T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Tùy Bút Võ Phiến (1962)

Võ Phiến

Tùy Bút (1962)

clip_image002

Lại Thư Nhà

Tôi đã tìm ngược xuôi khắp hai pho sách Tục ngữ phong dao của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc mà không gặp thấy bốn câu ca dao ấy, bốn câu rất phổ biến ở miền quê tôi. Nói vậy, không phải tôi dám có ý trách nhà học giả quá cố đã không chú ý đến các sáng tác văn chương địa phương: văn chương thiệt là một chuyện tao nhã, nhưng không phải lúc nào ta cũng có dịp nghĩ đến chuyện ấy. Điều tôi muốn tìm tòi trong sách khảo cứu của cụ Ôn Như chỉ là món mắm cua chua, một món ăn bình dân.

Ở quê tôi, ngày còn nhỏ tôi đã nghe hát, và bây giờ thỉnh thoảng về thăm lại xóm làng tôi vẫn còn nghe:

“À ơi… i… i… Gió đưa ông đội về Tàu,

Bà đội ở lại xuống bàu bắt cua

Bắt cua làm mắm cho chua

Gởi về ông đội đừng mua… à tiền… tốn… ờ tiền”.

Câu hát đó không lọt được vào tai cụ Ôn Như.

Khi nói đến chuyện ăn uống mà có lẫn lộn với văn chương thì phải nhớ tới Tản Đà. Tôi bèn hướng tất cả hy vọng về phía nhà thi sĩ giang hồ này. Nhưng Tản Đà đi từ Bắc vào Nam, thưởng thức món ngon vật lạ khắp nơi, trong thi phẩm của người có câu nhắc đến rau sắng chùa Hương, có câu nhắc đến hà tươi cửa biển Tu-ran, có câu nhắc đến chén mắm Long Xuyên, chén cà Nghệ An, lại có câu nhắc đến vị cá tra Sài Gòn, sơn dương sò huyết Hòn Gay, cá đối Đồng Sành, lợn rừng Giáp Lai…, mà tuyệt nhiên chẳng có câu nào đả động đến mắm cua chua. (Bước đến gần miền tôi, bỗng nhiên người nói lảng sang chuyện khác, những chuyện văn hóa và những chuyện không thuộc về văn hóa, chuyện:

“Tuồng Bình Định, rạp Phú Phong”

và chuyện:

“Đa tình con mắt Phú Yên”…)

Không có trong sách biên khảo của cụ Ôn Như, tất nhiên món đó không phải là một thứ tài liệu nghiên cứu đáng kể; lại không có trong thơ của Tản Đà, nó cũng không có giá trị nghệ thuật nữa. Một món thực phẩm xoàng đến như thế mà tôi vẫn tha thiết, vẫn mơ tưởng đến chuyện được người này người kia biết tới, vì nó là món ăn rất được quí chuộng trong đám dân nghèo ở chỗ địa phương mình, đến nỗi — nói một cách văn hoa — nó tựa hồ như là một món thực phẩm tiêu biểu đối với quần chúng địa phương. Đi ra ngoài một tỉnh phía bắc hay đi quá vào nam một tỉnh, đều không còn thấy có món ăn ấy nữa.

Món ăn tiêu biểu này làm bằng cua đồng. Cua đồng thì ở khắp nơi trên đất nước Việt Nam chừng như nơi nào cũng có. Nó có thể dùng làm thức ăn bằng nhiều cách khác nhau: có thể nướng, có thể um, có thể giã ra nấu canh chua, có thể làm mắm, hoặc nước mắm, hoặc mắm xác, hoặc mắm chín v.v… Nhưng chỉ riêng thứ mắm cua chua mới có tính cách địa phương.

Cua bắt về, người ta rửa sạch, giã ra, vắt lấy nước, đổ vào hũ, cho thêm muối vào, rồi đem hũ ấy vần bên cạnh bếp lửa trong vòng ba ngày ba đêm. Thế là xong. Thế là có thể gởi về Tàu! Nhưng than ôi! nó chỉ có thể gửi theo máy bay mà thôi. Bởi vì ngoài đường hàng không ra thì gửi cách nào khác, bằng đường thủy hay đường bộ, đều e rằng nó không về đến xứ Trung Hoa đủ sớm để kịp dùng. Thứ mắm cua chua chế tạo theo cách thức như trên, mặc dù kỹ lưỡng đến bực nào, cũng chỉ có thể dùng gấp trong một thời gian ngắn: để lâu ngày nó sẽ thối inh lên. Thực là khổ tâm cho bà đội có tính tiết kiệm, tôi không hiểu xưa kia bà có nghĩ chăng đến mối trở ngại về kỹ thuật ấy.

Trong phương pháp làm mắm cua chua được đời đời truyền lại có những chỗ mơ hồ, khiến cho phương pháp ấy hóa thành một thứ bí thuật. Giã một cân cua phải pha bao nhiêu lít nước? mỗi lít nước bỏ vào bao nhiêu muối? Đối với những chi tiết như thế không có sự chỉ dẫn nào rõ rệt; khi vắt nước cua người ta chỉ được chỉ vẽ: “đặc một chút” hoặc “lỏng hơn một chút nữa”, khi cho muối vào chỉ có những lời khuyên: “nặng tay” hoặc “nhẹ tay một tí”. Thế thôi. Vì vậy khi vần hũ mắm bên đống tro lòng cứ phập phồng không biết được kết quả sẽ ra sao. Sau một ngày đầu, thỉnh thoảng đã phải mở nắp hũ ra, hoặc để ngửi thử mùi mắm, hoặc để rót ra xem màu mắm, hoặc để nếm thử vị mắm, rồi tùy nghi quyết định có nên thêm muối nữa chăng. Rất nhiều khi qua một vài ngày người ta đã gặp ngay triệu chứng không hay: mắm trở mùi, mắm không chịu đỏ màu mà cứ đen như mực tàu pha loãng, thế là hỏng. Nhưng biết được kịp thời thì không đến nỗi phải bỏ hũ mắm; ta có thể đổ vào trã mà kho, để làm mắm cua khai. “Khai” là một mùi bất nhã; mắm cua khai chẳng qua là một thứ mắm thành hình bất đắc dĩ, để cứu vãn một sự thất bại.

Bởi vì không có một cách thức rõ ràng minh bạch, người làm mắm cua chua nhiều khi không thành công. Mỗi lần hỏng như thế người ta liền tìm lý do: đồng này nhiều bùn quá nên cua làm mắm không đỏ; năm nay mưa muộn, cua bén chưa kịp lớn nên vỏ nhiều gạch ít… Nhưng lý do trọng yếu nhất là ở nơi bàn tay người làm. Người ta tin rằng có những bàn tay sinh ra để làm nên mắm cua chua, và có những bàn tay bất hạnh chỉ làm thối mắm mà thôi. Tôi hy vọng mối tin tưởng ấy được xếp cùng loại với những niềm tin cố hữu khác của dân tộc. Vì rằng chẳng riêng gì việc làm mắm, xưa nay người ta vẫn tin có những bàn tay trồng cây sai quả, những bàn tay nuôi heo chóng lớn, những bàn tay bốc thuốc mau lành bệnh, và những bàn tay nghệ sĩ, bắt được của trời, để dùng màu sắc mà thể hiện tâm tình lên khung vải v.v…

Vậy thì trong một miền nghèo cực như miền tôi nếu đa phần đàn bà sinh ra đều ao ước “bắt được” một bàn tay làm mắm cua chua, thì điều mơ tưởng ấy suy ra không có vẻ cao xa nhưng cũng tạm hợp lẽ. Cua sinh đã có mùa, rồi bắt được cua mà làm nên món mắm cho được ưng ý đã là khó, đã có sự rủi may, đã phải có sự góp sức của bàn tay trời, đến khi mắm có rồi mà ngày giờ dùng nó lại có hạn định chứ không phải bất cứ lúc nào cũng được: như thế trong cuộc sống cơ khổ của người dân nghèo ở đây sự thưởng thức này chắc chắn phảng phất có chút gì giống với chuyện thưởng hoa quỳnh trong một giờ của giới quyền quí.

Nói thế là không có ý gì muốn sánh mùi hương hoa quỳnh với mùi mắm cua chua, bởi vì mùi này còn tệ hơn mùi mắm cua khai một bậc nữa. Sở dĩ quần chúng gọi tên nó chỉ nhằm vào cái vị mà không nhắc đến cái mùi, tôi chắc là do ở mối cảm tình rất nặng đối với nó. Dùng mắm cua chua người ta thường dùng thực cay để cho giảm bớt mùi đi. Nhưng khổ một điều là ăn xong, uống nước xong, súc miệng xong, hơi thở của thực khách vẫn cứ còn nặng mùi. Mắm cua chua có tính là lưu xú rất lâu dài nơi người dùng. Bởi vậy dùng nó xong người ta phải đề phòng, không nên trò chuyện quá gần kẻ đối thoại. Nó có bị rẻ giá đi vì cái mùi rất thô đó. Nó trở ngại cho những cuộc đàm đạo thân mật, bất cứ là thuộc về tâm sự hay là về chính sự.

Ấy vậy mà:

…Gió đưa ông đội về Tàu

Bà đội ở lại xuống bàu bắt cua

Bắt cua làm mắm cho chua…

Chẳng biết tự bao giờ mắm cua chua đi thẳng vào ca dao, vào văn chương, từ bao giờ nó thản nhiên chan hòa lẫn lộn với ân tình. (Và cũng lẫn lộn với ít nhiều ý nghĩa chính trị nữa chứ; bởi vì người dân quê bụng dạ chất phác đã nghĩ rằng món quà đó có thể vượt ải Nam Quan, bởi vì họ không chỉ muốn giữ riêng để dùng mà còn đem ra làm một món đồ tiến cống dâng lên nước lớn. Chỉ tội nghiệp cho ông đội thực dân nào đó: món quà dân lành biếu ông mang về xứ lần này khác xa với những ngà voi sừng tê và những châu báu ngọc ngà từng được kể trong sử sách!)

Người vợ thứ hai của anh Bốn Thôi là một người đàn bà có bàn tay quí giá, làm nên mắm cua chua.

Anh Bốn Thôi mồ côi cha mẹ, từ nhỏ sống với chú thím. Chú thím anh ta không có con, nên thương mến cháu. Anh chịu chăm chỉ tập làm công việc, nhưng tính thực thà ít lời. Lớn lên, mỗi khi có đàn bà con gái đứng gần bên cạnh thì tự dưng anh Bốn Thôi nghiêm chỉnh nét mặt lại và buồn hiu. Tuy vậy mà người chú xem cái cách anh ngó theo phía sau bọn con gái, ông hiểu rằng anh ta biết thưởng thức. Ông cư xử ra một người tử tế; và năm mười chín tuổi anh Bốn Thôi có được một cô vợ do ông chú cưới cho.

Anh chung sống với cô vợ được mười tháng. Qua năm sau thì anh góa vợ: cô ta bỏ nhà trốn đi. Đó là một tai họa mà cũng là một sự nhục nhã đối với người chồng. Phần nhiều những người vụng về ít nói thường có tính tự ái nặng, anh Bốn Thôi cũng vậy. Những câu đùa giỡn nhẹ nhàng nhất xung quanh chuyện cô vợ đi hoang cũng làm anh đỏ mặt xấu hổ. Anh ta đâm ra sợ người và tránh các đám đông, các nơi hội họp vui vẻ. Tình cảnh cô độc lâu ngày và cái mặc cảm thất bại làm cho anh thành ra có vẻ ngơ ngẩn, dở người.

Nhưng anh Bốn Thôi còn cảm thấy những điều tệ hơn sự xấu hổ nữa. Vợ anh bỏ đi vào tháng ba, đêm đêm anh vác cuốc đi thăm nước ngoài đồng, một mình bước đi trên những bờ ruộng vắng vẻ, anh bắt đầu biết đến một thứ xúc động khổ sở. Anh trông những con đom đóm bay lập lòe khắp đồng, anh gõ móng tay lên cán cuốc kêu long cong, hát nho nhỏ một mình, hiu quạnh hơn bao giờ hết. Anh hiểu rằng sự chung đụng mười tháng trời với người con gái đã đánh thức một cuộc sống tế nhị âm thầm nào đó trong chỗ tận cùng của tâm giới anh, anh nhận thấy một sự kinh ngạc tò mò đầy kích thích trước những tráo trở bất thường của tính nết đàn bà. Tóm lại, anh cảm thấy mình không thể không có một người vợ khác.

Nhưng sự ra đi đột ngột của cô vợ thứ nhất làm anh giật mình, ngại ngùng. Sau đó, lại còn thái độ của chú anh. Người chú suốt hai ba năm sau không hề nhắc nhở gì đến chuyện vợ con cho anh ta nữa. Anh Bốn Thôi đã ít nói, người chú lại cũng ít nói. Hai bên như cùng có ý tránh đề cập tới chuyện đó mỗi khi gặp nhau. Hình như người chú có điều gì ngờ vực về anh cháu trai, nhưng không tiện nói ra. Anh Bốn Thôi cảm biết như vậy, nên anh càng thấy ngượng trước chú mình hơn bất cứ người nào khác.

Chuyện vợ con của anh bị gác lại như thế cho đến năm anh được hăm ba tuổi.

Một đêm tháng mười, mọi người tắt đèn đi nằm được một lát, bỗng anh Bốn Thôi sực nhớ là sáng hôm sau bò phải đi cày sớm, anh đứng dậy bước ra ngoài ôm mấy bó rơm bỏ vào máng cho bò ăn thêm. Anh trở vào nhà, vừa nằm xuống, thì người chú lên tiếng hỏi:

— Thím mày nghe bà Hai Hồ nói với người này người kia là mày muốn cưới con Lộc. Có không?

Bốn Thôi trả lời:

— Có.

Anh ta nằm chờ, nhưng mãi lâu không thấy người chú bảo gì. Tiếng con bò nhai rơm tươi giòn rụm, ngon lành, vang vào tận trong nhà, nghe rất gần.

Bốn Thôi băn khoăn lo lắng, không biết người chú quyết định thế nào. Thật lâu, ông ta mới nói:

— Thím mày cũng có dành dụm được chút ít, nhưng không biết bà Hai bà ấy đòi bao nhiêu. Để rồi coi.

Bốn Thôi vội vàng lên tiếng:

— Lộc nó bảo không đòi hỏi gì đâu.

Ông chú cười hê hê:

— Con Lộc thì nó có đòi gì mày! Tao nói đây là mẹ nó kia!

Ông ta lại cười hê hê trong bóng tối. Anh Bốn Thôi xấu hổ, không cãi nữa. Nhưng anh vụt hiểu rằng tuy không nói ra nhưng chú thím anh cùng biết cả về những điều đã xảy ra giữa anh và Lộc gần đây. Hẳn là ông chú đã hết ngờ vực. Bốn Thôi ngấm ngầm kiêu hãnh về mình.

Nhưng lạ lùng nhất là đến khi hỏi cưới, bà Hai Hồ chỉ đòi một món tiền rất nhỏ cho có lệ. Mọi người ngạc nhiên, thán phục Bốn Thôi. Và chính anh, anh ta cũng ngạc nhiên. Quả thực, “Lộc nó có bảo” với anh là không đòi hỏi gì thực; nhưng đó chỉ là lời nói suông. Khi ông chú bật cười, thì anh ta liền lấy làm hối hận là đã lỡ kể lại lời nói ấy, khiến mình thêm có vẻ thực thà ngây ngô.

Anh chưa lường được cái mức cảm tình của chị Lộc đối với mình tới đâu và cái địa vị của chị bên cạnh người mẹ ra sao. Khi việc xảy ra như thế, anh sung sướng, tưởng mình hóa hẳn ra một người khác.

Vả lại ai đã biết qua bà mẹ vợ của anh ta lần này là người thế nào đều phải cho rằng một việc như vậy không dễ gì xảy ra. Bà Hai Hồ góa chồng sớm, và từ đó ăn ở với thập Tam gần công khai như vợ chồng. “Thập” là một chức vị nhỏ trong hàng lính lệ phục vụ ở huyện đường, nhưng khi về làng thì thầy Thập cũng là một kẻ đáng kể. Từ hồi còn trẻ, bà Hai Hồ vẫn chỉ có một mẹ một con, sống với nhau ở một ngôi nhà nhỏ giữa đồng. Thập Tam lui tới nhà Hai Hồ, dân làng tuy có biết cũng làm lơ, rồi vợ thập Tam biết được cũng đành bỏ qua vì bà Hai không phải là một kẻ chịu nhường nhịn. Dân làng và người vợ thập Tam chỉ có một điều để lấy làm hài lòng, ấy là trông thấy được sự quả báo nhãn tiền. Mụ đàn bà hung dữ cướp sống chồng người ta ấy làm ăn ngày càng lụn bại; nhà đã không có đàn ông lo liệu công việc đồng áng, hoa màu mùa nào cũng bị thiệt, mà thập Tam lại chẳng có tiền của gì để giúp đỡ. Mặt khác, cặp nhân tình ấy đã có với nhau năm ba đứa con, nhưng rốt cuộc không nuôi được đứa nào.

Đến khi chị Lộc lớn lên, hoàn cảnh sinh sống đã đen tối lắm. Thập Tam vừa thôi làm việc ở huyện. Mẹ con chị suốt ngày vất vả ngoài đồng. Cỏ trong vườn mọc cao um tùm, tràn vào khắp sân. Người chủ đám ruộng ngay trước mặt nhà chị mỗi năm phát bờ lấn vào nhà một chút, đến nỗi con đường đi vào ngõ chị còn lại không vừa đủ để đặt bàn chân. Bà Hai Hồ đã nhiều phen gây lộn, chửi bới, nhưng người kia không sợ đàn bà, mà thập Tam thì hết uy thế rồi. Dãy rào mục nát có khi ngã đổ xuống một quãng, lấp cả lối đi nhỏ hẹp. Nhiều lần đi làm về, chị Lộc bắt gặp lũ trẻ ở xóm bên kéo vô vườn hái trộm dừa, ổi, bồ quân…; thấy bóng chị chúng nó ùa chạy, đạp lên hàng rào mục làm gãy cây răng rắc. Cố nhiên bà Hai Hồ lại chửi bới, nhưng không ăn thua gì.

Điều rắc rối nhất xuất hiện trong gia đình vào năm chị được mười sáu tuổi. Chị Lộc bẩm chất khỏe mạnh, thân hình phát triển nẩy nở sớm. Mười sáu tuổi chị đã cao lớn, ngực nở rộng rãi; bước đi không mau mắn gấp gáp nữa mà trở nên uyển chuyển. Cử động đẹp đẽ ấy giống như sự chuyển động dịu dàng của mặt nước biển những buổi mai không gió: mặt nước không có một tí nhăn nào, lì như mặt dầu, không đủ sức nổi lên những con sóng cao vã ra bọt, mà chỉ gợn nổi những đường vòng rất tròn rất mềm, tiếp nhau nối nhau, tiến vào bờ.

Thập Tam đến nhà bà Hai Hồ thường khi ngây người ra nhìn theo dáng đi ấy, và ngẫm nghĩ. Bà Hai Hồ nhiều lần bắt gặp. Càng ngày thập Tam càng làm quá; bà Hai điên tiết, lại nổi lên chửi mắng om sòm, có khi hai người chụp nhau đánh lộn, la làng inh ỏi. Nhưng vẫn chẳng ăn thua gì.

Nhà bà Hai Hồ ở lẻ loi giữa đồng, nên những gì xảy ra trong gia đình ấy liên tiếp bốn năm năm trời, ít ai biết rõ ràng, người ta chỉ đoán là những điều rất ghê tởm. Cái nhà cô độc ấy như là chất chứa những tội lỗi vô luân. Rồi thì dần dà mọi công việc trong gia đình ấy cũng đi tới một sự ổn thỏa: bà Hai không kháng cự nữa, bà nhận thấy rằng từ ngày đứa con gái lớn lên, thập Tam chịu đem của nhà ra vụng trộm giúp đỡ bà nhiều hơn trước; nếu không có nó, biết đâu ông ta đã không buồn lui tới với bà nữa. Sau bốn năm năm, sự thể đã chuyển biến thành trái nghịch: bà Hai Hồ chẳng những thôi tranh chấp với con, mà lại cần đứa con. Nếu có phải để nó đi ra khỏi nhà, người ta chắc bà không chịu một khoản bồi thường nhỏ.

Vậy mà chị Lộc đã đi về ở với anh Bốn Thôi gần như không đòi hỏi gì cả.

Còn như giữa thập Tam với chị trước kia có gì thì có lẽ chị Lộc cũng tin rằng người ngoài không ai biết rõ. Tuy nhiên dư luận thường khi bất công. Mọi người quen nhìn chị bằng cái nhìn nghiêm khắc. Và khi con người còn trẻ mà sớm chịu cái nhìn nghiêm khắc của xã hội thì cũng giống như là một cây non sớm hứng chịu cái nắng gay gắt: nó héo đi rũ xuống âm thầm. Trong dáng bộ uyển chuyển dịu dàng của chị Lộc có cái vẻ âm thầm, kín khép, cam chịu. Chỉ mãi tới khi chị về sống với anh Bốn Thôi, làng xóm mới có một cách nhìn khoan hòa hơn đối với chị, dư luận mới chịu soi đến những khía cạnh tốt đẹp của đời chị. Và trong những tiểu tiết về sau mới được soi sáng này, người ta chú ý đến tài đảm đang của chị, đến hai bàn tay làm được mắm cua chua.

Trong cái thế giới của bà tôi, tôi vẫn ngờ rằng có nhiều điều mâu thuẫn, khó hiểu; tuy vậy, hồi bà tôi còn ở đời, mỗi lúc gần bà, tôi mãi nghe chuyện nên không kịp vặn hỏi lôi thôi. Quá chín phần mười cái thế giới đó khuất vào trong khoảng tối lờ mờ của dĩ vãng, thuộc về quãng thời gian tôi chưa sinh ra. Bà tôi thường gợi lại thuở dĩ vãng đó, và bà gọi nó là “mọi lần”.

“Mọi lần” có gì quan trọng? Bà tôi không hề phân định thứ bậc, bà nói về chuyện nào cũng hăng hái thiết tha: chuyện ông bá hộ Thành ngày xưa ho đến mười hai năm mới chết mà cháu nội ông ta thì chỉ phát ho có một năm rưỡi đã chết ngay, chuyện vợ chồng ông tú Từ Lâm giận nhau tới nỗi ông tú bỏ nhà đi lang thang đến già, nguyên do là thế này mà có người lại bảo là thế kia, chuyện ngày xưa bà cử Tạ ở với con dâu ác như thế nào và ngày nay người con dâu báo hiếu ra sao, chuyện “đống” họ Trần gặp thời vận con cháu làm nên, “gánh” họ Lê điêu đứng tan rã ra sao, trong đám tang của ông cửu Trọng ai khóc hay nhất, thảm thiết nhất, và chuyện con rể ông ta giành chia gia tài đã bùng nổ như thế nào, chuyện đánh cướp nhà ông chánh tổng Hoàn ở Hạ Ninh xảy ra đầu đuôi ra sao v.v… Bà tôi kể những chuyện ấy hoặc trong lúc ngồi trước hiên cầm cái vỉ rình đập từng con ruồi cho mấy con gà túc trực bên cạnh tranh nhau mổ ăn, hoặc trong lúc ngồi canh chừng mấy lu mắm “giang” ngoài sân giữa trưa, hoặc trong khi ngồi thảnh thơi nằm trên phản gỗ gọi tôi lại quấn và đốt cho bà một điếu thuốc, hoặc trong những khi nhà có cúng giỗ, có bà con xa gần đông đủ, bà tôi gặp lại những chị em, bạn già với nhau, ở chơi đôi ba ngày…

Trong thuở “mọi lần” gợi lên như thế, rập rình rất nhiều ông tú ông cử, những người từng làm vinh dự cho “gánh” họ Huỳnh của bà tôi. Tuy nhiên tôi chú ý nhất đến các món đồ ăn. Đồ ăn của “mọi lần” có những món kỳ quặc. Bà tôi kiêu hãnh kể rằng bà đã từng có thể dùng bột trắng pha màu rực rỡ bắt hình bánh cỗ đồ bát bửu: bầu rượu, cây bút, cái tù và…, đã từng luộc những con gà và sửa soạn cho chúng nó thành hình ngư, tiều, canh, mục…, đã gói những chiếc bánh tét nhân chữ hạnh, chữ thọ, màu đỏ màu xanh, đã bó những cuốn chả mà khi cắt ra mỗi lát đều có hoa đỏ hoa vàng v.v…

Bà tôi bất bình: những ông cử ông tú ngày xưa bây giờ dẫu còn cũng không ra làm quan được, và hột dâu ngũ sắc, con gà đội nón ngồi câu trong bát canh không được hoan nghênh nữa. “Mọi lần” qua rồi, con người có nhiều lý lẽ chính đáng để bất bình, và như thế hai bà cháu chúng tôi thường hay gần nhau. Nghe kể đi kể lại mãi những chuyện như thế, cuối cùng tôi lẫn lộn các món hột dâu ngũ sắc, cỗ đồ bát bửu, với ý niệm về thời thượng cổ. Trong trí tưởng tượng của tôi, con gà luộc mình phủ đầy bún tàu làm áo tơi, giả hình ông Lã Vọng ngồi câu, cùng với những lát chả có hoa đỏ hoa vàng, những thứ đó trà trộn rối rít trong thế giới của các vua Phục Hi, Thần Nông, của thái tử Na Tra, của Trư Bát Giới… Tất cả đều không còn nữa, không thể xuất hiện lại lần nữa. Tôi chia xẻ mối buồn tiếc của bà tôi.

Nhưng tại sao bên cạnh những cầu kỳ sang trọng như vậy, “mọi lần” lại chịu dung nạp rất nhiều mắm? Cảnh đói khổ với những điều xa xí của chỗ quyền quí kia làm cách nào mà tiếp xúc nhau mật thiết, dung hòa với nhau? Bà tôi làm sao vừa có thể tưởng nhớ đến con gà Lã Vọng lại vừa có thể thông thạo và tha thiết với các món mắm mặn? Đó là chỗ mâu thuẫn, vì quả thực bà tôi tha thiết với mắm hơn bất cứ người đàn bà nào khác trong gia đình, tuồng như đã có nhiều trường hợp khổ sở đói khát xưa kia xảy ra dưới mắt và ám ảnh bà tôi suốt đời.

Về già, đáng lẽ bà được hoàn toàn thảnh thơi, không phải lo lắng gì nữa về sự sinh sống trong gia đình, thì rốt cuộc bà tôi vẫn có hai mối bận rộn, đó là rác và mắm.

Xung quanh nhà tôi có một hàng rào bằng tre sống rất dày. Vì rễ tre mà cả khu vườn trồng thứ gì cũng xấu, và những đám ruộng quanh nhà đều mất giá trị. Tuy vậy trải qua mấy đời không ai nghĩ đến chuyện phá cái rào tre ấy. Lá tre khô rụng xuống rất nhiều trong vườn. Bà tôi dùng một thanh tre chẻ ra ở ngoài đầu, như một cây đinh ba, để xua dồn lá tre và tất cả các thứ rác rến khác lại thành từng đống. Đôi ba ngày một lần, bà đốt các đống lá ấy để nấu những nồi bầu cháo cho heo ăn. Như thế vừa là một cách dọn rác vừa là để tiết kiệm than củi.

Đốt rác gần nhà về mùa nắng nhiều khi nguy hiểm. Vì thế bà tôi lúc nào cũng sẵn sàng cây đinh ba trong tay, chạy loanh quanh đống lửa để canh chừng. Những khi đó tôi thích lăng xăng bên cạnh. Cho đến khi rác hết, lửa tàn, bà tôi múc năm mười gáo nước tưới vào đống tro, tôi đang mải mê với lửa, lúc đó mới ngẩng lên thì hai mắt lóa vì ánh sáng thấy bầu trời mênh mông đã ngập tối tự lúc nào, những ngọn tre to tướng lòa xòa quơ quất bóng đen trên đầu, tôi lo sợ vội vàng kéo bà vào nhà.

Bây giờ mỗi khi gợi nhớ lại hình ảnh của bà tôi, dáng người gầy đét bé nhỏ, chờn vờn quanh một cái nồi bầu lớn trong ánh lửa đỏ chập chờn bốc cao ở cuối khu vườn rộng, vào những buổi hoàng hôn nhá nhem, tôi tưởng như hình ảnh ấy nhắc đến các bà tiên luyện thuốc tràng sinh bên lò bát quái. Như vậy, rác tre tuy cố nhiên cũng là một lối tằn tiện nghèo nàn, nhưng nó có nhiều liên quan gần gũi với thế giới đầy quyền phép của thái tử Na Tra hơn là các hũ mắm.

Mối bận rộn thứ hai của bà tôi hiện hình dưới nhiều vẻ khác nhau. Ở nhà bếp có một phía vách dành riêng cho bà tôi sử dụng. Chỗ đó các hũ mắm xếp hàng đứng một dọc dài. Có thứ hũ sành lớn mà người nhà tôi gọi là hũ “gia trang”, có thứ tỉn lùn tráng men đen, có thứ tỉn trét vôi trắng xung quanh, có hũ đậy nắp bằng sành, có cái đậy bằng một miếng sọ dừa úp, có cái đậy bằng chiếc dĩa lật ngửa, lại có cái đậy bằng một chiếc mũ làm bằng mo cau cuốn lại, trông giống như một người lùn đội mũ mấn. Mặc dù đã đứng nép vào sát chân tường, hàng hũ của bà tôi vẫn trở ngại công việc của các cô và của mẹ tôi, vì nhà bếp của nhà tôi từ sau trận bão năm Thìn đã bị thu hẹp lại mất một nửa, thành ra chật hẹp. Cứ lâu lâu các cô tôi lại len lén bê một hũ mắm đút vào dưới cũi chứa đồ ăn. Nếu bà tôi không kịp phản đối thì một hũ khác lại nối đuôi theo, rồi một hũ khác nữa. Cứ thế cho đến bao giờ bà tôi hét lên om sòm, các cô mới cười ngắc nghẻo, rước các hũ mắm ấy ra, xếp lại y nguyên chỗ cũ.

Vào mùa nắng, giữa sân lúc nào cũng có một cái lu to tướng, tráng men màu vàng vàng xanh xanh như màu tre đằng ngà đã héo, đứng đội chiếc mũ mấn bằng mo cau. Đó là cái lu chứa nước muối. Xung quanh quây quần xúm xít năm bảy chiếc tỉn nhỏ, hoặc chứa mắm cơm, mắm nục, hoặc nước mắm, hoặc mực muối.

Tuy bà tôi vẫn luôn luôn canh gác cẩn mật lũ mắm muối ấy, nhưng có nhiều buổi trưa một mình bà xoay trở không kịp giữa ngót vài mươi hũ mắm dàn ra từ sân trước đến sân sau: thế là một vài hũ trào ra, nước chảy lênh láng. Các cô tôi trông thấy, kêu ầm lên, vừa cười vừa bịt mũi nhăn nhíu, trong khi bà tôi chạy lăng quăng, đổ tội cho “con nước lên”. Theo bà thì mắm trong hũ cũng trào lên rút xuống theo một nhịp với nước thủy triều ngoài bể.

Nhưng không phải chỉ có “con nước lên” quấy rối bà tôi mà thôi. Ngoài ra còn đàn lằn nữa, vì hình như trong bất cứ hũ mắm nào của bà chúng cũng tìm ra cơ hội để gửi được vào đó ít nhiều hoặc trứng hoặc con. Mỗi buổi sáng bà tôi một tay cầm đũa một tay bưng cái sọ dừa có chứa sẵn mớ cám đi tuần một lượt khắp các hũ mắm, gắp dòi ném vào cám. Một vài con gà tháp tùng bà tôi, đợi hưởng mớ dòi lúc nhúc trong chiếc sọ dừa ấy.

Mẹ và các cô tôi không có cảm tình với lũ tỉn, hũ, chum, vại đứng chật nhà, không có cảm tình với mùi mắm, với lũ dòi, và với cả những con gà quanh quẩn trong nhà để phóng uế bậy bạ. “Thế hệ” này xem cái tật ham mắm của bà tôi như một lẩm cẩm của tuổi già. Họ nói với nhau: “Không biết tích chứa làm chi mà lắm vậy? Cơ ngũ nào ăn cho hết? Vậy mà nghe rao mắm là vẫn cứ kêu vào, mua mãi mua hoài. Nhà này lần lần cá mắm dưới biển tràn lên chiếm hết chỗ, người ta không còn chỗ kê giường mà nằm. Khổ cho cái bà già hết sức!” Họ cười với nhau ồn ào. Bà tôi không hơi đâu xông vào những cuộc tranh cãi với “thế hệ mới”. Tuy nhiên bà không chịu thua. Lúc mọi chỉ trích giễu cợt đã qua, bà thong thả trình bày với mẹ tôi, có khi cả với tôi: “Không ai ăn, sao bao nhiêu mắm rồi cũng hết? Mắm có bao giờ dư đâu? Chưa ăn tới thì nó nằm trong hũ nó chờ, từ tháng này qua tháng kia. Nó chờ được. Rốt cuộc cũng phải tới nó, chớ con người ta không ăn mắm thì ăn cái gì?” Nghĩ như vậy, bà tôi tiếp tục mua mắm. Và nhiều khi nghe văng vẳng xa xa một tiếng rao đâu đó ở cuối xóm, các cô tôi đã vội nháy mắt làm dấu hiệu cho nhau, chạy đi đón những người bán mắm quen biết, điều đình với họ, để họ đừng đến rao hàng gần nhà chúng tôi. Xung quanh bà tôi âm thầm có một liên minh để chống mắm, mà khi biết ra bà tôi chỉ còn có lắc đầu.

Nếu bảo rằng bà tôi cũng toan liên minh đối nghịch lại thì thật là lố bịch. Tuy nhiên những kẻ có một điểm gì giống nhau tự nhiên vẫn cứ gần nhau: bà tôi có nhiều cảm tình đối với chị vợ thứ hai của anh Bốn Thôi. Mỗi năm vào mùa cấy, bà tôi thường nhắn gọi chị Lộc thỉnh thoảng mang đến “đổi” vài giỏ cua. Và bà yêu cầu chị tự tay giã cua lấy, vắt xác lấy. Bà tôi chỉ loanh quanh phụ giúp: múc hộ năm ba gáo nước, tìm một cái hũ thích hợp, lấy cho mấy nắm muối v.v… Còn như động tay vào mớ cua đang quết trong cối thì tuyệt nhiên không. Bà tôi tự cấm mình làm như thế: việc ấy phải dành riêng cho hai bàn tay chị Lộc. Thái độ của bà tôi tôn hai bàn tay của chị lên đến nỗi nhiều khi chị phải mỉm cười nhẹ nhàng để tỏ sự hổ thẹn.

Bên cạnh chị, bà tôi hỏi thăm về gia cảnh, về chuyện làm ăn,về mùa màng, về chuyện cua ốc, chim cá ngoài đồng v.v… Có khi vui miệng bà tôi cũng đùa với chị:

— Năm nay cua nhiều không?

— Thưa bà cũng có, nhưng không bằng năm ngoái.

— Vậy hả?

— Năm ngoái cua nhiều bắt không kịp, tới nỗi lúa cấy vừa bén bị nó kẹp đứt ngang, ngã gục xuống đầy đồng, coi cọng lúa… thương hết sức. Bà nhớ không?

— Ừ. Năm nay chắc khỏi.

— Dạ. Năm nay đi bắt một ngày có khi không được hai giỏ cua.

— Gì chứ nhà chị cũng đủ ăn mãn mùa.

Chị Lộc cười khiêm tốn:

— Thưa bà, chúng con suốt này không được ăn một món gì ngoài cua. Ăn mãi cũng sinh chán.

— Còn được ăn cua ngày nào thì hãy ăn đi ngày ấy, năm sau đến mùa này không chừng chị đã phải kiêng cua cho mà coi.

Chị Lộc cúi đầu xuống, mỉm cười. Ở nhà quê, người ta tin rằng những người có thai, nếu ăn cua vào, đến khi đẻ con sẽ đẻ ngang, vì vậy họ kiêng cữ. Chị Lộc trả lời bà tôi:

— Con thì con sẽ ăn cua mãi, không bao giờ phải cữ đâu.

Bà tôi vui vẻ:

— Con gái mới lớn chị nào cũng chối leo lẻo.

— Con nói thiệt đấy mà.

Làm sao có thể “nói thiệt” được một điều như thế! Thực là vô lý. Tuy nhiên giọng chị Lộc cũng cứ dịu dàng, không có vẻ gì quả quyết, khiến người nghe không thấy cần thiết phải phản đối. Chị vẫn cúi mặt, bẽn lẽn và mỉm cười.

Bà tôi trông lại chị Lộc, và nghĩ rằng chị cũng không thua sút người con dâu của “đống” họ Lê mới cưới về bao nhiêu. Tôi thì tôi không có ý so sánh nhan sắc của chị Lộc với người con gái nào khác, nhưng tôi cho rằng một người như chị nhất định phải đem đến sự sung sướng cho bất cứ kẻ nào gần gũi. Trên thân người nở nang ấy, mọi hình nét đều có vẻ rộng rãi, tròn trặn rất dịu dàng. Ngừng tầm mắt trên một thân người như thế người ta thấy một cảm tưởng yên ổn trong tâm trí. Mặc dù khoảng ngực của chị nở rộng và đầy, người nhìn đến không hề thấy bị khích động mà chỉ cảm thấy một thích thú thoải mái như là nghỉ ngơi. Trong âm thanh của tiếng chị nói, trong cái ngước mặt chậm chạp mà chắc chắn, không ngập ngừng, có một vẻ gì vừa hiền dịu nhẫn nại, vừa vững chãi ổn định.

Chỉ là một người con gái nghèo khó mà sớm phải đương đầu với những điều ngang trái, cuối cùng trên vẻ người tươi trẻ đầy sinh lực người ta có cái chín chắn nhẫn nhục nó làm tắt đi hết những gì là lộng lẫy, là ánh sáng nhiệt thành. Người ta sớm tiến tới một vẻ thụ động, khoan hòa, một quân bình vững chãi cho đời mình. Nhìn vào gương mặt và khổ người tràn đầy sinh lực của chị Lộc, đôi khi tôi có nghĩ đến những tiếng tăm đồn đại đáng sợ về những năm chị đã sống chung với người mẹ. Khi ấy trong trí tôi lẩn quất sự lo ngại về một cái gì bí ẩn thăm thẳm, nhưng sau đó, chỉ một cái ngước mắt mỉm cười bình thản của chị đủ xóa tan hết nỗi lo âu của tôi. Trong cái thụ động khuất nhục của chị có một vẻ điềm tĩnh khiến người ta cảm thấy một niềm tin cậy ấm áp nơi chị.

Bị xem như một người con trai hơi vớ vẩn, anh Bốn Thôi càng ngày càng đâm ra ít nói, ít giao thiệp, càng âm thầm cô độc. Những người cô độc, xa lìa đám đông xã hội, những người ấy vẫn thường hay có cách tạo ra một thế giới riêng biệt, trong đó họ một mình mơ mộng triền miên.

Bốn Thôi tìm được cách tiêu khiển và mơ mộng trong việc vặt lông mũi. Đó là một cử chỉ nhỏ nhặt không ai để ý đến, nhưng rất quan hệ trong cuộc sống riêng của anh. Vì không phải là chuyện làm tốt, chuyện điểm trang gì, cho nên Bốn Thôi không bao giờ dùng đến cái gương. Hễ cứ rảnh việc là anh đưa tay lên mũi, rờ rẫm, thăm dò, rình rập từng sợi lông mọc thò ra ngoài; vẻ mặt anh chăm chỉ, đăm chiêu. Sự vặt nhổ như thế không phải không có lúc đau đớn, vì vậy có những khi anh nhăn nhíu mặt mày; và ngay mỗi khi các ngón tay bắt đầu tìm kiếm, vẻ mặt anh đã khổ sở khó nhọc. Đối với người ngoài thì cử chỉ đó có vẻ kỳ cục, tục tằn, khó coi, càng tăng thêm vẻ dớ dẩn của anh.

Tuy nhiên về phần Bốn Thôi, những lúc làm như thế anh không đếm xỉa gì đến người xung quanh. Bảo rằng người ta có thể trốn tránh sự cô đơn bằng cách ẩn lánh ngay vào trong cái rừng lông mũi rất nên lơ thơ của chính mình thì thực là điều khó tin được. Nhưng thực ra chính những mằn mò vớ vẩn như vậy giúp cho Bốn Thôi thoát khỏi sự đè nặng của cảm tưởng cô đơn. Trong những khi ấy anh lặng lẽ tự xóa mình, vẫn ngồi trước mặt mọi người mà như không hề hiện diện trước một ai, vẫn có đó mà như là không có, như là đang sống ở một thế giới nào xa cách tận đâu đâu, anh lặn chìm rất sâu khuất vào trong sự cô đơn của mình, dứt hết mọi liên hệ với xung quanh và không buồn áy náy lo lắng gì về thái độ của mọi người. Mắt anh trở nên xa xăm. Và trong cái thế giới mộng tưởng riêng biệt ấy anh tự cho có thể tha hồ nhăn nhíu mặt mày mà không thành ra kỳ cục.

Trước, Bốn Thôi vẫn một mình hì hục hàng giờ với sự mằn mò tẩn mẩn của mình như thế, mặc tình, không ai ngó ngàng tới, không ai nhắc nhở tới. Nhưng từ khi anh cưới về người vợ thứ hai, nhiều lần anh đang nhăn mặt tìm vặt một sợi lông mũi, bỗng mắt anh chợt bắt gặp cặp mắt của chị Lộc. Chị nhìn anh, trong mắt ánh lên một chút ý tứ giễu cợt thân mật, hòa dịu, tha thứ, và chị bật cười rất nhẹ nhàng. Thế là lập tức anh Bốn Thôi buông tay ra. Cố nhiên anh có đỏ mặt bẽn lẽn một chút, nhưng sung sướng tràn ngập tâm hồn. Anh như là người sắp sửa từ giã cõi đời bước vào cảnh khuất tịch, bỗng gặp một tiếng gọi kêu, và vụt một cái anh nhào về thế gian, anh nhập lại vào cuộc đời, vào xã hội đông đảo. Chị Lộc không hề nói gì cả, nhưng cái nhìn hiểu biết thông cảm hiền hậu bao la của chị cứu anh thoát khỏi sự cô đơn, làm cho kiếp nhân sinh có nhiều ý vị!

Trong tình vợ chồng, chị Lộc không có sự biểu lộ nồng nàn, trái lại thường khi còn có vẻ thản nhiên lạt lẽo nữa. Nhưng chân hạnh phúc ở đời chắc chắn không phải lúc nào cũng đòi hỏi cho được cảnh mê ly say đắm. Bên cạnh thái độ khoan hòa ấm áp của người vợ lạ lùng, anh Bốn Thôi lần hồi tin cậy ở cuộc sống.

Anh vẫn từ lâu có chứng bệnh phong thấp. Gan bàn chân thường bị nứt nẻ, vào mùa mưa lạnh lại càng nứt nẻ nhiều. Mỗi khi anh đi làm ngoài đồng, đất bùn nhét vào các vết thương làm anh đau đớn. Nhưng một thứ bệnh kéo dài ra hàng mười mấy năm rồi thì đối với anh nó đã mất hết tư cách bệnh tật. Vả lại gần như hầu hết dân làng ai cũng mắc bệnh ấy, kẻ nặng người nhẹ, người bị nứt chân nhiều, kẻ bị nứt ít, đến nỗi không còn biết sự nứt nẻ phải đến đâu mới được kể là bệnh tật. Bởi vậy anh Bốn Thôi chưa có lần nào nghĩ rằng mình cần phải chữa bệnh.

Thế nhưng ngay mùa đông đầu tiên về nhà chồng, một hôm, một buổi trưa, trong lúc anh đánh một sợi dây nài, chị Lộc chú ý đến bàn chân của chồng, chị kêu:

— Trời ơi, nứt dữ vậy mà chịu được sao?

— Không chịu được thì ai chịu cho.

Nói xong, chợt trong trí anh thoáng qua một ý nghĩ thích thú, anh mỉm cười ngẩng lên nhìn vợ một cách lẳng lơ. Cái nhìn đó như nhắc lại tiếng “ai chịu cho” một cách âu yếm tinh nghịch. Nhưng người vợ không đáp lại cái tình tứ ấy; chị tránh, không nhận mình là “ai”. Trên nét mặt chị, chỉ có sự ái ngại:

— Năm nào cũng vậy hả?

— Ừ, mùa lạnh năm nào mà chẳng vậy.

Anh liếc nhìn xuống bàn chân, và nhận thấy hình như năm này bệnh của anh có nặng hơn, đường nứt có sâu thêm. Chị lại hỏi:

— Không xức gì sao?

— Xức gì mà hết được thì người ta đã xức rồi. Có phải một mình mình nứt chân đâu.

Chị Lộc không cãi. Chị ngó lại những vết thương trên bàn chân chồng một lần nữa rồi bảo: “Ghê chưa!”. Anh chồng cười, co chân lại. Nhưng sau đó, chị Lộc đứng lên đi lấy cái niêu con đựng dầu rái, bưng đến, dùng một chiếc que, nhét dầu rái vào các kẽ nứt ở gan bàn chân Bốn Thôi.

Mấy hôm sau, anh cảm thấy dễ chịu. Và chị tiếp tục xức dầu rái cho chồng năm bảy lần như thế. Khi anh yên trí rằng đó là bổn phận của chị, anh hưởng cái quyền được săn sóc mà sắp sửa hết thấy thích thú, thì bỗng chị dừng lại mấy ngày. Anh Bốn Thôi ngờ rằng chị quên đi, và yên lặng chờ đợi; nhưng một hôm khác ăn cơm xong anh đang ngồi hút thuốc, chị vừa rửa chén vừa nói:

— Mấy bữa rày anh không xức chân, rồi nó đau lại cho coi. Ngồi không làm gì, chịu khó đem dầu ra xức đi.

Thoạt tiên anh Bốn Thôi hơi thất vọng, nhưng rồi anh nghe trong giọng nói của vợ cũng có sự dịu dàng: nhắc nhở vẫn là một cách săn sóc. Thất vọng này chấm dứt thình lình một sự thích thú đang sắp sửa tự tiêu, nhưng sau đó nó lại liền làm nảy ra một sự thích thú khác, dĩ nhiên là khiêm tốn hơn.

Sau mùa cấy năm đó, một ngày đầu tháng chạp, anh Bốn Thôi đan một đôi giỏ ngựa, thứ giỏ thưa mỗi chiếc có hai chân, buộc dính liền vào một cây đòn gánh, thường dùng để gánh cỏ hay mạ. Người vợ ngồi gần đó, đang mở các gói hột cải, hột cúc ra xem lại, chuẩn bị trồng rau ăn Tết. Đan xong một chiếc giỏ, Bốn Thôi vứt ra một bên, rồi ngồi quấn thuốc hút. Anh ngồi nghỉ tay một lúc lâu, ưỡn thẳng người lên cho đỡ mỏi lưng. Các ngón tay anh tần mần sờ lên bàn chân, vướng nhằm một mảnh da khô, dày, vểnh lên. Những người có bệnh phong thấp nứt chân như anh thường vẫn bị tróc da như thế, những miếng da chết dính đeo vào bàn chân, cộm lên, khó chịu. Anh Bốn Thôi tiện tay gỡ mảnh da khô; nó toét rộng, kéo theo cả lớp da sống dưới bàn chân, phơi thịt ra trắng toát. Anh cúi đầu xuống nhìn, bối rối. Chị Lộc cũng chợt chú ý đến cử chỉ của anh, nhìn theo, trông thấy vết thương; và chị liền nhắm mắt lại, kêu lên:

— Ái! Dễ sợ chưa!

Chị buông mấy gói hột xuống. Anh Bốn Thôi trông lên nét mặt của vợ, tự dưng tiêu tan hết mọi sự bối rối. Ngay trong lúc ấy anh vụt có cảm tưởng rằng dẫu mối nguy hiểm có đe dọa anh đến bực nào thì sự lo lắng cũng không thuộc về phần anh nữa: đó là phần của người con gái kia. Anh tưởng mình đã trút hết mọi trách nhiệm về mình sau một cái nhìn ấy, và anh hoàn toàn tin cậy ở người kia.

Chị Lộc chạy đi lấy kéo, vừa nhăn mặt vừa cắt miếng da cho anh, và lấy dầu rái đắp lên vết thương. Trong khi người vợ làm bấy nhiêu công việc, anh Bốn Thôi cười và đùa giễu về tính nhát gan của chị.

Trước cảnh nhà nghèo túng, trước những tai biến bất ngờ khó khăn xảy đến, chị Lộc vẫn điềm tĩnh và im lặng. Thái độ can đảm mà bình thản, thụ động ấy xóa lấp hết dấu vết mọi biến cố trong cuộc đời nhiều trắc trở ngang trái của chị. Nhưng trông thấy một mảnh thịt người trắng toát chị không bình tĩnh được, chị sợ hãi hoảng hốt. Một sự việc nhỏ nhặt hôm ấy khiến anh Bốn Thôi thấy thêm một khía cạnh lạ lùng trong tâm hồn người con gái sống bên cạnh mình. Và anh kinh ngạc một cách… sung sướng! Tại sao lại sung sướng? Đáng lẽ có thể nghĩ rằng sự hoảng hốt kia chỉ là phản ứng tự nhiên của một người hiền dịu có nhiều từ tâm, ghét sự tàn bạo xô xát và những gì có liên hệ đến nó như là máu me, thương tích v.v… Nhưng anh Bốn Thôi không nghĩ như thế. Anh ta chỉ chợt thấy người con gái nhăn nhó đau vì một vết thương của mình. Và như thế, anh có thể chịu mãi các vết thương, mọi vết thương!

Từ đó về sau, cứ lần nào có da khô ở gan bàn chân anh lại lựa những lúc ngồi gần vợ để tước xé mảnh da ra. Anh gây đau đớn cho mình, kinh hãi cho người vợ. Và anh thưởng thức một thứ sung sướng tinh quái. Những tiếng kêu bối rối: “Ái! Ghê quá! Ái! Dễ sợ chưa!” v.v… phá vỡ sự cô đơn. Và kiếp nhân sinh lại có một thứ ý vị kỳ quặc nữa!

Bốn Thôi cưới người vợ thứ hai vào mùa xuân. Trải qua hai năm, đến mùa xuân thứ ba sau đó thì chị Lộc bị đau lần đầu tiên. Duyên cớ thật nhỏ nhặt: một mụt mụn, nổi lên ở gốc mũi. Mụt mụn bọc mới một ngày mà đã làm cho mặt chị nặng lên, khó chịu. Nhiều lần chị đưa ngón tay rờ rẫm thăm dò. Cuối cùng, không chịu được, chị bấm móng tay vào, nặn vỡ mụt mụn. Chỉ bật ra một tí máu, rồi một ít nước đỏ loang loãng. Ngay nửa giờ sau chị cảm thấy trong người ớn lạnh, khang khác, nhưng chị vẫn đi ra đồng bắt cua.

Đầu tháng hai, chỉ còn ít nước lép xép ở những đám ruộng sâu. Cua cá dồn lại trong những vũng nước nhỏ như thế rất khó bề trốn tránh khỏi cò vạc. Chị Lộc phải gấp rút tranh nhau với loài chim. Mỗi buổi sáng bước chân xuống ruộng, chị thấy thêm dấu chân mới và nhiều vết phân trắng của chúng bên cạnh các vũng nước sắp cạn. Trong khi chị Lộc lom khom tìm cua cá thì rải rác ở những bờ ruộng quanh đấy vẫn có vài con cò lọ nồi đứng gật gù buồn bã: chị bị chúng nó theo dõi như thế suốt buổi.

Hôm ấy chị bắt cua không trọn buổi. Gần trưa, chị thấy choáng váng, lên cơn sốt, phải bỏ về nửa chừng. Người thím chồng vừa trông thấy mặt chị liền kêu lên ngạc nhiên: mặt sưng vù, híp đi một con mắt. Chị Lộc cho rằng đó có lẽ là vì chị đã cúi đầu lâu quá nên máu dồn xuống. Chị úp bàn tay lên phía đau, thấy nóng hừng hực. Chiều hôm ấy chị bỏ công việc, nằm vùi.

Sáng hôm sau, cả một nửa khuôn mặt sưng to và đỏ rần một cách dễ sợ. Một phía môi của chị bị xách méo lên, và tiếng nói nghe khác hẳn đi. Bốn Thôi hoảng sợ. Trong một ngày ấy, từ sáng cho đến khuya, chị Lộc uống đến hai thang thuốc, không kể những món ngoại khoa dùng thoa xức bên ngoài.

Đến ngày thứ ba thì chị Lộc nằm mê man. Khi hai con mắt người vợ khép lại, anh Bốn Thôi hoàn toàn bối rối, cuống cuồng. Lâu nay anh đã quen tìm sự bình tĩnh và niềm tin cậy nơi cuộc đời từ nét mặt và đôi mắt của người con gái ấy. Bây giờ khuôn mặt ấy không còn hình dạng bình thường nữa, nó không còn có thể biểu lộ được gì nữa cả. Và hai mắt thì nhắm nghiền lại suốt ngày. Bốn Thôi trông vào khuôn mặt ấy, rồi chợt hiểu rằng mình có thể sắp mất nó vĩnh viễn, anh ta như người mất hẳn phương hướng, ngẩn ngơ, thất lạc.

Tưởng chừng người vợ có thể đau khắp châu thân miễn là còn lại khuôn mặt và cặp mắt để anh nhìn và để nhìn lại anh, là anh đủ được an ủi và đủ biết phải làm những gì, xoay trở ra sao. Đàng này anh lại mất những cái đó trước tiên: anh còn biết tìm đâu ra sự tin tưởng và sáng suốt, anh còn biết làm cái gì nữa bây giờ? Từ đó, chú thím anh ta cùng mấy người hàng xóm lo chạy thuốc lao xao, còn anh thì ngồi ì như đứa trẻ, ở một mép giường, bên cạnh người vợ. Thỉnh thoảng người con gái cựa mình, cố gắng hé mắt một cách khó khăn, và ú ớ mấy tiếng trong miệng.

Sáng ngày thứ tư, vào khoảng chín mười giờ, Bốn Thôi vẫn ngồi như thế, bỗng thấy người vợ dùng ngón tay cào lên mặt chiếu. Anh ta nhìn lại thì vừa gặp chị mở mắt. Chỉ có một con mắt mở được, và chỉ hé được nửa chừng. Bốn Thôi nhìn chằm chặp vào con mắt ấy như vội vã đọc ở đấy tất cả sự dặn dò chỉ bảo của người bệnh. Anh ta bị thu hút vào ánh mắt đó một lát, thình lình anh nức lên khóc. Trong con mắt vẫn là sự dịu dàng thụ động, nhưng có một vẻ gì thiết tha buồn bã, một vẻ gì khác thường làm anh hoảng hốt.

Người vợ mấp máy hai môi. Anh ta cúi xuống, nghiêng tai nghe chị yêu cầu mời bà mẹ đến. Nói xong một câu vắn tắt, chị lại khép mắt, nằm yên lặng.

Trong khi người ta chạy đi gọi bà Hai Hồ, Bốn Thôi ngồi nhìn chăm vào mặt người vợ. Trên mặt chị không biết một người nào đó đã bôi một lớp phân gà “sáp”, thứ thuốc ngoại khoa cuối cùng. Cho rằng giờ cuối cùng của chị đã đến, tất cả chừng bảy tám người có mặt trong nhà lúc ấy đều kéo đến vây xung quanh chiếc giường người bệnh.

Thật lâu, hơn một giờ sau, vẫn chưa tìm được bà Hai Hồ. Người bệnh vẫn mê man thiêm thiếp, bất động. Những người vây xung quanh giường tản ra, rút lui hết. Trong phòng chỉ còn lại Bốn Thôi ngồi khóc sụt sịt bên vợ. Trời bên ngoài nắng gắt. Trong buổi trưa, anh ta nghe tiếng nước chảy từ một chiếc gàu rách đổ xuống mặt giếng. Tiếng nước đổ mạnh, kéo dài mãi, anh ta chợt nghĩ: “Không ngờ chiếc gàu rách đến bực ấy.” Nghĩ xong, anh lấy làm ngạc nhiên, vì giữa lúc nguy biến như lúc này mà một chuyện cỏn con vô nghĩa như thế lại có thể hiện đến trong trí mình. Hình như một chờ đợi kéo dài trong cái nóng bức thỉnh thoảng làm cho sự đau đớn của anh tê mê, thiếp đi. Thình lình có tiếng hai người đàn bà cười lớn, khua vang cái không khí nặng nề vắng vẻ. Cùng lúc ấy, Bốn Thôi có cảm tưởng như có một rùng mình nhẹ nhàng lướt qua trên thân thể người vợ. Anh cúi xuống nhìn kỹ: nàngï vừa tắt thở.

Bất giác anh ta quay ngó chung quanh, dớn dác. Không có người nào cả. Một con ruồi xanh bay vào nhà lượn một vòng về phía đầu giường. Bốn Thôi òa lên khóc lớn. Mọi người chạy vào.

Từ ngày về nhà chồng, chị Lộc chỉ đau có một lần, vì một mụn nhỏ. Nhưng chị không qua khỏi, chết không kịp trối trăn.

Sau khi chị chết, tôi đã nghe người ta kể về nhiều điều dớ dẩn của Bốn Thôi. Trong khắp làng, con trai con gái thường đem những chuyện Bốn Thôi thương vợ ra để làm đề tài chế nhạo, đùa giễu. Người đàn ông hiền lành, thực thà nhất lại gây tiếng tăm vì vấn đề ái tình, vì phụ nữ.

Tôi cũng nghĩ rằng người ta thường phóng đại những chuyện như thế cho thêm vui. Nhưng chính mắt tôi, tôi có trông thấy tảng đất sét chừng mười tấc vuông để dưới bàn thờ nhà Bốn Thôi, trên tảng đất sét in một dấu chân người. Nguyên sau khi chôn vợ, mấy ngày sau anh ta hết quanh quẩn bên mộ lại đi thơ thẩn ngoài đồng, tìm đến những chỗ trước kia thường có chị làm việc. Một hôm anh ta chú ý đến những dấu chân của chị còn in rõ ràng trên ruộng, bên cạnh một vũng nước vừa mới khô, với năm ba con cá chết nằm phơi bụng trắng long lanh, một vài chiếc càng cua gãy, vỏ cua bể… Thật là một kỷ niệm xúc động: mới trước đây mấy ngày, chị còn tiến từng bước ở chỗ này, lom khom tìm cái ăn về cho gia đình; dấu tích rành rành tưởng như còn nóng hơi người!… Ruộng đất thịt mới vừa khô lớp mặt, ở bên dưới còn deo dẻo, Bốn Thôi bứng được một tảng đất vuông vắn rất dễ dàng. Cái kỷ vật kỳ cục lạ đời đó được anh ta đem về để vào nơi thờ phụng.

Từ ngày anh Bốn Thôi mang vết chân vợ về cho đến khi tôi có dịp tới nhà anh ta, nhìn thấy nó, cách nhau gần nửa năm. Tuy thế, dấu vết in trên tảng đất hãy còn rõ rệt: ngoài bàn chân chị Lộc ra, còn có thể nhận thấy một dấu chân loài chim, chắc chắn là của một con cò hay con vạc nào đó, và những đường nhỏ kéo dài loằng ngoằng mà tôi đoán là do những chiếc ngoe cua để lại. Chị Lộc, cò và cua! tất cả dồn vào trên mười tấc vuông: tôi nghĩ không còn có bản bi ký nào tóm tắt lai lịch một cuộc đời, phác họa hình ảnh và thuật lại sự hoạt động của một nhân vật, mà vừa gọn ghẽ vừa cụ thể rõ ràng đến chừng ấy.

Bà tôi nghe nhiều lời đồn đại về những lối thương vợ tiếc vợ như thế của Bốn Thôi, nhưng không có cơ hội đến nhà anh để tìm xem vết chân kia. Tuy nhiên bà tôi có cười và nhân tiện kể lại chuyện thuở khai thiên lập địa ông Khổng Lồ gánh đất đi đắp núi, mỗi bước chân lún xuống thành ra ao này, bàu nọ. Đó là thuộc về những câu chuyện tương truyền của “mọi lần”, để cắt nghĩa tại sao có một cái ao ở đầu làng tôi, một cái ao khác ở cuối làng và một cái bàu ở làng bên cạnh, tại sao ở cách làng tôi mươi cây số có một ngọn núi nhọn như đống đất đổ vun và một trái núi dài ra như tuồng ông Khổng Lồ làm đứt dây gánh, đổ đất lai rai…

Mặc dù bà tôi có cảm tình đối với chị Lộc, bà cũng chỉ nhận thấy rằng lúc sinh thời chị đáng được quí mến vì một bàn tay làm nên mắm cua chua và lúc mất đi chị đáng được nổi tiếng vì một bàn chân có liên quan đến những chuyện “mọi lần”. Chỉ có vậy thôi. Bà tôi đã tới cái tuổi không hiểu nổi được những giông tố bão bùng của ái tình nữa. Mà ở anh Bốn Thôi lúc này chỉ toàn có ái tình, có giông tố bão bùng nghiêng ngửa cõi lòng. Người ta ngờ rằng anh có thể hóa dại, nếu không thì cũng ngẩn ngơ suốt đời. Mất chị Lộc, anh ta lại rơi lạc bơ vơ vào trong cái cô độc mênh mông của mình. Anh ta lại lùi lũi một mình, lại đưa mấy ngón tay sờ mó và nhăn nhíu mặt mày để vặt những sợi lông mũi. Anh ta càng xa lánh trốn tránh đám đông.

Sự thương nhớ quá độ đối với chị Lộc lần này làm cho anh ta có vẻ điên dại, khờ khạo, tệ hơn là lần người vợ thứ nhất trốn đi. Chính vào khoảng thời gian này người làng đặt cho anh cái tên Thôi, vì thực ra tên tục của anh trước kia vốn là Nữa. Đối với những người đã lớn tuổi, ở thôn quê vẫn thường gọi họ bằng tên con. Gọi một người bằng tên tục có vẻ sỗ sàng, vô lễ. Trong trường hợp của anh Bốn Thôi người ta đã chờ đợi đứa con của anh lâu quá rồi. Đến khi chị Lộc qua đời thì ai nấy nghĩ rằng thế là hết, anh đã gần ba mươi tuổi đầu, và anh bị “lụy” chuyến này khó bề gượng dậy nổi. Người dân quê có khiếu hài hước ý nhị và giàu lòng tử tế, vừa cười vừa xóa cái tên Nữa, mà gọi anh bằng tên Thôi, để tránh một lối xưng hô sỗ sàng.

Sự việc đặt một cái tên mới cho anh, mặc dù là nhã nhặn, nhưng chứng tỏ rằng người xung quanh đã công khai hết tin ở cuộc đời ái tình của anh ta nữa rồi.

Quả thực ở nơi anh Bốn Thôi có rất nhiều triệu chứng tuyệt vọng. Mắt anh luôn luôn nhìn xuống, tuồng như anh sợ tất cả mọi người. Khi đứng gần một cuộc chuyện trò ồn ào, anh vẫn giữ nét mặt xa vắng, và đôi tai có nghe lời nói của kẻ khác thì cũng cứ như là nghe trộm thôi. Người chú không bao giờ bắt gặp anh ta nhìn theo phía sau những người con gái bằng cái nhìn thưởng thức như trước kia nữa.

Anh Bốn Thôi có vẻ như là đã ngã khuỵu xuống dưới sức nặng của tai biến vừa qua. Không ai dám nghĩ rằng anh ta có thể nói tới chuyện vợ con nữa.

Và anh Bốn Thôi quả đã ngã khuỵu xuống thật. Ngã xong, anh nằm bẹp như thế hơn hai năm trời. Nhưng khốn nỗi, khi anh bắt đầu gượng gạo ngẩng đầu dậy được, thì việc đầu tiên anh ta nghĩ đến là… cưới vợ!

Vợ thứ ba của anh ta là một người con gái mang tật ở chân, bước đi nhúc nhắc. Nguyên đã lâu năm chị đau một thứ mụt bất trị, lở to bằng cái khu chén nơi gót chân bên phải. Chị ta ở giúp việc tại gia đình ông Lý trong làng, thuộc về “đống” họ Lê. Nhà họ Lê cho rằng chị đã quá tuổi lấy chồng, và yên trí là sẽ nuôi chị ta cho tới già. Như thế chỉ tốn cơm ăn, một ít quần áo cũ đã thải bỏ, và mỗi tháng một gói hột “thiên tiên tử” năm lạng để chị ta sú nước vào, đắp lên mụt, trước khi buộc lên đó một mảnh thau có xoi thủng nhiều lỗ nhỏ thông hơi.

Thế nhưng vào lúc bất ngờ nhất, chị ta được anh Bốn Thôi rước về làm vợ. Anh có ý nghĩ bướng bỉnh cho rằng cái mụt nơi chân của chị ta nhất định có thể trị được. Rồi thì có người mách anh, anh nghe theo, mua một tuýp Dagénan, và bệnh chị ta lành thật.

Lành bệnh xong, chị ta liền bỏ nhà trốn đi ngay. Tính ra chị làm vợ anh Bốn Thôi chưa tới sáu tháng. Người ta đôi lúc phải tiếc rằng thuốc men công hiệu lắm khi quá mức chờ đợi; và thứ chân chữa lành bằng thuốc Dagénan vẫn không bằng thứ chân chữa bằng dầu rái.

Anh Bốn Thôi tức giận cưới người vợ thứ tư liền trong năm đó. Nhưng ngay trong năm sau anh ta lại trở thành y nguyên là một người đàn ông không vợ.

Như vậy là nghĩa lý thế nào? Ban đầu khắp làng xúm nhau cười cợt, đùa giỡn, đặt chuyện khôi hài nhảm nhí về anh Bốn Thôi. Nhưng đến khi người vợ thứ tư, rồi tiếp luôn người vợ thứ năm của anh ta cũng bỏ nhà trốn đi luôn, thì ai nấy tự dưng cảm thấy sự đùa cợt không nên kéo dài, không còn thích hợp nữa. Trong tấn kịch có cái gì bi đát.

Bốn Thôi không phải người có số đào hoa, có thói ong bướm, lả lơi. Người lúc nào cũng rầu rĩ và có vẻ nghiêm khắc, mặc dù là ngơ ngẩn. Không ai tin anh thích những mơn trớn của xác thịt đàn bà. Cũng không ai có thể tin là anh được hưởng cái thích thú tỉ tê, thủ thỉ tình tự bên cạnh đàn bà: anh ít lời lẽ quá. Vậy mà liên tiếp mười mấy năm trời, chỉ có mỗi một điều choán tất cả đầu óc anh, chiếm tất cả sự hoạt động của anh, thu hết tất cả tâm trí anh, khiến anh lao đao thất thểu: ấy là những người vợ. Anh hì hục vất vả với những người vợ, như là con người khổ não hì hục một cách tuyệt vọng trước định mệnh của mình.

Một cuộc vật lộn gay go và bất lực với số mệnh kéo dài suốt nửa đời người như thế dần dần nhuốm một tính chất bi thảm, và người chứng kiến không còn lòng dạ nào cười cợt nữa — dẫu rằng trong đó vẫn có ít nhiều khía cạnh đáng cười.

Nhưng về phía những người vợ anh Bốn Thôi, tại sao tất cả — chỉ trừ chị Lộc — tất cả họ bằng lòng lấy anh ta, rồi họ đều bỏ anh trốn đi một cách vội vàng nhẫn tâm như vậy? Người chú Bốn Thôi có điều ngờ vực mà không bao giờ ông chịu nói ra. Còn bao nhiêu người trong làng đều thắc mắc.

Tôi chắc chắn không phải những người đàn bà ấy thất vọng về tính nết thực thà khờ vụng của Bốn Thôi. Về điều đó họ có bị lừa gạt gì đâu. Không phải trước khi chịu lấy anh, họ không hiểu anh là người thế nào; cả làng còn ai lạ gì anh, tất nhiên họ không chờ đợi một người chồng lanh lợi bặt thiệp, tình tứ tao nhã. Như thế họ lầm gì? Mỗi người con gái nọ, một khi biết mình lầm, tự nhiên lặng lẽ, không kèn không trống bỏ ra đi. Họ không hề hé răng nói một lời nào để răn ngừa kẻ đến sau. Người ta bảo rằng đàn bà ít kín miệng. Nhưng khi họ tỏ ra kín miệng, thì lại không phải là vì hảo ý.

Có điều lạ lùng là dẫu bị lầm, họ cũng không oán, và mặc dầu bị bỏ rơi, bị làm nhục, người chồng cũng không lấy làm giận. Những người vợ ra đi như thế làm cho cuộc đời anh Bốn Thôi càng lúc càng đen tối thêm. Người này đi, người kia lại ra đi, sự đau khổ cứ diễn đi diễn lại mãi, mỗi lần như vậy anh ta mỗi cảm thấy rùng mình như nhà thi sĩ nghe lặp lại cái câu tuyệt vọng não nùng từ cửa miệng con quạ quái gở trong bài thơ kỳ quặc danh tiếng nọ, mặt anh mỗi tối đi, đầu anh mỗi gục nặng xuống thêm nữa. Thật vậy, anh Bốn Thôi như càng ngày càng cúi gục xuống, không đủ sức cất cao đầu lên nữa. Tuy vậy, dù gục đầu anh vẫn cứ lùi lũi tới lui thăm viếng gia đình của các người vợ cũ. Mồng năm ngày tết, các ngày cúng quải, anh vẫn lễ mễ khăn áo đến nhà các người vợ cũ làm đầy đủ bổn phận của người rể ngoan, đến nỗi tất cả các gia đình đều thương xót, ái ngại, đều cảm thấy như sự phụ bạc lầm lỗi của các người con gái dần dần trút hết lên họ một cách nặng nề.

Mùa đông năm trước khi xảy ra cuộc khởi nghĩa 1945, bà Hai Hồ gạt lửa để dưới giường nằm cho ấm; giường gãy, bà ta ngã lên lửa, vì vướng lúng túng mền chiếu, không vùng dậy kịp thời, bị phỏng nặng. Ban đầu Bốn Thôi lui tới mỗi ngày vài lượt, về sau anh ta phải ở lại nhà mẹ vợ suốt nửa tháng để chăm nom thuốc thang, nấu cơm, giặt gỵa cho bà ta. Bốn Thôi lúc nào vốn cũng buồn rầu và nghiêm chỉnh. Bởi vậy, sự tận tụy của anh, dù là trong khi anh làm những công việc nhỏ mọn không xứng đáng với người đàn ông, cũng có vẻ khả kính. Anh ta mến trọng, hầu hạ mẹ vợ, bất chấp sự khinh bỉ và mối ác cảm của làng xóm đối với bà ta từ trước đến nay. Thái độ can đảm của anh ta lần lần rồi nâng cao bà Hai Hồ lên ít nhiều trước con mắt người xung quanh.

Tất cả năm gia đình bên phía vợ cũ đều công nhận rằng một người rể như Bốn Thôi thật là quí báu. Và bà tôi, sau khi lục soát khắp cái xã hội mênh mông của “mọi lần” cũng lắc đầu, chịu rằng một nhân vật như vậy khó tìm ra.

Các người nghiên cứu về tính dục ngày nay thường khi họ nêu lên những điều rất nhảm nhí. Thậm chí họ phát giác ra có kẻ tìm thấy khoái trá trong sự tiếp xúc, nâng niu những vật vô nghĩa lý thuộc về người đàn bà mình yêu thương, thí dụ như cái khăn tay cũ, sợi tóc, một mảnh “tàn y” còn lưu hương v.v…, những gì đã gần gũi người yêu và có thể “đại biểu” cho thân thể người yêu. Họ cho đó là một biểu lộ bệnh hoạn của dục tình, như thể là một hiện tượng bái vật trong sự tín ngưỡng.

Hỡi ôi! bà Hai Hồ có thể đem ví với một chút tàn y, một mảnh áo rách không thơm tho mà gợi cảm ấy sao? Và thái độ trọng vọng thành kính trên nét mặt rầu rầu nghiêm chỉnh của Bốn Thôi ấy lại có dính líu đến dục tình sao? — Không còn có sự suy diễn nào nhảm nhí hơn.

Tuy vậy có một chút sự thực cần phải nói ra là quả tình Bốn Thôi thường thường viếng thăm những gia đình vợ cũ không phải vì ân nghĩa, vì tôn trọng những nề nếp lễ nghi phong tục đẹp đẽ. Sự thăm viếng chuyên cần mà trịnh trọng như những cuộc hành hương ấy đối với tất cả năm gia đình nọ, có mục đích ích kỷ. Nó xoa dịu sự khoắc khoải cô đơn của anh ta. Ra vào nhà cửa của các người con gái đã mất ấy, tiếp xúc thưa gởi với mẹ cha chị em họ, tiếp tục đóng vai trò người chồng họ, tẩm mình trong cái không khí thuộc về thế giới những người vợ cũ như thế, Bốn Thôi cảm thấy mặt mũi mình bớt bị tối sầm lại, đầu óc bớt bị trĩu gục xuống; anh ta cảm thấy một sự an ủi, anh ta như được thư thái hơn, bình tĩnh hơn.

Thật là khắc nghiệt và thô lỗ nếu gán cho thái độ của anh những danh từ đại loại như bệnh hoạn, dục tình v.v… khi anh chỉ muốn yên lặng tìm một cảm tưởng an tĩnh. Người đời thiếu sáng kiến thường hiểu được thái độ của những kẻ lánh đời bằng cách lênh đênh khắp ngũ hồ, mà không chịu hiểu cho kẻ lánh đời bằng cách lẩn quẩn trong khoảng năm gian nhà vợ cũ.

Nhưng điều gì mà không ai chịu cảm thông với mình, Bốn Thôi vẫn tin rằng nếu chị Lộc còn ở đời, chị sẵn sàng thông cảm. Sao chị lại không biết đến tâm trạng của kẻ lẩn quẩn ở nhà vợ khi chị đã từng thấu hiểu được cả cái tâm trạng của kẻ lẩn tránh sự cô đơn ngay trong lỗ mũi mình! Bốn Thôi tin rằng nếu chị Lộc còn ở đời anh không đến nỗi thành một hiện tượng bí hiểm.

Nhưng ngoài chị Lộc ra, những người vợ khác, họ đối với anh cũng như mọi người đối với anh. Họ không có sự thông cảm. Có lạ chăng chỉ là họ đã xa bỏ Bốn Thôi mà trước sau vẫn không tỏ một ác cảm gì, một sự giận dỗi nào cả. Một năm nọ, người vợ đầu tiên của Bốn Thôi trở về làng. Chị ta kể rằng đã đi làm công ở một đồn điền trà trên Biển Hồ, chị đã có chồng khác và có con. Tôi có được gặp người đàn bà nhỏ vóc, răng đen, và nước da vàng ấy, gặp vào hôm chị ta tới thăm nhà Bốn Thôi.

Mọi người trong gia đình chị ta đều bảo là chị cần phải đến thăm người chồng cũ. Chị ta nghe theo, thản nhiên. Khi họ gặp nhau, chị ta nhoẻn cười, như thể là để làm lành, xin lỗi, mà cũng như thể là để khích lệ Bốn Thôi. Tuy vậy, anh này vẫn cứ bẽn lẽn. Anh bẽn lẽn, khiến người ngoại cuộc có thể nghĩ là trong việc người vợ bỏ nhà trốn đi trước kia, phần lỗi thuộc về anh chứ không phải về người vợ.

Rồi người đàn bà bạo dạn chào hỏi chú thím Bốn Thôi. Họ hỏi thăm nhau về sức khỏe, về tình hình mùa màng, về công chuyện làm ăn. Người đàn bà lại kể với Bốn Thôi chuyện chị làm công ở đồn điền trà trên Biển Hồ, chị có chồng khác, có con… Như thế, một lúc sau, họ vui vẻ, đề huề, tưởng không có gì ngăn cản họ lại sum họp mãi mãi bên nhau.

Đến một lúc, tự nhiên người đàn bà nhìn về phía bàn thờ, có ý tìm kiếm một cái gì. Bà thím của Bốn Thôi nói:

— Năm ngoái ông ấy trông thấy bộ bình phong tam sơn này, thích quá, nhất định mua về. Bộ cũ bán rồi.

Bà tưởng người cháu dâu cũng chú ý đến bộ đồ thờ bằng gỗ mới. Ông chú nghe nói đến mình, tủm tỉm cười. Nhưng ông ta trông lại, và hiểu rằng người cháu dâu không để ý đến bộ đồ thờ. Quả nhiên, chị ta vừa cười vừa hỏi:

— Cái đó… ở đâu?

Người thím hỏi:

— Cái gì?

Chị ta cười lớn hơn:

— Cục đất đó?

Trước khi chị nói ra câu ấy, Bốn Thôi đỏ mặt như gấc. Anh hiểu sự tò mò của chị ta. Chị đã nghe người ta nói về cục đất có in vết chân chị Lộc! Nhưng mà còn đâu nữa: lâu năm quá rồi, vết chân chị Lộc cùng với những vết ngoe cua đã tan rã, trở về đất bụi rồi, còn đâu!

Người đàn bà nước da vàng vàng cười ngắc nga ngắc nghẻo. Rồi chị ta vừa nói chuyện vừa giúp bà thím nấu dọn bữa ăn. Ba hôm sau, chị lại đi Biển Hồ.

Ngay đến người đàn bà toe toét, dễ dãi ấy cũng vẫn cứ kín miệng về chỗ lý do khiến họ xa bỏ Bốn Thôi. Vì vậy mà sau đó một người đàn bà thứ sáu lại đến làm vợ anh ta nữa!

Người đàn bà này từng có hai đời chồng rồi. Ngày về nhà Bốn Thôi, chị ta đem theo đứa con gái mười một tuổi.

Người ấy dĩ nhiên không phải là một người đẹp; nhưng chị ta cũng không xấu xí. Năm lấy Bốn Thôi, chị vừa ba mươi tuổi, trông hãy còn trẻ lắm, nhưng có vẻ bẩn thỉu, tả tơi. Chị ta có thể mặc cái áo cụt thiếu mất vài hột nút, để hở cả bụng, cứ thế đi lại khắp xóm.

Chị không quan tâm đến sự ăn mặc, mà tôi chắc cũng không quan tâm đến việc lấy chồng. Chỉ có một điều làm bận rộn cuộc đời ấy là sự ăn uống. Nhà thì nghèo túng mà chị ăn vặt vãnh quá nhiều. Chị cũng biết như vậy là không tốt, cho nên nhiều lần người ta gặp chị cầm cái tô đi đến tận cuối xóm, hỏi đi đâu, chị cười bảo:

? Đi xin chút nước bún về cho con nó uống. Nước bún uống vô, thấy khỏe liền. Lạ chớ!… Không mất tiền mà!

Chị lại cười nữa. Kỳ thực, ai cũng biết chị đã mất rất nhiều tiền nhiều lúa vào lò bún, mà không phải là để uống nước cho khỏe. Bởi vì nước bún chẳng ai bán bao giờ.

Người chồng thứ hai chết đi, để lại đứa con trai ba tháng. Chị thường giao thằng bé cho đứa con gái trông nom để chị đi làm công và đi đây đó trong xóm. Một hôm thằng bé đang bệnh, chị đặt nó lên võng, lót một manh chiếu dưới lưng, dỗ nó ngủ, rồi ra đi. Sau khi ăn một tô bún còn nóng tại lò, ăn tiếp luôn một miếng mít vừa xin được, chị còn để dành năm múi mít đem về cho con.

Chạng vạng tối thì chị về tới nhà. Đứa con gái đi vắng, bỏ trống cửa. Gió lạnh thổi vào nhà qua khoảng cửa mở, luồn dưới các ngạch cửa và qua khe hở ở chỗ bức vách bị nứt ra, xiêu ngã. Trên võng, thằng bé đã tắt thở từ bao giờ, mặt xanh lè, một chút bọt sùi ra bên mép. Phía dưới lưng, một con chó con giỡn với sợi dây võng, kéo chiếc võng chạy qua chạy lại.

Hôm đó, chị đánh đứa con gái một trận tơi bời. Và chị kể om sòm cho khắp mọi người biết rằng con bé đã giết chết em nó. Xuân — đứa con gái — nghĩ là quả thật nó có lỗi: nếu lúc ấy đi ngoài xong nó về ngay, không đuổi bắt con chim què thì chắc chắn là em nó không chết. Từ năm lên mười tuổi đứa con gái đã mang một vụ án mạng trên lương tâm.

Sau khi thằng nhỏ chết một năm, người mẹ lấy Bốn Thôi. Việc này không có liên quan gì đến ái tình, mà chỉ là chuyện sinh kế của người đàn bà. Không gặp Bốn Thôi chị ta nguy mất: nhà bếp ngã xuống một nửa, hai bữa cơm hàng ngày kiếm không đủ mà ăn.

Về phía Bốn Thôi, đối với các người vợ của mình — trừ chị Lộc — anh ta vẫn không tỏ ra thích người nào hơn người nào. Chị vợ thứ sáu cũng có những điểm tốt bên cạnh những nết xấu, như mọi người ở đời. Nếu đôi khi có người chê chị ta ăn mặc nhớp nhúa, hở hang, chị nhăn răng ra cười. Trông thấy những người đàn bà săn sóc sự ăn mặc, điểm trang, chị nguýt trộm, bỉu môi sau lưng, đầy vẻ nghi kỵ ranh mãnh. Nhưng chị cũng lại cười.

Lẽ cố nhiên chị ta không dùng một thứ trang sức nào, nhưng nhờ ăn được nhiều, chị có một chút máu hồng bốc lên hai gò má. Nhất là những lúc chị ta cười, máu dồn lên đỏ phừng, trông chị ngon lành như một trái chín cây. Từ khi chung sống với nhau, ngày ngày Bốn Thôi vẫn có nhiều dịp bắt gặp người vợ cười, anh ta có liếc mắt nhìn, và không phải không biết đến cái ưu điểm của vợ mình như thế.

Một đêm tháng ba, chị đi chợ về khuya. Trong thời kỳ kháng chiến chợ họp về đêm để tránh bị oanh tạc. Mỗi người đi chợ xách theo một chiếc đèn làm bằng cái chai cắt ngang. Những anh dân quân gác xung quanh chợ chờ đến lúc trời chạng vạng tối mới cho người ta vào chợ, thắp đèn lên mua bán. Phiên chợ kéo dài như thế tới tờ mờ sáng thì giải tán. Lúc nào có máy bay đến, nghe hiệu lệnh báo động, ai nấy đều phải tắt đèn, chạy tản ra đồng tìm chỗ nấp.

Người vợ thứ sáu của Bốn Thôi đi chợ về vào một đêm trăng tháng ba. Trăng sáng đủ thấy đường đi, chị ta tắt ngọn đèn xách tay để tiết kiệm dầu. Sương xuống trắng cánh đồng.

Đi đến gần cái ao đầu làng (một vết chân của ông Khổng Lồ) bỗng chị ta thấy có vật gì cựa quậy bên một bụi rậm ở bờ ao. Một ánh lửa đỏ lập lòe trong bụi cây. Rồi một hình người trắng toát đứng vụt lên. Chị ta đưa bàn tay lên đè ngang ngực, nhìn kỹ lại, và bật lên cười:

— Quỉ! Làm người ta hết hồn!

Người đàn ông khoát tay liên tiếp, nóng nảy. Nhưng hắn ta không chận được tiếng cười, hắn ta càu nhàu:

— Chỉ có bỏ chỗ này đi cho rồi, còn câu chó gì được nữa! Cười gì mà cười dữ vậy?

Vừa nói người đàn ông vừa giở cần câu lên. Hắn ta đang ngồi câu ếch. Tiếng ồn vừa rồi làm kinh động lũ ếch dưới ao, hắn thất vọng, nhìn chị đàn bà, tỏ vẻ khó chịu. Chị vẫn nhăn răng cười, dễ dãi:

? Chớ câu cái gì mà ngồi như chực rình người ta vậy? Khuya khoắt, khéo lựa chỗ ngồi câu!

Người đàn ông bỗng đổi nét mặt, cười một tiếng nhỏ, ngó thẳng vào mặt chị ta. Câu nói vừa rồi chắc đã gợi cho hắn ta một ý gì. Chị đàn bà biết là mình trót nói một điều sai lầm. Chị ta giật mình, cảm thấy lo sợ, bước đi.

Người đàn ông tên Hải, làm trùm xóm, vẫn là người quen biết lâu nay. Nhưng hắn ta chưa bao giờ nhìn chị bằng cái nhìn “gian” như vậy. Chị vừa quay lưng đi thì hắn ta nói:

— Đi đấy à? Tự nhiên đến quấy người ta rồi bỏ đi đấy à?

Chị ta không trả lời. Hắn nói tiếp:

— Muốn có thịt để ăn chơi không?

Bất giác chị ta ngoảnh lại. Hắn vung cái vợt lên ngang mặt, đung đưa. Bàn tay của hắn nắm thắt lấy lưng chừng cái lưới: có mấy con ếch ở dưới đáy vợt chồm nhảy lên kéo dài thân hình đen thui. Người đàn ông không cần nói, cho rằng cử chỉ của hắn ta đủ hùng hồn, quyến rũ. Nhưng chị đàn bà nhìn một lúc rồi quay đi. Hắn ta vội vàng bảo:

— Thịt ếch mà không ăn? Dại ôi là dại!

— Ừ, thì dại.

Chị sắp bước đi. Hắn hỏi với theo:

— Thờ Phật đấy hả? Từ bao giờ đó?

Chị ta lại bật cười, dễ dãi:

— Ừ, tu lâu rồi.

Chị sắp sửa đi. Hắn ta gọi gấp:

— Này!

— Cái gì?

— Tu quái gì chị mà tu hành? Tại sao không ăn thịt ếch?

— Ai làm thịt cho ăn? Thứ đó, mướn tôi không dám làm thịt: chặt đầu rồi nó còn run cả tay chân. Gớm lắm.

Người đàn ông phá lên cười:

— À! Có vậy mà tưởng chị đâm ra chê thịt. Lại đây! Người ta chỉ cho cách làm thịt ếch.

Thoạt tiên người đàn bà nghi ngờ. Nhưng sau cùng chị cũng trở lại, vừa đến vừa cười. Lúc chị ta đã đến gần, người đàn ông đưa tay lên béo mạnh một cái vào cái má nhiều thịt của chị. Các ngón tay của hắn vừa mạnh vừa nhanh, hăng mùi khói thuốc đã lạnh.

Béo xong hắn ta tiếp liền vào chuyện làm thịt ếch. Hắn bảo chị sau khi chặt đầu ếch xong, phải đè nó xuống, dùng một cái tăm đâm suốt dọc theo xương sống của nó. Như thế vất con ếch ra nó sẽ mềm xèo, nằm im.

Người đàn bà chưa hiểu rõ. Hắn ta cho tay vào vợt, lôi một con ếch ra, trao chiếc vợt, bắt chị đàn bà nằm giữ, còn hắn ta thì đè con ếch xuống, chỉ vẽ cho chị ta biết phải chặt đầu ngang chỗ nào, phải đâm từ chỗ nào. Người đàn bà cười ngắc nga ngắc nghẻo một cách vô lý.

Hắn lại nhìn vào mặt chị ta bằng cái nhìn rất “gian”. Chị biết rằng chị lại vừa làm điều sai lầm nữa, tuy vậy trước khi chị ta kịp ngắt tiếng cười, người đàn ông đã đưa ngón tay vừa nắm con ếch mà quẹt chùi mạnh vào vai áo chị ta. Chị né tránh, hắn ta kéo lại, và chị suýt ngã vào người hắn. Cái khăn lông quấn xung quanh cổ người đàn ông xông lên một mùi khói thuốc lẫn với sương lạnh thành một mùi hăng rất mạnh. Chị sắp nổi giận về cử chỉ của hắn ta, nhưng hắn đã nói:

— Bây giờ thì muốn mấy con?… nghĩa là mấy con ếch?

Chị ta giơ cao cái vợt lên đếm:

— Một, hai, ba… tất cả chỉ có bốn con!

— Bốn con mà không được một bữa no nê hả? Xào với nghệ, cho thật nhiều nghệ, đổ kha khá nước vào. Có bún mà ăn với nó năm ba tô coi nào. Nước ngọt tuyệt. Đã ăn ếch lần nào chưa?

— Chưa!

— Trời ơi! Cứ tưởng thịt cầy chị cũng không từ.

Hắn ta xoay ra nói chuyện về ăn uống. Hắn nói coi bộ thạo. Đôi bên gặp nhiều chỗ tương đắc. Hắn ta đồng ý với chị, rằng ăn uống là một sự quan trọng trên đời. Hắn giúp chị ta tìm một sợi dây buộc bốn con ếch lại vào một xâu dài, xong hắn cầm cả xâu ếch đu đưa trước mặt người đàn bà, để cho những bàn chân ếch chới với suýt cào trúng mặt chị ta. Chị đàn bà cười khanh khách, ngả nghiêng. Hắn ta chồm tới gần, mùi khói thuốc ướp sương đêm, hăng và lạnh, xông vào mũi chị ta, quen thuộc.

Có một lúc người đàn ông bảo:

— Đây cầu cho thiên hạ đi tu hết, cho ai nấy đều kiêng ếch hết.

Hắn hỏi chị:

— Nhà chị thích về niết bàn hay thích ở lại… ăn ếch?

— Đây thì tu.

Hắn phá lên cười:

— Biết thừa ra rồi. Tu mà nghe mùi thịt thì nước dãi ứa đầy mồm…

Chị đàn bà không nghe hắn nói, tiếp tục ý nghĩ của mình, giọng bí mật:

— Chẳng tu mà cũng như tu!

Người đàn ông đang cười, chợt dứt ngang, quay nhìn lại, ngờ vực điều gì:

— Thiệt đấy hả?

Hắn ta vụt hiểu nhanh như cắt. Người đàn bà cảm thấy là hắn đã hiểu tất cả. Sự bí ẩn trong cuộc đời ân ái của Bốn Thôi trải qua sáu người đàn bà, đến đấy bị tiết lộ rồi.

Chị đàn bà biết mình lại sai lầm nữa. Nhưng lần này thì muộn quá, không sửa chữa kịp. Hắn ta nhìn chị rất “gian”, bạo dạn, háu ăn và dữ như cọp! Người đàn bà tự nghĩ: “Muộn mất! Muộn mất rồi!”. Thế rồi đến mức cuối cùng của sự lo lắng tự dưng chị ta nở một nụ cười bình tĩnh, dịu dàng, đón đợi.

Sáng hôm sau, chị ta lui cui mang ếch ra làm thịt. Chị dùng que tăm xỉa vào suốt xương sống, con ếch xụi đơ chân ra, hết run; chị vứt nó ra, lấy một ngón tay lật qua lật lại: thực là bất động. Chị ta mỉm cười vui vẻ: “Thằng cha thạo chuyện ăn thiệt!”

Cái cười dần dần nhuốm vẻ dịu dàng thầm kín, và vẫn vu vơ như một ánh đèn lợt lạt không chiếu vào đâu.

Từ đó, người đàn bà không sợ ếch nữa. Và ngay một lần đầu chị đã xơi đến bốn con ếch, thì dĩ nhiên chị có quyền không chê những con từ thứ năm trở lên.

Tháng giêng năm sau, chị đẻ một đứa con trai.

Ở thôn quê, người ta thường tỏ việc nhà người khác. Một việc đặc sắc như việc Bốn Thôi có đứa con đầu lòng sau sáu đời vợ không thể không được chú ý. Người ta cũng hay rõ cả việc chị vợ thứ sáu ăn thịt ếch sau đêm trăng tháng ba nọ. Và rốt cuộc khắp làng ai nấy đều quyết rằng đứa con đầu lòng của Bốn Thôi chính là do tên trùm Hải hiến cho, cũng như tất cả những đứa con sau này nữa.

Người đầu tiên biết liên hệ việc chị vợ thứ sáu ăn ếch, đẻ con trai, việc chị ta đề huề chung sống với Bốn Thôi, cùng với việc những người vợ trước bỏ anh ta trốn đi, liên hệ những sự việc dài dòng như thế để rút ra một kết luận, người ấy là ông tú Từ Lâm. Ông ta kết luận rằng Bốn Thôi là một gã bất lực.

Ông tú Từ Lâm tuy vẫn đúng là một ông tú, nhưng bà tôi ngờ rằng có nhiều chỗ không còn đáng tin cậy, bởi ông ta không còn thực là một ông tú như những ông tú cổ thời. Mấy mươi năm sống lang thang ở thành thị đã biến ông ta thành ra một kiểu mẫu ông tú kỳ quặc: ông ta mặc quần áo bà ba, ngoài khoác áo bành-tô ka-ki, và khi luận đàm thì xáo trộn tư tưởng thánh hiền với những loại ý tưởng thực là quái gở, nhảm nhí.

Về câu chuyện anh Bốn Thôi, nghe ông tú Từ Lâm kết luận như thế, rồi giải thích cái kết luận ấy, rồi bàn tán với người nọ người kia, rồi cùng nhau cười khúc khích, bà tôi quả quyết rằng một trường hợp như vậy chưa bao giờ xảy ra trong thuở “mọi lần”. Vậy tất có điều vô lý, khó tin.

Dù khó tin, người vợ có thể đẻ con được đã đem lại cho cuộc đời Bốn Thôi sự yên ổn chưa từng có. Trước kia bên cạnh các chị vợ không sinh nở, đời sống của anh ta luôn luôn bị náo động vì những vẫy vùng, oằn oại, như phải trăn qua trở lại suốt mười mấy năm trời không yên, ngoại trừ những ngày sống với chị Lộc. Cho đến khi người vợ mang thai, anh ta như thở dài một cái, tự mình cảm thấy thỏa mãn, thoải mái.

Không thể nói được rằng anh ta đã tìm thấy hạnh phúc. Anh vẫn yên lặng, nét mặt vẫn lầm lì, vẫn có cái gì u tối. Tôi chắc anh ta cũng không lầm về lai lịch các đứa con, mặc dù là không bộc lộ một sự thù hằn ghen tuông nào. Tuy vậy, sau này những khi rảnh rỗi, thay vì hì hục khổ sở với những sợi lông mũi, anh ta lưu ý tới các đứa con, lắng tai nghe chúng cãi nhau, xúm xít dự vào những cuộc ăn vặt của chúng và mẹ chúng. Tấn thảm kịch chấm dứt như thế, trong một cảnh quây quần ríu rít không hẳn là vui vẻ sung sướng.

Người vợ tiếp tục đẻ, và cuộc đời Bốn Thôi càng ngày càng êm ả, vững chãi, càng xa những đảo điên, nguy hiểm.

Sau khi Bốn Thôi sinh con đầu lòng chẳng bao lâu thì tình hình ở vùng chúng tôi đã không được yên ổn. Nhiều tin tức liên tiếp báo rằng chiến sự rất có thể lan đến nơi. Gia đình tôi trù tính chương trình tản cư. Nhưng một trong những điểm đầu tiên mãi mãi không sao thực hiện được: ấy là việc đưa bà tôi đi lánh nạn.

Ban đầu bà tôi có dự vào những cuộc bàn cãi về tình hình, mỗi khi gia đình tiếp đón một tin tức chiến sự quan trọng. Người tỏ ra rất luống cuống, lo hãi. Người thở dài nhiều lần, đồng ý là đành phải tìm chỗ chôn giấu mấy bộ đồ thờ, những chén dĩa quí và một số thóc, còn một số nữa thì di chuyển ngay đi gửi ở một làng sơn cước để phòng ngừa khi phải tản cư lên đó mà ăn. Nhưng đến khi bàn vào việc tản cư thì người luôn luôn tìm cách trì hoãn ngày lên đường. Về sau. bị mọi người thúc giục gấp quá, bà lảng tránh hẳn những cuộc bàn cãi về vấn đề lánh nạn.

Bà tôi cũng có một lý lẽ để chống cự một cách yếu ớt với con cháu: “Nếu có chuyện gì nguy hiểm thì làng trên xóm dưới đều chịu hết, chứ phải riêng gì mình sao?”. Đến khi các cô tôi bảo rằng từ làng trên đến xóm dưới người già cả cũng đều lục tục tránh đi cả rồi, thì bà tôi nhất định không nói đến chuyện giặc giã nữa.

Cuối tháng tư năm ấy, một hôm vào khoảng chín giờ sáng, giặc nhảy dù xuống cách làng chúng tôi chừng bảy cây số. Thoạt tiên, khi máy bay quần nhiều vòng rộng trên khắp vùng, ai nấy tưởng sắp có cuộc oanh tạc, đều chui hầm trốn. Đến khi có người trông thấy những chiếc dù từ phi cơ rơi liên tiếp như những giọt dầu lớn nhểu xuống giữa một màu trời xanh rất đẹp, người ấy la lên hoảng hốt, tức thì chúng tôi hết sức bối rối. Địa điểm tập trung quân nhảy dù ở gần quá, nếu họ tiến về phía làng chúng tôi thì chỉ trong một giờ là đến nơi rồi!

Lần này bà tôi không còn cách gì trì hoãn được nữa. Người bị đưa đi tản cư ngay giữa lúc máy bay còn quần trên đầu ầm ầm.

Bà tôi lần tới được nơi đã dự định, tức là một nhà quen ở mép núi, thì người lánh nạn tràn vào đã đông quá rồi. Họ chiếm tất cả các gian phòng trong nhà. Ngoài vườn, dưới bóng cây mít, cây chuối, giữa các lùm thơm, người ta cũng trải chiếu lên mà ngồi, mà nằm. Dàn xếp mãi, thầy tôi mới giành cho bà tôi được một chỗ ở đầu hè.

Ở đây, một khi chiếm được chỗ, trải chiếu ra xong, bà tôi gần như bị bắt buộc phải loay hoay mãi trên khoảnh một manh chiếu ấy suốt ngày. Mỗi lần đứng lên đi một bước, người phải vất vả giữ gìn cẩn thận để tránh khỏi va đụng vào những người nằm, những trẻ con ngủ, những chén dĩa, niêu nồi, ấm tách, gạo mắm… dàn ra xung quanh.

Buổi tối, sau khi dò la tin tức hành quân, mỗi gia đình cho về làng một vài người đàn ông để góp nhặt chuyển nốt những thứ gì có thể chuyển được lên núi, những thứ đã bỏ sót ban sáng trong lúc vội vàng: những con heo, con gà không kịp bắt đem theo, những trái bí, trái dưa, buồng chuối cần phải bẻ ngay, nếu không sẽ bị mất trộm v.v… Trong lúc thầy tôi sắp sửa theo mấy người về làng, chợt bà gọi lại. Người dặn thầy tôi nếu có đủ thì giờ thì nên xem qua các hũ mắm một tí.

Tôi nhận thấy bà có ý ngập ngừng, tuồng như sợ làm phiền thầy tôi. Sự giễu cợt lâu ngày của các cô tôi rốt cuộc làm cho bà tưởng như mắm muối là một thị hiếu lẩm cẩm của mình chứ không phải là một nhu cầu thiết yếu của gia đình. Thử “xem qua” trong lời bà tôi nói có ý khẩn khoản là “hãy chăm sóc”, “hãy cứu lấy” lũ mắm trong cơn hoạn nạn, khói lửa. Người sợ rằng trong hoàn cảnh khẩn cấp một sự gửi gắm như vậy phiền lụy thầy tôi nhiều quá chăng.

Tuy vậy thầy tôi đã chuyển lên núi được hai tỉn mắm trước sự vui mừng hớn hở của bà. Và nhờ hai tỉn mắm ấy, suốt mấy hôm tản cư gia đình chúng tôi vừa được mặn miệng vừa được cảm tình của nhiều bạn hữu lân bàng.

Ba ngày sau hôm giặc nhảy dù, chắc chắn rằng vùng tôi không còn nguy hiểm, tôi được phép về thăm nhà ban ngày.

Bước chân vào một làng vắng vẻ, người ta tự nhiên có cảm giác rờn rợn, hồi hộp. Chỉ cách có đôi ba ngày mà lá cây như rụng nhiều hơn trên các lối đi, cỏ như lan tràn ra nhiều hơn, chim chóc đậu đây đó như đã lạ với bóng người. Tuy đã được biết trước về tình hình, kẻ mới vào làng cũng rụt rè tưởng chừng tại mỗi bụi tre, mỗi góc đường đều có thể gặp một sự bất ngờ.

Thỉnh thoảng mới trông thấy một đám dân quân ngồi xúm xít hút thuốc, trò chuyện. Đi qua khỏi họ đã xa, vô tình ta vẫn còn lắng tai nghe tiếng nói của họ, như bấu víu lấy một sự nâng đỡ cho được an tâm, như dò lắng thăm chừng cái mức độ hoang vắng của xóm làng.

Tôi bước vào khỏi cổng. Điều tôi chợt trông thấy trước tiên là một con gà choai đang chớp cánh nhảy chồm lên mổ con dòi bò quanh miệng một cái chum cao. Mỗ hụt, nó nhảy liên tiếp đôi ba lần, và cuối cùng làm rơi cái sọ dừa đậy chum xuống đất, kêu lên một tiếng khô khan.

Tôi đi vòng quanh nhà, và hoảng hốt vì một tai nạn kinh khủng: không biết con heo nhà ai thả rông đã chui rào vào ủi đổ sáu hũ mắm của bà tôi, vừa mắm cái vừa mắm nước. Vài ba hũ khác bị mất nắp đậy. Và bất cứ hũ nào cũng đầy những dòi là dòi! Thôi, thế là dẫu chưa có súng đạn nổ ra ở đây, cảnh tượng ấy đối với bà tôi đã đủ cái bi thảm của một cảnh chiến trường rồi…

Buổi trưa hôm đó, tôi ở lại nhà, nằm nghỉ ngay trên giường bà tôi.

Ngôi nhà không người tự nhiên mát mẻ hơn mọi ngày. Một con nhện đu đưa ở đầu một sợi dây tơ thả lửng lơ giữa nhà. Một con ong bầu bay quẩn vài vòng rồi chui vào cái lỗ khoét ở lòng trính. Một ngọn gió phất nhẹ, cây lúa con mọc dưới ngạch cửa phe phẩy chiếc lá non. Một con chuột nhỏ, thấy im vắng, chạy ra đến giữa nền nhà, rồi ngập ngừng, đứng lại, quơ cái đuôi nhọn một cách e ngại. Con nhện chạy quanh cây cột rình bắt con ruồi. Và bụi mọt lặng lẽ rơi lên mặt chiếc phản gõ ở phía chái nhà trên…

Mọi vật ở đây đều yên ổn. Và mỗi tiếng co chân, tiếng trở mình của tôi trên chiếu đủ làm kinh động cả cái thế giới những con chuột, con gián…

Hàng ngày, lăng xăng giữa sự hoạt động của gia đình đông đảo, chưa có bao giờ như buổi trưa hôm ấy tôi ngừng lại trong cảnh vắng vẻ, thấm thía sự sống thân mật trong khung cảnh ngôi nhà quen thuộc của mình. Lúc này tôi rõ cái gì đã khiến bà cụ già sống ngót nửa thế kỷ trong ngôi nhà ấy cứ quanh quẩn không chịu quyết định rời bỏ nó để đi lánh nạn.

Có một vật gì cộm dưới lưng! Tôi lật chiếu xem: thì ra là một cây quạt! cây quạt của bà tôi, có buộc một sợi chỉ ở sau cán để phòng những khi đi xa thì gài vào nút áo cho khỏi rơi mất.

Tò mò, tôi điểm qua các vật dụng bà tôi để trên chiếc giường mình đang nằm. Một cây chổi bằng cọng dừa dùng để đuổi muỗi, treo dọc theo cây trụ mùng. Một hộp thuốc tể bát vị đã uống hết thuốc, hộp dùng đựng thuốc rê và giấy quyến, để dưới chiếu, phía đầu giường. Một hộp quẹt vỏ rất cũ kỹ, ba cây đèn cầy, để ban đêm bà tôi thức dậy cầm đi soi khắp xó xỉnh trong nhà. Một gói giấy, trong có mấy tờ bạc vuốt rất thẳng… Những đồ vật nhỏ nhặt, những sắp đặt tỉ mỉ, những thói quen thân thiết lâu đời… một nếp sống đã an bài và thu hẹp trong những hoạt động vặt vãnh! Bà tôi bận tâm về những cái ấy hơn bất cứ cuộc tấn công quân sự nào.

Tôi nằm nghĩ đến mối buồn phiền của bà trong ba hôm rồi, nằm ở một hè nhà dưới chân núi, xung quanh lúc nào cũng lao nhao người vật ngổn ngang, ba hôm xa lạc những chum mắm và những cây nến, xa lạc cây quạt có sợi chỉ buộc đằng cán!…

Có tiếng khua ở trước sân. Tôi xô một cánh cửa sổ trông ra. Một người đang lom khom bưng tỉn mắm đã nghiêng đổ, trút cả vào cái tô lớn thường dùng uống nước chè Huế. Tôi bước ra, người đàn ông quay lại: anh Bốn Thôi! Anh ta cười bảo: “Anh em dân quân xin miếng mắm ăn cơm.” Anh cúi xuống tiếp tục chắt hết nước mắm vào tô, xong rồi ngẩng lên, thong thả nói thêm, để phân trần: “Mấy hôm nay không có chợ, trong xóm lại không có đàn bà để kiếm cái ăn. Phải xin chút ít của đồng bào!… Ủa! heo lại lật đổ mắm nữa! Hôm qua, hôm kia, ngày nào vô đây tôi cũng thấy có đôi ba hũ mắm bị ngã, đỡ lên xong lại bị ủi ngã nữa. Không biết heo nhà ai.”

Cho đến khi tình hình thực yên ổn, bà tôi hồi cư thì rác trong vườn có được dồi dào phong phú khác thường, tha hồ cho người dọn đốt. Tuy nhiên hầu hết các hũ mắm của người đã chẳng còn gì nữa: phần thì bị heo phá đổ, phần thì anh em dân quân mượn dùng. Tôi từng nghe trong chiến tranh nhiều nhân vật tên tuổi bị thiệt mất hoặc một thư viện gồm mấy vạn cuốn sách quí, hoặc một kho tàng đồ cổ vô giá. Những sự thiệt hại như thế khiến cả xứ cùng tiếc. Trái lại chưa nghe nói có ai xúc động vì một sự thiệt hại tương tự như sự thiệt hại của bà tôi. Tuy thế mà so sánh về sự buồn rầu của kẻ bị mất mát, thì vị tất bà tôi đã chịu nhường các nhân vật kia. Nhất là từ đó cho đến khi nhắm mắt qua đời, người không thể nào gầy dựng lại được “cơ sở” như trước nữa.

Sau cuộc nhảy dù ấy một tháng có cuộc đổ bộ ở duyên hải, cả làng lại tản cư lần nữa. Hai tháng rưỡi sau, mặt trận An Khê muốn vỡ: dân chúng được lệnh sơ tản tài sản, vật dụng. Những cuộc chuyển dời liên tiếp như vậy trở ngại công việc mùa màng và làm hao hụt vật thực lúa gạo của mọi gia đình. Trong tình trạng luôn luôn bị náo động ấy mọi người trong nhà cố giải thích với bà tôi rằng mua sắm tích chứa mắm muối thực là không hợp thời. Bà tôi rầu rĩ, và những lúc nhàn rỗi lại thủ thỉ kể chuyện với tôi về mắm (mắm bấy giờ bắt đầu thuộc về “mọi lần”) bằng tất cả sự luyến tiếc.

Bước qua tháng bảy năm đó bà tôi nhuốm bệnh. Người chịu không nổi sơn lam chướng khí trong các kỳ tản cư, chịu không nổi những xúc động lo hãi, buồn rầu liên tiếp.

Những bà cụ già bảy tám mươi tuổi, mắt mờ tai nặng, họ không đủ minh mẫn để nhận thấy các biến cố xảy đến trong xã hội hiện tại. Họ sống với dĩ vãng. Họ bám giữ các thói quen cũ, cùi cũi sống trong cái thế giới riêng của mình, mỗi ngày mỗi tách xa, quá tầm réo gọi của cuộc sống hiện tại. Đời chỉ còn nom thấy những cái lưng còng của họ càng ngày càng xa khuất. Nhưng một khi cảnh sống huyên náo ác liệt bất ngờ làm xúc động đến họ, gọi giật họ về thực tại, họ sẽ hoảng hốt kinh hoàng, thần kinh rối loạn, họ không chịu nổi nữa.

Trung tuần tháng chín, trung đoàn trưởng trung đoàn 80, một người Thổ, toan lập chiến công đặc biệt, lựa chọn toàn cán bộ từ trung đội trở lên, thành lập một đơn vị quyết tử, đốt lửa ăn thề, lấy quốc kỳ làm khăn quàng, nửa đêm tấn công đánh úp đồn Thượng An. Đến chín giờ sáng hôm sau, tám phần mười đại đội quyết tử bị tiêu diệt. Trung đoàn trưởng Văn Danh tử trận. Kế hoạch đánh đồn thất bại nhanh chóng và bất ngờ làm hoang mang bối rối toàn thể binh sĩ. Chỉ trong vòng ba hôm sau, tin dữ loan truyền ra khắp tỉnh: dân chúng lo sợ địch thừa cơ hội trung đoàn vừa mất quá nửa số cán bộ chỉ huy, mà đánh rốc xuống. Nhà nhà lại rục rịch sơ tản con nít và người già. Bà tôi lắc đầu, không chịu xa nhà một lần nữa: người tự xét mình đã yếu lắm, muốn được ở yên tại nhà mình cho dù tình thế có ra sao đi nữa.

Tình thế rồi lại tạm yên. Nhưng các sự lộn xộn trong năm làm cho sinh kế gia đình khó khăn, vật thực thiếu thốn. Vào những ngày mưa gió đầu tháng mười, bà tôi bệnh tình bắt đầu trầm trọng. Một hôm người thoáng nghe mẹ và các cô tôi kêu than là nhà thiếu hẳn mắm để ăn, tiếc rằng đến lúc cần thiết nhất thì số mắm tích trữ của bà tôi lại bị phá hủy. Bà đang lim dim bỗng mở mắt ra, gọi mẹ tôi lại, đàm đạo về mắm. Lần đầu tiên trong những năm về già, người được dâu con tán thưởng về việc trữ mắm. Người hoan hỉ ra mặt, quên hẳn cơn bệnh, dặn dò chỉ bảo mẹ tôi nhiều điều để cố gắng xây dựng lại một cơ đồ mắm muối!

Khi bà thấm mệt, ngừng nói, ngủ thiếp đi, mẹ tôi rón rén bước ra khỏi phòng. Gặp các cô, mẹ tôi nhếch miệng cười buồn bã.

Tối hôm đó, bà tôi phát nóng, mê sảng. Nửa đêm bà trụt xuống khỏi giường, định lần dò đến võng, nhưng loay hoay mãi tìm không ra phương hướng. Người lạc lối ngay trong nhà mình, trong ngôi nhà quen thuộc mà người không bao giờ muốn xa rời. Bà tôi la ú ớ. Mọi người thức giấc, dìu người trở lại giường nằm. Ai nấy đều lo ngại. Tuy vậy, từ đó thỉnh thoảng tỉnh táo người lại hỏi han mẹ tôi về công việc mắm muối, ngầm ý khích lệ.

Sự thực thì độ ấy không cần có sự khuyến khích của bà, gia đình vẫn cố dành dụm mua cho được mắm để ăn. Mùa tháng mười năm đó, hơn tất cả mọi năm, nhà tôi đặc biệt chú ý tới cua: vừa mua, vừa đổ ra đồng để bắt. Các cô tôi xúm nhau nghiên cứu và thí nghiệm các cách làm mắm. Tuy nằm bệnh một nơi, bà tôi không bỏ qua những biến chuyển quan trọng và hợp ý như thế.

Các cô tôi làm hỏng liên tiếp bốn hũ mắm cua chua. Đến hũ thứ năm thì kết quả tốt đẹp không ngờ: nếm thử một chút, ai nấy đồng thanh công nhận không thua mắm của chị Lộc.

Bà tôi được báo tin ấy, mỉm cười. Cái cười của người vừa có vẻ đắc thắng vừa có nghĩa hài lòng vì con dâu trở về với những chăm chút của “mọi lần”.

Nhưng người không còn gượng được nữa. Người mất ngay hôm ấy. Trong tất cả “đống” họ tôi, không ai ngờ sự thành công nhỏ nhặt về một hũ mắm cua lại thành ra nguồn vui cuối cùng mà bà tôi được hưởng trên đời.

Còn vỏn vẹn chín năm nữa thì miền quê tôi kể là được sát nhập vào bản đồ Việt Nam đúng năm thế kỷ. Tôi tưởng tượng nếu mỗi địa phương được vui mừng làm lễ kỷ niệm những ngày lịch sử như vậy thì có lẽ cũng là điều hay.

Riêng về phần tôi, tôi lấy làm hổ thẹn mà nhận rằng quả tình thường nhật tôi không ngờ quê hương mình có một quá khứ xa xăm đến bậc đó. Thăm dò cái quá khứ ấy ở đâu? Chúa này kế chúa kia, vua này tiếp vua nọ chỉ trong có mấy trang sử nhỏ, cây cỏ trong miền mỗi mùa mỗi thay lá, hình mây bóng nắng mỗi lúc mỗi đổi mới… tìm cái cảm tưởng xưa cũ lâu dài ấy ở đâu? Rốt cuộc chỉ có khi nào gần bà, tôi mới thấy lịch sử là mênh mông. Suốt từ giờ này qua giờ kia, bà tôi kể cho nghe vụ kiện giữa chi phái lớn với chi phái nhỏ trong “gánh” họ Lê kéo dài ra liên miên, trong đó có bà góa phụ mang gạo lên tỉnh hầu quan suốt tháng, có ông tú viết đơn giúp bên này, ông lý thảo đơn giúp bên kia, có những vụ đốt nhà, đập lộn, nằm vạ, những chuyện nhì nhằng vụn vặt bỗng nhiên hóa ra quan trọng chỉ vì thuộc về “mọi lần”, bà tôi kể cho nghe đám hát ăn mừng của ông chánh tổng Hạ Ninh, đám cưới ông cử họ Trần, những yến tiệc đãi đằng, bánh trái, cùng những cuộc cãi vã, bà tôi kể về ước nguyện làm quan của gia đình này, về truyền thống đạo tặc của dòng họ kia v.v… Những sự tích lớp lang ấy, với tất cả sự mến tiếc của bà tôi, gợi lên trong trí tưởng tượng của tôi một dĩ vãng ly kỳ và sâu thăm thẳm. Tưởng chừng như năm trăm năm lịch sử quá gọn ghẽ trên sách vở không đủ chỗ chứa những sự việc ngổn ngang phong phú trong kỷ niệm một đời bà tôi.

Bà tôi qua đời. Thời kỳ đang có nhiều rắc rối khó khăn, ai nấy lo cho tương lai hơn là bỏ thì giờ ra nghĩ quẩn về những vụn vặt của quá khứ. Lần lần tôi lớn lên, và tôi cũng đua đòi theo mọi người. Xứ sở gặp toàn những chuyện rối ren. Giặc giã, rồi nghỉ, rồi lại giặc giã; chính phủ này, chủ nghĩa này; rồi chính phủ khác, lại đường lối khác… Tôi cũng lăng xăng theo thời cuộc, nay đây mai đó. Rồi tới khi mỏi mệt, bèn dạt về một đô thị lớn, xa hẳn tiếng súng, len lách giữa xe cộ ồn ào, dạo phố và tán dóc.

Thỉnh thoảng, hoặc nhân một ngày giỗ lớn, hoặc nhân một đám tang, đám cưới nào đó trong họ, tôi về làng. Và những điều trông thấy thực khác xưa. Khu gò trước đình làng, nơi “mọi lần” vẫn diễn ra những hội hè đình đám tưng bừng, bây giờ thực ra chỉ là một khoảnh đất sỏi cằn cỗi, lơ thơ mớ cỏ may quét vào ống quần, một khoảnh đất thật là nhỏ hẹp quá chừng, đi có mấy mươi bước đã hết! Dấu chân ông Khổng Lồ vừa bé vừa cạn, mùa nắng không còn một giọt nước đọng, tới nỗi cây rù rì mọc bên bờ vàng héo đi, tưởng sắp chết khô.

Về phía các nhân vật thì cháu đích tôn ông chánh tổng Hoàn của “mọi lần” ngày nay chỉ là một anh chàng bán thịt heo ngoài chợ, người thấp lùn, thường buộc cái khăn lông rất bẩn quanh đầu. Chi phái lớn của “đống” họ Lê còn lại một người con gái có chồng tập kết ra Bắc, tuổi ngót ba mươi, nước da vàng vì bệnh sốt rét; chị ta mua lại cái máy may cũ về may thuê những quần cụt áo cánh và áo bà ba trong căn nhà lẹp xẹp ở đầu làng. Nhờ ăn mặc sạch sẽ, chị ta cũng hấp dẫn được mấy người đàn ông ngày thường loanh quanh tán tỉnh, giọng cười nói thô kệch khả ố thế nào… Ông tú Từ Lâm ngày nay vẫn còn sống. Về già ông ta trở lại quí mến cụ Khổng hơn bao giờ hết: năm khi mười họa gặp lại tôi, thế nào ông ta cũng hỏi mượn một tờ tạp chí Nhật nhật tân của hội Khổng Học. Giá cụ Khổng còn ở đời mà trông thấy một môn đồ trung thành như vậy tôi chắc cụ cũng khó câàm lòng, có thể cụ sẽ tha thứ hết thảy những năm lang thang phóng túng, sống ngoài lề xã hội đạo đức, của ông tú. Nhưng tiếc thay cụ Khổng không phải là bác sĩ, mà ông tú Từ Lâm ngày nay thì lại cần đến thuốc men thực công hiệu mới sửa chữa được hậu quả những phóng túng trước kia, hơn là cần đến sự tha thứ. Ngày nay thì ông ta ốm yếu quá sức, lúc nào cũng mặc kín từ đầu tới chân, choàng áo bành-tô, mang bít tất cao tới đầu gối, tránh gió tránh nước, run lẩy bẩy từ bàn tay cho đến quai hàm dưới. Những năm sống ở thị thành còn lưu lại nơi ông tú già cái bệnh nghiện cà-phê. Đi tới nhà ai ông ta cũng bọc theo trong túi một gói cà-phê bột, ông ta xin một ly nước sôi, lẩy bẩy mở gói ra, trút cà-phê vào ly rồi dùng cái dĩa tách đậy kín lại. Một lát sau, ông ta gạn chắt nước cà-phê ra chén, cho vào một ít đường. Trong cách thưởng thức cà-phê Tây phương của ông tú Từ Lâm có pha trộn lai căng lối dùng trà của người Á Đông xưa; nhưng trông hai bên Đông Tây gặp nhau tình cờ ở nơi cái già nua lẩm cẩm, ở những ngày tàn rất tiêu điều của ông tú Từ Lâm, người ta nghĩ rằng giá chúng nó đừng gặp gỡ nhau lại hơn.

Ờ! Về phía các nhân vật sao tôi lại không chú ý đến Năm Thiều, người con trai của Thập Tam? Anh ta cưới Xuân hồi mới đình chiến. Gần đây tôi có gặp lại, người thiếu phụ đó mới hai đứa con mà trông già hơn anh chồng nhiều quá. Chị ta giống tính mẹ, ăn mặc xuềnh xoàng, dơ dáy, không để ý đến chuyện trang sức chút nào. Anh chồng, làm dân vệ xã, thì lại như một cậu con trai mới lớn: có một lần gặp nhau, tôi trông thấy anh ta mặc quần ống túm, đầu tóc uốn dợn phía trước, chải tém phía sau. Tôi tò mò sờ sợi dây chuyền vàng nặng một lượng anh ta đang đeo quanh cổ, hỏi: “Anh sắm cái này được bao lâu? Lần trước tôi không thấy. Độ này phát tài lắm phải không?” Anh ta đỏ mặt, chối liền: “Của nhà tôi đưa tôi đi sửa, đem về chưa kịp trả lại đấy mà!” Chị vợ đứng bên cạnh, ngó lảng về phía khác, mỉm cười, tha thứ dễ dãi, như tha thứ một đứa trẻ.

Người thiếu phụ có nụ cười biếng nhác đó hiền lắm, chịu thua, chịu thiệt hết; chị ta làm lơ trước những vụ ngoại tình lăng nhăng của anh chồng. Chị ta cũng không ăn hàng vặt vãnh như người mẹ trước kia. Nhất là chị ta không thích ăn bún và không bao giờ rờ đến một múi mít. Cái xác chết của thằng em trên võng hồi nhỏ vẫn ám ảnh chị ta đến ngày nay.

Những hình ảnh ấy — từ khu gò trước đình làng, cho đến người cháu đích tôn của một dòng họ lừng lẫy bây giờ đứng bán thịt heo, từ ông tú Từ Lâm nhắc nhở một thế hệ xa xôi tàn tạ cho đến anh Năm Thiều của một lớp son trẻ lố lăng — tất cả những hình ảnh ấy làm cho ngày nay quê hương đối với tôi hết cả cái hấp dẫn của thuở bà tôi còn sống. Tôi có cảm tưởng như một người đi tàu trong đêm trăng qua một miền xa lạ, nhìn phong cảnh hai bên đường chỗ nào cũng lung linh kỳ ảo, nhưng sáng ra, xuống tàu, đứng ở một nền ga xép cũ kỹ nhìn xung quanh chỉ thấy toàn đồng khô cỏ cháy.

Lại một hôm, trong bữa tiệc cưới người anh họ ở trong làng, tôi được trông thấy con gà hầm, bẻ quặp mỏ xuống, có mấy sợi bún chẽ phủ qua loa trên mình làm áo tơi, có miếng đu đủ vạt nhọn , khoét trũng, chụp lên đầu làm nón, cặp dưới cánh cây cần câu làm bằng một khúc măng, con gà ấy ngồi giữa tô canh. Tôi rụng rời: ông Lã Vọng! Vì con gà luộc bộ tịch thiểu não ấy chính là ông Lã Vọng của bà tôi “mọi lần”. Tôi thấy cạn hẳn đi cả cái thời xưa sâu thăm thẳm và rộng mênh mông. Tất cả cái thời xưa của bà tôi nghèo sút đi rất nhanh chóng.

Hai năm liền tôi không về làng. Mà tôi cũng không thấy có gì đáng tò mò về chỗ làng mạc của mình nữa.

Thế rồi tình hình trở nên nghiêm trọng. Ở đô thị, người ta kháo nhau về những chuyện dữ xảy ra ở thôn quê. Người ta đâm hồ nghi, e ngại tất cả, coi như nguy cơ rình rập ở khắp nơi, và một người khôn ngoan không bao giờ nên liều mình dời gót ra khỏi thành phố lớn. Những thôn quê, làng mạc, đồng ruộng… thuộc về một thế giới càng ngày càng bí hiểm, càng khả nghi, trí trá, càng cách biệt.

Cố nhiên từ đó tôi càng ít có dịp nghĩ tới chuyện về thăm làng. Thỉnh thoảng một tin tức tình cờ đưa tới: tin người này bị tống tiền, người kia bị quyên lúa, người khác bị lạc đạn. Rốt cuộc đến một tin về Năm Thiều: từ lâu, tối đến anh ta vẫn bỏ nhà, tránh đi ngủ ở nơi khác để khỏi bị địch ập tới khủng bố. Sáng hôm ấy anh ta về gần đến nhà thì một tên địch núp trong bụi nhắm nổ súng. Phát đạn bắn trượt. Anh ta xông vào, hai bên ôm nhau vật huỳnh huỵch. Chị vợ anh ta đang ngồi giặt đồ bên giếng, nghe tiếng súng, chạy ra. Chị ta luýnh quýnh, trông thấy người chồng vật nhau với kẻ địch, thấy hai bên rời nhau ra, thấy anh ta giật quả lựu đạn, rút chốt, và thấy người kia bắn một phát súng lục vào bụng anh trước khi anh kịp ném lựu đạn.

Tôi nghe nói chị gặp ai cũng bảo nếu lúc đó chị ta không luýnh quýnh, chị chạy thẳng tới kịp thời, đập vào đầu tên kia một cây thì làm gì chồng chị đến nỗi chết. Chị ân hận mãi, như chính mình đã giết chồng; gặp ai chị cũng nói đi nói lại chừng ấy, như một người điên. Hai lần trong đời, người đàn bà ấy nghĩ mình có trách nhiệm về cái chết của kẻ khác, trong những trường hợp mập mờ…

Sau đó ít lâu, tôi gặp thập Tam ở thủ đô. Ông ta mặc tây, để tang con bằng một miếng vải đen nhỏ cài ở mép áo sơ-mi ngang ngực. Tôi không để ý thập Tam bắt đầu mặc tây từ bao giờ, chỉ biết đến giờ vẫn còn vụng về quê kệch: tay chân cứng ngắc và đen đủi có vẻ xa lạ với thứ y phục trên người, mà y phục trông cũng nhàu nhò nhớp nhúa quá lắm. Tuy không hiểu vì lẽ gì ông ta lại đổi cách ăn mặc như thế, tôi cũng thấy rõ ông không có vẻ một ông già làm đỏm. Trái lại, thập Tam ngày nay trông chững chạc, nghiêm khắc, và phảng phất một chút buồn thảm trên nét mặt. Không còn gì ở ông khiến người ta nhớ lại câu chuyện bà Hai Hồ ngày xưa.

Hỏi: “Ông vô đây hồi nào?”

Ông ta đáp:

— Non một tháng.

— Ở đâu?

? Tôi có đứa con gái theo chồng vô làm ăn trong này đã lâu. Ở bên Khánh Hội.

Tôi cười: “Thăm con gái, luôn tiện chơi Sài Gòn một chuyến hả?”

Ông ta cũng cười, nhưng buồn bã:

— Có lẽ ở luôn, chứ không phải chơi đâu.

— Ủa, sao vậy?

? “Tụi nó” đòi giết tôi… Thầy chưa biết tin thằng Năm…

— Dạ, có nghe nói… Tội nghiệp…

— Xong thằng Năm, “tụi nó” gởi giấy dọa giết tôi. Thầy tính, tôi già rồi, sức yếu, chỉ có vài trái lựu đạn, chắc gì xoay trở kịp. Tôi tính xin từ chức, tránh đi cho xa xa… ờ, chắc thầy không biết lâu nay tôi làm phó thôn trưởng.

Tóc thập Tam đã bạc gần hết, có nhiều sợi vàng như cước, thật đẹp. Tuy vậy mà so với tuổi tác thì ông ta chưa có vẻ đã yếu sức như lời ông nói: thịt da gân cốt ông coi bộ còn rắn chắc lắm.

Chợt ông ta nói với tôi: “Nhà thầy ở đâu, để tôi đến chơi cho biết, thỉnh thoảng còn lui tới cho vui. Vô đây, gặp một người quen mừng lắm. Ở lạ chỗ, buồn quá!” Tôi vội vã xin lỗi về sự vô tình của mình, và mời ông già về nhà.

Tại bến ô–tô-buýt, buổi trưa, trời nóng hầm hầm. Khói dầu cặn khó chịu, ông cụ già không quen, nhíu mũi lại, rồi rút chiếc khăn đậy mũi cho tới khi xe chạy. Bàn tay khỏe mạnh mà vụng về của ông ta chụp nắm thành xe lẩy bẩy, khó khăn. Ông ta chưa quen với cảnh hoạt động lộn xộn, chưa quen với tốc độ của nhịp sống đô thị. Từ tâm hồn cho đến bàn tay bước chân của ông đều hãy còn xa lạ, bỡ ngỡ, lạc loài giữa cuộc sống mới này.

Tôi không về, mà làng quê tôi vẫn có cách đuổi theo đến đây. Trông nó lụp chụp, tội nghiệp.

Tôi đưa ông già về tới nhà, trời càng nóng hầm. Da trời một màu bầm tím. Suốt buổi xế trưa, thỉnh thoảng lại có tiếng sấm rền. Mây dồn lớp này lên lớp nọ, chồng chất nhiều tầng. Cơn mưa dông chuyển mình quằn quại, vận dụng toàn lực một cách khó khăn.

Ông cụ già để ý theo dõi sự tiến triển của cơn dông một cách tò mò. Tôi nhận xét: “Đây là trường hợp thật đặc biệt. Thường thường ở trong này mưa dễ dàng, gió lạnh thổi qua một lát là mưa đến ngay.” Thập Tam tiếp theo nói chuyện về mưa nắng, thời tiết, mùa màng ở ngoài miền quê.

Mãi tới hơn bốn giờ chiều mới đổ xuống cơn mưa, mưa mà trời vẫn nắng. Mưa đổ rào rào. Lá cây bắt đầu ướt lóng lánh, lá những cây sột sạt, cây mướp, cây vú sữa trước sân ướt vô duyên trong khi trời cứ nắng. Mưa kéo dài một cách khó nhọc. Hơi đất xông lên khét lẹt. Một con se sẻ gặp cơn mưa bất ngờ, sà xuống đậu trên vành chum trước mái hiên, xây qua xây lại hai ba lần, như chưa vừa ý.

Thập Tam vừa nói chuyện, vừa ngó theo con chim, lãnh đạm.

Một lúc, chừng hơn mười phút sau, cơn mưa chấm dứt một cách nhục nhã. Mặt đất nhớp nhúa. Khí trời oi bức.

Ông cụ già lần hồi kể với tôi những chuyện đổi thay ở xóm làng những năm gần đây. Và tưởng như tất cả những người và việc tôi từng biết qua lần lần lùi vào một thời “mọi lần” mới, tất cả hứa hẹn mờ đi nhòa đi trong mênh mông.

Vì tình hình an ninh đặc biệt, làng quê tôi lùi xa mịt mù đối với kẻ ở đô thị; và sự cách biệt ấy đẩy nó vào một cõi bí ẩn mới.

Thập Tam đứng dậy ra về. Trông ông ta túm ống quần tây kéo cao lên, len lách giữa con đường hẻm lộn xộn của ngoại ô, trông cái hình ảnh lạc loài khiêm tốn ấy, tôi nghĩ đến hoàn cảnh lạ lùng với những sự việc khác thường xảy ra ở cái miền quê mà ông vừa thoát ra.

Tiếp luôn mấy hôm sau, chiều chiều trời lại mưa. Cuối năm nay mùa mưa ở Sài Gòn kéo dài hơn mọi năm.

Đi làm về, tôi được lá thư: thư nhà. Tôi chợt nhớ ra đã ba năm nay, lần nào, vào dịp này, tôi cũng được gia đình gửi cho một lá thư. Dịp ấy là ngày giỗ bà tôi: bà mất vào cuối năm.

Thư do em tôi viết — cũng như mọi năm trước — nhưng lần này, sau mấy dòng thăm viếng, liền có tin khác thường:

“… Em và mấy cô về nhà trước một hôm. Buổi tối đoàn văn nghệ ở tỉnh đến trình diễn trong làng, em có đi coi. Dân chúng kéo tới vừa đông, ban kịch sắp sửa kéo màn lên thì nghe lác đác có tiếng súng nổ. Nhiều người xì xào, e ngại. Ông trưởng đoàn văn nghệ liền cho máy phóng thanh phát ra mấy bài ca tân nhạc để lấp tiếng súng, trấn tĩnh đồng bào. Rồi ông ta xua tất cả diễn viên trong đoàn lên chiếc xe Bianchi to tướng; ở trong đó không nghe động tĩnh gì bên ngoài, họ yên tâm tiếp tục ca hát, cầm chừng.

Gần nửa giờ, liên lạc đem tin đến, và người ta quyết định hủy bỏ buổi trình diễn văn nghệ, đồng bào được hướng dẫn để giải tán. Em không được về nhà đêm đó: hướng đi về phía này bị coi là nguy hiểm, có dân vệ bố trí, canh gác.

Em theo một đám người dồn về tạm nghỉ tại trụ sở xã, nằm nghe súng nổ, lúc nhặt lúc thưa. Đánh nhau trong đêm tối thật là lộn xộn; có khi nghe nói bên phía địch kéo tới một đại đội, một lát sau lại nghe bảo lực lượng họ không tới một trung, một chặp có người chạy tới bảo rằng đã có bảo an trên quận xuống tiếp viện, chặp khác lại bảo là chưa thấy gì.

Khi đã khuya, thấy có người cầm cây đuốc dẫn đường cho hai người khác khiêng một chiếc võng tải thương. Anh có biết người thương binh đó là ai không? — Bác Bốn Thôi!

Bác ta bị trúng đạn ở đùi, không gãy xương. Băng bó xong xuôi, bác ta nhắn tin về nhà, và một lát sau thì vợ con chạy đến xúm xít, vây xung quanh, tíu ta tíu tít. Lần lượt bốn người dân vệ khác được khiêng về, một đã chết rồi.

Bác Bốn Thôi bảo vợ con đỡ dậy, ngồi dựa lưng vào vách, đốt thuốc lá hút. Mờ sáng, chiến trận kết thúc đã lâu, mấy người dân vệ trở về bảo với bác ta rằng tên địch bị bác ta đập một báng súng vào đầu, tên ấy vẫn còn bị bỏ nằm đó, không được đồng bọn mang đi. Lúc ấy mới rõ là bác ta có giết được địch. Bác vừa nghe, vừa nhíu chân mày, giơ ngón tay bóp đầu điếu thuốc sắp tắt, chăm chú hút một hơi dài để cứu nó khỏi tắt. Má bác ta hóp lại. Anh có nhớ bác ta năm nay chừng bao nhiêu không? em coi bộ bác đã lớn tuổi, không hiểu sao còn ở trong hàng ngũ dân vệ.

Lúc xe cứu thương đến chở đi, bác ta cứ xin ở lại, làm như người vợ và mấy đứa con xúm xít có thể chữa khỏi vết thương cho bác. Người ta nhất định đem đi, và khi lên xe trông bác ta buồn hiu!

… Giỗ bà năm nay chỉ cúng vái qua loa, bà con không có ai tới dự. Mọi người đều xúc động…”

Đọc xong bức thư hồi lâu, tôi ngẩng lên, trời đã mưa tự hồi nào. Lúc đó vào khoảng sáu giờ rưỡi chiều. Nửa bầu trời u ám một cách hiền lành, mây đen mà vẫn còn phơn phớt xanh. Trời mưa bên này trong khi một phần ba bầu trời phía bên kia vẫn sáng sủa, chân trời vẫn có nắng, như thể là phía trời bên kia điềm tĩnh thản nhiên giương mắt nhìn phía trời bên này mưa gió. Bên kia có những vẩn mây hồng, và những áng mây vàng: vàng đậm, vàng lợt, vàng màu da cam, màu mỡ gà, và ở chỗ giáp ranh với phía trời mưa thì mây chuyển sang màu xanh đậm buồn bã. Giữa khoảng trời rực rỡ màu sắc, phía bên kia, lâu lâu một hai con én bay lẻ, liệng đảo, nhào vút trong mênh mông.

“… Giỗ bà năm nay chỉ cúng vái qua loa”. Cuộc đời bà cụ hiền lành đến thế mà sao cứ phải dính líu mãi tới những việc hung dữ? Bánh cỗ đồ bát bửu, gà bẻ ngư tiều canh mục v.v… chẳng qua là mấy nét tô điểm qua loa trên cuộc sống của một miền nghèo khó. Mối lo lắng thường trực trong đời bà tôi thực ra là cơm với mắm, mắm muối là một ám ảnh đeo đuổi mãi cho đến nỗi khi về già trí óc suy nhược của bà không đủ sức rời nổi nó nữa. Những gì ồn ào to tát ngoài xã hội đều làm cho bà kinh hãi. Thế mà rốt cuộc bà chết giữa chiến tranh, chết rồi vẫn còn bị giặc giã quấy động!

Lại còn anh Bốn Thôi nữa. Anh chỉ có niềm tin ở cái quây quần ấm áp của một nhóm vợ con. Trong đời anh đã trầy lên trật xuống, nhục nhã nhiều phen vì vợ con, rốt cuộc là để gầy ra cái tập thể nhỏ bé, trong đó anh cảm thấy yên tâm, không cần biết đến cuộc sống mênh mông. Trong đó anh cũng cảm thấy đầy đủ; dù sống dù chết, anh không muốn rời xa nó. Anh tưởng vợ con có thể chữa vết đạn cho anh dễ dàng như đã dùng dầu rái đắp lên những đường nứt nẻ ở bàn chân. Thế mà rồi mãi anh ta vẫn không được yên. Lớn lên, gần như hồi nào anh cũng phải cầm vũ khí trong tay: anh né viên đạn của bên này, tránh viên đạn của bên kia, đỡ ngọn roi của bên nọ… Và anh cũng lại đánh trả nữa. Và nét mặt anh thì lúc nào tuồng như cũng rầu rầu, nguội lạnh như của một người ngoại cuộc.

Vậy mà những hoạt động của anh đã làm ra tình hình của xứ sở. Ở Hoa-thịnh-đốn, ở Mạc-tư-khoa, ở Bắc Kinh, Tân Đề-li, Vọng-các, Ba-lê v.v… ở khắp các nơi trên thế giới người ta theo dõi anh, bàn tán về anh. Người ta đem anh ra so sánh với người dân Đức ở Bá-linh, người dân Lào ở Vạn Tượng…, người ta dòm ngó, dò xét cử chỉ của anh, cân nhắc, đánh giá sự can đảm của anh, tài nghệ của anh. Xung quanh hành động anh chắc chắn có những cuộc mặc cả, những trù hoạch bố trí, những mưu mô âm thầm giữa nước này nước nọ. Và cũng có cả những lời hô hào, cổ võ, những tuyên bố lớn tiếng về nhiều vấn đề quan trọng, lý tưởng cao đẹp.

Mà như vậy phải chứ. Việc anh ta làm là nằm trong khuôn khổ cuộc tranh chấp giữa những lý thuyết lớn lao và cao đẹp mà. Tiếc thay cuộc tranh chấp lớn lao thường khi bị bắt buộc phải khuấy động đến cả những đời sống hèn mọn, phải dùng đến những phương tiện nhỏ ấy để làm ra cái lớn lao.

Thời kỳ này quan trọng. Công việc của những người như Bốn Thôi có ảnh hưởng tới mai sau. Nói một cách văn hoa, anh ta đang làm lịch sử đấy: Lâu nay anh vẫn rầu rầu làm ra lịch sử với một vẻ hững hờ, nhẫn nại. Tôi nhớ dáng bộ của anh ta năm xưa, khi anh lom khom cúi xuống bê tỉn mắm vét vào cái bát, nhớ tiếng động nhỏ mà anh khua trong khoảng vườn vắng vẻ. Tôi hình dung nét mặt anh mấy hôm vừa qua, lúc anh nhíu chân mày, chăm chỉ bóp nát đầu điếu thuốc, sau khi dự một trận đánh về…

Một nét mặt khác hiện đến: nét mặt của chị Lộc, khi chị cúi đầu bẽn lẽn, nói với bà tôi bằng giọng dịu dàng: “Con nói thiệt đấy mà!” Đến lúc ông tú Từ Lâm đem ra phát giác công khai sự bí mật của anh chồng, người ta mới lạ lùng về thái độ của chị. Chị làm như không có chút gì buồn lòng về số kiếp đau đớn của mình. Thái độ dịu dàng, thụ động, khuất nhục ấy, ngày nay khi tôi đã lùi ra xa cách xóm làng vừa bằng một quãng thời gian vừa bằng không gian, tôi có cảm tưởng như đó là thái độ của tất cả miền quê mình…

Chiều vẫn còn mưa nửa trời. Những con én chiều bay lẻ đã lặn mất vào bóng tối. Một ngọn đèn hiệu của sở hàng không nở một chấm đỏ đậm, tối sẫm, buồn thiu, giữa lưng chừng khoảng không. Sấm rền từng hồi râm rỉ, không dữ dội.

Chiếc máy thu thanh của một nhà nào ở bên kia sông mở to, ca hát inh ỏi. Tưởng như có một người con gái khổng lồ, rình chờ cho bóng đêm vừa hạ xuống, liền vươn dài cổ, chõ mồm ra, hát lớn, cho tiếng hát lướt từ bên này qua bên kia bờ sông.

Giọng đàn bà vẫn hát xông xổng trên mặt sông, chợt nổi lên một tiếng còi tàu Diésel. Tiếng còi khởi đầu một cách quá hiền từ chậm chạp, vẻ khoan hòa bình tĩnh của nó làm cho người nghe ngạc nhiên. Bởi vì xưa nay, các tiếng còi thường đột ngột, tiếng còi thường là báo hiệu một khẩn cấp. Trái lại, tiếng còi của đầu máy Diésel như làm nhiệm vụ của nó một cách uể oải, tắc trách, hững hờ. Tiếng còi tàu kéo dài một lúc mà không che lấp tiếng mưa rơi lắc rắc trên mái ngói.

Và tôi nằm, bên tai lắc rắc tiếng mưa rơi trên mái ngói, cầm lá thư nhà trong tay, một chiều cuối năm tưởng nhớ tới một bà cụ già thường loay hoay giữa rất nhiều chum mắm, tới anh chàng quá nửa đời người loay hoay giữa một đám đàn bà không thành hẳn được là vợ mình, cùng với một thiếu phụ cho đến chết chỉ có loay hoay với cua!

Khốn nạn cho tôi! vào dịp cuối năm — dẫu là một năm Con Trâu — đáng lẽ người ta nên có nhiều lối nghĩ về quê hương một cách vẻ vang hơn mới phải.

Còn mấy ngày nữa tới Tết, tôi tìm đến thăm thập Tam theo địa chỉ của ông ta cho biết hôm nọ.

Người chị của Năm Thiều không nhìn ra tôi: chị cũng bỏ làng đi từ lâu lắm rồi, tôi phải nhắc lại tung tích, chị mới nhớ ra. Nhưng chị nói:

— Cậu tôi về rồi… về ngoài quê.

— Ủa!

— Cậu tôi mới đi cách đây ba bữa.

Chị ngừng lại, nhếch một nụ cười buồn bã, vẻ chế giễu nhẹ nhàng, đầy thương mến. Người ta biết một hình ảnh vừa thoáng qua trí chị.

— Thầy ngồi! Mời thầy dùng chén nước…

Sao chị lại bỏ ngang, không nói đến điều mà chị đang nghĩ? Tôi hỏi gợi:

— Bác ấy mới gặp tôi, không thấy đả động gì tới chuyện về hết!

— Dạ, hồi mới vô cậu tôi tính ở đây luôn đó chớ; cậu tôi ngán ngoài đó lắm. Mới non vài tháng nay chớ mấy. Vậy mà bây giờ chịu không nổi nữa, còn có mấy ngày là tới Tết mà cứ nhất định đòi về, không nói cách nào cầm lại được. Già rồi, tánh khí nhiều lúc buồn cười. Khi cậu tôi mới vô, nhà tôi đưa đi coi các nơi trong đô thành. Ban đầu cậu tôi vui vui, thích ý được năm hôm. Rồi cậu không muốn đi chơi đâu nữa. Nhớ nhà, lúc đó là bắt đầu nhớ nhà rồi!

Chị lại cười. Lần này thì tôi hiểu vừa rồi chị đã nghĩ đến cái hình ảnh nào. Chị nói tiếp:

— Nhà buôn bán lặt vặt thế này, cậu không chịu được ồn ào, cả ngày nằm trên gác. Tôi biết nằm mãi cuồng chân, bực bội khó chịu, vả lại gác lợp tôn, buổi trưa nóng lắm; nhưng ép cậu tôi xuống dưới nhà này thì kẻ ra người vô lộn xộn, ông già ngồi lơ láo, coi thêm buồn và tội nghiệp.

Ở trên gác một mình cậu tôi tẩn mẩn để ý tới nhiều cái kỳ cục lắm. Một bữa, chừng hơn chín giờ đêm, nhà tôi vừa lên gác, cậu tôi liền nói: “Hai ba đêm nay, tao nghe con gà nòi nhà phía cuối đường cứ gáy vào giờ này. Sung sức quá rồi đó nghe. Gà của ai đó, phải nói với họ cho ‘xổ’ đi.” Thầy biết không? “Xổ” là cho gà nó đá nhau qua loa cho bớt sung sức. Nhà tôi cười: ai hơi sức đâu đi tìm chủ gà mà nói những chuyện như vậy, ở thành phố này hơi nào để ý tới những chuyện đó. Thầy ơi! vậy mà rồi bữa sau cậu tôi tìm tới ông cụ ở cuối đường làm quen, nói chuyện gà đó.

Cậu tôi để ý tới tiếng gà, tiếng chó như thế, nhà tôi hiểu là không thể cầm cậu ở lại Sài Gòn được: cậu nhớ làng xóm quá rồi. Thầy tính, ở chỗ thị tứ xe cộ ồn ào như vầy mà để lỗ tai lắng đón không sót một tiếng gà gáy, vậy thiệt là quá quắt chớ phải chơi sao?

Một người đàn bà mới bước vào, tay cầm cái vỏ chai la-ve, cũng cười góp với chúng tôi. Nhưng người đàn bà cười lâu hơn tất cả chúng tôi, khiến chị con gái thập Tam sau khi đã dứt rồi lại nhếch miệng cười thêm lần nữa, giống như một người chủ nhà lễ phép, ăn đã no còn xới thêm một chén cơm ngồi cầm khách. Nhưng mà chị cười buồn bã trông thấy.

Tôi hỏi: “Bác về như vậy… có biết tình hình ngoài ấy sao không?”

— Theo tôi thì cũng chưa có gì thay đổi đâu. Mới cách có vài tháng, làm gì đã thay đổi. Nhưng cậu tôi nghe nói nay có cấp phát cho cán bộ thôn ấp mỗi người một khẩu súng “ca-líp 16”. Cậu bảo: “Tao về lãnh một khẩu, ‘tụi nó’ có tính giết cũng khó…” Nhưng tôi cho lý do chính là tại cái Tết. Năm hết Tết tới, cậu tôi bồn chồn, nóng nảy, không chịu được, bảo là nhất định phải về: ra sao thì ra.

Người đàn bà cầm cái vỏ chai la-de lại cười, thích chí. Bà ta góp ý:

— Tết nhất năm nay ở nhà quê thì có cái gì mà phải lo về!

Chị con thập Tam nói:

— Chúng tôi cố gắng mời cậu ở lại chơi cho biết một cái Tết Sài Gòn mà không được.

Người đàn bà sốt sắng:

— Tui dám chắc Tết Sài Gòn năm nay hổng có gì dui đâu. Năm ngoái đã buồn. Năm nay tui nói rồi còn buồn hơn cho coi. Mấy người hổng biết chớ các năm trước, trời ơi! Tết tới pháo rần trời, ăn chơi thả cửa, dui hết sức…

Chủ nhà tỏ vẻ tán thành, bằng cách nhếch miệng cười buồn bã. Người đàn bà vui vẻ góp chuyện một lúc rồi trả vỏ chai cho chị, tính tiền, ra về.

Sự can thiệp của người đàn bà tuy thế mà xoay hẳn câu chuyện khỏi cái hướng đáng lẽ là buồn thảm. Tiếp theo người ấy, tôi cũng cáo biệt, tránh không động đến cái chết của Năm Thiều. (Không biết người chị nghĩ gì về cậu em, riêng tôi, đối với anh con trai hí hửng với sợi dây chuyền vàng ấy, tôi cứ có cảm tưởng đó là một con nai tơ to xác lồng ngồng, vô tội, bị ngã quá sớm trong cuộc săn.)

Thôi, thế là cuối năm, một người nữa lại quay về, gắn liền vận mệnh mình với số phận làng mạc:

“Gió đưa ông thập về làng”

Ở lại đô thị, không phải là “bà đội”, “bà thập” nào, mà là những kẻ như tôi. Những chiều gió lạnh cuối cùng của một năm, tôi đón tờ báo chạy bán sớm trên các đại lộ Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Tự Do, quanh bùng binh chợ Bến Thành v.v… dò theo những tin tức chiến sự các nơi.

Tôi trông ngóng, chờ đợi. Những tin tức ấy, chúng là cái liên lạc hằng ngày giữa tôi với xóm làng mà tôi không về được. Trong những ngày như thế, tờ nhật báo đối với tôi có một sự hệ trọng khác thường.

Tôi cho rằng ngay trong tiếng rao báo đã có cái hấp dẫn đặc biệt của nó. Có người nói tiếng rao của người bán hàng rong ở ta thường phô trương sự phong phú của âm thanh tiếng Việt: đó có lẽ là người ta muốn nói tới trường hợp những cô bán cháo bán chè đêm đêm trên bờ sông Hương chẳng hạn. Ngoài ra, không phải lúc nào tiếng rao hàng của người Việt Nam cũng ngân nga, cũng lên bổng xuống trầm như ca như hát, và kéo dài ra đủng đa đủng đỉnh. Tiếng rao hàng phải phù hợp với hoàn cảnh, với tính cách của món hàng. Ai đi xe đò, qua các cầu dài và hẹp bắt qua các con sông Cửu Long, Đồng Nai rộng lớn, xe phải dừng lại chờ nhau ở hai đầu cầu, ai đã đi xe qua bắc Mỹ Thuận, đều phải chú ý đến tiếng rao hàng ở những nơi đó: người bán hàng bu tới bên hông những chiếc xe mới ngừng hay nổ máy sắp chạy và la lên, lật đật, vội vã: “Ai ăn khóm! Khóm! khóm! khóm!… Mía! mía! mía!…” Không còn đâu là trầm bổng du dương nữa, chỉ có một vẻ lụp chụp, gấp rút. Tiếng rao đó cũng nói lên được một khía cạnh của nhịp sinh hoạt ngày nay.

Trở lại tiếng rao nhật báo. Nó gọn lỏn không ngân nga, nó lớn hơn những tiếng rao khác, nổi bật trên những tiếng rao khác. Người bán báo vừa chạy vừa rao, vừa đạp xe đi vừa rao, vừa ngồi trên chiếc xe gắn máy cũ kỹ nổ vang tai vừa rao. Nói cho đúng thì là họ la lên một cách bất thình lình. Trong tiếng rao nhật báo đã có sẵn cái ý khẩn cấp, hối hả, gợi lên một cái gì thảng thốt.

Mới ba, bốn giờ chiều đã có tiếng rao báo sớm chạy trên các đại lộ, trung tâm đô thành. Rồi thì tiếng ấy lan dần mau chóng ra tới các khu phố. Vậy mà cho đến tám, chín giờ tối, người bán báo len lỏi vào các xóm lao động ngoại ô, la lớn bất ngờ, tiếng rao ấy nghe vẫn cứ hấp dẫn; cho tới khuya, khi ta đang ngồi trước một tô mì tô phở trong tiệm, người bán báo loáng thoáng rảo qua một vòng khắp các bàn ăn dìa ra xấp báo, ta vẫn thấy tò mò kích thích, tưởng còn có hy vọng tìm thấy trong ấy một tin tức gì mới khác thêm nữa.

Người đọc nhật báo tò mò muốn biết xem cái nhân loại có mình trong đó đã làm được những gì đáng lưu ý trong hăm bốn giờ vừa qua. Và chao ôi, trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy loài người làm được nhiều lắm: tưởng không có hôm nào mở tờ báo mới ra mà không thấy có những sự việc động trời. Thật là kỳ lạ cho cái nhân loại luôn luôn nhấp nhổm cựa quậy, hoạt động. Một nhà khoa học cắc cớ nhận thấy rằng trong mỗi nguyên tử các điện tử ở cách trung tâm xa lắm, thành ra trong lòng vật chất có khoảng trống rỗng rất lớn; ví như có thể ép các phần tử sít lại với nhau, thì quả đất và tất cả dân cư sống trên ấy sẽ thu nhỏ lại còn được chừng bốn lít! Trong bốn lít ấy con người chiếm được chừng bao nhiêu. Thế mà cái thực chất tí teo ấy lại ồn ào hoạt động quá quắt.

Vậy chiều chiều, những chiều gió lạnh của thời tiết bất thường tại Sài Gòn cuối năm, tôi đón từng tờ nhật báo, dò dõi theo những hoạt động rối rít của cái nhân loại rất ồn ào đó, mò mẫm lần lừa xem sự động tĩnh của một miền quê bé nhỏ, nơi ấy thập Tam, Bốn Thôi… đang sắp sửa đón xuân, và những người bà con còn ở lại xúm xít trước bàn thờ bà tôi.

Thật không ai ngờ có thể tìm thấy, trên tờ báo, tin tức thưởng xuân của một người đàn ông vô vị ở một nơi hẻo lánh xa xôi, bình sinh thường có tật vặt lông mũi để tiêu sầu, tìm thấy những dấu vết ngoằn ngoèo do ngoe cua để lại trên ruộng bùn, những cỏ may lơ thơ phơ phất trên nổng gò hẹp, những chum mắm hũ muối, cùng những sự việc nhỏ nhặt vô vị tương tự. Thế nhưng những kẻ như tôi mơ hồ tin rằng tờ báo nó có cách tiết lộ về tất cả những cái đó. Nó viết theo lối riêng của nó. Nó viết tắt. Mỗi người xem báo tha hồ cảm xúc theo tâm sự, theo những kỷ niệm riêng tư của mình. Mỗi người có một bản dịch riêng cho mình. Người đàn bà cầm cái vỏ chai la-ve nọ hiểu qua những tin tức hoạt động dồn dập ấy rằng: Tết này nhất định không dui.

Còn tôi, trên bản phiên dịch của tôi chỉ chờn vờn toàn là hình ảnh những nhân vật rầu rĩ lố lăng, không hứa hẹn một vinh dự gì cho chỗ quê hương!

1962

Bài Mới Nhất
Search