cưới nhau cùng năm. Tam và Nhàn cưới trước, hai bảy tháng hai. Em nhớ vì đêm hai sáu đi đám đãi bạn ở nhà Nhàn về, em và chồng (lúc ấy chưa gọi là chồng) cùng say, ngọn đuốc trên tay anh lắc lư trên con đường xóm. Rồi tự dưng anh dừng lại, nhìn em mê dại. Cái nhìn ngây ngất và bừng cháy ngay cả khi anh quăng con cúi xuống sông. Tàn đóm lịm trong làn nước tối thẫm. Một cách dứt khoát, anh vùi em vào trong một đống rơm, vùi vào giữa hai đùi em cơn cơn nóng hổi.

Năm đó em mười bảy tuổi, bốn tháng sau mới biết mình đang mang bầu. Suốt từ cái đêm nằm trên rơm đến khi bụng em phình ra không cứu vãn được, anh không gặp em. Anh ngoắc tàu đò ra cửa Gành Hào đi bạn cho ghe biển. Chán ruộng đồng rồi, ra chơi với biển, anh bảo vậy. Chắc nụi, như một lời thề. Như một cuộc trốn chạy. Một bữa má anh nhắn tàu đò kêu thằng con về gấp. Về cưới vợ. Bụng con nhỏ chang bang rồi. Chắc anh mất nhiều thời gian mới nhớ ra con nhỏ mà má nói là em, nhớ ra một đêm tối trời, say, đuốc chìm trên mặt nước, và mấy cọng rơm cứ cọ vào bẹn nhột ran.

Đám cưới rước dâu bằng cửa sau, em lủn tủn tròn quay với cái bụng đội áo. Cái khác biệt duy nhất mà đám cưới mang lại là em chuyển sang nhà chồng sống, phụ mẹ chồng ép chuối phơi khô, bán cho thương lái. Chồng lại đi biển. Em nối xứ Thơm Rơm vào chồng bằng những câu chuyện kể, lúc hết con nước, chồng về. Ờ, cái hôm em sanh con Tí, trăng sáng lắm, nằm trên xuồng ra trạm xá, em cứ nghĩ chắc là đẻ trên xuồng. Con nhỏ thiệt lì, láu ăn nữa, đem ra là mút tay chóc chóc. Em lo là mẹ lẫn, hôm rồi lấy dầu lửa nhỏ mắt, gần đui. Chị Nhàn sinh đứa thứ hai hơi khó, em bé chết lưu. Em đi thăm thấy chị cứ nằm co, kệ sữa ướt đầm đìa áo. Ông Tam dạo này hay nhậu.

Em kể và kể, vờ như bâng quơ, chuyện nọ xọ chuyện kia, như nhớ gì nói nấy. Như không phải em ấp ủ từng đêm trên cái giường trống hoác, những gì nên kể, những gì mà em nghĩ chồng muốn biết nhất. Chúng làm chồng muốn về nhà, để nghe. Cũng vài ba lần em hy vọng một vài câu chuyện nào đấy sẽ làm chồng nhìn em ngây say như tối ấy, cái nhìn mà vì nó em đã không kêu khi lưng trần chìm lút trong tấm thảm rơm. Cả khi anh nấc lên và đổ sụp xuống da thịt nhễ nhại của em mấy tiếng Nhàn, Nhàn ơi. Em không kêu, chỉ tự gỡ mấy cọng rơm trên tóc, tự cài cúc áo, và lẳng lặng về. Ngồi đòng đưa trên cây khế mỗi khi thấy thèm chua, em nhấm nháp cái ánh mắt nóng rực kia, dù biết vốn cũng không phải vì mình và cho mình. Nhưng có sao đâu, đêm đó bóng em in mắt anh, trọn vẹn. Ý nghĩ đó làm em không khóc cả khi ba em bắt nằm dài ra bộ ngựa đánh bằng bất cứ gì ông vớ được trong tay. Lúc ấy bụng đội lên làm người em không làm sao sát ván, đầu và chân như hai phía của bập bênh, nhừ nhẫm vì roi vọt.

Nhưng cái nhìn đó không bao giờ em còn thấy lại. Cả khi em nói anh ơi con Tí lại có em rồi, đạp mạnh lắm, chắc con trai. Mắt chồng vẫn tối, lạnh, sâu. Sau mỗi chuyến đi biển chồng về, tiếng võng lại  nghiến mòn đêm. Cho nhà có tiếng người, cho nó giống một gia đình đúng nghĩa, tiếng đàn bà nói rốp rẻn, đàn ông khạc nhổ và trẻ con cười, em lại kể chuyện, mong lấp đầy khoảng lặng. Má sưng phổi vừa nằm ở nhà thương huyện cả tuần. Cô giáo chọn con Tí đi thi viết chữ đẹp cấp xã. Thằng Lanh thì mọc được sáu cái răng. Hôm chị Nhàn vớt con Hoa dưới mé kinh lên, ông Tam đang gặt. Nghe người ta kêu, ông chạy về đánh Nhàn lăn ra đất, đạp túi bụi vào bụng chị, xong cứ ôm xác con không chịu buông.

Có hồi em thấy tuyệt vọng, đó là lúc em không biết nói gì lúc chồng về nằm cuộn trên võng như chui vào kén. Tẻ nhạt hết sức nói cái xóm Thơm Rơm này, nơi những người đàn ông ngập trong rượu và mối lo thất mùa rớt giá, con cái ốm đau; nơi những người đàn bà suốt ngày cắm mặt vá víu những chỗ rách trong nhà. Chị Nhàn ít ra đường, em không thể tả cho chồng nghe giờ chị ốm hay đen, ăn mặc như xưa hay rách rưới, vẫn cười hay khóe miệng đìu hiu.

Rồi Tam gây ra đám cháy đầu tiên. Người ta vẫn nhắc về nó như một sự kiện lớn của xóm Thơm Rơm, ngay cả khi chiến tranh cũng không thấy cháy lớn như vậy. Cháy trụi. Không còn gì. Những đám cháy sau này không gây ấn tượng sâu sắc cho họ nữa, nhàm rồi. Ngọn lửa chỉ khuấy đảo cái đời sống bình lặng và tù đọng của họ được một lần đó thôi. Chỉ mỗi em quan tâm, mỗi em biết không đám cháy nào giống hệt đám cháy nào.

Chị Nhàn đi đâu thấy có cái cây nào cặm cột được đều vác về quăng xuống ao ngâm, biết thể nào cũng xài tới. Những chi tiết này, chắc em đã kể nhiều lần, cái khó nhất là giữ vẻ bình thản. Ông Tam vẫn thường lang thang ngoài đường lúc nửa đêm, lè nhè chửi rủa chiếc xuồng vuột dây trôi mất, chửi đom đóm, chửi rạ rơm vướng chân.

– Nhưng sau lần cháy này, ông Tam sẽ không đốt nhà nữa.

Em cố giấu nỗi tiếc nuối với cái ý nghĩ, từ giờ mình chẳng còn vụ nhà cháy để kể. Điều đó có nghĩa chồng không về nữa, biết đâu. Ngồi kỳ cọ bàn tay đầy sẹo, trong nỗi đau đớn và nhẹ nhõm, trong cái trưa Thơm Rơm thẳng căng vắng rợn, trong tiếng đập cánh của những con ong vàng sà xuống hút mật chuối đang tươm ra, với cảm giác cắt nhát kéo vào sợi dây diều, em nói với người đàn ông cuộn trong kén chi tiết cuối cùng,

– Nhàn đã không chạy ra khỏi đống lửa như mọi khi, anh à ! Không biết chị thấy mệt rồi hay vì nghĩ chỉ ở giữa đám cháy Tam mới nhìn thấy chị.

Bài Mới Nhất
Search