T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không : Tác Giả và Tác Phẩm-Duy Lam

 

Tiểu sử

Tên thật Nguyễn Kim Tuấn. Sinh năm 1932 tại Hà Nội.

Hiện sống tại Santa Ana, California

Tác phẩm

Chồng con tôi (truyện ngắn), Gia đình tôi (hồi ký), Cái lưới (truyện dài)
Ngày nào còn đàn bà (truyện ngắn), Lột xác (truyện dài)
Nỗi chết không rời (truyện ngắn), Tuyển tập truyện mới (1995)

 

 

Viết về Duy Lam

Người ở đầu sông

Cao Mỵ Nhân

Sau mười năm chúng tôi xa nhau, hai người ở đầu sông Santa Ana, một kẻ ở cuối thành Los Angeles. Hai người ấy là anh chị Duy Lam, còn kẻ kia đơn độc là tôi, chỉ vì anh chị không thích cái City Lawndale này nữa, quá xa thủ đô tị nạn Bolsa của người Việt lưu vong, mà nhà văn Duy Lam vốn là chính khách văn hóa thứ thiệt. Ông luôn được bạn văn mời phát biểu trong các buổi hội hè, đình đám chữ nghĩa. Đồng thời ông còn là một chức sắc Việt Quốc xa xưa, chưa kể Duy Lam trong phái võ lâm ka ki của …tôi. Ông là một trung tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chuyên…trị Chánh văn phòng Tư lệnh các quân, sư đoàn. Tôi thân với gia đình nhà văn Duy Lam cũng bởi ba thứ trang bị thời đại hiệp sĩ trước mốc lịch sử 30-4-1975.

Khi chúng tôi xa nhau, thật buồn, anh chở chị và tôi đi suốt cái Fwy 105 mới hoàn thành, từ tây sang đông xa lộ ngắn nhất khởi chạy từ phi trường LAX tới Freeway 605 thì chia hai, như chữ Y, và đó là dấu hiệu chúng tôi sẽ người Nam, kẻ Bắc. Bây giờ chúng tôi chỉ có thể gặp nhau qua điện thoại. Chúng tôi đã cộng cho nhau thêm chục tuổi riêng với mỗi người.

Cách đây mười năm, anh đã tự lái xe từ Lawndale đi Westminter để nhà thương mổ một bên mắt, mấy tiếng sau lại tự lái xe về Lawndale với một mắt mờ, một mắt bị băng, cùng sự hỗ trợ của chị ngồi bên, không biết lái xe. Còn tôi, tất nhiên không biết lái xe từ sau tai nạn chót ở Việt Nam nên quá sợ cơ giới, nhất là trên các xa lộ mà xe cộ thi nhau chạy vùn vụt như các chiến sĩ giác đấu thế kia. Do đó, chỉ còn điện thoại là phương tiện duy nhất nối liền tình nghĩa ở đời, ấy vây mà có nhiều vị lại quá bận rộn, không muốn và không thích nghe điện thoại, đã mở sẵn cái máy nhắn tin cho tiện, đôi khi vừa nghe, vừa gật gù cái đầu:

– May quá nếu mình nhấc máy, thì phải cà kê với hắn, là kẻ bên kia đầu giây, chẳng biết trả lời sao, hay không biết làm sao dứt được.

Đọc đến đây ắt có vị sẽ bực mình nói:

– Thì nhờ ai, thuê ai chở xe đi gặp nhau, bộ ở Mỹ mà kiệt quệ thế hả?

Vâng, cũng có lúc vậy, phần tôi thì nhờ con cháu hay bạn bè, còn anh chị Duy Lam mấy năm đầu xa cách anh chở chị lên vùng tôi ở chơi, thậm chí còn điện thoại đón tôi đi thăm ai đó, lại chở tôi về nhà, xong anh chị từ chỗ tôi cư ngụ, trở xuống Santa Ana, có khi giờ sắp nửa đêm. Đó là lần chúng tôi đi giới thiệu sách ở tận San Bemardino, cộng đồng người Việt tị nạn thuở đó, do anh bạn Đà Lạt xưa của anh chỉ làm chủ tịch một thời. Mỗi kể ra, lại mới buồn thêm, người bạn làm Chủ tịch Cộng đồng Việt Nam ở San Bemardino ấy rất thích văn chương nghệ thuật, tên Lê Đình Xuân, nay đã rong chơi ở cõi vĩnh hằng mấy năm rồi. Việc gặp gỡ của chúng tôi không phải là một nhu cầu. Nhưng nếu lâu không gặp nhau thì cũng buồn bã. Thành thử có lần chị đã thốt:

– Ở Santa Ana Tower này, họ cấp nhà cho hạng tuổi từ 55 trở lên. Để đủ 55 tuổi, Cao Mỵ Nhân làm đơn xin, dọn vô đây cho vui.

Đó là chuyện cách đây đã 10 năm. Khi đó con cái tôi còn thuê nhà ở Lawndale, thành phố nhỏ xíu mà anh chị và tôi đã sống gần nhau mấy năm đầu tiên tới Mỹ. Bây giờ ai nấy tạm ổn định, anh chị đã là hội viên Hội Cao Niên Mỹ nơi cao ốc dành cho người già, đường Ross – Santa Ana. Các con tôi ra trường, đi làm, đã mua nhà để đỡ phải thay đổi chỗ ở mỗi lần không thích, hoặc chủ lấy lại nhà để sửa, hoặc bán…Tôi không thể tách riêng cái tôi đáng ghét ra khỏi tập đoàn con cháu, nhất là chúng đã kính mến tặng tôi hai đứa cháu nội trai. Hằng ngày, trên cương vị bà nội tôi phải chăm sóc chúng, không dám rời một bước. Mỗi lần anh chị Duy Lam điện thoại cho tôi bây giờ, thay vì thăm hỏi có sáng tác mới không, thơ thẩn ra sao, như trước kia, nay lại bắt đầu câu chuyện:

– Các cháu bé có chơi không, có ngoan không, lên được bao nhiêu pound, và “sao bà nội không đi chơi đâu à?”

Hồi đáp của tôi cũng không ngoài mục tiêu …to lớn ấy, rằng:

– Em bận quá anh chị ạ, hai đưa cháu em phá lắm, phải canh chừng hoài à.

Tới một hôm, Duy Lam vốn là một nhà văn tên tuổi sáng tác đều tay. không thích lắm cái lối đàm thoại…văn thi sĩ mà cứ có con nít kèm theo, phán:

– Tôi thấy cô phải xem lại sinh hoạt cuộc sống của cô thôi, cô còn sống được bao lâu nữa, coi thường sức khỏe vậy? Tôi vẫn hằng thao tác Yoga, để thân thể không xơ cứng lão hóa. Mọi người đã đến thăm, xem tôi tập và đã có báo chí viết về Duy Lam với Yoga, không phải Duy Lam viết văn nối tiếp dòng Tự Lực Văn Đoàn đâu.

– Thì em sẽ xuống thăm anh chị, sẽ tập Yoga như anh nói.

– Nhã Ca đã tới, còn Cao Bá Minh (họa sĩ) hắn trẻ thế mà biết lo thân, sao cô lì vậy? Xưa làm huấn luyện viên dưỡng sinh, bây giờ ngồi ngó cháu thôi à?

– Em sẽ xuống, sẽ xuống nay mai.

Tiếng cười dòn dã của chị Thịnh Chu ở bên kia đầu giây:

– Mỵ Nhân ơi, tới lúc đau chả ai thương mình đâu, chỉ mình thương mình thôi, nên giữ gìn sức khỏe nhé.

Nhà văn Duy Lam nói tiếp:

– Có một ông nhà văn được dân Bolsa biết tới, nhờ các bài viết không ưa ai của ông, nay ông đến tôi tập Yoga, ông thú nhận từ lâu lắm rồi, ở xứ này, nhìn ai ông cũng thấy ghét, nghe tên ai ông càng ghét hơn. Sau vài bài Yoga, ông cảm thấy yêu đời và yêu người thiên hạ chi lạ.

Tinh thần thượng võ phải vậy, là vì mình biết sức mình, biết được sự thắng hay thua nếu đo tài, đo sức chứ.

– Thì vậy nên giờ ông ta, tác giả không ưa ai đã cởi mở, hỉ xả rồi.

– Em lại khác ông ta, là ưa nhiều người lắm. Nghe tên ai, em cũng thấy như quen, tới đâu cũng thấy lạ, nên cứ than thở là sao trời không ban cho đều khắp loài người sống lâu trên trăm tuổi minh mẫn, khỏe vui để đi đây, đi đó. Muốn thế phải trang bị cho mình một cuộc sống thảnh thơi, phẩm hạnh vô tư của một đạo sĩ thứ thiệt.

-Vậy cũng có đạo sĩ giả à?

– Ta gọi tà giáo, ma giáo đấy. Tà giáo, ma giáo thì thích nổi danh, còn chính đạo thường khiêm tốn, vị tha.

Nhưng vùng tôi ở, người ta ham danh, háo danh lắm cô ạ. Có người họ chịu không nổi cái lừng khừng của tôi, đã gọi tôi là Tự Lực Văn Đoàn “ăn theo”. (anh cười lạt), tôi không thèm chấp. Nếu ngày xưa tôi háo danh như họ thì sau khi ông bác (nhà văn Nhất Linh) tôi viết bà Nguyễn Thị Vinh, ông Tường Hùng và tôi (Duy Lam) sẽ là thành viên Tự Lực Văn Đoàn (vào năm 1952-1953), khi một vài vị trong Tự Lực Văn Đoàn kia trở về, để tạm đủ số ủy viên Tự Lực Văn Đoàn ban đầu cùng xét công nhận chính thức, thì tôi (Duy Lam) đã nắm chắc cây bút của bác tôi (Nhất Linh) viết những dòng có vẻ chắc ăn hơn. Khổ quá, cô cũng thường viết thực tài mới đáng kể, hư danh chỉ là chút vinh hoa bọt bèo thôi.

– Thế anh không tỏ thái độ gì à?

– Thái độ gì? Nhà văn mà đi cãi nhau à, nhà văn chung chung đã không nên cãi nhau, huống hồ nhà văn đã có tên tuổi. Tôi bỏ qua mấy năm nay rồi, tự họ thấy ngượng với ngôn ngữ bừa bãi của họ.

– Như thế cũng phải. Có lần anh nói với em là cái vết bùn bẩn trên gấu quần khi đi dưới trời mưa thì cứ để nó khô rồi nó bong ra, chứ cứ cố gột mãi nó loang ra, thấy thật chí lý.

À cô có biết cụ Nguyễn Tường Bách, bác sĩ, người em thứ 7 trong giòng họ Nguyễn Tường của mẹ tôi, vừa qua được con cháu mừng tiệc thượng thọ không? Hôm đó đông con cháu Nguyễn Tường lắm, các ông Tường Bá, Tường Việt, Tường Thiết, Tường Thạch…về đầy đủ, cả Tường Nhung, vợ Trưởng (phu nhân Trung tướng Ngô Quang Trưởng, cựu Tư lệnh Quân đoàn 1 và Quân khu I của…tôi) cũng về.

Thế thì có cả hai ông Tường Đằng, Tường Giang nữa hả? Có Tường Tâm về dự không?

-Có Tường Tâm từ San Jose xuống, Thế Uyên (con cụ Thế) đau không về được, nhưng Sơn (em Duy Lam và Thế Uyên) về, còn tôi dĩ nhiên ở ngay đây là có mặt rồi, tức Duy Lam.

– Vui quá nhỉ?

– Điều tôi muốn nói với cô về chuyện trên là mấy năm sau này tôi mập quá, đến nỗi lúc mọi người hỏi Duy Lam đâu tôi cười cười. mọi người đều nói không nhận ra được, vì thay đổi quá. Tức là nhờ luyện khí công và tập đều Yoga. Hãy lo tập đi nhé, cần thì khuyến khích bạn bè tập luôn cho khỏe và mập mạp để có sức…sống ở đời, rồi mới danh với lợi chứ.

Nhà văn Duy Lam cười vui vẻ bên kia đầu giây, cho rằng cuộc sống của ông như vậy là lý tưởng, tôi buột miệng thốt một câu từ ý nghĩ của mình:

– Vâng, có sức khỏe là tốt nhất, khỏi cần danh với lợi. Chúc anh điều tốt nhất ấy”.

Hawthome Noel 2005

Đọc Văn Duy Lam

Tuổi hạc

Thật ra đâu có phải chuyện gì cũng có thể sẩy ra ở một quán cà phê, vào buổi sáng chủ nhật mà tiết trời còn lưỡng lự ở cuối hạ và đầu thu, đông đảo khách và ồn không thua một cái chợ, chợ Việt nam dĩ nhiên, không phải super market Mỹ. Ấy vậy, đối với một nhà văn tuổi hạc đã cao như tôi 73, cái chuyện ấy vẫn thường cứ sẩy đến tự nhiên như làn khói ly cà phê sữa tôi bắt đầu uống: ấy là được bạn yêu cầu viết một bài về tuổi hạc và giai thoại điệu múa tình yêu tán tỉnh nhau của loài chim hạc vào mùa chúng động tình, trên một cánh đồng hoang rộng lộng gió nào đó, mà người đời xưa chỉ được chiêm ngưỡng từ rất xa. Đó, đơn giản chỉ là vì tôi nghe loáng thoáng Bác sĩ Cổn ngồi cạnh tôi đang trao đổi với mấy người bạn về cái hội mà anh mới sáng lập, có cái tên đẹp và nên thơ Hoàng Hạc. Và tôi vốn là một thầy dậy Yoga, hay quan tâm đến việc tập tành của người già, vọt miệng hỏi người nhạc sĩ kiêm võ sư Hapkido kiêm cố vấn cho một tổng thống, Hội Hoàng Hạc anh mới sáng lập à? Anh dậy cái gì cho các cụ già vậy? Có đông môn sinh không? Anh đáp ngay, ấy tôi dậy hô hấp nhịp với những thế tập để giữ gân cốt mềm dẻo, máu huyết lưu thông. Đại khái như thế này! Và tôi liếc nhìn, thấy thú vị ở hai bàn tay anh làm một số thế tập của dân võ mềm dẻo và nhịp nhàng dễ sợ, chỉ một bậc thầy mới biểu diễn dễ dàng như thế.

Một anh bạn khác ngồi cùng bàn cũng bàn góp, anh Cổn thời nhiều chuyện làm, lập đủ các thứ hội, giờ lại thêm hội tuổi hạc. Mà sao lại đặt tên là Hoàng Hạc? Có phải chim hạc là loài chim sống lâu nhất trong các loài chim thiên di hay không? (immigration birds). Có vẻ như câu hỏi đặt ra mà chưa ai trong hai cái bàn tụ họp văn nghệ sĩ ở Xưởng Cà Phê để ý tìm hộ câu trả lời. Phần tôi, tôi góp ý, đó cũng vì cái huyền thoại người xưa truyền lại cho chúng ta là hạc múa, có thật không? Chúng múa ra sao, có đẹp không? Chân chúng cao lênh khênh, e múa trên mặt đất cũng khó hay. Mà tại sao hứng chí chúng lại múa may làm chi ? Bay từ lục điạ này sang lục địa khác đã mệt ứ hơi lại còn bầy trò múa may. Ấy vậy mà chính tôi mới đây tình cờ được xem một chương trình về các loài hạc (cranes) trên đài Discovery, tôi đã được thấy các con hạc xòe cánh múa nhịp nhàng uyển chuyển dễ sợ. Nhưng chúng múa là có mục đích hẳn hoi, chẳng phải là múa chơi khơi khơi.

Xem ra câu chuyện về chim hạc múa không làm các bạn tôi chú ý lắm. Ngoại trừ anh Cổn, người mời sáng lập ra Hội Hoàng Hạc. Anh hỏi tôi, anh kể cho nghe về cái vụ hạc múa này đi. Lý thú đấy. Đúng lúc đó anh Hạ Quốc Huy, một đại võ sư kiêm họa sĩ và thi sĩ xịch đến đưa cho anh Cổn bốn năm tờ giấy với những phác thảo về các con chim hạc đang bay, mầu sắc rất bắt mắt, và nét vẽ mạnh mẽ phóng khoáng. Khi tôi hỏi, anh Cổn nói anh Huy giúp vẽ cho tôi các con chim hạc để minh họa cho những bài viết của tập san nhỏ của nhóm Hoàng Hạc. Thôi tiện đây có ông văn sĩ kiêm thầy Yoga là ông, ông giúp viết cho một bài bàn chuyện lan man về loài hạc nhất là về cái vụ hạc múa ra sao và tại sao múa. Nhớ đấy, một bài ngắn độ vài ba trang thôi. Tôi đồng ý và hứa tính viết một bài tuỳ bút, về tất cả những gì tôi biết về cái loài hạc mà thường được người đời quý trọng đến độ đặt tên cho tuổi già của các bậc lão là tuổi hạc.

Tôi kể cho anh Cổn và vài người bạn cùng bàn nghe cái chương trình TV về loài hạc tôi đã được xem. Quả thật trước đến nay có truyền tụng là hạc múa nhưng đại khái, có lẽ cũng giống các linh vật như loài phượng, nên mới có câu: viết chữ đẹp như rồng bay phượng múa. Còn sự thật ít có bài viết rõ ràng về cái hiện tượng loài hạc hay múa, nhưng múa một mình một con hay múa cả đàn và có đẹp không, thời đến nay ít ai đọc thấy hay được xem tận mắt, ít ra là trong cái đám văn nghệ sĩ Xưởng Cà Phê Chủ Nhật chúng tôi hôm ấy.

Đại khái tôi nhớ, có rất nhiều loài hạc, hoàng hạc, bạch hạc hồng hạc. Loài hồng hạc tức là Flamingo, được nuôi rất nhiều ở các công viên quốc gia ở Florida. Đến mùa động tình, mating season, loài hạc này tụ họp rất đông cả đàn và chính vào dịp đó các cậu hạc đực phải biểu diễn cái tài múa, chẳng qua là để làm các nàng hạc quây quanh thán phục cái nhịp nhàng và bền bỉ mạnh mẻ của các cậu múa sòe cánh, co chân, đạp chân, nhẩy quanh cúi cúi đầu với cái cổ dài và đôi sải cánh lớn quay lộn trong những nét múa thật điệu nghệ, không ngờ có thể thấy được ở các loài chim vốn sẵn có vẻ vụng về với đôi chân lênh khênh khi đứng trên mặt đất hoặc trong đầm nước nông. Theo lời bình luận của các nhà sinh vật học, múa như vậy là các cậu hạc đực chứng tỏ sức mạnh thể chất, tức cái khả năng làm tình làm sinh lý, tức là điều quan trọng hàng đầu trong những yếu tố mà các cô hạc tìm ở giống đực. Cái lạ là sau khi các chàng hạc đực múa may biểu diễn dưới những con mắt quan sát rất kỹ và đánh giá của các nàng, rồi cuối cùng anh chàng hạc nào múa hay múa rẻo múa bền hàng đầu, sẽ được ngay vài nàng sà đến chiếu cố nhận làm bạn tình, rồi từng cặp từng cặp các cô cậu hạc tiếp tục múa vờn nhau lượn quanh nhau, cọ đầu cọ cổ vào nhau, đôi khi soắn cánh vào nhau. Đó là điệu múa tình yêu của loài hạc vào mùa động tình tán tỉnh để cặp đôi với nhau.

Bình luận gia của chương trình TV về loài hạc, cũng nhắc tới những nhận xét của một số tiến sĩ tâm lý học về cái tài nhẩy giỏi nhẩy đẹp nhẩy hay và bền bỉ của một số chàng trai trẻ trong các buổi bal gia đình của xã hội loài người văn minh. Theo họ, các người nữ cũng rất quan tâm đến tài nhẩy giỏi của các chàng vì sự kiện đó chứng tỏ họ khỏe mạnh dẻo dai, chẳng phải chỉ trên sàn nhẩy mà còn ở những địa bàn khác, trên giường chẳng hạn, hay trong các liên hệ dục tình lứa đôi.

Xong cái phần bàn về hạc múa, tôi lại có một vài nhận xét khác là tại sao loài chim hạc lại được các nhà thơ Trung hoa nhắc đến, mặt khác tại sao tuổi già của con người lại được ví với tuổi già của loài hạc, tuổi hạc. Kể ra chim hạc cũng chẳng phải là loài chim sống lâu nhất, so với độ tuổi vài trăm năm chẳng hạn, tương đương với một trong bốn linh vật là loài rùa. Con phượng là linh vật của huyền thoại không có thật, chú rùa sống lâu gần hai trăm năm là chuyện được giới nghiên cứu động vật học xác nhận. Không lẽ lại ví tuổi thọ của các cụ là tuổi rùa, e không suôi lẫn êm tai và cũng không tạo ra những gợi ý liên tưởng đẹp; trong khi chim hạc có thật và nhiều loại, đối với người xưa cái khả năng bay xa bay cao và cái giáng hình sải cánh rộng, chân dài cổ dài vươn cao của hạc rất đẹp một cách thanh tú, bao hàm những yếu tố cần thiết cho sự bay cao bay xa, và tiếng hạc kêu cũng trong trẻo. Trong như tiếng hạc bay cao. Có lẽ vì cổ hạc dài nên tiếng kêu của nó, khi từng đàn hình chữ V bay tít trên trời cao, khi mùa lạnh tới và chúng thiên di từng đàn sang những vùng ấm áp xa xôi cách cả một lục địa hay các biển mênh mông, đã khiến các thi sĩ thời cổ ngửng đầu lên chiêm ngưỡng thán phục; và những xúc động như thế làm nẩy sinh ra các vần thơ đẹp nhất ca tụng loài hạc. Có thể thân phận con người phần đông nhỏ bé hèn mọn, sống giới hạn tại những vùng đất hẹp, mộng ước bay bổng thật cao, sải cánh bay đến các chân trời diễm ảo xa lạ đầy quyến rũ, cũng chỉ là giấc mộng muốn giải thoát khỏi các cảnh đời tù túng giam hãm không thay đổi. Sự thật, chim hạc bay trên cao kêu vang chẳng qua là để dục những chim hạc khác là đã đến mùa thiên di và các chim hạc lạc bầy nên nhớ là đã đến thời điểm thiên di, mau bay bổng lên nhập đàn để cùng nhau đến các phương trời ấm áp khác.

Nếu thế đến đây tôi vẫn chưa tìm ra nguyên nhân lấy tuổi của hạc để ví với tuổi già của con người. Hạc đẹp thanh tú, thường được tạc làm các giá nến đặt trên bàn thờ, gần như là một linh vật, nhưng vẫn là loài chim có thật mà người xưa đã quan sát thấy và biết được đôi điều về lối sống của loài chim này. Có thể vì có một loài hạc trên đầu có mấy chòm lông trắng phất phơ khi nó bay nên khiến người ngắm liên tưởng đến những cụ già tóc bạc phất phơ tung bay trong gió lộng, chống gậy trúc phiêu diêu trên các vùng núi cao ngoạn mục, đôi khi cứ như các vị tiên ông trong cổ tích còn cưỡi hạc bay lên trời. Nên hình ảnh một cụ già cưỡi hạc quy tiên là cách người xưa tô vẽ cho đẹp như sự ra đi lìa cõi thế này của các người già, vốn được trọng vì sự khôn ngoan trong xã hội cổ thời.

Đến đây là đến phần hình tượng hạc trong văn chương. Tôi nhớ có đọc một cuốn tiểu thuyết Ngàn Cánh Hạc (A thousand Cranes) của nhà văn Nhật Kawabata đã từng được giải thưởng Nobel văn chương, Ông chọn cái tên cho truyện nên thơ như vậy chẳng phải là vì viết về loài hạc mà viết về một truyện tình, với cái nét gợi dục khá rõ rất đặc biệt của các cây viết Nhật. Dĩ nhiên ta lại phải đề cập tới bài thơ nổi tiếng của Thôi Hạo “Hoàng Hạc Lâu”, mà người Việt hầu như không ai là không nhớ hai câu kết. Tôi vốn dốt chữ nho nên khi nhắc đến bài thơ này lại phải lục tìm trong Văn Hóa Ngày Nay, bài dịch của thi sĩ Tản Đà và nguyên bản Hán Việt như sau:

Hoàng Hạc Lâu
* Thôi Hạo

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ?
Thử địa không du Hoàng Hạc Lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tịnh xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh vũ Châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu

Hoàng Hạc Lâu
* Tản Đà dịch

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu con trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông lạnh cây bầy
Bãi xa Anh vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

Hoàng Hạc Lâu
* Nhất Anh dịch

Người xưa cưỡi hạc vàng đi mất
Hoàng hạc lâu nay vắng bóng người
Một vẫy hạc vàng thăm thẳm biệt
Ngàn năm mây trắng lững lờ trôi
Hán Dương dòng lặng cây mờ bóng
Anh Vũ bờ thơm cỏ rợn trời
Này bóng chiều buông đâu cố quận?
Sông đùn khói sóng não lòng ai?

Hiện nay trên 40% dân Mỹ được coi là mập phì, nên nếu trong số đó có nhiều cụ gốc Việt, e thong dong cưỡi hạc bay bổng lên trời xanh thời chắc đó phải là một loại hạc to lớn dị thường. Cho nên thực tế là để được hưởng tuổi thọ tuổi hạc là 87, tuổi thọ trung bình theo thống kê mới nhất của Mỹ, tốt nhất là phải năng luyện tập, dù đó là Tai Chi, hay Khí Công, hay Yoga, hay bất cứ môn tập gì đi chăng nữa. Có vậy mới có thể sống những năm tuổi hạc còn lại ở đời thong dong tự tại. Hầu cũng như người xưa khi tiếng hạc vẳng trên trời cao vọng xuống nhắc nhở đà đến giờ bay, ta sẽ nhẹ nhàng nhìn lên những làn mây trắng vẫn lững lờ trên trời từ thời của thi sĩ Thôi Hạo, và chỉ một vẫy tay từ biệt thời cánh hạc đã nhẹ đưa ta vút tận trời.

Diều mắt đỏ

 

Tiếng súng AK nổ vang động trên cánh đồng trồng bắp và con diều hâu ngã lộn xuống, rớt ngay gốc cây lớn chơ vơ, nơi đội Đức đang cuốc đất chuẩn bị cho mùa tới. Tên cán bộ võ trang đắc chí nói: “Các anh xem đúng không? Tôi chỉ bắn một phát là nó phải nhào. Thế là hóa kiếp cho cái kẻ hay bắt gà chuột đồng”.Vân, người trại viên trẻ nhất đội vừa mới đây khích tên cán bộ bắn con diều hâu cứ chọn cành cao nhất của cây làm chỗ đậu, cái đầu ngạnh ngạnh ngạo nghễ quan sát giang sơn của nó, nơi mà tất cả các sinh vật nhỏ bé sẽ có thể bị móng sắc của nó quặp vào lưng sau khi cái bóng xám của nó lướt qua như một làn khói, vội lên tiếng đầy kích thích. “Cán bộ bắn giỏi thật. Cán bộ cho tôi cái xác con diều nhé để lấy xương làm thuốc”. Tên cán bộ liếc nhìn người trại viên trẻ, trước bị bắt về tội bán xăng của một hợp tác xã, gật đầu và Vân bỏ cuốc xuống, chạy tới nhặt cánh diều. Tên cán bộ quản giáo lên tiếng báo giờ nghỉ giải lao giữa buổi sáng đầu thu trời xám đục một màu chì, và các trại viên ùa tới quây quanh xác con diều hâu. Con vật đẹp đẽ với lối bay lượn từng vòng xoáy lên cao này đã là đề tài khá hào hứng cho cả Đội bàn tán suốt mấy ngày qua. Cái nhịp lao động cực nhọc và buồn tẻ kéo dài của Đội thường cứ làm hầu hết trại viên mụ người trong một nỗi buồn chán bi thảm, nên bất cứ sự việc nào ra ngoài lệ thường đều hấp dẫn.

Đức vừa châm điếu thuốc Mai cuối cùng chàng để dành từ hôm qua hít một hơi dài và nghĩ đến một câu trong cuốn sách của André Maurois “Đời nhà binh là một cuộc đời đều đều buồn tẻ, điểm đâu đó những nguy hiểm thực sự” mà chàng cứ phỏng theo để nhắc lại với vài người bạn tù “Đời cải tạo là một cuộc đời lao động đều đều cực nhọc buồn chán, điểm đâu đó vài nguy hiểm thực sự.” Đức cũng tiến lại gần chỗ anh em túm tụm quanh xác con diều hâu mà Vân đang dơ cao lên cho mọi người xăm soi, bàn tán.

Thấy Đức, Vân vội khoe anh “Anh Đức ạ! Thế là em đã kiếm được cho anh bộ xương con diều hâu rồi đây nhé. Anh phải thưởng cho em một bao thuốc Mai đấy”. Đức lại gần Vân và khi tia mắt chàng chạm vào cái cặp mắt đỏ một màu hồng ngọc mở trừng trừng của con vật đã chết, chàng tự nhiên rùng mình. Chẳng hiểu sao cặp mắt cũng mở trừng trừng đầy căm hận của Ân lại trở lại như một ám ảnh hãi hùng, đã cứ nhiều lần xuất hiện trong những cơn ác mộng đã làm Đức choàng tỉnh trong đêm người toát mồ hôi đầm đìa.

Chàng dơ xác con diều hâu Vân trao cho đầy gượng nhẹ và cẩn trọng. Trong hai tay chàng thịt con diều hâu dưới làn lông tơ xám nhạt phủ ở bụng ức và trắng nõn sát da, còn ấm hơi nóng còn sót lại của sự sống và cặp chân với đôi cựa cong cũng mang lớp vẩy xám đục, vẫn còn hơi rung rung co dật nhẹ. Viên đạn AK xuyên qua bụng trổ ra trên lưng còn đọng máu thắm đỏ ở chỗ đạn xuyên qua, đôi cánh khá rộng còn nguyên vẹn với những lớp lông pha trộn nhiều “tons” từ xám nhạt chuyển sang đậm tạo thành một cái nền thật đẹp và óng ả, càng làm nổi bật lên cái ánh đỏ trong lạ lùng của cặp mắt, với hai điểm đen đồng tử – hai cái lỗ thông với sự sống vừa thoát ra từ bên trong. Một tiếng nói nào đó của một bạn tù vẳng lên “Đức định làm gì với xác con diều? Xương để dành làm thuốc bó các khớp trật hay bong gân, nhưng thịt nó ăn được không nhỉ?” Tiếng cười của vài người vẳng lên cùng với vài lời bàn góp “Ăn thế quái nào được, vừa dai vừa tanh“Ăn thịt diều hâu? Ai lại nghĩ đến chuyện kỳ vậy nhỉ. Tù mà! Thấy con gì cũng nghĩ đến chuyện thịt có ăn được không?”

Đức hơi mỉm cười không đáp vào trọng tâm câu hỏi của Vân“Vân à! Cậu xem có cách nào ướp được xác con diều này thì thú lắm nhỉ. Tưởng tượng xác ướp của nó toàn một mầu xám với hai cánh giương ra như nó đang bay lượn oai nghi và chiếu đôi mắt đỏ lên toàn cái giang sơn của nó, ở đấy vạn vật như chuột gà đều núp mình sợ hãi”. “Đâu có đủ các loại thuốc để ướp xác. Công phu lắm anh ạ! Em chỉ định lấy các lông cánh của nó làm một cái quạt nhỏ để chơi thôi à”.

Đức kéo Vân đến gần chỗ bếp đun nước của Đội, móc túi đeo hông đưa cho Vân một gói trà ngon và hỏi vay một người bạn tù nửa bao thuốc Mai trao cho Vân và rồi chàng ngồi chờ Vân pha trà vào gô, đặt xác con diều xuống đất bên cạnh chàng. Đức lơ đãng nghe câu được câu chăng những lời nói hứng khởi của người bạn trẻ tính toán sẽ làm thế nào để nhổ lông chim diều và làm một cái quạt lông thật đẹp. Đức đang bận tâm ôn lại nhiễu sự việc lộn xộn cứ chen chúc nhau dành sự chú ý của chàng trong trí óc. Không hiểu sao nhiều năm đi tù trí óc chàng lại ghi nhớ một cách rõ rệt khá lạ một số sự việc thật ra không có gì đặc biệt, mà lại cứ hay lãng quên hầu hết những nhọc nhằn gian khổ của việc lao động khổ sai, đơn giản có lẽ những cực khổ đó cứ đều đều lặp đi lặp lại chồng vào nhau tạo thành một khối đặc quánh đè nặng tựa một món đồ ăn độc khó tiêu tích lũy mãi trong máu thịt chàng. Chàng vừa nhớ đến con ngan to nặng nề vụng về lạch bạch ở nhà bếp một trại chàng đã sống qua cả vài năm, con yến được một phóng viên ngoại quốc mở cửa chuồng thả ra khá bất ngờ tại một trại miền Bắc, con chim sáo luẩn quẩn theo sát chân một người bạn xấu số chết vì ung thư gan và đôi mắt mở trừng trừng đầy giận dữ căm hận của một người bạn trẻ khác Ân, đã chết vì một loạt đạn AK mà xác được tụi cán bộ bắt chàng bò vào kéo ra từ trong các vòng dây kẽm gai. Chàng đã cố vuốt mắt cho Ân nhiều ân, nhưng Ân vẫn trừng trừng mở mắt và chàng đã sợ hãi ân hận đọc thấy trong mắt Ân một lời trách móc hướng vào chàng.

Con ngan lạch bạch cứ hay ra làm quẩn chân chàng và các bạn đến lãnh cơm tại nhà bếp một buổi chiều khi chàng tới đã biến mất và chỉ khi chàng trở lại để lãnh cháo cho người bạn đau thời đã ngạc nhiên ngẩng đầu nhìn theo một con chim với sải cánh lớn và hình thù lạ mắt bay nhiều vòng tít lên cao. Mấy bạn chàng cũng bàn tán cho rằng con chim lớn này chắc đang tìm cách xuống và quả nhiên nó hạ thấp xuống thật và rồi bay là là trên bãi cỏ rộng sau bếp, để rồi thoáng một cái xếp cánh lại đỗ xuống khá vụng về cách bọn chàng không xa. Tất cả mọi người đều vui thú và kinh ngạc reo lên khi khám phá ra con chim với lối bay hùng dũng đó lại chính là con ngan quen thuộc của nhà bếp. Tại sao nó lại trở lại? Mặc dầu linh tính nghìn đời của loại chim hoang dã đã bất chợt trở lại và sau một chuyến thử đập cánh lạch bạch chạy loạng quạng trong cả trăm lần như vậy, nó đã bất chợt bay bổng lên được để lượn những vòng bay vào trời xanh bao la, con ngan lại quay trở về sân bếp? Tại sao tự do đã lại không hấp dẫn nó như bọn chàng? Hay vì nó quen ăn cơm thừa đầy ra ở đây và chưa quen với những thử thách của thiên nhiên?

Suy nghĩ hoài chàng rồi cũng tìm ra một ví von thú vị và đắc ý: Có lẽ bọn chàng khi bị giam hãm trong cảnh tù đày, vụng về với cái cầy cái cuốc, nhưng cái khả năng bay bổng trong những khoảng trời cao rộng của ý tưởng đâu đã mất đi. Đúng thế! Chàng nghĩ trong những bộ đồ lao động vá chằng vá chịt, tay chai sần sùi vì cầm cuốc, da thịt cháy nắng đầy các vết sẹo vì nắng mưa, ẩn đâu đó vắn là tiềm năng suy nghĩ phóng khoáng đầy sáng tạo, chỉ chờ cơ hội thuận tiện là bay bổng. Giòng suy nghĩ của chàng đến đây lại dẫn chàng trở lại với cái chết bi đát đầy uất hận của Ân. Ân đã thực chẳng may chết trong tức tưởi quá sớm. Giá chàng đừng mặc cảm với những lời nói khích bác có phần coi thường chàng của Phi, một người bạn trẻ hơn của Ân cộng tác với Ân trong mưu đồ trốn trại đã chỉ bị bắt lại ngoài rừng sau đêm vượt trốn một ngày, mà cương quyết thuyết phục được Ân bỏ ý định trốn trại cho nên ngày hôm nay Ân vẫn còn sống. Đôi mắt Ân cứ phải mở trừng trừng tức giận chết vướng trong hàng rào kẽm gai, cũng như đôi mắt trừng trừng ửng mầu hồng ngọc của con diều hâu xác còn nằm kia, đôi mắt mà chỉ khoảng khắc trước đó còn quét những tia nhìn soi mói sắc và ngạo nghễ lên cái giang sơn riêng.

Chàng cũng còn nhớ riêng phần chàng, chàng cũng đã dụ dự và bị giằng co nhiều ngày giữa ý muốn vượt trại và từ bỏ kế hoạch mà sự tính toán các yếu tố khách quan chỉ cho người tham dự một tỷ số thành công quá thấp. Sở dĩ chàng chỉ bỏ ý định trốn trại vào chập tối vào đêm tai họa đó và báo cho Ân và hai bạn Ân biết, là vì chiều đó chàng nhận được một lá thư khá dài của vợ con, lá thư chàng chong đèn đọc đi đọc lại nhiều lần. Chàng cũng nhớ mãi trong lời tái bút, con gái út chàng viết ké vào một câu với cái lối viết vụng về xiên xẹo của một đứa trẻ lên mười “Con không muốn bố đau ốm và buồn đâu. Bố phải vui khoẻ và nhớ bắt cho con một con sáo biết nói”. Đức đã vừa cười rơm rớm nước mắt đọc những lời lẽ ngây thơ đầy tin cậy của con gái út. Chàng đã khám phá ra tay chàng đã bị trói lại vì những tình cảm thương yêu của lũ trẻ và so với mấy bạn trẻ chưa vợ con chàng còn rất nhiều trách nhiệm và mọi mạo hiểm với kết quả quá mong manh thật sự vượt khỏi tầm tay chàng. Chàng không hiểu là nếu không vì tự ái bị xúc phạm sợ bị coi là nhát gan, chàng đã không làm trái lòng mình lên tiếng khuyến khích Ân đừng trốn trại. Ân liệu có thay đổi ý kiến ở lại với chàng hay không? Cũng rất có thể? Qua lời Ân trao đổi bàn bạc với Đức, Ân đôi lần lộ vẻ e ngại vì Ân rất thương bố mẹ già còn sống đang chờ đợi Ân mà Ân lại là con trai độc nhất trong một gia đình đông con. Bề nào chăng nữa, nếu chàng bộc lộ thẳng thắn lý lẽ của chàng vào những giây phút quyết định cuối cùng của đời Ân, Ân ở lại hay trốn trại chàng cũng yên trí làm hết mình, chứ đâu phải ôm xác Ân khóc thầm và kéo Ân ra khỏi mấy vòng giây kẽm gai và nhìn vào cặp mắt uất hận của Ân mở trừng trừng nhìn lên trời đêm bao la đầy sao và cái nhìn đó đâu có mang vẻ trách móc ám ảnh chàng mãi đến ngày hôm nay. Tuy tự biết mình đâu thực sự có lỗi lầm gì trong cái chết của bạn, nhưng cứ nghĩ lại kỷ niệm đau thương mất người bạn trẻ chàng rất mến này, Đức vẫn cứ dằn vặt mình mãi mãi sau này, tự làm khổ mình khá vô lý và thừa thãi như vậy. Có thể vì ở tù quá lâu sát cánh với cái chết, chứng kiến quá nhiều cái chết của bè bạn, tâm thần chàng đã trở nên không bình thường lắm? Chàng biết vậy mà không thể ngăn được ân hận hoài và cũng chẳng ngăn được những cơn ác mộng cứ trở lại.

Tiếng tên cán bộ quản giáo báo hết giờ giải lao vang lên thúc giục và làm Đức choàng tỉnh, nhỏm dậy cầm lấy cuốc, liếc nhìn cặp mắt trừng trừng màu hồng ngọc của con diều hâu rồi lên tiếng hỏi Vân “Con sáo cậu nuôi cho tôi bóc lưỡi lâu rồi mà nói được tiếng nào chưa?” Vân cầm xác con diều hâu bỏ vào túi treo cạnh đó cười khoái chí “À! Thế là kỳ chủ nhật này cô bé gái út anh theo chị lên thăm sẽ có món quà. Nó nói được rồi. Em dạy hoài nó chỉ nói được một tiếng gọi tên Anh thôi à tuy nghe không sõi lắm. Vậy anh phải thưởng cho em một gói thuốc lào ngon đấy phải không?” Đức thú vị nghĩ đến khuôn mặt nhỏ tươi cười rạng rỡ của con gái út khi nó được chàng tặng một con sáo biết nói, lời hứa chắc nó đã quên chàng đã đưa ra có lẽ từ bốn năm năm về trước, vào năm ân chết, mà chỉ đến lúc này chàng mới thực hiện được. Đức cũng chợt nhớ ra chàng còn giữ một số thư từ vật dụng nho nhỏ riêng tư của Ân mà vẫn chưa tìm được cách trao lại cho bố mẹ Ân và người vợ trẻ mới cưới trước khi Ân đi tù. Chàng tự nhắc chủ nhật này gia đình đến thăm nuôi chàng phải nhớ hỏi vợ xem có dò hỏi gì được về địa chỉ của gia đình Ân chưa và chắc chàng có thể mang tặng vợ chiếc quạt lông chim màu xám cùng con sáo dành cho con gái út.

Trong buổi gia đình lên thăm chàng vào chủ nhật kế đó, vợ và con út chàng may mắn được phép ở lại buổi trưa để ăn với Đức một bữa cơm, sau những câu chuyện hàn huyên thật vui đầy tiếng cười nói, vợ Đức hớn hở ra mặt vừa được chàng báo tin chàng đã ra khỏi bệnh xá và bệnh lao phổi đã đỡ nhiều và đã đi lao động lại và khi chàng nhớ ra hỏi về gia đình Ân đã khoe với chàng tình cờ lên Đà Lạt thăm mẹ gặp gia đình ân ở cùng khu phố. Vợ Đức cũng ái ngại cho chàng biết vợ Ân còn rất xinh đẹp và đảm đang lắm và có mang khi Đức đi tù nên đã sinh một con trai rất kháu khỉnh và hiện sống với bố mẹ chồng chưa lấy chồng khác. Gặp vợ Đức được biết Đức cũng đã ở cùng đội cùng trại với Ân, nên vợ Ân đã khóc lóc kể lại tất cả những đau đớn của một người vợ trẻ biết tin chồng chết tức tưởi và bi thảm. Vợ Ân cũng gửi tặng chàng một gói bột đậu nành. Đức cũng cảm động nhưng cố dấu vợ con và dĩ nhiên chàng cũng chẳng muốn kể về cặp mắt trừng trừng mở của Ân cứ đến trong những giấc mơ của chàng, sự ân hận của chàng không còn Ân, cặp mắt hồng ngọc của con diều hâu và tất cả những kỷ niệm mang một ý nghĩa riêng biệt mà dù kể ra cũng không ai thông cảm được với chàng, dù đó là trường hợp vợ con chàng đi chăng nữa. Đó là gánh nặng của kỷ niệm mà chàng mãi mãi phải mang sau này trong đời, dù sau này chàng được tự do hay ở bất cứ phương trời nào. Điều này chàng biết với chàng. Đức chỉ trao cho vợ chiếc quạt lông nhỏ làm bằng các lớp lông cánh xám cho vợ và một gói nhỏ các món vật dụng thư từ hình ảnh của Ân để lại, mà nhiều lần trước đây khi ra thăm vợ con, chàng đều mang theo người với hy vọng vợ sẽ tìm được tung tích gia đình Ân. Chàng chỉ nhỏ nhẹ nhờ vợ nói hộ với vợ Ân một ngày nào đó sẽ đến thăm và kể lại tường tận về những ngày cuối cùng của Ân (và cái chết tức tưởi của Ân trong vòng giây kẽm gai mắt mở trừng trừng đầy uất hận hướng lên bầu trời đêm đầy sao). Đức thầm nghĩ chắc phải đợi lâu lắm, ít ra là đến ngày chàng được tự do gặp vợ Ân, tâm hồn chàng mới đủ thoải mái để kể hết về những gì đã xảy ra, kể cả niềm ân hận của chàng đã không hết mình can ngăn bạn.

Điều lạ là sau khi được tin về vợ Ân, chuyển được các vận dụng của Ân để lại đến gia đình Ân, tự nhiên giấc ác mộng ôm xác Ân mắt mở trừng trừng uất hận không còn đến với Đức nữa. Chàng không vui mừng lắm khi khám phá ra hiện trường tâm lý này nơi tâm hồn chàng. Như vậy là chàng đã trong chỗ sâu thẳm của ký ức chàng đã chấp nhận ân thực sự đã chết; và tuy chàng vẫn không thể quên cái chết với đôi mắt mở trừng trừng của bạn, nhưng chàng đã thấy cái lòng ân hận không lấy gì làm bình thường làm đã làm khổ chàng cũng dịu dần rồi mất sẽ một cách nào chết trong tù với đôi mắt mở trừng trừng như Ân, người bạn tù xấu số chàng sẽ mãi mãi không quên trong đời.

 

 

Những ngày cuối cùng của Vùng I và miền Nam

Lời giới thiệu:

Duy Lam, cháu của nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, trong nhóm bút Tự Lực Văn Đoàn, một nhân chứng lịch sử viết rất trung thực về những ngày cuối cùng của Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 29-4-1975, tôi gặp anh mới từ Đà Nẳng di chuyển vào Sài Gòn. Chúng tôi, Bảy Bốp Phạm Thái và kỹ sư Đỗ Hữu Cảnh, có mặt đứa con gái lớn của Duy Lam, ngồi quán Cà phê đối diện Trụ sở Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến trên đường Phan đình Phùng, bàn thế bối thủy, và ai đi ai ở, rốt cuộc cả bốn đều ở lại.

Tôi qua Mỹ trước, Duy Lam qua sau 14 năm tù đày, có lúc bị cùm chân đến thúi thịt. Phạm Thái bị tù đến gần chết mới được thả. Đỗ Hữu Cảnh bị bắt đi bắt lại mấy lần. Ngày gặp lại Duy Lam tại Virginia, tôi có dẩn anh đến bàn thờ cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy vừa mất cách đó 3 tháng, anh đã làm tất cả anh em hiện diện hôm đó cảm động khi anh khóc sướt mướt và độc thoại những lời tâm huyết với di ảnh Giáo Sư Huy.

Bài viết của anh làm tôi liên tưởng đến anh chàng Pierre, triết gia cô đơn trong tác phẫm War and Peace của Léon Tolstoy …

 

***

Phải nói là những ngày cuối cùng của Vùng I và Miền Nam, mỗi khi tôi ôn lại trong những năm tháng tù đầy, hoặc viết lại trong cuốn hồi ký nầy, luôn luôn lại làm tôi xúc động một cách mạnh mẽ và có phần khó hiểu. Trở lại những tháng đầu năm 1975, tôi nhớ lại cái không khí lo âu, mơ hồ cứ lẩn quẩn thấm vào tâm trí mọi người, những lo âu sợ hải hình như không có nguyên cớ rõ rệt.

Sau cái lần Trung tướng Ngô Quang Trưởng đi phó hội với CINPAC về, trong bữa uống rượu ở vườn buổi chiều trước tư dinh của ông, khi được tôi hỏi ông đã thở dài nói chậm rải:” Anh biết đấy, kỳ nầy mà địch tổng tấn công vào Vùng I, Hoa Kỳ sẽ chẳng còn có thể yểm trợ mình về hải pháo hay phi cơ của hạm đội. Khi đó đương nhiên mình phải tự lực cánh sinh chiến đấu với những gì mình có và với tình trạng tiếp vận giảm sút đến gần 80% so với thời kỳ chưa ký hiệp định Paris”. Sau đó chúng tôi đã ngồi lẳng lặng uống rượu tiếp và cũng chẳng trao đổi với nhau lời nào cả nửa tiếng đồng hồ.

Khi Đại tướng Trần Thiện Khiêm kiêm Thủ tướng tới họp tại Tiểu khu Quảng Trị, ông đã quay sang nói một câu ngắn ngủi với Đại Tá Kỳ, Tỉnh trưởng Quảng Trị;” Anh Kỳ hãy lo đưa Tòa Hành Chánh và dân Quãng Trị di tản vào Huế”. Một quyết định đã có sẵn và được ban bố không một lời giải thích về nguyên nhân chiến lược xâu kín và áp lực của địch, đã nổ ra như một tiếng sấm động trong một ngày trời đang quang đãng. Cả một hội trường, từ cấp cao đến cấp thấp đều ngồi lặng đi, trước viễn tượng của một thảm họa, vì trong thâm tâm, ai cũng có một ý nghĩ thế là đúng rồi: Trung Ương đã quyết định rút quân ra khỏi Vùng I và như vậy là bỏ Vùng I.

Trước đó Tướng Ngô Quang Trưởng có tiết lộ với tôi biết trước là Tướng Nguyễn Văn Thiệu có liên lạc với ông và ra lệnh cho ông phải rút lực lượng Tổng trừ bị đã được tăng cường cũng như các sư đoàn vào Nam để thu hẹp lãnh thổ phòng thủ chiến lược giới hạn bởi Quân Khu III. Tướng Trưởng đã trả lời thẳng với vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội:” Tôi là tướng cầm quân ở tiền tuyến, nên không thể ra lệnh rút quân, và nếu Tổng Thống muốn rút quân, chính Tổng Thống phải ban hành lệnh đó. Thay vì đích thân ra vùng I, ông đã cử Thủ tướng Khiêm thay mặt ông để chính thức ban hành lệnh rút quân.

(Tôi xin mở ngoặc ở đây để các bạn muốn theo dõi chi tiết cuộc rút quân hãi hùng thiếu kế hoạch và thiếu trật tự từ miền Trung, xin hãy đón đọc cuốn hồi ký cả ngàn trang của Duy Lam sắp xuất bản).

Sau khi tướng Ngô Quang Trưởng cáo ốm nằm tại Bịnh viện Cộng Hòa, rồi về nghỉ ngơi tại biệt thự của ông tại cư xá sĩ quan Chí Hòa, tôi có ghé đến thăm anh và bàn qua về diễn tiến của tình hình và những giải pháp chính trị quốc tế khả hữu có thể đưa tới một cuộc điều đình giữa miền Nam và Cộng sản. Anh cũng cho tôi biết riêng theo những tin tức thì Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sắp từ chức, để nhường lại cho ông Trần Văn Hương. Tôi tỏ vẻ nghi ngờ về sự từ chức quá muộn màng như vậy, và e rằng các chính phủ chuyển tiếp cũng khó lòng đòi hỏi những điều kiện thuận lợi khi miền Nam tiếp tục rã ra từng mảng lớn, và quả thật khó nói đến chuyện điều đình mà cả quốc tế, khi quân lực và lãnh thổ càng ngày càng thâu nhỏ lại.

Tôi cũng ghé lại trụ sở Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, gặp lại anh Nguyễn Ngọc Huy và một số anh em trong Ban Chấp Hành Trung Ương. Sau một buổi họp khẩn cấp tại trụ sở Cấp Tiến, một buổi ký cam kết quyết tử được tổ chức công khai với sự hiện diện của các báo chí Sài Gòn.

Vì tôi là một người đã chứng kiến sự cam kết quyết tử và bảo vệ lãnh thổ Đà Nẳng đã được công bố bởi các vị lãnh đạo các cấp quân sự vào những ngày cuối của thành phố nầy, đã chỉ đưa đến kết quả là các lực lượng chính quy lẳng lặng rút lui đi bằng đường thủy, để các khối quần chúng hoảng loạn tự lo liệu lấy sự đào thoát, nên tôi cũng không mấy tin tưởng vào tất cả những cam kết quyết tử, nhất là của một đảng chính trị không có dù một lực lượng quân sự nhỏ bé để tự bảo vệ.

Tôi cũng tiến lên ký vào bản cam kết chung cùng với các đại diện của Ban Chấp Hành Trung Ương, và thực sự tôi cũng không hiểu cam kết nầy sẽ được thực hiện như thế nào, hay đó chỉ là một sự biểu lộ muộn màng của tinh thần chống Cộng cố hữu của những người quốc gia. Quyết định chung cuộc là trên chiến trường và những biến chuyển trên mặt trận quân sự và những tin đồn đại về những giải pháp điều đình với phía bên kia, với sự bảo đảm của các đại cường ký trong Hiệp Định Paris thực ra rất khó thực hiện. Đơn giản, khi bên kia đang trên đà thắng thế và với đà tiến quân và tương quan lực lượng hiện nay, họ cũng khó mà bị áp lực phải chấp nhận ngồi vào bàn hội nghị.

***

Sau hai lần từ chối không đi Mỹ, một lần ông Scott và một lần Trung tướng Ngô Quang Trưởng, vào tuần lể cuối cùng của tháng tư, tôi ghé thăm anh Nguyễn Ngọc Huy tại công thự khiêm nhường của anh ở đầu đường Cao Thắng, chúng tôi bàn thảo về các biến cố chính trị đang diễn tiến và thái độ thích hợp phải có của chính chúng tôi, về chuyện đi hay ở. Anh có nhắc tôi giải pháp do Pháp trung gian của Mereillon , và theo tôi anh có vẻ đặt hi vọng nào đó vào giải pháp nầy sẽ cứu được miền Nam.

Tôi đã nói thẳng với anh, theo tôi tôi không tin Mỹ sau khi bỏ Việt Nam lại chịu để Pháp và Trung Quốc tạo được ảnh hưởng với Việt Nam chung cả hai miền Nam Bắc theo như thỏa thuận Mao Trạch Đông-Nixon năm 1972. Tôi cũng cho anh biết thuần túy trên lãnh vực quân sự, Cộng Sản sẽ tiến thẳng vào Sài Gòn chiếm gọn miền Nam và tạo một sự đã rồi, fait accompli, cả về quân sự lẫn chính trị. Tôi hỏi anh những nhà lãnh đạo miền Bắc đang đà thắng thế quân sự có chịu ngừng lại để điều đình hay không? Theo tôi chắc là không và miền Nam sẽ mất trong một tương lai rất gần.

Anh Huy có vẻ suy nghĩ nhận định nặng về quân sự của tôi và rồi anh thở dài khi tôi lên tiếng hỏi anh liệu anh tính ra đi hay ở lại? Vì tôi đã nói qua cho anh biết hai lần từ chối không đi Mỹ của tôi, nên anh nhìn thẳng vào mắt tôi và nói cả quyết:” Như vậy là chúng ta cũng phải ở lại với anh em mà thôi”. Tôi thầm khâm phục cái thái độ cương quyết của anh, như là một nhà lãnh đạo chính trị trong một tình huống cực kỳ khó khăn. Tôi nhìn anh rồi chậm rãi trình bày những gì tôi biết về chính sách của người Cộng Sản đối với những người thuộc chế độ cũ thời sau năm 1954. Tôi nói nếu chúng ta ở lại chắc sẽ bị đưa đi đến các trại tập trung và cứ nhiều lần ba năm cho đến chẳng biết là khi nào mới được tự do. Theo tôi cái chết của một kẻ sĩ nhẹ tợ lông hồng nhưng trong một số trường hợp lại nặng như núi Thái Sơn, nhất là đối với những người có trách vụ lớn phải gánh vác. Anh sức khỏe yếu như vậy, tôi sợ dù anh chọn ở lại thời chắc cũng khó sống qua vài tháng tù. Anh có uy tín đối với quốc tế, anh xuất ngoại hoạt động có lợi nhiều hơn cho người Quốc Gia, tôi trẻ hơn anh mười tuổi nên chúng ta phân công, một mình tôi ở lại đủ rồi, còn anh nên đi. Tôi hẹn anh một này nào đó nếu tôi còn sống sau thời gian bị Cộng Sản tù đầy, chúng ta sẽ gặp lại nhau ở một nợi chốn nào đó ở hải ngoại để tiếp tục hoạt động và sát cánh với nhau. Đấy chỉ là một sự phân công suy tính căn cứ trên cái lợi cái hại của sự ra đi hay ở lại và chẳng phải đi là tham sống sợ chết hay ở lại là can đảm.

Anh Huy rất buồn khi bắt tay từ biệt tôi và tôi nghĩ khi anh không còn nhắc đến chuyện ở lại với tôi, thời có nghĩa anh đã chọn ra đi. Tôi cũng đâu ngờ đó là lần cuối cùng tôi gặp anh Huy và sự chia tay đã không phải là tạm biệt mà là vĩnh biệt.

***

Thôi, thế là xong. Tôi nhìn những chiếc xe Jeep cắm cờ Mặt trận Giải phóng với những thanh niên hò hét, phất cờ và giơ cao vũ khí, tay mang băng đỏ, những nhà sư ba mươi đi phát cờ Giải Phóng và ôm các bà nhảy tửng tửng hô: “Phe ta thắng! Phe ta thắng!”. Họ là ai vậy? Cộng sản nằm vùng hay những kẻ theo thời? Cách mạng giờ thứ hai mươi lăm? Tôi thoáng nghĩ không chừng có kẻ thấy tôi mặc quân phục đeo vũ khí, sẽ có thể bóp cò súng nhắm vào tôi? Tuy nhiên tôi vẫn lặng lẽ đi và tính về nhà sẽ tìm cách trút bỏ quân phục và vứt bỏ khẩu súng Colt. Quạ từ đâu bay về nhiều quá, đen cả bầu trời. Lại có cả tơ trời nữa, đó là điềm lạ hay điềm gở của miền Nam. Mùa nầy bông cây dầu nồng nàn thơm mùi nam tử. Bây giờ trộn lẫn với hương đêm và mùi khói súng bắn chỉ thiên, loạn xạ. Tin dử đồn tự tử tập thể ở trại nhảy dù Hoàng Hoa Thám và vài đơn vị lẻ tẻ. Tất cả những cái đó giờ đây đâu còn mang một ý nghĩa nào dù nhỏ nhất. Tại sao chỉ qua vài phút ngắn ngủi mà tôi thấy quang cảnh ngoại vật đột nhiên mất hết các ý nghĩa thông thường quen thuộc, nhà cửa, con người và ngay cả đến lời nói từ ngữ và cách xưng hô với nhau, liên hệ cố hữu giữa người và người và người và vật. Tiếng Trung tá mà vị Thiếu tá vừa gọi tôi chắc cũng chỉ một thói quen lâu đời. Trung tá Thiếu tá Đại tướng Thiếu tướng cũng như là tiếng người ta xưng tụng những kẻ đã nằm dưới mồ. Tôi vốn là một người viết văn quá nửa đời người nên từ ngữ vốn mang nặng những ý nghĩa xâu xa với cái ma lực riêng của nó. Tôi bây giờ là ai? Một cựu quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa? Một kẻ thất trận? Một tù binh chiến tranh? Chắc tôi chỉ còn cái danh hiệu là nhà văn với những tác phẩm cụ thể đóng góp cho văn chương? Thực sự đọc nhiều về chính sách của kẻ địch, tôi hiểu trước sau họ sẽ tự bỏ luôn cái danh hiệu cuối cùng đó của tôi, nếu tôi từ chối không cộng tác với họ. Tôi tin dù họ bỏ tù được thân xác tôi, nhưng họ khó có thể tha hoá được tôi, biến đổi tôi thành một bộ máy vô hồn. Tôi nghĩ tôi đang mỉm cười, hơi một chút chua chát, hơi một chút ngạo nghễ. Cuối cùng ai sẽ thắng? Điều đó thời phải năm mươi năm nữa, tôi mới có câu trả lời chính xác, đúng theo phương pháp luận của sử học.

Hiện thời tôi chỉ có thể bình tĩnh và đầy đủ tự tin đón chờ số phận của tôi, cũng như tất cả các người sống trên mảnh đất miền Nam nầy. Nói cho cùng chẳng phải nhà quân sự hay nhà chính trị trong tôi đã đưa ra những lý luận thuần lý để biện minh cho việc tôi đã ba lần từ chối xuất ngoại, để ở lại. Xâu xa hơn nữa, trong con người tôi, chính cái con người nhà văn dấn thân trong tôi, đã chi phối sự chọn lựa nầy của tôi. Cái lòng tò mò ghê gớm đã thúc đẩy tôi từ trước đến nay, là luôn chọn đi vào trung tâm các cơn bão lốc của thời thế, để có thể đích thân sống qua và chứng kiến các xúc cảm, về những gì các hoàn cảnh sống mang lại cho tâm hồn của một người cầm bút. Tôi sợ nếu tôi đã ra đi một ngày nào đó lưu vong ở một đất nước xa xôi và xa lạ nào đó, tôi sẽ tiếc là không có dịp ở lại, để bị tù đày hành hạ, vì như vậy tôi sẽ thành một người ngoại cuộc, đối với nỗi thống khổ mà dân tộc tôi phải chịu. Chắc lúc đó tôi sẽ khổ tâm và ân hận, điều mà tôi sợ nhất trong đời. Tâm trạng tôi lúc đó giống như một người nhảy xuống vực sâu, chỉ mong chạm đáy vực dầu thịt nát xương rơi, nhưng không bao giờ tới đáy. Mãi đến gần 20 năm sau những hoạt cảnh của ngày 30/4 mới tuần tự xuất hiện trong bài thơ Tháng Tư Đen. Điều đó vào giây phút mọi sự diễn biến trước mắt tôi, tôi chỉ tỉnh táo quan sát, mà chưa ý thức được rõ rệt là rồi chúng sẽ được thể hiện trong văn hay thơ của tôi vào lúc nào, cách nào trong đời của một người cầm bút.

 

***

Cái lưới

Vào một ngày mùa đông năm 19…, ông bà Hạ dọn đến biệt thự Hoàng Hôn. Trong khi ông Hạ còn mải đốc thúc người nhà khuân hòm xiểng đựng quần áo và những đồ dùng lặt vặt vào nhà, bà Hạ một mình lẳng lặng dạo thăm một lượt tất cả các phòng.
Tuy đây là chiếc biệt thự xưa kia bà Hạ và các con thiết tha mong ước được làm chủ, nhưng mọi công việc trông nom xây cất điều đình với kiến trúc sư, đốc thúc thợ thuyền bà đã để mặc ông tự ý lo liệu. Nếu ông cố gặng:
“Mình đến ngó qua một chút! Thợ đương xây đến phòng khách… Mình có muốn xây một chiếc lò sưởi thật lớn hay không? Đà Lạt vào mùa rét lạnh lắm đấy!”
Bà chỉ lắc đầu, thờ ơ trả lời:
“Tùy mình quyết định!”
Tuy bận chỉ dẫn người nhà kê tạm những đồ đạc cồng kềnh, ông Hạ vẫn kín đáo theo dõi những cử chỉ hơi khác thường của vợ. Ông băn khoăn tự hỏi, lần đầu tiên bước chân đến biệt thự, bà Hạ nghĩ sao về cách kiến trúc, sự sắp đặt các phòng và trang hoàng bên trong? Tự nhiên ông e ngại bà sẽ không hài lòng. Tự bao giờ ông bắt đầu quan tâm đến ý kiến của vợ?
Sau một hồi hò hét các người làm, ông thấm mệt và ngồi nghỉ trên một chiếc ghế bành rộng trong phòng khách.
Bà Hạ đang đứng trong căn phòng đáng nhẽ là phòng dành cho Di – đứa con trai thứ nhì của hai vợ chồng – quay lưng về phía ông. Cửa phòng mở, nên ông quan sát những hành động của vợ rất dễ dàng. Sau mấy phút trầm ngâm, vợ ông đặt một bức ảnh lên bàn – chắc vừa lấy ở va li ra – lùi lại mấy bước và ngây người ngắm nghía. Ngồi hơi xa nên ông khó nhận biết là ảnh ai.
Chợt bà Hạ đưa hai bàn tay lên ấp lấy mặt, hai vai rung nhẹ. Vợ ông khóc, ông đoán vậy, vì sống bên nhau bao nhiêu năm, ông không còn xa lạ gì lối khóc im lặng không một tiếng nức nở, đầy chịu đựng và nhẫn nhục của vợ.
Ông cảm thấy nửa như bực tức nóng nảy, nửa như lo lắng trước những cơn khóc lóc, rầu rĩ bất chợt của vợ trong những năm gần đây. Sức khoẻ của vợ ông cứ theo ngày tháng mà kém sút. Trước kia không hiểu sao ông có thành kiến vợ ông không bao giờ có thể ốm được. Từ khi lấy ông, đẻ con, qua thời kỳ gia đình tản cư và trở về Hà Nội sa sút đi, bà Hạ không lúc nào ngừng tay chân, làm lụng quần quật, xoay xở vay tiền, nhưng hiếm khi ốm.
Các con ông Hạ thường đùa me:
“Me không biết đau gì! Làm thế nào me ốm được nhỉ?”
Nhưng sau cái chết của Di, bà Hạ không còn được như xưa. Thân hình đẫy đà sút hẳn, làn da không còn trắng hồng, dáng đi chậm chạp nặng nề và đôi mắt to đã sâu lại sâu thêm.
Ông đứng dậy nhẹ nhàng lại gần vợ. Ông đến sát sau lưng mà bà không hay biết. Nhìn qua vai bà, ông nhận ra người trong ảnh là Di.
Chân ông đột nhiên trùn lại. Ông muốn lùi bước. Trong ngày theo ý ông, đầy vui vẻ và khoái hoạt này, ông không muốn nghe những lời trách móc và đối diện với khuôn mặt u tối của vợ.
Bà Hạ quay đầu lại, nhìn thấy ông. Trong một giây ngắn ngủi, ông Hạ bắt buộc phải nhìn thẳng vào cặp mắt đầy trách móc và oán hận chưa kịp che giấu của vợ.
Bà Hạ quay mặt đi lấy khăn lau nước mắt. Hai vợ chồng im lặng một phút. Đoạn ông đằng hắng, giọng nói làm ra vẻ cứng rắn, thản nhiên:
“Mấy cái thằng phu thật đổ đốn! Mình có thấy thiếu chiếc hòm nào không?”
Bà Hạ không đáp. Ông vội vã ra khỏi phòng không quay mặt lại.
Suốt trong ngày, ông tránh ngồi lâu một mình cạnh vợ. Ông tránh một trận cãi nhau giữa hai vợ chồng. Tâm tính vợ ông không còn giản dị như xưa. Bà có thể tức giận, gây chuyện với chồng gì những lý do không đâu. Một vài khi, những lời trách móc chua chát từ miệng bà Hạ thốt ra, khiến ông sửng sốt. Những nguyên nhân thầm kín nào đã biến chuyển tâm hồn vợ ông đến thế?
Sau bữa cơm tối, ông Hạ ngồi đọc sách, bà Hạ ngồi ở divan gần bên. Thói quen đọc sách từ bao năm nay ông không hề bỏ. Chiếc biệt thự rộng yên lặng lạ lùng. Tiếng các trang sách ông dở nghe rõ mồn một.
Một tham vọng nữa của ông Hạ đã thành sự thật: Ông hiện là chủ nhân một chiếc biệt thự lớn, đầy đủ tiện nghi. Ông không còn phải lo đến việc kiếm tiền. Hai vợ chồng có thể sống đến già mà vẫn giữ được một mức sống khá cao.
Nhưng, những căn phòng bày biện sang trọng và không người ở trong biệt thự làm giảm hẳn sự kiêu hãnh của ông. Các con ông đâu? Bên phải là phòng dành cho Tô – đứa con cả của ông bà – còn bên trái là những phòng của Lan và Di. Tại sao các con ông lại đã đều rời bỏ gia đình, cách này hay cách khác?
Bà Hạ đang mải mê đọc mấy bức thư mới nhận được. Chắc là thư của Tô và Lan. Một chiếc ảnh nhỏ lọt khỏi mấy tờ thư, rơi xuống đất. Bà cúi xuống nhặt lên và ngắm rất lâu. Bà mỉm cười, nụ cười hiền dịu âu yếm đầu tiên trong ngày xuất hiện trên mặt bà. Bà Hạ hình như có chuyện muốn nói với ông. Ông chờ đợi, mắt không rời khỏi trang sách. Nhưng bầu không khí yên lặng trong phòng vẫn tiếp tục kéo dài.
Ông giận dữ dỡ mạnh liền mấy trang sách và ho khan mấy tiếng, như muốn nhắc nhở là ông đang ngồi đây. Tại sao vợ ông không nói một lời nào? Thà rằng hai vợ chồng cãi nhau còn hơn ngồi bên nhau mà xa cách hàng vạn dậm, mỗi người theo đuổi một sự suy tưởng riêng biệt. Vợ ông không có quyền giữ riêng những thư của các con, đọc một mình. Chúng cũng là con ông, sao bà lại quên điều đo?
Nhưng suy đi nghĩ lại ông thấy thầm trách vợ như vậy cũng có phần bất công. Thư chúng ông đọc làm chi; khi mà ông còn nhất định cấm cửa chúng, không cho phép trở về với gia đình.
Đêm đã khuya. Ông bà Hạ sửa soạn đi ngủ. Bà loay hoay mặc chiếc áo ngủ bằng hàng bông điểm những cành hoa nhỏ, cắt theo lối âu phương, cổ áo viền đăng”ten xanh nhạt. Chiếc áo này và một chiếc khác mầu hồng nhạt đều đã cũ, nhưng đi đâu bà cũng mang theo và nếu không mặc lên người thời khó mà ngủ yên giấc.
Chính tay Lan đã vẽ kiểu và may những áo ngủ đó cho mẹ. Hồi công việc doanh thương của ông thua lỗ, cả gia đình phải sống chen chúc trong một căn nhà nhỏ hẹp không tối nào Lan không chui vào giường mẹ, nằm trò chuyện cho đến khi ông xem sách xong và kỳ kèo mẹ phải mặc chiếc áo ngủ hơi kỳ khôi cho bằng được. Lan viện cớ:
“Me mặc áo ngủ con may trông quý phái lắm. Trông mặt me chung quanh tóc lõa xõa con thú ghê.”
Lan thường trò chuyện với hai anh là nó muốn luôn luôn được ngắm khuôn mặt thanh tú của mẹ nổi bật trên gối trắng và màu hồng xanh nhã nhặn của áo ngủ. Mới đây ông đã có lần càu nhàu:
“Sao mình không vứt mấy cái áo ngủ rách nát đó đi. Dễ thường tôi không đủ tiền may cho mình áo mới hay sao?”
Bà đáp ngay, giọng hơi sẵng:
“Mình để mặc tôi…!”
… Và rồi lẩm bẩm một mình:
“Áo mới mua dễ, nhưng ai mua được con gái.”
Ông Hạ cứng họng không biết đáp ra sao.
Ông Hạ mang sách vào giường đọc thêm. Ánh đèn không làm bà khó ngủ. Hồi mới lấy nhau vợ ông chỉ ngủ dễ dàng trong bóng tối hoàn toàn, nhưng nể chồng nên cũng đã phải tập ngủ dưới ánh đèn sáng cho quen. Bây giờ trái lại nếu không có ánh đèn nhẹ, bà lại hay mê hoảng.
Bà Hạ giở tập ảnh gia đình ra xem một lúc đoạn thiếp ngủ lúc nào không biết.
Ông đặt sách xuống đùi, nhặt mấy chiếc ảnh vợ bỏ rơi xuống ngực, định cất vào ngăn kéo bàn ngủ, nhưng rồi không hiểu sao vẫn giữ chúng trên tay ngắm nghía rất lâu. Đó là những bức ảnh chụp các con hai ông bà qua nhiều thời ký: Hồi chúng còn nhỏ, khi đến tuổi bắt đầu lớn và cả những bức chụp mới đây khi chúng đã trưởng thành.
Hình như ông nghe thấy vài tiếng động nhỏ ở đâu đây: Có lẽ là những tiếng cười ròn rã của con trẻ, tiếng cười đùa văng vẳng, lẫn lộn với những tiếng khóc thút thít thật dễ thương.
Ông lắc đầu mạnh và tỉnh hẳn. Óc tưởng tượng vừa đánh lừa ông: Đấy chỉ là một giấc mơ.
Thực tại trần trụi khiến ông choáng váng: Chỉ có ông và vợ sống lủi thủi trong toà biệt này, hai vợ chồng già và cô độc.
Dầu ông muốn hay không, tất cả những kỷ niệm xưa cũ, hoặc không xa lắm trong thời gian lại vụt trở về, tràn ngập tâm hồn ông. Ông thở dài, hạ cặp kính lão xuống, mắt nhìn đăm đăm vào khoảng trời tối đen ngoài khung cửa sổ. Dĩ vãng! Ông không sợ đối diện với dĩ vãng, nhưng ông đâu ngờ dĩ vãng lại có thể khiến ông xúc động đến thế.
Giai đoạn đầy rẫy những thay đổi quan trọng và đau thương của gia đình ông Hạ bắt đầu ngay sau khi hai vợ chồng ông và các con hồi cư về Hà Nội vào năm 194…
Hồi V.M. đảo chính, nắm chính quyền, hai đứa con trai ông – Di và Tô cũng tham sự những đoàn thể thanh niên và cũng sống ồ ạt, sôi nổi không khác những đứa trẻ cùng tuổi. Công việc làm ăn khó khăn buổi giao thời không cho phép ông Hạ có thời giờ chăm sóc con cái về mặt giáo dục cũng như tinh thần.
Chiến tranh bùng nổ. Gia đình ông bà Hạ tản cư về quê nội cách Hà Nội khoảng gần 20 cây số. Sau gần hai năm trời di chuyển từ vùng này sang vùng khác, số tiền dự trữ cạn hết. Hai vợ chồng cũng không tìm nổi cách gì để kiếm sống nuôi một gia đình năm miệng ăn.
Tuy ông từ trước đến nay, không hề tham dự trực tiếp hay gián tiếp vào một phong trào hay đảng phái chính trị nào, nhưng vì mấy người anh ruột của bà Hạ đều là những cấp lãnh đạo trong V.N.Q.D.Đ., nên các ủy ban kháng chiến tại làng ông bà cư ngụ vẫn ngấm ngầm theo dõi để mắt tới mọi hoạt động dù nhỏ nhặt nhất của gia đình ông Hạ. Gia đình ông bà luôn luôn sống trong sự lo ngại phập phồng và không dám ở lâu tại một làng nào nhất định.
Cho đến ngày, ông bà Hạ rồn rập tiếp được những tin tức đen tối, người anh thứ hai của bà vừa bị V.M. bắt đem đi, anh cả – một công chức cao cấp trong chính phủ hồi Pháp thuộc cũng như hồi V.M. – cũng bị ngầm mang đi an trí và giam lỏng, còn người vợ và đứa con trai cả của anh Bằng vừa bị V.M. bắt giam cách đây mấy ngày; hai vợ chồng sau một đêm bàn bạc suy tính, đành phải quyết định tìm cách trở về thành càng sớm càng hay.
Về Hà Nội nhà xuất bản trước kia ông Hạ hùn vốn và đồng thời làm quản lý bị đốt cháy tan tành. Người chủ chết trong cuộc chiến tranh. Tạm thời ông Hạ phải nhẫn nhục làm thư ký cho một hãng buôn ngoại quốc để chờ thời cơ. Cả gia đình chỉ còn trông cậy vào số lương quá ít ỏi của ông để sống. Đang quen với một mức sống vật chất tương đối sung túc, những sự túng thiếu không thể tránh được trong thời kỳ này ảnh hưởng đến tâm tính ông không ít.
Tuy ông cũng cố hết sức xoay xở tìm lối thoát, nhưng vốn không có, bạn hữu cũ đều thất lạc, ông đành bó tay. Làm một thư ký quèn, nhiều khi ông Hạ tưởng điên lên vì phải chịu lụy những kẻ trước kia chỉ đáng làm công cho ông.
Càng cảm thấy bất lực trong việc kinh doanh xây dựng lại sự nghiệp, ông càng trở nên gay gắt và khe khắt hơn đối với gia đình. Hễ đi làm về là ông gắt gỏng, hậm hực với tất cả mọi người – không kể một ai.
Ông Hạ luôn luôn lấy sự nghèo khổ ra làm đầu đề, phóng đại nó lên. Ông cũng cố ý hạ mình xuống để làm nổi bật sự nhục nhã chung của gia đình.
Tuy thừa biết vợ con rất sợ phải nghe những lời lẽ thô tục, mai mỉa độc ác của ông, nhưng hễ cứ ngồi nung nấu những tư tưởng đen tối và chua chát, chỉ một lúc sau chính sự bất mãn của ông làm ông say lên và ông bật nói rất lớn. Tuy nhiên ông vẫn còn đủ bình tĩnh để chọn lựa những câu nói cay đắng và thấm thía nhất.
“Tôi nói cho mà biết! Chưa ăn thua gì đâu. Bây giờ còn miếng cơm mà ăn là phúc lắm. Tôi thì tôi quen rồi. Từ bé tôi đã hiểu thế nào là thân phận một kẻ nghèo hèn. Nhưng nói đến đời tôi làm gì, tôi đâu có đáng kể… Sinh ra chỉ làm đầy tớ và lo lắng nuôi sống mọi người. Phải! Có ai lo đến kiếm ăn bao giờ đâu mà biết cuộc sống chật vật ra sao. Sinh ra đã được chiều chuộng, nưng như nưng trứng hứng như hứng hoa. Đã có người lo việc tiền nong… Hà! Tiền! tiền đâu mang lại hạnh phúc. Đúng lắm! Đẹp lắm! Cao thượng lắm! Chỉ đời sống tinh thần mới đáng kể. Giá tôi có hơi chút mắng mỏ đe nẹt, các ông con của tôi đã cho tôi là ác nghiệt độc tài…”
“Mà thôi nói làm gì nhiều vô ích. Có ai thèm nghe tôi đâu. Đành vậy, số tôi còn phải khổ nhiều. Nhỡ một cái tôi chết đi. Chết có lẽ lại may, đỡ phải lo kiếm tiền…”
Ông lấy cớ nhà không đủ tiền nuôi người ở, bắt các con phải làm đủ mọi việc. Ông cũng hay nhắc đến dự định trong tương lai cắt ngang mọi việc học hành của các con và bắt chúng đi làm sớm hầu giúp đỡ gia đình. Ông nêu ngay đời ông làm thí dụ.
“Học nhiều mà làm gì. Có bao nhiêu vĩ nhân lúc trẻ con nhà nghèo khổ nên phải làm những nghề hà tiện làm bồi, bán báo… Tao đây cũng thế! Tao có bằng cấp gì đâu, sao ra đời ai cũng kính nể. Học như con vẹt, nhồi vào đầu óc toàn lý thuyết chỉ làm mụ người đi và đảm óc phấn đấu.”
Ông không quên kể lại, lần này là lần thứ mấy mươi, quãng đời thơ ấu vất vả của ông. Để nêu gương khắc khổ, ông không hề nhếch miệng cười, bỏ hẳn sự ham mê mua và đọc sách báo. Những ngày lễ và chủ nhật ông cũng nhất định không đi đâu và cũng không tìm những cách giải trí không mấy tốn tiền như uống trà, sưu tầm tem thư hay hội họp với một số bạn đồng sở nói chuyện gẫu cho khuây khoả.
Vào năm ấy, những người buôn bán rau cỏ, thực phẩm tập họp tại bờ hồ Hoàn Kiến, ngay cạnh ngã tư Tràng Tiền, làm thành một cái chộ lộ thiên ở ngay trung tâm thành phố. Chẳng biết vợ con ông bàn nhau ra sao, nhờ vớ được mấy bao tải lá vối và một số sách cũ, tại mấy căn nhà bỏ hoang cùng phố, Di đột nhiên trở thành một chú bé bán nước và sách ở chợ.
Các bà các cô bạn hàng dần dần quen với khuôn mặt trắng trẻo, đẹp trai của “cậu hàng nước”. Tính hay ngượng, Di có một lối bán hàng rất kỳ khôi. Suốt buổi chợ, Di ngồi chúi mũi vào một cuốn sách, không mảy may quan tâm đến việc bán hàng. Có khách muốn uống nước, Di miễn cưỡng múc nước chè ra bát, mắt vẫn không rời trang sách. Ai muốn trả bao nhiêu thì trả, Di không hé miệng kì kèo.
Đôi khi, mấy bà mau mắn không muốn làm phiền Di, tự tiện lật bát, múc nước, đặt tiền trả trên giá hàng, Di cũng mặc. Tiền lãi kiếm được cũng tạm đủ để bà Hạ mua thêm ít món ăn cho bữa cơm gia đình bớt phần đạm bạc.
“Cậu hàng nước tài tử thường là đầu đề cho những câu chuyện khôi hài, cười ra nước mắt, của bà Hạ và các con. Riêng ông Hạ, ông bất mãn ra mặt trước thái độ coi việc buôn bán như một trò chơi của vợ con.
Khi số lá vối dự trữ cạn hết, ông Hạ đã tưởng câu chuyện buôn bán của vợ con chấm dứt luôn ở đây; thời đến một hôm, trong bữa cơm, Tô tự nhiên đề nghị:
“Ba! Me và con định bắt đầu đi buôn kể từ ngày mai.”
Ông ngạc nhiên, cau mày nghiêm khắc nhìn Tô và vợ. Bà Hạ mà định đi buôn?
“Me mày thì buôn cái gì. Từ bé đến giờ ăn sung mặc sướng, buôn bán chịu đâu nổi cực nhọc. Mà…bây giờ buôn cái quái gì lời lãi cho được. Vốn đào ở đâu?”
Tô đỡ lời mẹ:
“Me đã vay được ít tiền vốn và dự định buôn rau cỏ, gạo, gà vịt ở vùng quê mang về Hà Nội bán. Mấy bà ở chợ nói rau quả hiếm, nên bán rất được giá.”
Ông vặn hỏi:
“Đã xin được giấy phép chưa? Có mối bán không…”
Trước những câu trả lời gẫy gọn, đâu ra đấy của vợ và Tô, ông Hạ cảm thấy cay đắng, bực bội và thầm suy luận “À ra thế! Vợ con ông định buôn bán vì cho rằng ông không kiếm đủ ăn cho gia đình. Tại sao vợ ông không chịu đem bàn trước với ông. Vợ ông không còn tin tưởng vào ông?”
Ông im lặng ăn. Ông biết mọi người đang hồi hộp chờ đợi phản ứng của ông nhưng ông kéo dài giây phút chờ đợi. Ông cảm thấy đầy sức mạnh. Tuy vậy, ông không phản đối và cũng không nổi giận, ngửng đầu thản nhiên bảo:
“Được nếu mình đã tính toán kĩ càng hơn thiệt, mình cứ việc đi buôn. Càng hay! Tô chút nữa mang giấy tờ ra đây, ba viết cho lá đơn xin giấy phép thông hành.”
Tất cả mọi người đều sửng sốt chưng hửng. Riêng Tô, sau giây phút ngạc nhiên ban đầu, yên lặng nhìn ông dò hỏi, ánh mắt thoáng nghi ngờ.
Không ai hiểu được sự ưng thuận của ông Hạ có ẩn dấu một chủ ý thâm hiểm như thế nào.
Trong mấy tháng đầu việc buôn bán của bà Hạ có vẻ phát đạt rõ rệt. Ông Hạ là người ngạc nhiên hơn ai hết. Vợ ông thạo buôn bán? Ông tưởng vợ ông chỉ có thể là một người vợ, người mẹ kiểu mẫu. Ông tự hỏi tại sao vợ không bỡ ngỡ, lầm lỡ khi phải tiếp xúc giao dịch với những con buôn quỷ quyệt.
Ông xin nghỉ việc một hôm, đi theo vợ xem buôn bán ra sao. Đi đâu ông cũng thấy vợ được mọi người vì nể một cách đặc biệt. Đứng giữa đám người buôn bán chuyên nghiệp, vợ ông và Tôi nổi bật hẳn lên. Khuôn mặt thanh tú của bà Hạ, thân hình giong giỏng cao hai bàn tay ngón dài chưa bao giờ phải dùng tới để khuân vác của Tô, khiến mọi người lưu ý bàn bạc. Họ kháo nhau, phỏng đoán thêu dệt rất nhiều chuyện về bà Hạ. Nào bà là con nhà gia thế, trước chiến tranh rất giàu, tản cư về gia sản khánh kiệt nên phải buôn bán nuôi con v.v…
Họ quan sát bà, tò mò nhưng rộng lượng. Họ cười khi thấy bà vụng về hớ hênh trong việc mặc cả, thương lượng. Họ chỉ dẫn cho bà những mánh lới của các con buôn thiếu lương tâm. Dần dần, bà Hạ cũng tìm được một số mối hàng quen.
Khi lên tàu xuống tàu, ông Hạ lưu ý thấy rất nhiều người không nề hà giúp bà bốc hàng lên hoặc rỡ xuống. Vợ ông chỉ biết cám ơn họ bằng những nụ cười. Họ tỏ vẻ hài lòng ra mặt.
Một buổi tối, bà Hạ và Tô đi buôn về, mọi người thấy mặt Tô đầy những vết tím và trán xưng lên. Trong bữa cơm ông hỏi tại sao, Tô đáp ngay:
“Bị ngã tàu đấy!”
Bà Hạ tủm tỉm cười, liếc nhìn đứa con cả. Ông nghi ngờ vặn hỏi:
“Mình! Có thật nó ngã tàu không? Me con mày dấu tao chuyện gì đây.”
Lan sờ sờ cái bướu trên trán anh, ngây thơ:
“Ngã tàu thời phải gãy chân tay chứ đâu sưng trán.”
Ông gắt:
“Tô! hay ai đánh mày? Nói cho tao biết để tao còn liệu can thiệp chứ!”
“Mình đừng mắng Tô! Nó bênh cô Khanh nên bị thằng đội Tây ở đồn đánh cho đấy!”
Khanh là tên một cô bạn buôn bán của bà Hạ, goá chồng nhưng còn trẻ và xinh đẹp nên hay bị tên đội Tây theo đuổi tán tỉnh. Ông Hạ vừa bực mình vừa cười thầm Tô trong bụng: Máu con ông cũng nóng và bướng bỉnh, lại hay quyến luyến gái đẹp chẳng khác gì ông hồi trẻ.
Ông mỉa:
“Anh hùng nhỉ? Gặp thằng hung dữ, có phen nó đánh cho què cũng chẳng biết kêu ở đâu. Thời này ấy mà.”
Vẻ mặt Tô xầm tối, nhưng nó vẫn lầm lì không cãi lý với cha.
Công việc buôn bán nặng nhọc, sức chịu đựng của bà Hạ cũng có hạn. Bà xanh và gầy trông thấy. Tuy vậy vợ con ông Hạ vẫn nhất định đeo đuổi buôn bán.
Mấy tháng sau, số người đi buôn tăng lên, mối lời ít. Những con buôn khôn ngoan dần dần chuyển sang buôn đồ lậu: Thuốc tây, dầu hoả. Bà Hạ một phần không đủ vốn, một phần không có gan kiếm lời một cách nguy hiểm, nên tuy việc buôn bán rau quả chưa đến nỗi thua lỗ, ăn lạm vào số vốn, nhưng lời lãi chẳng được bao nhiêu:
Một buổi tối ông Hạ bảo vợ và Tô:
“Trước đây tôi ưng thuận để mình buôn bán là cốt ý để mình quen với đời sống chật vật. Tôi cũng thừa biết lời lãi không mấy, chẳng bỏ công. Đã đến lúc mình nghỉ ở nhà đi thì vừa. Dạo này tàu hoả hay bị giựt mìn. Nhỡ một cái rồi ra hối không kịp.”
Bà cúi đầu im lặng, khuôn mặt hốc hác thoáng vẻ thấy vọng, buồn rầu. Ông Hạ đoán vợ chắc cũng đã nhiều lần cân nhắc, suy tính nên bỏ hay tiếp tục buôn bán.
Còn đương lưỡng lự chưa quyết hẳn bề nào, thời mấy ngày sau một tai nạn xảy đến cho bà Hạ, khiến bà đành nghỉ hẳn ở nhà. Tàu hoả bị giật mìn và bà bị thương ở chân.
Khi Tô về báo tin xấu, ông hốt hoảng hỏi:
“Có nặng không? Me bị thương ở đâu?”
Tô vội đáp:
“Không sao đâu ba ạ! Me được đưa ngay đến nhà thương và bác sĩ có nói với con chân me chỉ phải bó bột và nằm dưỡng bệnh vài tuần là khỏi.”
Yên tâm và biết chắc vết thương không trầm trọng mấy, nên suốt thời gian cùng Tô đi đến nhà thương, thái độ ông Hạ nghiêm khắc và lạnh lùng.
Tô đi bên ông lặng lẽ. Cách đó hai, ba hôm, Tô đã cãi lại ông:
“Ba luôn kêu ca nhà thiếu tiền và muốn các con đi làm. Đi buôn dù không lãi nhiều nhưng cũng giúp được gia đình phần nào. Tại sao ba không chịu? Theo ý con, cứ tiếp tục đi buôn cho đến khi hoàn toàn không lãi nữa mới thôi.”
Ông Hạ cũng tự biết, vì đã tỏ ra coi thường sự cản ngăn của ông nên vào giây phút này con trai ông đành câm miệng hến. Ông cũng không cần lên tiếng trách móc, hoặc mỉa mai cay độc. Cái chân bị thương của chính bà Hạ chắc cũng đủ dạy cho Tô một bài học cụ thể và đích đáng.
Vừa bước chân vào phòng vợ ông nằm ở nhà thương, bà ã vội nói ngay, giọng e dè và ngượng ngập:
“Tôi không sao đâu, mình đừng lo. Chỉ phải nằm đây ít lâu.”
Ông yên lặng. Vợ ông thu hết can đảm tiếp:
“Mình…! Tôi xin mình đừng mắng Tô tội nghiệp. Tại tôi ham mấy món lời. Và…cũng chính tôi xui nó cãi lại mình. Vả lại… Tôi vừa nhất định sẽ thôi đi buôn, sau khi ra nhà thương… Ông đáp ngắn ngủi:
“Thế cũng phải! Dạo này mình gầy đi nhiều. Lãi chẳng thấy đâu, đã thấy ốm với què.”
Bà Hạ thở dài. Cặp mắt đầy thương xót hướng về phía Tô, đang đứng tựa vào thành cửa sổ nhìn ra ngoài trời, quay lưng về phía hai vợ chồng ông bà Hạ.
Sau khi bà Hạ rời nhà thương về nhà, không ai bảo ai, bà và các con đều tránh không đề cập tới chuyện làm ăn buôn bán.
Việc chi tiêu trong gia đình từ đó trở đi hoàn toàn ông Hạ nắm giữ. Vợ ông không dám phản đối. Tô và Di, dù muốn hay không, cũng vẫn phải tuân theo những quyết định độc đoán của ông về mọi vấn đề. Trong khi chờ đợi ông kiếm cho chúng mỗi đứa một việc làm thích hợp, ông cho chúng theo học một trường trung học công lập. Tuy vậy thỉnh thoảng ông cũng không quên nhắc nhở chúng đừng quên đó chỉ là một đặc ân. Ông sẽ bắt chúng thôi học ngay, nếu chúng dám cãi lại, hoặc chống đối với ông.
Ông Hạ vẫn ngày hai buổi đi làm và nhẫn nhục chờ thời.
Năm năm qua. Ông Hạ xin được một chỗ làm tại một công sở. Số lương cũng tạm đủ cho sự chi dùng của gia đình. Tô và Di thay đổi hẳn. Chúng đã vượt qua tuổi thiếu niên đầy phức tạp và bắt đầu bước chân vào quãng đời thanh niên. Lan càng lớn càng xinh đẹp và giống mẹ hồi trẻ.
Hai đứa con trai ông Hạ càng lớn, ông càng chua chát nhận thấy những thay đổi trong tâm tính chúng không hợp với sự mong muốn của ông chút nào.
Riêng Di, chỉ trong có mấy năm nó đã gây cho ông bao nhiêu buồn phiền thất vọng. Di không sợ và kiêng nể ông như hồi còn nhỏ. Di không hề giấu diếm che đậy lòng oán ghét bố của hắn. Hắn không để lỡ bất cứ cơ hội nào để chứng tỏ bằng hành động, lời nói: Hắn phủ nhận trọn vẹn quan niệm sống của ông Hạ. Làm thế nào để uốn nắn Di. Đánh hay chửi mắng? Không lẽ Di đã 17, 18 tuổi cao lồng ngồng mà ông còn đánh nó như một đứa trẻ.
Ngay từ hồi nhỏ, Di cũng đã tỏ ra có một tâm hồn rất dễ xúc cảm và một óc tưởng tượng quá phong phú. Rất dễ khóc và cũng rất dễ cười. Vì không muốn con trai tâm tính ủy mị và đàn bà nên ông Hạ hay mắng – “Con trai gì động tí thì khóc. Mày sinh ra làm con gái đúng hơn”. “Khóc! Khóc mà kiếm được cơm ăn à? Hồi tao bằng tuổi mày tao đã kiếm được tiền rồi”.
Về thể chất, Di giống mẹ nhiều hơn là bố: Đôi mắt sáng to, lông mi dài và cong, nét mặt đầy đặn và đường môi thanh tú, làn tóc mềm sõa trên trán rộng. Các bà rất ưa Di, hay nưng niu và cho quà. Thấy Di được nuông chiều quá đáng, ông bất mãn. Ông không trách vợ, đàn bà nào chẳng chiều con, nhưng ông đổ nỗi bực bội vào đầu Di: “Con trai sao cứ quấn lấy mẹ! Phải cứng rắng mạnh bạo chứ”.
Di sợ những hành động mạnh và có tính cách áp chế. Nó hình như không thể nào hiểu nổi tại sao trẻ con lại thích hợp thành bè phái, bắt nạt và đánh nhau. Tô hay phải bênh vực Di chống lại những đứa trẻ không ưa giáng dấp như con gái của em. Khi Tô một mình đánh nhau với hai ba đứa trẻ, Di đứng ngẩn người, mắt mở to đầy ngạc nhiên và cũng không hề nghĩ đến chuyện tiếp tay với anh.
Về nhà, bà Hạ lấy cồn soa bóp những vết xưng trên trán và tay chân Tô, Di còn hỏi những câu thật chướng tai, “Tại sao chúng lại đánh anh Tô hở me? Tại sao trẻ con thích đánh nhau? Di kinh lắm! không bao giờ Di đánh ai đâu me ạ!”Trước thái độ ông cho là hèn nhát của Di, ông Hạ quát lên: “Sao mày hèn thế? Chúng nó xúm lại đánh anh mày mà mày để mặc à? Tay chân mày để đâu…? Hừ! Nhớn lên thằng Tô cho làm quan võ được. Còn thằng Di? bộ mày suốt đời chắc chỉ quanh quẩn xó nhà bám váy me. À! Hay đi đóng tuồng giả làm con gái được đấy”.
Di sợ những lời chế giễu cay độc của bố hơn cả bị đánh mắng. Bà Hạ lắm khi thấy ông cứ nhắm vào đứa con thứ nhì làm tình làm tội, lên tiếng bênh: “Sao mình ác thế! Mình không biết nó khổ sở khi mình mang nó ra làm trò cười hay sao? Di hãy còn bé. Nhớn lên nó khác đi chứ”. Ông đáp tàn nhẫn “Phải thế mới được. Bé không vin, cả gẫy ngành. Nếu hành hạ nó mà nó khá lên được thời cũng rất nên”. Vợ ông im lặng không cãi, nhưng ông biết bà hầm không đồng ý với lối răn dạy con cái khe khắt của ông. Vợ ông đồng ý không thực ra ông Hạ cũng chẳng quan tâm.
Càng nhớn Di càng ít nói và không ưa những trò chơi mạnh. Khi Tô 12 tuổi, ông Hạ mua cho một chiếc xe đạp. Hễ nhàn rỗi, Tô nhảy lên xe đạp đi thật xa. Mới đầy, Tô còn chịu khó rủ em, nhưng sau nhiều lần thúc dục, thấy Di tỏ vẻ không thích thú những cuộc đi chơi ngoài những khoảng rộng, Tô đành đi một mình.
Di ham mê đọc sách từ nhỏ. Sách ông Hạ mua rất nhiều đủ mọi loại. Ngoài những sách viết cho trẻ con đọc, còn có những tiểu thuyết của các nhà văn hữu danh V.N. và sách dịch? Mặc dầu cấm các con đọc sách của người lớn, nhưng ông biết Di luôn luôn lấy sách cấm ra đọc. Mắng mãi cũng không chừa.
Di còn cố ý tránh dàn mặt với bố. Trừ trong những bữa ăn Di bắt buộc phải đối diện với ông Hạ, còn vào những khoảng thời gian khác trong ngày, Di tìm đủ mọi cách để có thể ngồi yên trong một xó kín đáo nào đó trong nhà, đọc sách và mơ mộng một mình.
Di tin tưởng vào Tkhông và coi như một người kiểu mẫu. Di cố gắng dập mọi hành động, suy luận ý hệt anh, một cố gắng không mấy khi đạt được kết quả. Mỗi khi ông Hạ mắng Di mà Di không tìm được đủ lý lẽ đối đáp, Di nhìn Tô cầu cứu. Ông Hạ bắt gặp nhiều lần hai anh em nghiêm trang ngồi bên nhau, Tô giảng giải, Di lắng nghe. Dần dần thái độ của Di cũng có vẻ cứng rắng mạnh bạo hơn trước phần nào.
Thấy Di có thể dựa vào Tô, bà Hạ cũng lấy làm mừng. Yêu con nhưng không dám bênh con ra mặt vì nể chồng, nhiều lần bà chỉ còn biết than thở với con cái, sau khi chồng rời khỏi nhà.
Ông Hạ cũng hay bắt gặp ba mẹ con Di, Tô thủ thỉ chuyện trò. Đôi mắt sáng lên thương yêu mến phục của vợ ông không rời khuôn mặt linh động của Tô. Hễ thấy ông, ba mẹ con tự động ngừng câu chuyện nói dở, trao đổi những cái nhìn kín đáo, hoặc lảng sang một vấn đề khác.
Sau khi nghĩ buôn bán, gia đình ông bà Hạ bắt đầu nợ. Vợ ông vay chỗ này một ít chỗ kia một ít, không cho ai hay biết, kể cá các con. Tiền chợ và chi tiêu lặt vặt ông giao cho bà quá ít – bà Hạ lại không phải hạng người có thể khoanh tay bất lực trước những kham khổ, thiếu thốn của những người thân.
Nếu ông biết vợ vay lãi ngay từ đầu, chắc ông đã có thể hoặc dùng uy quyền hoặc doạ nạt để ngăn cản. Nhưng thực ra ông đâu có thời giờ và tâm trí để theo dõi mọi hành động của vợ. Nhưng tình cảm hậm hực, bi quan đã chiếm hết tâm óc ông, ám ảnh ông ngày đêm.
Bà Hạ nay sắm món đồ này, mai sửa chữa món đồ khác, mua thêm thức ăn, chăm chút cho chồng và các con. Những món nợ chồng chất mãi lên nhau. Hàng tháng, bà Hạ chỉ vay nổi tiền trả nợ lãi, còn số nợ gốc tăng vùn vụt một cách đáng sợ.
Đến hôm chủ nhà đến tận nhà đòi và làm ầm lên, ông Hạ và các con mới khám phá ra bà nợ nhiều đến mức nào. Và từ đó trở đi chuyện nợ nần chẳng khác lửa được đổ thêm dầu, gây ra bao nhiêu cuộc cãi cọ, tranh luận giữa ông Hạ và vợ con.
Sau một thời kỳ trên bề mặt tương đối yên tĩnh, sóng gió lại xáo động cuộc sống của gia đình.
Vào một buổi sáng chủ nhật, cả gia đình ông Hạ đều ở nhà, một người khách đàn bà đến hỏi bà Hạ. Vừa trông thấy mặt bà ta, khuôn mặt bà Hạ tái nhợt nhạt. Bà vội chạy ra tiếp khách, dáng điệu lúng túng.
Bà Hạ thì thầm với bà khách những gì không hiểu, nhưng sau vài câu trao đổi, bà ta lộ vẻ tức giận, cất cao giọng nói không kiêng nể một ai:
“Thế bà nhất định không chịu trả? Bà còn khất đến bao giờ nữa? Tôi nể lắm mới gia hạn cho bà đến buổi nay, chứ người khác thì tôi đã lôi ra cẩm rồi.”
Bà Hạ bối rối nho nhỏ:
“Chết! Tôi xin bà. Bà nói khe khẽ thôi chứ…! Vâng, tôi sẽ cố…”
Người chủ nợ đứng phắt dậy, hai tay chống cạnh sườn, nhìn tất cả mọi người trông nhà một lượt, giọng thách thức:
“Tôi không việc gì phải nói khẽ. Tôi đến đây đòi nợ chứ không phải để xin tiền bà.”
Quan sát thái độ của vợ, ngay phút đầu ông Hạ đã nghi nghi, bây giờ mới vỡ lẽ: bà này là chủ nợ của vợ ông. Bà Hạ quay đầu nhìn chồng rất nhanh, khuôn mặt sợ hãi trông thật đáng thương.
Bà nắm tay người chủ nợ, nói liều:
“Vâng! Bà cứ về đi: đến sáng mai tôi sẽ đem đến trả bà…”
Người chủ nợ giật tay ra giận dữ:
“Tôi không đi đâu hết. Tôi sẽ ngồi lì đây đến hồi nào bà chạy được tiền trả tôi cả gốc lẫn lãi… Tôi tin vào lời hứa của bà để tôi chết đói rã họng ra ấy à. Hừ! Hứa với hẹn, khất ba lần bẩy lượt rồi chứ phải không đâu.”
Tô đứng dậy lại gần me, trán nói cau nhẹ, mắt nhìn người chủ nợ đầy khinh bỉ. Tô hỏi thẳng mẹ:
“Cái gì thế me? Có thật me nợ bà này một số tiền?”
Bà Hạ nghẹn ngào không nói lên lời, chỉ khẽ gật đầu.
“Bao nhiêu hở me?”
Bà Hạ yếu ớt đáp:
“Hơn bốn vạn!”
Ông Hạ vùng đứng dậy như ngồi phải lửa. Thế này thì quá lắm! Lỗi lầm của vợ ông không thể tha thứ được. Tại sao vợ ông dám tự ý vay một món tiền lớn đến như vậy? Chắc hẳn vay tiền để các con được ăn sung mặc sướng.
Nhưng nhìn khuôn mặt rắn như sành và đanh đá của người chủ nợ, sự thận trọng cố hữu của ông ghìm cơn nóng giận của ông lại. Ông phải thật khôn khéo và dò hỏi xem vợ có làm giấy tờ gì không. Nếu bị tù vì nợ, danh dự của ông, của gia đình còn gì?
Tô ngạc nhiên hỏi mẹ:
“Bốn vạn! Sao me không nói cho con biết? Mà mấy món nợ bà Bốn, bà Chi con đã đưa tiền me trả đầy đủ cơ mà?”
Người chủ nợ giơ tay lên sỉa vào mặt bà Hạ, giọng chua ngoa và đe doạ:
“Gớm thật! Bà có tiền mà bà không chịu trả tôi. Bà định ăn quịt phải không? Rồi bà sẽ biết tay tôi. Con mẹ này không phải tay vừa…”
Tô quay phắt lại nhìn thẳng vào mặt người chủ nợ, giận dữ.
“Tôi xin bà im ngay! Tôi đang nói chuyện với me tôi. Mà bà không cần phải nhiều lời. Chúng tôi không phải hạng người quen quịt nợ. Rồi bà sẽ được trả đầy đủ.”
Người chủ nợ vừa hé miệng định làm dữ, Tô đã tiến lên một bước, giọng cả quyết và đe doạ:
“Nếu bà mà nói thêm một câu thiếu lịch sự, tôi bắt buộc phải mời bà ra khỏi nhà. Đây là nhà chúng tôi. Nợ bà chúng tôi sẽ trả nhưng bà không có quyền làm ồn ào.”
Thấy tình thế có vẻ gay go, ông Hạ vội lại gần người chủ nợ, cười rất xã giao:
“Mời bà vào trong này ngồi chơi. Xin bà yên tâm! Tuy tôi không được biết rõ về chuyện nợ nần của nhà tôi nhưng rồi tôi xin lo liệu. Tôi là chủ gia đình, có gì tôi xin chịu trách nhiệm…”
Người chủ nợ còn lưỡng lự, ông vội thêm một câu:
“Chúng ta là người lớn cả! Đâu mỗi lúc mang nhau ra trước pháp luật. Gia dĩ, chắc khi cho nhà tôi vay tiền bà cũng quên một điều là vợ các công chức không có quyền vay nợ, nếu không được chồng cho phép.”
Biết gặp người thông thạo pháp luật, dù có làm ầm cũng không chắc đi đến đâu, người chủ nợ theo ông vào trong nhà. Ông khôn khéo hỏi cặn kẽ về món nợ của vợ nợ gốc hiện lên đến bao nhiêu, những điều kiện trả lãi và giấy tờ làm bằng chứng.
Sau gần một giờ đồng hồ điều đình, người chủ nợ ra về.
Không khí trong gia đình trở nên nặng nề khó thở, ngay sau khi người chủ nợ rời khỏi nhà. Bà Hạ ngồi cúi đầu gầm ra vẻ chăm chú khâu. Tô thì thầm trò chuyện với me. Bà lẳng lặng nghe, đôi mắt xâu chớp chớp, thỉnh thoảng lại thở dài. Nhưng tiếng thở dài não ruột của bà Hạ càng khiến ông, điên ruột. Di, từ lúc người chủ nợ bước chân vào nhà làm ầm ĩ và lăng nhục mẹ, vẫn ngồi bất động ở bàn học, khuôn mặt nó nhăn nhúm, cánh mũi phập phồng, đôi lông mày rậm nhíu vào nhau.
Ông Hạ mặt hầm hầm, đi đi lại lại trong nhà. Ông thầm nghĩ: “Được lắm! Thường lệ vợ con đoàn kết thành một phe để bênh vực lẫn nhau. Lần này thử xem còn ai bênh vực nổi ai nữa hay không”.
Ông lật đi lật lại chuyện vay nợ trong đầu, nhìn vấn đề dưới đủ mọi khía cạnh, cố tìm một lối thoát khỏi tình trạng tuyệt vọng này của gia đình. Ông cũng không quên một sự kiện hiển nhiên: Vợ ông đã vay một món tiền lớn và đã lại dại dột làm giấy tờ hẳn hoi. Ông đã viện lý lẽ vợ một công chức không có quyền vay mượn tiền không có sự ưng thuận của người chồng để làm kế hoãn binh. Nhưng ông đã phải hứa sẽ trả thành nhiều tháng, vì biết nếu người chủ nợ nhất định kiện vợ ông trước toà, tên ông sẽ bị trưng lên mặt báo. Được toà xử vô can thì không sao nhưng nếu chẳng may bị tù tội…? Ông sẽ không còn hi vọng gây dựng lại sự nghiệp một khi danh dự mang một vết nhơ khó rửa.
“Bốn vạn bạc”. Với số tiền lương của ông dù trả thành nhiều tháng, đến bao giờ mới dứt món nợ. Mà chắc đâu vợ ông chỉ nợ có món đó. Chắc chắn còn vài món nợ khác vợ ông hãy còn dấu ông.
Suốt mấy năm hễ ông dự định làm gì là y như gặp khó khăn. Chưa bao giờ vận ông đen đến thế? Nhiều khi ông đâm nghi ngờ cả tài năng soay sở kinh doanh của ông. Nếu thực ông là người có bản lĩnh tại sao lại gặp hết thất bại này đến thất bại khác. Thoạt đầu ông còn có thể đổ cho vận đen, nhưng dần dần lòng tự tin của ông bị lung lay đến tận cội rễ. Ông tự hỏi “Đen một hai lần chứ đâu có thể đen cả chục lần”. Hay có lẽ ông đã hết thời và bắt đầu già rồi?
Ông Hạ kéo một chiếc ghế, ngồi phịch xuống. Ông giang tay gạt mạnh. Mấy chồng sách, cốc chén văng xuống đất vỡ nát. Tiếng thủy tinh vỡ làm tất cả mọi người ngửng đầu quay mặt về phía ông.
Ông bắt đầu nói, giọng như quát. Càng nói cơn giận của ông càng bừng lên.
Ông hỏi vợ:
“Thế nào! Bây giờ bà nói ra làm sao? Tôi sẵn sàng giỏng tai lên nghe…! Bà vay tiền làm gì mà nhiều đến thế? Mà tại sao bà lại dám dấu tôi…? Bà tưởng bà vay nợ thời không liên can gì đến tôi phải không? Bà nhầm to! Nếu bà không trả nổi, con mẹ chủ nợ mang bà ra toà thì rồi chính tôi, bà nghe rõ chưa, chính tôi sẽ bị trừ lương hàng tháng cho đến khi nào hết hạn nợ…”
Trước những câu hỏi dồn dập bà Hạ không biết trả lời ra sao. Tô bênh me:
“Ba hỏi từ từ, chứ ba quát lên me trả lời sao kịp.”
Ông quắc mắt:
“Tao không nói chuyện với mày! Để mặc me mày trả lời…”
Bị dồn đến bước đường cùng, bà Hạ cũng đâm liều.
“Tôi vay để tiêu cho gia đình… Để mua thêm cái ăn cái uống cho ông cho các con… Để may thêm quần áo cho chúng và mua sách vở chúng cần dùng… Lâu ngày nợ gốc không trả được, lãi chồng lên nhau mới nhiều đến thế.”
“À! … Thế bây giờ người ta không còn coi tôi ra cái thớ gì nữa! Tôi ngồi đây để làm gì? Tôi là phỗng đá hả? Dính đến chuyện nợ nần gỡ ra đâu dễ! Vào tù như chơi. Trời ơi! Vợ với con. Tại sao bà không cho tôi biết từ đầu? Tại sao?”
Câu trả lời của vợ càng khiến ông tức giận thêm, mất hẳn bình tĩnh và tự chủ.
“Nói với ông chẳng ích gì! Ông lại la hét mà rồi con cái đói rách vẫn đói rách…’
“Bà cấm tôi la hét phải không? Từ bao giờ bà cho rằng tôi không đủ sức nuôi gia đình? Bà phải nhớ tôi la hét là có lợi cho bà. Tôi lo lắng kiếm tiền vì ai? Cho tôi à? Dễ thường trong gia đình này chỉ có tôi ăn, tôi tiêu, tôi phung phí tiền bạc… Phải chỉ có tôi ăn báo hại, báo cô…”
Tô bất mãn, ngắt lời bố:
“Ba nói hơi quá! Me chúng con đâu ăn báo hại lúc nào cũng tìm cách kiếm thêm tiền đỡ ba đấy chứ! Me chẳng đi buôn là gì?”
“Đi buôn! Mày đừng nhắc đến chuyện đi buôn nữa mà tao lộn ruột. Suýt nữa què một cẳng, mà lãi đâu? Lãi đâu?”
“Cứ cho là không lãi đi, nhưng ba cũng phải công nhận là me đã làm hết sức rồi…”
“Tôi không cầu ai làm hết sức! Tôi chỉ mong mọi người để tôi yên. Đừng phá tôi, đừng làm nhục tôi, đừng đưa tôi đến cảnh tù tội! Nợ đến hàng chục vạn trả đến kiếp nào mới hết!”
Quay về phía vợ, ông hỏi mỉa:
“Bà tưởng tôi là con trâu kéo cày trả nợ cho bà phải không?”
Bà Hạ tự nhiên ôm lấy đầu, mắt nhắm lại, nước da tái xanh miệng kêu lên:
“Sao tôi chóng mặt thế này…?”
Tô đỡ me nằm xuống giường. Lan chạy vội lấy nước và mấy viên thuốc cảm.
Ông còn cố nói với:
“Sao lại vác cái lo lắng vào người. Vay nợ phải suy tính trước sau chứ…?”
Hình như bị động lực mãnh liệt thúc đẩy, Di vùng đứng lên mặt nhăn nhó, ánh mắt oán ghét. Giọng nói run rẩy:
“Sao ba không thôi đi! Ba nói thế chưa hả hay sao? Ba không thấy me ốm nặng mà còn hành hạ me?”
Ông Hạ hơi ngạc nhiên, nhìn Di. Thằng này điên hả? Dám hỗn cả với bố nó. Ai hành hạ gì me nó? Ông chưa kịp mắng Di, nó đã rảo bước ra khỏi phòng, không quay đầu lại.
Bà Hạ ốm dai dẳng hơn một tuần lễ. Căn bệnh của bà không rõ rệt, không hẳn ra cảm sốt, cũng chẳng phải là cúm. Người bà cứ rạc đi, mắt trũng sâu, không ăn không ngủ được. Mặc các con thúc dục, bà cũng không chịu đi khám bác sĩ và thoái thác: “Me khó chịu soàng thôi mà. Mai khỏi!”
Ban ngày bà tránh nói chuyện với chồng. Đêm đến nằm cạnh ông, bà hay trở mình vật vã, chốc chốc lại thở dài.
Trước đây trong đời sống vợ chồng, những lúc nằm trò chuyện trước khi ngủ là giây phút tương đối gần gũi và thân mật giữa ông bà Hạ.
Muốn biết điều gì về các con ông có thể hỏi vợ và nếu bà muốn bênh vực tranh đấu cho các con thời cũng lợi dụng được mỗi thời gian đó nêu các vấn đề gay go lên mà không e ngại ông gắt và mắng lấp đi.
Dạo này, mặc dầu ông cố ý gợi chuyện, bà cũng chỉ trả lời cho qua, đoạn nằm vắt lên trán mắt nhắm lại giả vờ ngủ. Ông hơi bực mình trước thái độ cách biệt đó của vợ. Vợ ông không có quyền giữ những mối lo âu riêng cho mình. Ông muốn vợ phải hỏi ý kiến, nương tựa vào ông, bám víu vào ông, trong mọi trường hợp.
Cả đêm ông Hạ nghi ngờ tự hỏi: Hay có lẽ vợ ông không còn tin cậy trông mong vào ông như xưa? Vợ ông cũng như các con, cho rằng ông là một người bất đắc chí, hết thời mà vẫn cứ tưởng mình tài giỏi.
Lần đầu tiên trong đời ông hiểu thế nào là cô độc.
Đêm này qua đêm khác vợ chồng ông nằm cạnh nhau, chia cách bởi một bức tường thành vô hình và cùng cảm thấy bất lực như nhau trước số mệnh.
Ông có thể chịu đựng cô độc, nhưng cảm thấy mình bất lực thật là một cực hình ghê khiếp.
Trong thời kỳ bà Hạ ốm đau và dưỡng bệnh, ông nhượng bộ không hề đả động đến nợ nần. Ông kiên nhẫn đợi đến khi vợ hỏi hẳn bệnh. Tuy ông đã giao hẹn với người chủ nợ, hàng tháng sẽ thân hành mang tiền đến tận nhà, nhưng không hiểu tại sao ông lại không cho vợ hay biết sự thoả thuận đó giữa ông và chủ nợ. Hễ có tiếng gõ cửa vợ ông lại giật mình, khuôn mặt nhợt nhạt, nằm trên giường thân hình bất động và chờ đợi…
Hôm vợ gần khỏi, ông Hạ mới kể vắn tắt công chuyện nợ nần đã được giải quyết cách nào. Bà Hạ ngồi yên, đầu cúi, không hé miệng nói một câu.
Ông Hạ tưởng với tư cách một người chủ gia đình, cố gắng thu xếp như thế là hết, không thể chê trách được. Thế mà ông linh cảm hình như các con – nhất là Di và Lan – lại còn đổ hết lỗi cho ông: Lỗi tại ông nên bà Hạ nợ nhiều đến thế, lỗi tại ông nên bà Hạ ốm đau. Sự vô ơn của các con làm ông Hạ thâm gan tím mật. Chúng đã không hiểu ông, tại sao ông còn tỏ ra rộng lượng làm chi?
Khi vợ ông khỏi hẳn và bắt đầu ăn trả bữa, ông lại mang chuyện nợ nần ra nói. Gia đình đã túng thiếu, mỗi tháng lại phải trích 2.000$ tiền lương để trả nợ, nên các sự chi tiêu lại càng phải dè sẻn hơn. Ngay đến thuốc lá rẻ tiền ông Hạ nhiều lúc cũng không đủ tiền mua. Các món ăn quá thanh đạm ông nuốt không nổi. Thời tiết mùa nực khiến nhà biến thành một cái hòm lớn. Hà tiện tiền điện đến nỗi có cái quạt máy cũ ông cũng không dám bật lên. Ăn không được, ngủ không được, ông gầy đi và ngày càng khó tính và khe khắt.
Đêm đến trằn trọc trở mình đi trở mình lại, giấc ngủ vẫn không đến: Ông Hạ dằn vặt vợ, nói những câu mỉa mai như róc thịt. Nằm nghe hoài những lời trách của bố, Di đang đêm đùng đùng dậy mặc quần áo, mở cửa đi đâu không biết, mặc dầu ông Hạ đe.
“Muốn chết hả! Nhà binh đang thiết quân luật, đi lớ quớ lính tuần bắn chết mất xác.”
Những ngày đen tối của gia đình ông Hạ tiếp tục trôi qua. Vợ ông ngày nào cũng phải nghe những lời trách móc dai dẳng của ông, nên tâm tính thay đổi hẳn. Trước kia bà tươi tắn hay cười nói, duyên dáng không ai gặp mà không ưa mến; bây giờ ít nói, ra vào như một cái bóng, lúc nào cũng ngẩn ngơ như người bị một ác mộng ám ảnh. Nhiều lúc bà ngồi thừ người hàng giờ đồng hồ. Đôi khi ông còn bắt gặp vợ khóc một mình.
Trong câu chuyện với các con, dần dà bà Hạ đưa ra những lý luận lời lẽ hơi kỳ lạ.
Bà nhận hết lỗi về phần mình. Lỗi với chồng vì không biết thu va thu vén, tiết kiệm mọi chi tiêu để đến nỗi sợ như chúa chổm, vì buôn bán vụng về không kiếm thêm được tiền nuôi con ăn học đâu ra đấy; vì không khéo léo hoà giải mỗi người trong gia đình nên không lấp được vực sâu oán hận thù ghét nhau giữa chồng và các con.
Bà lại còn bênh chồng “Trước kia ba đâu có thế! Tại me cả! Các con cứ trách me đây này!”Bà còn nhắc lại hồi mới cưới nhau và có con, ông đã chứng tỏ là một người chồng người cha kiểu mẫu thương mến vợ con như thế nào. Các con bà ngạc nhiên, bỡ ngỡ. Không biết chúng có tìm ra nguyên nhân thầm kín đã khiến mẹ chúng thay đổi thái độ hay không, nhưng nể và yêu mẹ, chúng bảo nhau tạm thời tránh đề cập tới những sự “độc ác”của bố. Chúng còn cố gắng tìm đủ mọi cách giúp mẹ quên đi một phần nào cảnh buồn của gia đình. Chúng khôi hài và làm ra vẻ coi nhẹ chuyện nợ nần. Nghe những câu khôi hài của các con, bà Hạ cũng chiều chúng cười đấy, nhưng rồi sau đó buồn và lo lắng hơn.
Về phần ông Hạ, ông không chịu nổi sự khôi hài cười cợt giả tạo và không đúng chỗ đó của các con. Ông cho thế là hèn nhát và trốn tránh thực tại. Nghe chúng bông đùa về chuyện quần áo mỗi người đều cũ và mạng tứ tung, thiếu tiền ăn sáng phải ăn cơm nguội. Di đi học phải lê một đôi giày há mõm, Tô không bao giờ có đến chục bạc trong túi v.v… Ông lộn cả ruột gan muốn tát cho mỗi đứa một cái – như hồi chúng còn nhỏ – để làm chúng tỉnh ngộ. Chúng không biết thế nào là nhục nhã hay sao mà còn cười.
Chiều đến, và các con thích bác chõng ra hiên trước nhà hứng gió và chuyện trò mơ tưởng những chuyện cao xa, tưởng tượng ra những thú vui mọi người sẽ được hưởng nếu có nhiều tiền. Bà Hạ mơ xây được một biệt thự ở Đà Lạt có đầy đủ phòng cho cả gia đình, hoặc hè đến rồi rào tiền nong cho các con ra bể tắm, nghỉ ngơi. Bà còn gợi lại những kỷ niệm êm đẹp của thời con gái sống trong một gia đình khá giả.
Ngồi bó gối lẻ loi trong nhà, xa cách hẳn vợ con, ông Hạ nhiều lần tưởng chừng đang nghe một lũ người điên hay dở người trò chuyện. Mơ mộng hão huyền hoàn toàn xa lạ đối với ông.
Tuy ông Hạ soay sở tìm được mấy chỗ làm cho Tô, giúp đỡ một ông bạn thầu khoán của ông trông nom các tù binh tại một công trường, hay làm bồi cho một sĩ quan Pháp, nhưng hễ ông đưa đề nghị nào ra, vợ ông – thường lệ vẫn phục tòng ông – đều khăng khăng phản đối “Thà để các con chết đói còn hơn làm đầy tớ cho người ngoại quốc”. “Trông nom phu phen thường có kham khổ may ra. Tô còn kham nổi, nhưng đốc thúc tù binh phải đánh đập họ dã man lắm. Vả lại, nếu các bác thằng Tô một ngày kia trở về biết chuyện, tôi còn mặt mũi nào…”
Cho vợ chỉ là đàn bà câu nệ, ông hỏi thẳng ý kiến Tô. Tô nín lặng. Khuyên nhủ nhẹ nhàng, mắng mỏ, Tô lơ đãng miễn cưỡng nghe. Tô đợi khi ông hết lời, buông độc một câu ngắn ngủi “Con chịu thôi. Con không thể làm vừa lòng ba”, ông nản lòng, đành bỏ cuộc. Nhưng, ông đâu ngờ Tô đã ngầm đến gặp ông bạn của bố, nhận một chân phu đốc công trại một công trường bên kia Gia Lâm, trông nom phu mộ ở mấy làng kế cận. Trong mấy tháng liền, Tô xin nghỉ học để “dưỡng bệnh”, đạp chiếc xe cọc cạch qua cần sông cái, làm việc suốt ngày ngoài nắng đến tối mịt mới trở về, ông Hạ cũng không hay biết mảy may.
Mãi đến hôm Tô hỏi me trước mặt người chủ nợ “Con đã đưa tiền me góp trả đầy đủ các món nợ bà Chi, bà Bốn rồi cơ mà…” ông mới nghi ngờ, và sau đó tra hỏi Tô:
“Mày góp tiền trả nợ hộ me? Mày lấy tiền ở đâu?”
“Con giúp bác Phú trông nom phu bên Gia Lâm, mỗi tháng bác trả 1.200$.”
“Sao mày không cho tao biết?”
Tô nhún vai thản nhiên đáp:
“Cho ba biết thì làm sao góp được tiền trả nợ cho me.”
Ông Hạ thầm nghĩ “À ra vậy! Nó đi làm cốt để trả nợ cho me, không phải vì bị mình bó buộc”.
“Hiện thời mày còn làm với bác Phú không?”
“Không! Con xin thôi ngay sau khi trả xong hai món nợ cho me.”
Đôi mắt long lanh sáng của Tô soi mói nhìn bố. Tôi tiếp luôn, miệng thoáng một nụ cười chua chát, khinh thị:
“Chắc ba muốn con đi làm chứ gì? Đáng tiếc, bác Phú đã tìm người thay chỗ con mất rồi. Tuy nhiên nếu ba muốn, còn cái chân bồi hay bếp gì đó ba nói đến dạo trước, còn trống hay không? Kể ra, làm bồi cho một sĩ quan Pháp vào thời này cũng vinh dự cho cha mẹ lắm đấy chứ? Con cũng chỉ bắt chước óc thực tế của ba thuở nhỏ, đâu có gì xấu phải không ba?”
Bất giác ông vung tay tát Tô một chiếc. Tô đưa tay lên xoa má, vẻ mặt đanh lại. Hắn nhìn chăm chăm vào mặt bố, môi mím chặt, những thớ thịt hai bên hàm nổi hẳn lên. Nhưng rồi hắn trấn tĩnh được, gượng gạo nói:
“Xin lỗi ba!”
Tuy miệng xin lỗi, khuôn mặt Tô lại thoáng một vẻ kiêu hãnh khác lạ. Thật trái ngược, ông Hạ cảm thấy trong hai người kẻ thua trận bị lăng nhục lại là ông.
Tô ra khỏi phòng, ông Hạ vẫn ngồi trầm ngâm.
Về phần Di, Di đi về thất thường, nhiều tối không ngủ nhà. Di vẫn đi học nhưng hắn không mấy quan tâm đến bài vở thi cử. Thông minh thứ hạng điểm số của Di luôn luôn dưới mức trung bình. Ông Hạ mắng, Di cúi đầu nghe, vẻ mặt thờ ơ, chịu đựng – một sự thờ ơ còn khiêu khích và hỗn xược gấp trăm nghìn lần những câu phản đối cãi hướng.
Tệ hơn nữa, Di hình như còn định tâm gây ra nhiều chuyện rắc rối cho gia đình, và dĩ nhiên cho chính bản thân nó.
Đầu tiên là chuyện Di gây sự và cãi bướng với một người đội cảnh sát Tây.
Hôm đó ông Hạ đi làm về chưa kịp thay quần áo thời có tiếng gõ cửa. Một người cảnh sát Việt, đứng tuổi, tóc và bộ râu ghi đông cuốc điểm bạc, khuôn mặt vuông hiền lành, bước vào nhà hỏi:
“Đây có phải nhà cậu Di? Xin lỗi ông! Tôi chắc ông là ba cậu Di, vậy xin mời ông lên cẩm làm giấy bảo đảm và đón cậu ấy về…”
Ông hỏi Di bị bắt về tội gì, ông ta cười đáp:
“Cậu ấy đi xe không phanh lại đi trái đường. Ông đội Tây ra lệnh cho tôi bắt cậu ta vào bóp hỏi giấy tờ. Ông đội hỏi tên tuổi giấy tờ cậu ấy chẳng buồn cho biết lại còn cãi bướng “Tôi không có giấy tờ. Tôi không có nhà. Hỏi gì mà lắm thế!” Bị ông đội tát cho mấy chiếc cậu Di trừng mắt lên mắng “Đồ thực dân!” May mà ông đội không biết tiếng Việt. Rồi cậu ấy bảo tôi “Cụ làm ơn dẫn tôi đến phòng giam. Tôi không trả lời đâu”.
Ông ta cười tha thứ, lắc lắc cái đầu:
“Con trai thời này bướng thật! Tù cũng chẳng sợ!”
Ông Hạ cám ơn ông đã bênh vực cho Di. Ông đáp giản dị:
“Đâu có gì! Chẳng là tôi cũng có một thằng con trai tính nết bướng bỉnh chẳng khác gì cậu Di… Nó bị đạn lạc chết hồi Tây Ta đánh nhau trong thành phố…”
Ông thở dài nhỏ nhẹ khuyên ông Hạ:
“Tôi không muốn xen vào chuyện dạy dỗ con trẻ của ông, nhưng có lẽ ông nên răn dạy cậu Di bớt ngang tàng một chút. Nhỡ ra bị nghi là Việt Minh rồi tù tội thì khổ.”
Ông Hạ sượng sùng không biết đáp ra sao. Nếu trả lời người cha yêu con đó “ông cứ bỏ tủ nó đi cho nó sáng mắt ra”, chẳng hoá ông thú nhận không những không dạy nổi con cái mà còn phải nhờ pháp luật trừng phạt để thoả lòng oán ghét của ông.
Sau khi ông Hạ giở hết tài ngoại giao ra xin lỗi viên đội Tây, Di được tha. Di lẳng lặng theo ông về nhà không hề lộ vẻ biết ơn. Về đến nhà ông mắng, Di đáp gọn lỏn:
“Ba đến đón con làm gì cho mất công. Cứ để mặc con bị giam ở bóp có hơn không. Con đâu có sợ! Hay ba tiếc trăm bạc nộp phạt…?”
Ông nổi giận cổ nghẹn tức chưa kịp phản ứng, Di thọc xâu hai tay vào túi, cánh môi trề xuống, buông một câu:
“Mà xin xỏ cái thằng đội Tây đó làm gì! Trông cái mặt thực dân của nó, con chỉ muốn tát chuyện cho mấy cái rồi muốn ra sao thì ra…”
Bà Hạ ngồi gần đó, hốt hoảng nhổm dậy níu chặt lấy cánh tay chồng. Ông gạt vợ ra quăng cái gối xuống đất, giọng đầy khinh bỉ:
Bà không cần phải can. Đánh đứa con bất hiếu vô ơn này làm gì cho bẩn tay. Di! Mày đi đâu thì đi cho rảnh mắt tao…”
Di không nói nửa lời, lầm lũi ra khỏi nhà.
Tô từ đầu đến cuối vẫn ngồi im lặng quan sát bố và Di không can thiệp.
Tối đến ông Hạ trằn trọc mãi không ngủ được. Ông nằm vắt tay lên trán nghĩ ngợi miên man. Xưa nay trong vẫn ghét thậm tệ những tình trạng tranh tối tranh sáng.
Trong một khoảng thời gian ngắn ông đã đánh đập hai đứa con trai. Từ khi chúng bắt đầu lớn và hiểu biết, nhiều khi ông quát mắng chúng, nhưng chưa lần nào phải dùng đến chân tay. Đánh chúng là phải hay trái? Ông có thể tự bào chữa: Chúng hỗn láo và xúc phạm đến ông, đánh là đáng lắm. Nhưng một câu hỏi quái ác vẫn lởn vởn trong trí óc ông. Ông đã khổ công nuôi dạy chúng đến khi khôn lớn, tại sao chúng lại trả ơn bằng khinh bỉ oán ghét, hoặc thờ ơ cách biệt? Dĩ nhiên đôi khi ông cũng đã tỏ ra quá khe khắt và hành hạ chúng đôi chút, nhưng cũng vì bị thúc đẩy bởi thiện ý muốn chúng nên người, đầy đủ bản lĩnh đối chọi với đời. Ông đâu có sống chỉ vì đồng tiền. Sở dĩ ông say mê với tham vọng làm giàu là khổ vì đồng tiền quá nhiều trong thời thơ ấu và tuổi thiếu niên, ông không muốn vợ con ông nhục nhã trong cảnh nợ nần nghèo túng. Các con và kể cả vợ ông không chịu hiểu cho ông điều đó. Mà thực ra có ai chịu tìm hiểu tâm sự thầm kín của ông đâu?
“Vợ và các con ông không chịu tìm hiểu ông!”Tất cả những chuyện rắc rối trong gia đình đều phát xuất từ đấy mà ra. Đã vậy, tại sao ông không giải thích cho họ hiểu? Các con ông lớn rồi, óc phán đoán cũng đủ vững vàng để phân biệt phải, trái. Gặp cơ hội thuận tiện ông sẽ giải thích cho cả gia đình hiểu tâm sự của ông.
Sau hôm bị bố đánh, Di bỏ nhà đi dâu ba, bốn hôm không về. Ông Hạ vịn vào sự vắng mặt của Di, hoãn ít lâu ý định giải thích cùng mọi người trong gia đình. Thực ra ông cũng chưa quyết định hẳn; hễ định mở miệng thổ lộ những tư tưởng thầm kín là y như có một sức mạnh vô hình chặn họng ông. Sau năm hôm vắng mặt Di trở về nhà. Suốt trong bữa cơm chiều ông Hạ trò chuyện với vợ, Lan và Tô làm ra vẻ không lưu tâm đến sự có mặt của Di. Cơm nước xong xuôi ông ngồi ở bàn và tiếp tục câu chuyện dở dang với vợ. Khi ông cố gắng giảng giải là món nợ bốn vạn của bà sẽ trả xong trong năm tới, Di ngồi ở cạnh đó tự nhiên cười khảy một tiếng và nói khá to:
“Tiền! Lúc nào cũng kêu ca thiếu tiền…”
Ông Hạ quắc mắt, giọng đanh lại:
“Thế thì sao?”
Vợ ông lo lắng nhìn ông và Di. Giọng của Di ngầm mang một ý nghĩ thách thức. Tô thấy câu chuyện có vẻ gay go chêm vào, giọng khôi hài:
“Thì kiếm thêm chứ sao phải không me?”
Di mím môi ngồi không yên, dáng mặt nóng nảy. Ông Hạ gay gắt:
“Tôi xin nói để mọi người hiểu là để mặc tôi lo liệu! Hay có ông con nào muốn kiếm tiền thay tôi? Hừ còn là mệt mới thay nổi thằng bố già này…”
Di buông sõng một câu:
“Thật không! Ba cứ làm như kiếm tiền khó lắm…”
“Thưa ông không khó đâu, nhưng cái mẽ ông đi làm phu chưa chắc ai mướn…”
“Nếu ba cần tiền đến thế thì tiền đây!”

Mọi người hồi hộp chờ đợi phản ứng của ông Hạ. Ông hơi ngạc nhiên nhìn tập giấy bạc rồi lại nhìn Di. Chẳng lẽ Di thay đổi chóng thế, hết mơ mộng viễn vông và đã chịu khó kiếm việc làm giúp gia đình? Nếu vậy thì hay lắm! Ông sẽ cầm tiền, khen Di mấy câu và tiện thể hoà giải với tất cả mọi người trong gia đình. Đây là cơ hội ông không bỏ qua…
Nếu Tô không khéo can thiệp kịp thời, chắc ông Hạ đã vứt tiền vào mặt Di và đánh Di mấy cái tát. Di tưởng ông không đủ thông minh để hiểu ý nghĩa hành động hỗn sược của nó. Di cho rằng kiếm được một món tiền đưa cho ông, nó đã có quyền khinh bỉ sự tha thiết đồng tiền của bố. Di muốn làm nhục ông trước mặt mọi người.
Khi thấy mặt bố cau lại và rút mạnh tay về, Tô thản nhiên cầm số tiền lên, miệng tươi cười.
“À! Nhà phải ăn khao cái đã! Đây là tiền Di đi làm buổi tối đây mà. Con giao cho me làm một bữa cơm gà vịt ăn cho sướng mồm.”
Di nhìn ông một lần nữa.
Mấy ngày sau tình cờ nghe hai anh em Di, Tô chuyện trò với nhau ông Hạ có dịp biết thêm ít điều mới lạ và khá bất ngờ về ý nghĩ của các con trai ông về chính ông.
Trưa hôm đó sau bữa cơm, ông nằm ngủ ở giường phòng ngoài. Đêm đến ông thường trằn trọc khó ngủ, nên giấc ngủ trưa tuy ngắn ngủi thường vẫn giúp ông lấy sức khá hiệu quả. Ngủ mê mệt được một lúc, ông Hạ chợt tỉnh giấc. Ông không ngồi hẳn dậy, nằm mơ màng, vì đoán chưa đến giờ đi làm. Tiếng Di và Tô rì rầm nói chuyện ở đâu đây. Chúng ngồi ở chiếc bàn phía trong. Ông không nhìn thấy chúng, một chiếc màn ngăn chia chỗ ông nằm và nửa phòng phía trong.
Thoạt đầu ông không lưu ý đến câu chuyện giữa Tô, Di nhưng sau thấy thoáng nghe thấy những tiếng “ba”ông đoán chúng đang nói đến ông. Ông lắng tai nghe. Chắc chúng tưởng ông ngủ say sưa như thường lệ, nên bàn tán không giữ gìn.
Tiếng Tô hỏi Di vẳng đến tai ông Hạ:
“Suỵt! Ba còn ngủ đấy chứ?”
Ông nhắm mắt lại vờ ngủ, cố giữ hơi thở đều đặn. Di vạch màn nhìn sang chỗ bố nằm
Di trả lời ngay:
“Ba ngủ say lắm!”
Chúng tiếp tục câu chuyện dở dang.
Tiếng Tô nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc:
“Tại sao hôm đưa tiền cho ba, Di có vẻ hằn học thế?”
“Em đâu muốn vậy! Mà nếu thật ra em đã có thái độ hằn học, em cũng chẳng cần.”
Giọng Tô châm biếm:
“‘Di đâu có muốn hằn học!’. Di không đùa đấy chứ? Tại sao không thú thật đó là một thái độ cố ý!”
“Anh rắc rối lắm! Em đã bảo em cóc cần mà! Mà tại sao em không có quyền hằn học, nếu em muốn thế!”
“Đấy nhé! Di công nhận Di cố tâm kiếm bằng được một số tiền để có thể “ném”vào mặt ba và có cơ hội bộc lộ tất cả sự hằn học của Di. Đúng thế không?”
“Cứ cho rằng Di công nhận đi thì sao? Anh định đưa câu chuyện đến đâu?”
Tô rành rẽ:
“A! Anh muốn biết sau khi chứng tỏ Di kiếm nổi ra tiền và tự lập, Di có ý định rời bỏ gia đình hay không?”
Im lặng một phút. Di lẩm bẩm chua chát:
“Anh suy luận nhanh nhỉ! Anh tưởng anh đọc rõ những tư tưởng trong óc Di phải không? Phải rồi anh vẫn thường tự phụ rất sành tâm lý mọi người mà!”
“Di cáu với anh đấy hả?”
“Không! Di không cáu khi thấy anh soi mói tâm hồn người khác, nhưng rất ‘bực mình – và – khó chịu’ vì cái giọng làm ra vẻ thản nhiên của anh khi đề cập tới những đau khổ của mọi người.”
Tô láy lại, chế riễu:
“Anh thản nhiên khi nói tới những đau khổ của Di! Lạ nhỉ! Anh có cảm tưởng Di giận anh.”
“Phải nói là Di bất mãn mới đúng! Ừ! Tại sao anh cứ đòi đóng cái vai quan toà hạch tội nhân? Tại sao Di hằn học? Tại sao Di làm thế này, thế kia? Anh đừng quên anh cũng là người trong cuộc! Anh cũng hằn học và oán ghét ba không kém gì em!”
Im lặng. Tiếng Tô lại cất lên:
“Di khó tính lại nhiều tự ái! Làm gì có chuyện ai là quan toà ai là tội nhân ở đây. Có điều Di quên mất là anh và Di tính nết khác nhau. Di hằn học, Di muốn lộ tình cảm đó ra mặt, anh cũng có thể hằn học, nhưng anh dấu kĩ thì sao.”
Ngừng một chút, Tô tiếp giọng thành thật và dịu dàng như muốn làm lành với em:
“Hay bây giờ Di và anh gạt sang một bên những chuyện cãi vã rắc rối về bản chất của anh và Di. Tại sao Di không nghĩ rằng anh hỏi Di chỉ vì muốn tìm hiểu chút ít về Di. Dạo này Di và anh không có dịp nói chuyện với nhau… Anh ngại rằng nhiều điều anh nghĩ về Di có thể sai lầm. Di hình như muốn sống cách biệt với mọi người… với anh. Dĩ nhiên anh không trách móc Di nhưng ít nhất Di cũng phải để mọi người giúp Di chứ.”
Trước những lời lẽ lúng túng của anh. Di ngắt lời:
“Em hiểu anh!”
“Nếu vậy Di nói thẳng ra đi! Có phải vì muốn tỏ ra khinh bỉ ba nên Di đã quyết định bỏ học đi làm kiếm thêm tiền. Trong tuần qua, Di không bước chân đến trường, anh đã làm giấy phép xin nghỉ cho Di, nhưng anh dấu cả me lẫn ba. Di còn muốn đi học nữa hay không?”
Di trả lời, giọng mệt mỏi chán nản:
“Em không biết nữa! Em cũng không rõ sẽ phải nghĩ gì làm gì. Bao nhiêu vấn đề cấp bách phức tạp em cần phải giải quyết. Ngay vấn đề ba và em chẳng hạn!”
Di ngừng một chút, đoạn tiếp giọng cả quyết:
“Em sẽ nói hết anh nghe ý nghĩ của em về ba. Từ dạo tản cứ về ba không ngớt than phiền kêu ca về chuyện tiền. Đối với ba kiếm tiền và thành công là những chuyện quan trọng nhất trên đời. Ba than phiền nhà mình nghè. Ba đe doạ anh em chúng mình sẽ có ngày phải đi ăn mày làm phu phen để kiếm sống. Chuyện này em chẳng phải nói dài, anh cũng rõ như em. Nhưng ba tha hồ mắng nhiếc và hành hạ mọi người, anh và em nhớn rồi cũng đủ sức chịu đựng ba. Miễn là ba đừng đụng chạm đến me.”
Giọng Di nghẹn ngào:
“Em không tưởng tượng nổi, khi hành hạ áp chế một người yếu hơn mình, người ta lại có thể cảm thấy vui thú. Thử hỏi me có tội gì? Từ khi lấy ba đến giờ me ăn bao nhiêu cơm và tiêu bao nhiêu tiền của ba? Lúc nào me cũng tươi cười, nhẫn nhục chịu đựng ba. Ba đâu biết ba làm khổ me đến bực nào. Me không than thở kêu ca, nhưng me khổ ngấm ngầm? Nghe những lời riếc móc ray rứt me muốn khóc mà cũng không dám. Dạo chúng mình còn bé chẳng nhiều lần bắt gặp me khóc thầm là gì? Ba luôn luôn chỉ biết có ba. Ý kiến của ba là nhất ai cũng phải theo. Nếu cưỡng lại ba sẽ tìm cách ép buộc phải vâng theo ba.”
Tô xen vào:
“Di! Di muốn thêu dệt ra những chuyện thực ra không hề xẩy ra hay sao?”
“Thôi Di! Làm sao chúng mình biết được những chuyện thầm kín giữa ba và me. Hơn nữa, nếu kết tội ba một phần nào Di cũng kết tội me. Theo ý anh, không ai hoàn toàn vô tội cả, kể cả me chúng ta.”
Di bướng bỉnh cãi:
“Em không tin me có lỗi!
“Hay em không ‘muốn’ tin thì đúng hơn… Anh yêu me, nhưng cũng không lạ gì tính me. Một khi đã yêu con chiều con, me quên hết mọi thận trọng, tính toán. Me vay nợ lu bù để bù đắp cho chúng ta. Làm sao anh lại có thể trách me yêu các con? Anh tự hào có người mẹ như me! Tuy nhiên gia đình mình sẽ đi đến đâu, nếu me tiếp tục vay nợ? Em thử nghĩ xem?”
Hai anh em lại im lặng. Ông Hạ nằm không động cựa, và không dám thở mạnh. Ông đâu ngờ Di khe khắt với ông đến thế.
“Anh không biết chứ dạo me đi buôn, ngồi ở lớp học em lo lắng ghê rớm. Lúc nào cũng thấp tha thấp thỏm chỉ sợ tầu bị mìn và nhỡ me làm sao mỗi buổi tối thấy me và anh trở về bình yên, em nhẹ hẳn người và mừng không thể tưởng được. Càng mừng em càng thù ghét ba. Tại ba hết! Sau này, me ốm và gãy chân, ba chắc hể hả lắm. Ai bảo mọi người trái lời ba! Trông bộ mặt đắc thắng của ba, em mong me và anh chết cả trong một tai nạn tàu để xem ba phản ứng ra sao. Liệu ba còn sống nổi một mình hay không?”
“Sao Di hay nghĩ ra nhiều chuyện rắc rối làm khổ mình cho mệt. Chỉ vì muốn ‘trả thù’ ba, Di muốn me và anh chết đi hay sao?”
“Em cũng biết nghĩ thế là bậy, nhưng anh đã hỏi em cũng không giấu.”
“Em thật kỳ lạ!”
Di nhắc đi nhắc lại hai chữ “trả thù” Tô vừa nêu ra.
“Trả thù! Trả thù! Có lẽ anh nói đúng! Em thù ba! Ngay từ hồi bé. Anh còn nhớ hồi nhỏ, em đâu bạo dạn như anh. Em rút rát như con gái. Nhưng, tại sao ba không để em yên thân? Ba chế nhạo em, mắng chửi em và không hề quan tâm là tâm hồn một đứa trẻ nhạy cảm và mỏng manh đến mực nào. Dĩ nhiên em khác hẳn tính ba hồi nhỏ. Nhưng, tại sao ba muốn em phải có được bộ óc thực tế sát đất của ba? Tại sao ba muốn em phải sớm đụng chạm với những sự ti tiện của đời sống? Ba khổ thuở bé, nên thấy các con được hưởng một đời sống vật chất và tình cảm tương đối sướng hơn, ba không chịu được!”
Giọng Tô suy nghĩ:
“Em nói cũng có phần nào đúng. Nhưng suy đi nghĩ lại mình cũng khó trách ba được. Nếu lúc bé em hay anh cũng phải khổ như ba?”
Di nóng nảy:
“Em không chịu cái lối suy luận của anh. Anh quá rộng lượng đối với ba. Mình đã khổ sở, thời mình phải cố gắng giúp những người thân yêu khỏi bị khổ như vậy chứ. Không lẽ nếu người khác tát anh một cái, anh sẽ có quyền tát cho người thân của anh một cái hay sao?”
Tô không cãi lại em, Di tiếp:
“Vì vậy hồi nhỏ, và ngay thời kỳ cách đây mấy năm, cứ nghe ba nói mãi, mắng mãi em đâm mất cả tự tin. Em nghĩ có lẽ em là một đứa trẻ bỏ đi và không có một khả năng, đức tính nào hết. Rất nhiều lần em ngồi khóc thầm một mình trong căn phòng xép. Khóc, em cũng dấu mọi người. Em sợ nhỡ ba bắt gặp, em lại phải nghe những lời chế diễu. Em so sánh em với anh, với những đứa trẻ bình thường khác. Càng so sánh, em càng tủi thân và hoang mang. Em tự biết không bao giờ em bạo rạn được bằng anh. Em cũng không ưa thích lối sống hoạt động như anh. Thời giờ của em chỉ dùng để tưởng tượng, mơ mộng hão huyền. Dần dần em đâm ra ít nói, không thích chơi bời với bất cứ ai. Vì em cho rằng, em chỉ là một đứa trẻ bệnh não, gần như tàn tật. Anh xem, chỉ vì ba mà thời thơ ấu của em không còn chút gì là ngây thơ, êm đẹp!”
Di nửa đùa nửa thật:
“Em nói điều này chắc anh không tin. Còn bé, em đã nhiều lần nghĩ đến chuyện tự tử. Không có anh và me, không biết chừng em khó sống được đến nay.”
“Di nhiều óc tưởng tượng quá!”
“Giàu óc tưởng tượng đâu phải lỗi tại em!”
“Dĩ nhiên! Nhưng, anh nghĩ không chừng vì quá giàu tưởng tượng, Di đã gán cho dĩ vãng một ý nghĩ đen tối hơi quá sự thực chăng? Hồi nhỏ em ngây thơ, em đâu đã thù ba ghê gớm đến như vậy. Bây giờ, em mới thù ba đấy chứ!”
Di nồng nhiệt:
“Không! Anh đừng nhầm! Em thù ba bất cứ vào thời kỳ nào – Xưa nay em vẫn thù ba.”
Tô cười nhẹ, chế giễu:
“Di nói thế, anh cũng biết vậy. Nhưng, tính em ấy mà… Hôm nay thế này mai thế khác. Lúc nào cũng cả quyết, nghe phát ớn. Không hiểu sao anh tin rằng một ngày kia Di sẽ hết thù ba. Di sẽ hướng lòng thù hận của Di vào một nhưng khác, hướng khác, cũng hăng hái chẳng kém.”
Di cười khảy:
“Anh lại giở giọng tiên tri gàn rồi?”
Tô, Di cùng im lặng. Ông Hạ tưởng chúng đã trò chuyện xong, nhưng rồi Tô lại lên tiếng:
“Anh cũng đồng ý với Di là ba không dễ dãi với mọi người. Ba ích kỷ độc đoán và nhiều khi rất tầm thường. Nhưng Di phải công nhận một điều: Làm sao thay đổi được ba. Ba cứng rắn như một hòn đá! Anh chắc ba sẽ vẫn như thế mãi, suốt đời ba. Di, me, chính anh, chúng ta một phần nào cũng đã là những ‘nạn nhân’ của ba.”
“Nhưng đó là chuyện ‘ngày xưa’. Hiện tại anh và Di đều lớn cả rồi, không lẽ chịu sống dưới ảnh hưởng của ba. Ô! Tại sao chúng mình không nhìn đời khác đi? Tại sao lại oán và thù ba? Làm khổ mình sống trong những tư tưởng đen tối như Di. Phản đối, trả thù mà làm gì? Ba nói gì mặc ba. Nói lắm cũng mỏi mồm. Di cứ làm như ba không có đấy. Di có đời sống riêng của Di. Di còn phải lo cho tương lai nữa chứ?”
Di ngắt lời anh, giọng gay gắt hẳn lên:
“‘Làm như ba không có đấy’. Nói đến thì ngon lành nhưng trong thực tế đâu dễ như vậy. Anh khéo lý luận lắm nhưng em không rơi vào tròng đâu.”
Tô cất cao giọng một chút, ngạc nhiên:
“Tròng nào? Em nói cái gì đấy anh không hiểu!”
Im lặng.
Tô gặng:
“Di điên đấy à! Di làm như anh dùng lý luận để đánh lừa Di. Đâu có, anh chỉ muốn giúp Di.”
Di nói như khóc:
“Không! Bây giờ em mới thấy chính anh cũng không thể giúp được Di… Vì anh không bao giờ có thể là Di, nghĩ được, cảm được, đau khổ giống hệt Di! Anh là anh, Di là Di! Anh không ghét ba ‘giống’ Di. Anh đâu biết oán hận đã ăn xâu vào tâm hồn em. Dứt đi sao được. Lắm khi em sợ chính nguồn tình cảm mãnh liệt của em. Em không biết rồi đây lòng oán ghét ba của em sẽ đưa em đến đâu… Em muốn bỏ gia đình mà đi. Nhưng thế là hèn nhát là trốn tránh. Em còn cảm thấy ghét ba, em còn nhìn thấy mẹ héo hon, chết dần chết mòn đi. Vì mẹ vì mọi người; em càng thấy rõ ‘Em không thể rời bỏ nơi đây được’. Anh hiểu chưa? Em – không – thể!”
Giọng Tô trầm hẳn xuống, khắc khoải và thương xót:
“Kể ra những điều anh nghĩ về Di cũng không sai lầm bao nhiêu. Anh cũng đoán biết có một nguyên nhân nào, rất quan trọng lôi kéo Di, và giữ Di sống tại gia đình. Nhưng anh cũng đã lầm, khi tưởng đó là tình yêu! Anh không ngờ lòng oán hận đã giữ Di. Không phải tình yêu!”
“Làm sao em phân biệt được tình yêu hay oán hận đã giữ em ở lại gia đình? Mà có lẽ cả hai thứ không chừng?”

 

Đôi mắt ngọc trai đen

Người trai trẻ – tên là Thừa, có đôi mắt ngọc trai đen thì thầm bên tai Loan:
– Cô ăn mặc khéo quá !
Loan hơi mỉm cười. Đôi chân nhỏ nhắn trong đôi giầy mầu sữa điểm những chấm xanh hợp với những đóa hoa lớn trên chiếc xiêm kiểu mới ngắn ngang đầu gối của nàng, nhẹ hơn, lướt trên sàn theo điệu nhạc chìm và trầm. Loan tò mò đợi Thừa nói tiếp thêm để nàng biết rõ hơn về chàng. Dáng điệu Thừa, ngay khi nghiêng mình mời nàng cũng vẫn ngượng ngập thế nào – sự ngượng ngập ngây thơ và táo bạo.
Thừa chạm khẽ vào má nàng, Loan để yên.
– Chà ! Da cô thực mịn…. tuy chẳng cần phấn sáp nhiều.
Loan tự hỏi tại sao Thừa lại cố gắng tỏ ra mình rất thành thạo với đàn bà. Nhìn đôi mắt to, lãng mạn của chàng, ai mà chẳng đoán được ngay Thừa chỉ là một tâm hồn trẻ con và say mê trong một thân hình cao, nẩy nở và khuôn mặt xương xương, rám đen.
Loan vẫn yên lặng để mặc Thừa huyên thuyên khen ngợi sắc đẹp của nàng :
những lời nói càng ngày càng sống sượng, tuy vẫn lịch sự – một điểm đặc biệt nàng lưu ý ngay ở Thừa. Loan đoán Thừa không thể giận dữ, ghen tuông hay cuồng nhiệt một cách tầm thường như phần lớn các người đàn ông đã tán nàng.

Trên đầu hai người những chiếc đèn giấy Nhật lắc lư nhè nhẹ hơi hư ảo và cười cợt, những khoảng sáng treo lơ lửng cách biệt với những cặp trai gái ồn ào và cử động hỗn độn – vẫn chán nản và gắng gượng – ở phía dưới. Thừa không nắm chặt tay nàng, những ngón tay rắn chắc và dài mơn man trên những ngón tay nàng, dò đẫm và đòi hỏi. Thừa tự nhiên nói:
Ta ra vườn đi ! Ở đây nóng quá !
Loan cười nhỏ. Lạ thay nàng vừa chợt nghĩ là Thừa sẽ hỏi nàng câu đó.
– Tại sao “chúng ta” lại phải ra vườn ? Ở đây không được à ?
Thừa không ngượng ngập ; buông nàng ra đáp ngay:
– Tại vì có nhiều chuyện.
Thừa muốn gì ? Nàng có cảm tưởng những lời Thừa nói không thực ý. Chàng chỉ cố đóng một vai kịch _ không lấy gì làm khéo lắm. Nhưng những tình cảm nồng nàn và ham muốn của chàng ẩn nấp đâu đây:
trong khóe mắt, cử chỉ, và cả trong nụ cười hơi cứng mở hé đôi môi dầy của chàng, chạy dọc những vết trũng nhỏ quyến rũ và ấm tựa một con ong vẫy cánh nóng nẩy – làm nàng xúc động.
Thừa nói nhiều hơn, liên tiếp, những câu nói thiếu mạch lạc nhưng là lạ và ngộ nghĩnh. Chẳng hạn:
“Mặc đầm quyến rũ hơn vì để lộ chân. Nhưng tại sao cô lại để tóc xõa trên vai ? Trông không….
e’légante hoàn toàn. Địa chỉ Loan ở đâu ? Hôm nào tôi đến thăm có phiền không ? Các cụ nhà có dữ không ? Có xảy ra chuyện nguy hiểm cho tôi không ? Gặp mặt ông nào chẳng hạn…. Thế có nghĩa là tôi định hỏi Loan có hôn phu chưa ? Chưa à ! Tuyệt quá nhỉ….” Loan có cảm tưởng nàng sẽ có thể yêu Thừa.
Trên một bực cuối cùng của chiếc cầu thang tối, đầy rác và mảnh giấy vụn, bẩn đến độ, quen thuộc, Loan dựa vào tường nhìn chiếc hành lang dài dẫn đến căn gác nàng sống với gia đình. Không hiểu sao Loan yêu hành lang này đến thế. Mỗi khi đi chơi tối về, dù vui vẻ kích thích hay chán nản, nàng bao giờ cũng dừng lại vài phút, trước khi dấn mình vào cái khoảng tối sâu hút, cắt dọc những vệt sáng của vài khung cửa mở để hắt ánh sáng trên sàn đá hoa – không bóng một người, không im lặng lắm vì những âm thanh văng vẳng của radio, âm nhạc tây phương và vài tiếng cười nói mơ hồ.
Loan đi rất chậm – những bước nhỏ ngắn của một cô bé học vũ một mình – đầu hơi cúi, vai trần trắng nhạt. Một cặp trai gái nhô ra từ một căn gác. Người thiếu nữ cười lả lơi, khi thấy nàng im bặt, ánh mắt soi mói đầy ác cảm:
hai lưỡi dao sắc hình như muốn cắt xẻ không thương tiếc khuôn mặt đẹp đẽ, bộ ngực cao, cặp đùi dài thuôn của nàng. Hai người khoác tay nhau đi qua mặt nàng. Người con gái sát mình một cách cố ý và khiêu khích vào thân hình người đàn ông, nói nhỏ vào tai hắn một câu ngắn. Hắn hỗn xược nhìn Loan chăm chắm và huýt sáo thán phục. Chắc khi gặp hắn một mình, nàng sẽ rất kinh tởm và ghét hắn thậm tệ.

Loan chùng chình không muốn mở cửa phòng vội. Nàng không muốn gặp Ban vào giây phút này. Chắc Ban đang chơi cá ngựa với ba nàng và dì Minh, chờ nàng. Ban bao giờ cũng chờ nàng, chàng là hạng người sinh ra chỉ để chờ đợi mong ngóng.
Loan tự hỏi sao nàng còn để Ban đến thăm nàng. Trên chiếc divan ở phòng khách, Ban hay ngồi ghé ở một đầu, còn Loan lơ đãng dựa mình trên chiếc gối lớn riêng của nàng, bọc vải đầy mầu đỏ sậm chạy ngang dọc những hình vẽ trắng hỗn độn. Loan thường nghĩ đâu đâu và đãng trí. Ban ít nói một cách kinh khủng. Những lời nói của chàng bướng bỉnh như những con hà bám chặt lấy đá, cậy ra thật khó khăn đến rớm máu ở đầu ngón tay. Cũng có khi Loan bực mình, nhất là khi nàng nhìn xuống bộ ngực bình thản – vì không có gì để xúc động, Loan có cảm tưởng nàng và Ban mắc một cái tội không thể tha thứ được là đã phí phạm nhiều thứ:
những lời nói êm dịu đùa cợt và thân mật đáng nhẽ phải trao đổi, những chiếc hôn ấm áp – tại sao lại không ? Nàng đâu có phải bằng đá. Loan biết Ban yêu nàng, nhưng tại sao chàng cứ ngồi im như bụt mọc, thỉnh thoảng cung kính liếc nàng một cái, đỏ mặt lên và đôi mắt nâu sẫm – đẹp và hiền từ một cách quá đáng – vẫn phẳng lặng tựa mặt nước váng bụi của một chén nước nóng đặt trên một chiếc miếu nhỏ ẩn khuất.
Có một lần nàng đã tự ý đặt nhẹ tay mình lên bàn tay chàng khi hai người nói những chuyện không đâu. Nàng chờ đợi phản ứng của Ban. Nhưng Ban mặt tái lại, nhịn thở, người co rúm trong một dáng điệu đáng thương. Loan đã rút tay về và đuổi Ban:
– Anh đi về đi ! Về ngay đi !
Nàng nhìn theo Ban lầm lũi ra khỏi phòng và đột nhiên ghét tất cả ở chàng:
những lời nói nhỏ nhẻ, lối phục sức quá ngay ngắn, lịch sự, mái tóc bóng quăn quăn và cả đến những chiếc cravate mầu nhã nhặn, Ban bao giờ cũng thắt rất khéo khi đến thăm nàng. Nàng đã xấu hổ, không phải vì đã cư xử bạo tợn và sống sượng, thất vọng thì đúng hơn; giống hồi nhỏ mất hàng giờ cậy trộm một cái hộp khóa kỹ của mẹ nàng, lúc mở được thấy hộp rỗng không:
một sự rỗng không trêu tức nàng nghẹn ngào đến trào nước mắt.
Ông Khải ngửng đầu lên nói nhẹ nhàng:
– Kìa Loan đã về !….
Ông ngừng một giây, đôi mắt sâu sau chiếc kính lão gọng vàng sáng lên một ánh tòng phạm khi ngắm cô con gái xinh đẹp đang bước vào phòng, dáng uể oải mệt nhọc và hơi nũng nịu, ông hỏi tiếp:
– Bal có vui không con ?
– Cũng không tệ lắm ba ạ !…. Trời con mỏi chân quá !
– Con vào thay quần áo rồi ra đây đánh cá ngựa.
Tuyệt nhiên ông không nhắc gì đến Ban, cũng không đá động đến việc Ban chờ nàng suốt buổi tối. Ông bảo dì Minh:
– Minh hộ Loan thay quần áo rồi sửa soạn uống trà và cà-phê. Nhớ lấy hộ tôi mấy tập thơ để trên bàn trong phòng ngủ.
Loan nhìn chiếc đầu dài, tóc tiêu muối của ba nàng, lòng thanh thản hẳn lại. Từ bao năm nay ông Khải vẫn dùng một giọng riêng biệt để nói chuyện với nàng, chưa bao giờ ông căn vặn hay trách mắng nàng. Loan yêu ông, thích ngồi cạnh ông hàng giờ nghe ông ngâm những bài thơ Đường, tò mò theo rõi mọi biến chuyển trên khuôn mặt nét khắc khổ và phong trần của ông, có khi nàng bỡ ngỡ, có khi sờ sợ không đâu, ông có nhiều bộ mặt và con người khác nhau, Loan biết vậy từ khi nàng bắt đầu lớn.
Nhiều tối đã khuya, ông còn ngồi ở bàn làm văn thơ. Loan chỉ việc thò chân đẩy cánh cửa phòng nàng hé mở một chút là đã trông thấy ông, đầu hơi cuối trên những tập sách chữ nho dầy, giấy cũ vàng, khuôn mặt mờ ảo dưới ánh đèn nến – ông có thói quen thắp hai cây nến cắm trên chiếc giá bằng gỗ đen bóng. Nàng ngắm ông rất lâu, tay nàng để trên ngực da ấm và phập phồng, hai đùi cặp chặt lấy nhau – thoải mái, thú vị, không sợ bóng tối và quên hết mọi phiền muộn. Nàng thật sung sướng và yên tâm vì biết ông yêu tha thiết một cái gì – thơ, hoa lan, uống nước trà; một điều hiếm thấy ở các thanh niên bạn của nàng.
Tuy nàng đã lớn, ông vẫn thường hay vuốt tóc nàng, rất nhẹ, rất thận trọng, khi nàng nằm dài trên divan cạnh bàn ông làm việc, mơ màng ôm gối vào ngực, tóc dài xõa gần chấm đất. Hai cha con ít khi nói chuyện vào những lúc đó. Thỉnh thoảng ông ngâm khe khẽ một câu thơ đắc ý, hí hoáy sửa trên giấy.
Khi ông ngừng, nàng giục:
– Ba ngâm nữa chứ ba !
Thực ra nàng không hiểu cái hay của thơ, nàng chỉ thích giọng ngâm của ông.
Dì Minh đứng dậy che miệng, ngáp, vuôn vai và vặn mình mấy cái. Sau khi ly dị với mẹ Loan, ông Khải đã lăng nhăng với nhiều người đàn bà đủ mọi hạng trước khi quyết định chính thức kết hôn với dì Minh. Ở dì Minh cái gì cũng tròn trĩnh xinh xẻo hay hay:
chiếc miệng chúm chím hình hạt đào, đôi mắt tròn ngộ nghĩnh, đôi vai tròn lẳn và chắc chắn, chiếc ngực nẩy nở hơi quá đáng làm căng chiếc áo Kimono sặc sỡ, tóc uốn ngắn có những móng cong cong áp trên trán.
Ban ngồi trước mặt dì Minh ngượng nghịu nhìn xuống bàn cá ngựa. Thật lạ ! Nàng vừa nghĩ có lẽ Ban sợ hãi và xấu hổ khi phải chứng kiến thân hình nóng ấm của một người đàn bà cử động bên cạnh chàng.
Loan vui vẻ nói với Ban, một sự vui vẻ làm chính nàng ngạc nhiên trước nhất.
– Anh Ban chờ Loan một chút nhé ! Loan sẽ ra ngay ! Tại anh thường nói không thích bal nên Loan không rủ anh đi cùng, vui lắm.
Ban cười, sung sướng lộ hẳn ra nét mặt. Ngay cả đến chiếc cravate là cứng thẳng của chàng cũng hình như vui vẻ hơn, không còn chỉ là một vật trang điểm trịnh trọng dưới khuôn mặt trắng trẻo và ngăn nắp của chàng – những vẻ mặt ngăn nắp và những xúc cảm ngăn nắp, đó là đặc tính cố hữu của Ban.
Loan chợt vừa liên tưởng đến nụ cười của Thừa khi mở cửa, cầm tay nàng – vẫn hơi quá chặt – tiễn nàng lên xe hơi một người bạn của bà chủ nhà để ra về. Thừa đã nói rất nhanh và khẽ:
– Tối nay tôi sẽ đến Loan. Tôi không nói dối đâu.
Nụ cười của Thừa và Ban thật khác hẳn nhau:
Thừa cười như một người tin chắc mình sẽ chiếm được một đồ vật đẹp chàng mong ước.
Loan đã nhìn qua cửa kính xe, ngắm Thừa ngồi trên chiếc xe gắn máy mầu đỏ chói, hai tay khoanh trước ngực, bộ quần áo may theo kiểu Ý, ngắn cũn cỡn. Trông chàng trẻ trung và đầy sức mạnh.
Đến mai, Thừa sẽ đến thăm nàng vào buổi sáng. Không hiểu ba nàng có ưa Thừa hay không.
Tiếng cười rúc rích của dì Minh vẳng đến tai nàng, đoạn tiếng ba nàng xuỵt và hỏi khẽ:
– Im nào !…. Loan đã ngủ chưa ?
– Ngủ rồi mình ạ !
Loan mỉm cười. Khi nào ba nàng được dì Minh gọi bằng mình chắc ông vui lắm. Nhiều khi Loan thèm lối sống của dì. Vừa rồi sau khi Ban đã về, dì Minh vào phòng, ngồi trên giường nàng bóp vai và đùi Loan.
Những ngón tay ngắn mát dịu của dì thật khéo bóp nhè nhẹ vai trần của Loan. Dì Minh nói lèm bèm đó là một tật xấu của dì, nhưng nàng vẫn thích tối đến, đèn phòng nàng đã tắt, nằm dài trên giường nghe những câu chuyện ngồ ngộ của dì. Dì Minh lùa tay vào trong áo nàng vuốt dọc theo sống lưng giọng ngạc nhiên:
– Lưng dài như thế này, da mịn thế này, tại sao Loan không chịu yêu ai hở ?…. Phi quá !….
Loan cựa quậy nằm nghiêng sang một bên vì đêm quá nóng. Dì Minh ngạc nhiên là phải. Tại sao đẹp như nàng, Loan lại không lưu ý đến đàn ông và yêu đương, trái hẳn với dì Minh lúc nào cũng phải sống trong bóng một người đàn ông, yêu và thờ phụng đàn ông. Nhiều lần dì làm nàng xấu hổ đỏ mặt vì dì có những cử chỉ, ve vuốt quá nồng nàn nếu không thể nói là suồng sã với ba nàng trước mặt nàng.
Những cánh tay trần của dì – dì luôn luôn mặc áo hở cánh tay, giống như những cành quằn quại của một giống cây leo kỳ lạ quấn lấy thân cây cổ thụ khăng khít, ham sống một cách tự nhiên. Nàng không thể tưởng tượng sống không đàn ông dì sẽ ra sao ! Dì sẽ già rất chóng, chết khô và mất hết mọi vẻ quyến rũ.
Điều khiến Loan ngạc nhiên không phải là tại sao ba nàng lại có thể yêu và sống với một người đàn bà tâm hồn nông cạn và hơi tâm thường như dì Minh, mà vì thái độ của một kẻ phạm tội của ông đối với nàng. Ông luôn luôn có mặc cảm là đã bỏ rơi mẹ nàng. Ông hối hận vì Loan không được hưởng những tình cảm yêu thương và che chở của một người mẹ.
Mỗi lần bị nàng bắt gặp đang hôn dì Minh, ông không bối rối, nhưng trong đôi mắt long lanh đưới cặp kính gọng vàng và ẩn trong nụ cười nhẹ máy móc của ông, Loan nhận thấy một sự xin lỗi và cần tha thứ, một sự hạ mình trước con gái hơi khôi hài trong trường hợp ông nhưng cũng thật đáng yêu.
Đối với ba nàng, Loan cảm thấy mình đầy sức mạnh, nhưng nàng biết không bao giờ nàng lợi dụng ưu thế đó đ êể băắ t buôộ c ba nà ng chiều nàng. Thực ra chưa người cha nào chiều con gái như ba nàng, chiều hết chỗ nói.
Ngực Loan nóng lên và phập phồng thở mạnh. Nàng vừa nẩy ra một ý định táo bạo:
ngày mai Thừa đến thăm, nàng sẽ mời Thừa vào ngồi trên chiếc ghế bành mầu xanh xám kê trong phòng nàng – hiện giờ vất ngổn ngang chiếc xiêm nàng mặc hồi tối, chiếc áo lót và những đồ vật thân mật với da thịt của nàng:
một người đàn bà. Nàng đoán chẳng cần mời Thừa sẽ cũng đòi biết khung cảnh riêng rẽ nơi nàng sống, ngủ, mơ mộng cho bằng được. Trước đến nay chưa một người đàn ông nào được vào đây – trừ ba nàng. Tại sao nàng lại canh giữ cửa vào căn phòng nàng tựa một con rồng xinh đẹp nhưng rất dữ canh một kho vàng ? Nàng có lẽ không giống ba nàng:
yêu và quấn quít được nhiều người đàn bà. Ba nàng chẳng đã có lần trêu nàng:
“Loan dữ như một con mèo rừng hoang dại….” Loan thở dài. Tối nay ba nàng và dì Minh đi ngủ sớm, thiếu giọng ngâm thơ và bộ mặt ba nàng mờ ảo dưới ánh nến, Loan tự nhiên cảm thấy cô độc; một tình cảm là lạ nhẹ như một chiếc lông tơ óng chuốt lặng lẽ rơi xuống và nằm bất động ngoan ngoãn trong khoảng sâu kín nhất của tâm hồn nàng.
Nàng thiếp ngủ dễ dàng, không một giấc mơ đến quấy rối.
Loan chân tay dang rộng, thoải mái, chiếm hết chiếc giường nhỏ kê cạnh cửa sổ trong phòng reing. Nàng ngắm những khoảng nắng chạy nhẩy trên tường và nghĩ đến Thừa. Thừa giống nắng, nóng ấm mà không biết từ đâu toát ra. Từ dạo yêu Thừa, da thịt nàng, ngực nàng đôi môi, cặp đùi nàng tự nhiên quí giá hẳn lên và đối với nàng thân mật hơn. Trước kia ngắm bóng mình trong gương, Loan cảm thấy tự phụ – một sự tự phụ vô ích và thừa thãi. Bây giờ mọi sự khác. Thân hình nàng mang những dấu tích nồng nàn thường khiến nàng nóng mặt khi nghĩ tới những sự ve vuốt của Thừa, những câu nó trêu cợt, mang những ẩn ý ỡm ờ còn quyến rũ hơn cả những tiếp xúc thân mật giữa hai người. Loan biết nàng yêu chính mình hơn xưa:
có những bông hoa vàng thắm nở trong da thịt nàng.
Trong những năm vừa qua, đã bao lần Loan mơ tưởng một ngày kia nàng sẽ tìm thấy giữa nàng và một người đàn ông sự ràng buộc mật thiết tựa như sự ràng buộc giữa nàng và những đồ vật trong căn phòng nhỏ bé này, hay những quần áo lót sát lấy da thịt nàng, hay bầu không khí hơi mờ ảo, ấm dịu và đùng đục của những buổi tối nàng nằm dài cạnh bàn làm việc của ba nàng, nghe ba nàng ngâm thơ dưới ánh nến. Một ước vọng nàng tưởng rất khó thực hiện, đến nỗi phải thì thầm với bóng nàng, khi nàng uể oải trang điểm trước gương:
“Mày là một đứa con gái bỏ đi ! Mày sẽ không thể yêu ai như yêu những đồ vật vô tri giác”. Cho nên nàng rất ngạc nhiên không ngờ rằng Thừa và tất cả những đặc tính, thói quen nho nhỏ của chàng, lại có thể trong một khoảng thời gian ngắn chen vào giữa những kỷ niệm thân mật và thầm kín nhất của nàng, để rồi ở đấy, dai dẳng và bướng bỉnh.
Như nàng đã tự hứa vào buổi tối nằm một mình nghĩ ngợi, sau khi gặp Thừa ở bal nhà người bạn:
nàng đã mời Thừa vào phòng nàng và ngồi đúng ở trên chiếc ghế bành xanh kia. Căn phòng này có mặt Thừa, đã hết là tháp ngà đóng kín của nàng. Một vài buổi trưa nàng chợt mở mắt đã bắt gặp đôi mắt ngọc trai đen ghé sát khuôn mặt nàng, và làn môi dầy – con ong vẫy cánh _ bây giờ đầy quen thuộc đậu nhẹ trên môi nàng trước khi nàng kịp cười thú vị.
Thừa thuộc loại người lúc nào cũng chiếm một khoảng không gian nhất định, và rồi để lại những vết tích đậm đà. Dù chàng đã về, hễ nhìn chiếc ghế xanh, Loan vẫn hình dung ngay được trước mắt thân hình dài của Thừa, hai chân vắt ngang trên thành ghế, đu đưa trong một dáng trẻ con và vô tội. Trái ngược hẳn với Ban. Ban có thể ngồi nửa ngày ở phòng khách, tuy nhiên sau khi chàng đã rời bỏ chỗ ngồi quen thuộc của chàng ra về, Loan tưởng chừng như trước đây chưa bao giờ có ai ngồi ở divan.
Loan tủm tỉm cười. Nàng vừa liên tưởng tới ánh mắt nghịch ngợm của dì Minh. Dì vẫn vào phòng nàng, tối đến, nắn bóp chân tay nàng nếu nàng kêu mệt mỏi sau một buổi đi chơi xa với Thừa, giọng nàng nũng nịu và đầy hài lòng. Dì không còn kêu ca sắc đẹp nàng phí phạm. Dì có những tia mắt là lạ khi vuốt lưng hay xoa ngực nàng ; nhũng cử chỉ của dì cũng thận trọng và dè dặt hơn. Hình như dì muốn tìm tòi dấu tích sự ve vuốt của người đàn ông để lại đâu đây trên thân hình nàng. Dì cười một mình, tòng phạm với nàng:
một sự tòng phạm khiến Loan hổ ngươi hơn cả những lời trách móc hay thái độ giận dữ.
Ba nàng hình như không ưa Thừa, không hợp với chàng thì đúng hơn. Chưa lần nào Loan bắt gặp hai người nói chuyện với nhau lâu lâu một chút. Nàng nhớ có lần Thừa đến chơi ngồi chờ nàng ở phòng ngoài; sau khi chào ông Khải, Thừa ngồi ở ghế hút thuốc lá, đọc báo, ba nàng tiếp tục làm thơ.
Nàng ra, trước khuôn mặt hai người đàn ông, đều thân yêu đối với nàng, một lạnh lùng phong, một kiêu ngạo và đầy sức mạnh, Loan thấy nhói trong tim:
hai người đối diện nhau giống như hai con thú dữ đầy nguy hiểm; nhưng không hiểu sao tâm hồn nàng tràn đầy một nguồn tinh cảm kiêu hãnh, vì là con của ba nàng và là người yêu của Thừa. Lạ thay, nàng sung sướng và hài lòng trước sự ác cảm thầm kín nhưng thật đàn ông và dữ tợn giữa ông Khải và Thừa. Dù sao ba nàng không thể khinh thường Thừa như ông khinh sự có mặt nhạt nhẽo của Ban.
Ban tuy biết Thừa và nàng yêu nhau nhưng trái ngược hơn, lại càng năng đến thăm nang. Bàn cá ngựa chỉ còn có ba người. Loan không ưa trò chơi tẩn mẩn đó nữa. Một lần Thừa tới, ba nàng, dì Minh và Ban đều có mặt ở phòng khách, Loan ra đón và nắm tay Thừa, cử chỉ hấp tấp và âu yếm của nàng Ban trông thấy. Ba nàng và dì Minh không ngửng đầu lên. Khi cánh tay Thừa vòng lưng Loan kéo nàng lại gần, đôi mắt đẹp của Ban sáng lên một ánh luyến tiếc và ham muốn, Loan có cảm tưởng lần đầu tiên trong đời ban “trông thấy” và ham muốn thân hình nàng. Ban chắc khổ sở nhưng đồng thời không qua óc tưởng tượng của chàng và hành động của chàng và hành động của Thừa những thú vị và khoái cảm của sự chiếm đoạt. Phản ứng của Ban khiến nàng nôn nao kinh tởm. Rất nhiều thanh niên giống Ban, chỉ dám đóng vai một khán giả, yêu ghét qua người khác, những người sống cuộc đời của những ký sinh vật, những con cá nhỏ bám lấy bụng, lưng các loài cá lớn mạnh mẽ.
Trong các bạn trai đến thăm nàng tận nhà, kể cả Ban, dì Minh có vẻ có cảm tình với Thừa nhiều nhất và dì nói chuyện với Thừa dễ dàng, tự nhiên. Thừa hay khen dì những lời khen hơi sống sượng nhưng vẫn trong giới hạn lễ độ, khiến dì đỏ mặt, cười tít lên. Loan bắt gặp mấy lần Thừa nhìn theo dì đi lại trong phòng khách, tia mắt chàng thú vị và thán phục, đoạn chàng thản nhiên hỏi nàng:
– Loan à ! Dì Minh ngày xưa chắc gớm lắm phải không ? Hừ đôi mắt đó ! Đi đứng như thế, hồi trẻ phải biết….
Trước sự thẳng thắn của Thùa, Loan chỉ biết cười. Thừa hình như rất thích và hăng hái một cách hơi quá đáng trong việc nói đến những ý tưởng trong hồn chàng, dù nhiều khi không phải là lúc đáng nói.
Loan nhiều khi tự hỏi không hiểu quá đáng có phải là một tật xấu của Thừa hay không và có phải vì thế mà nàng thấy Thừa khác mọi người và đáng yêu ? Khó trả lời. Nàng chỉ biết một điều:
Thừa hình như vẫn nhất định tiếp tục đóng một vai kịch đòi hỏi ở chàng luôn luôn và mãi mãi những hành động quá sức chàng.
Nàng nhớ hôm Thừa tỏ tình với nàng. Trong ánh mắt lời nói của chàng, Loan nhận thấy một sự quả quyết bướng bỉnh rất đáng ngại. Nàng linh cảm hình như mọi sự đáng nhẽ không nên xẩy ra như vậy. Sự ước mong của nàng không được hoàn toàn thỏa mãn. Ngay khi Thừa bước chân vào phòng, Loan đã biết chàng sẽ nói chàng yêu nàng. Thừa cố ngồi sát gần nàng hơn thường lệ, cố tăng thêm sự nồng nàn trong đôi mắt nóng rẫy và nhìn soi mói vào môi nàng, ngực nàng, thân hình nàng. Có lẽ dù lúc đó ba nàng có đây hay dù chàng và nàng ngồi ở giữa đám đông, Thừa nhất định sẽ nói “Anh yêu Loan !” vào đúng giây phút nào đó mà chàng đã định trước. Chàng lao đầu vào tình yêu dưới ảnh hưởng của một sức thúc đẩy Loan chưa hiểu rõ căn nguyên. Tất cả những việc chàng làm, nói ra đều mang một sắc thái mâu thuẫn:
lẫn lộn giả tạo và say mê. Nhưng chàng thật trẻ và đầy sức mạnh.

Thừa đã nắm tay nàng và hôn lên môi nàng. Chiếc hôn đầu tiên giữa hai người để lại trong tâm hồn nàng một hương vị mới mẻ pha lẫn bất mãn và thoáng chua chát. Tại sao chàng không thể dịu dàng và bớt cả quyết:
sự cả quyết của một đứa trẻ bản chất đa cảm lãng mạn nhưng đầy tham vọng và cố thực hiện cho bằng được một công việc khó khăn.
Đối với Ban, Thừa luôn luôn thích trêu Ban và làm Ban lúng túng. Hôm Thừa, nàng, dì Minh và Ban ra Cap tắm bể theo lời mời của Ban, nàng đã định từ chối vì dù sao nàng cũng không muốn làm khổ Ban, bắt Ban phải chứng kiến những cảnh âu yếm giữa nàng và Thừa, nhưng Thừa nhận lời ngay và còn lộ vẻ thú vị là khác. Ông Khải bận việc không thể đi được. Lên xe, Thừa xếp dì ngồi trước với Ban cầm lái và khi dạo chơi ở bãi bể, Thừa cũng có ý kìm nàng lại để dì Minh và Ban đi trước. Dì Minh tự nhiên cười nói, rất vô tư. Dì mặc một bộ quần áo tắm sặc sỡ, hơi chật, khiến dáng đi của dì ngộ nghĩnh hơn:
dì trẻ hẳn lại.
Nàng đã hỏi Thừa:
– Tại sao anh thìch trêu Ban thế ? Tội hắn chết !
– Anh không ưa những người giả dối và rút rát như hắn, hắn có sợ gần đàn bà đến như thế hay không ?
Nàng im lặng. Lần đầu tiên nàng ngại ngùng và khó chịu trước lối sống tàn nhẫn và thói quen (mà có lẽ Thừa không tự biết) thích hành hạ những kẻ yếu hơn mình của Thừa.
Cánh tay trần của Thừa đè nặng trên người nàng. Khuôn mặt chàng sát nàng, đôi mắt nhắm, hàng mi cong nhẹ – một vệt say mê khiến nàng xấu hổ, xấu hổ hộ chàng hay chính Loan xấu hổ, nàng cũng không rõ. Loan nhấc cánh tay Thừa lên đặt xuôi theo người chàng. Nàng thở dài nhẹ. Thừa hỏi khẽ:
– Em nghĩ gì thế ?
Loan không trả lời. Làm sao giảng để Thừa hiểu, tiếng nói của chàng như ở một thế giới khác vẳng tới, và cánh tay, thân hình chàng áp vào da thịt nàng, đè nặng như một nỗi cô độc.
Loan vùng ngồi dậy. Thừa với tay nắm lấy cánh tay nàng, những ngón tay Loan run rẩy ấn mạnh vào nệm. Nàng tự nhiên thấy thất vọng không đâu; cả sự níu kéo cuồng nhiệt và trách móc đó cũng không nghĩa lý gì, cả cái thân hình trẻ bỏ mặc:
một khoảng nâu sẫm dưới ánh đèn đầu giường, cũng vô nghĩa. Tuy trong người nàng, những rung cảm cũ kỹ và quen thuộc vẫn còn nấp kín và nhắc nhở Loan những giây phút trước đấy, vừa đây, giữa hai người, Loan không thể ở cạnh Thừa lâu hơn, trong căn phòng mà tất cả những chỗ nằm ngồi, từ khi Thừa và nàng yêu nhau, đã trở nên gần gũi với nàng:
Loan nhận được những hình thể của chàng như khi tiếp xúc với những con vật nàng yêu lâu ngày.
Loan im lặng. Thừa từ từ buông nàng ra. Sau đây nàng sẽ buồn một mình, giận chính sự thay đổi rất đàn bà và không duyên cớ của nàng.
– Em về nhé ?…. Thừa !…. đừng giận em….
– Em ngu lắm !…. em không hiểu anh….
Rồi chàng quay mặt vào tường hút thuốc lá. Loan thu nhỏ người lại và như chim mất trong chiếc áo trắng mỏng. Nàng giơ tay định quay người Thừa lại phía nàng:
chua xót một chút, hối hận một chút trước hai cạnh môi trễ xuống, đôi mắt chế riêu và vững chắc của Thừa, nhưng rồi cử động của nàng dở dang.
Nàng rụt tay lại ra ghế ngồi trong bóng tối, xa cách Thừa, khoảng sáng hồng phủ trên người chàng và cả bầu không khí thân mật – dở dang và giả tạo một cách bực mình – còn đượm da thịt của hai người.
Loan nhìn Thừa. Chàng đã chếnh choáng say, cười nói luôn miệng. Những câu nói táo bạo sống sượng của chàng đối với Loan tự nhiên mất hết vẻ khôi hài và kích thích lạ thường khi chỉ còn lại những lời tàn nhẫn và khô rắn. Thừa say không hoàn toàn vì rượu, vì chàng kiêu hãnh về đủ mọi điều:
sở hữu một cô tình nhân đẹp như Loan, ngồi tại chiếc bàn nhiều người đẹp nhất trong buổi tiệc trà khiêu vũ:
Loan, Thúy (em gái chàng) và Hằng. Ý thức và tin chắc vào sức mạnh tuổi trẻ và khả năng say mê không cạn của tâm hồn chàng. Thái độ của Thừa chứa đựng một thách thức rõ rệt. Chàng hình như muốn kêu lên trước mặt mọi người “Tôi không sợ ai hết. Tôi là người giầu có đầy đủ nhất. Tôi tận hưởng cuộc đời”.
Thừa một tay quàng sau lưng nàng vuốt nhè nhẹ, mắt chăm chăm nhìn vào mặt nàng. Chàng hỏi Thúy mắt vẫn không chịu rời đôi môi bôi một thứ son mầu hồng mới mẻ và tối tân, hơi mím của Loan….
– Thúy à ! Tại sao Thúy không bôi thứ son như của Loan ? Trông thật khêu gợi và ngon lành phải không ?
Rồi chàng cười vô cớ quay sang phía Hằng:
– Hằng đừng tưởng Loan hiền từ !…. Đừng trông mặt mà bắt hình dong…. Nguy to ! Vì khi cần, Loan cũng nồng nàn không kém ai.
Thúy, Hằng rộng lượng mỉm cười trước sự Ồn ào của Thừa. Sống sượng thế, chứ hơn nữa gấp bội họ cũng quen rồi, và có những hành động cố ý kỳ quái và lộ liễu của Thừa cũng đều được tha thứ trước khi Thừa thực hiện chúng. Loan thèm được như họ, tối nay vào giây phút này, nàng cần phải tha thứ Thừa để gần chàng hơn.

Thừa lôi nàng đứng dậy nhẩy một bản luân vũ chậm và quay tròn. Loan áp má vào má chàng, bàn tay đặt trên gáy Thừa. Tất cả đều y nguyên, hệt hôm nàng gặp Thừa lần đầu trong bal. Thừa vẫn trẻ và đầy sức mạnh, những ngọn đèn giấy trên đầu hai người vẫn hư ảo cười cợt, nàng vẫn tự biết nàng rất đẹp; thân hình gọn gàng trong chiếc áo dài mầu hoàng yến, tóc bới cao để lộ gáy, bộ ngực hồi hộp một cách vừa phải, đẹp một vẻ đẹp của một thiếu nữ đã yêu và được yêu. Nhưng có một cái gì thiếu thốn ở đây khiến nàng sợ hãi. Thừa thật gần nàng, chàng vẫn cững chắc đầy sức sống, đang cử động trước mắt nàng. Nàng không chối cãi điều đó:
Thừa hiện hữu rõ rệt hơn bao giờ hết. Tuy vậy Loan không thấy chính nàng đâu cả. Yêu Thừa quá say mê, hành động theo ý chàng, sống lại những kỷ niệm trong đó Thừa bao giờ cũng giữ vai chính lấn át cả hình bóng nhỏ bé của nàng, dần dần Loan mờ đi và nếu nàng không tìm được một lối thoát có lẽ nàng nhỏ mãi để rồi biến mất.
Thừa hỏi nàng:
– Em chóng mặt à ?…. Càng hay, quay nữa đi cho đến khi nào ngã lăn ra thì thôi. Anh đỡ cho….
Loan một lần nữa chịu thua trước sức hấp dẫn nồng nhiệt của cá tính Thừa. Nàng gục đầu vào vai chàng và quên hết. Nàng không khóc, cố giữ những giọt nước mắt mấp mé trên mi. Chưa bao giờ nàng yếu ớt một cách tuyệt vọng và lẻ loi như trong giây phút này.
Nàng ngửng đầu lên nhìn vào mắt Thừa. Thừa mỉm cười, khuôn mặt rám đen hớn hở và tự mãn của chàng cắt những nét rõ và sắc trên một cái nền lung linh đầy những hình thể linh động, quay tròn đủ mầu của những cặp trai gái. Một tư tưởng thường ám ảnh nàng từ ít lâu nay vụt trở lại:
Thừa không hiểu nàng, dù một sự cảm thông nhỏ như một hạt gạo trắng muốt.
Loan tựa người vào cửa nhìn theo Thừa đi xa dần trong hành lang tối và quen thuộc. Tự nhiên tối nay nàng cảm thấy tâm hồn xúc động và nghẹn ngào:
hình như đây là lần cuối Thừa và nàng gặp nhau, hay tuy không phải là lần cuối, có thể hai người sẽ gặp nhau ngay ngày mai, nhưng mọi sự sẽ không thể xẩy ra như trước. Một cái gì giống một con vật nhỏ vừa chết trong tim nàng. Thực ra không phải là nàng không yêu Thừa nữa, tình yêu đó vẫn mạnh mẽ nhưng sự liên lạc giữa hai người đã đến một ngõ bí.
Nàng không còn gì để hy vọng thêm ở Thừa. Hai người dù tiếp tục gần nhau khắng khít, đi chơi với nhau, trao đổi những chiếc hôn, những vuốt ve êm dịu, nhưng Thừa sẽ không bao giờ hiểu nàng, chàng vẫn tiếp tục là một kẻ thích chinh phục, tự mãn, rất nhiều thói xấu, vẫn lôi cuốn và đầy sức mạnh và nàng…. Nước mắt Loan bắt đầu chẩy dài trên má, người nàng hơi run rẩy. nàng cảm thấy lạnh và lẻ loi.
Cuộc đời thật phức tạp và quá kỳ lạ đối với nàng. Nàng gặp Thừa bất ngờ. Tình yêu đã lôi cuốn nàng trong một cơn gió lốc. Thỉnh thoảng cũng có cưỡng lại nhưng mọi cố gắng của nàng bé nhỏ và mong manh một cách buồn cười và nàng để buông xuôi hai tay bỏ mặc. Thật đáng xấu hổ !
Một bàn tay nhẹ nhàng đặt lên vai nàng. Dì Minh đã đến cạnh nàng từ bao giờ. Dì hỏi nàng, đôi môi hình hạt đào cử động ngộ nghĩnh và đôi mắt tròn mở to và hỏi:
– Sao Loan lại đứng khóc ở đây ?…. Cãi nhau với Thừa phải không ? Thôi, vào nhà đi. Ba đang đợi Loan đấy !
Qua cánh cửa hé mở, Loan nhìn thấy ba nàng đang ngồi cạnh một ấm trà, gật gù đọc một tập thơ.
Khung cảnh quen thuộc của gia đình nàng cũng tự nhiên khiến nàng kinh hãi. Tất cả những cái gì đối với nàng mọi khi vững chắc, vào giây phút này đều trở nên giả tạo và vô lý. Nàng gay gắt với dì Minh:
– Dì cứ vào trước đi !…. Tôi đâu còn bé mà phải đưa với dẫn….

Trước vẻ mặt ngơ ngác của dì Minh, Loan không ngăn nổi mỉm cười, trong khi nước mắt vẫn chẩy trên má nàng. Có lẽ nàng nói đúng ! nàng không còn là một cô bé nữa. Ngày mai nàng sẽ gặp Thừa và đôi mắt ngọc trai đen của chàng.
Loan bước hẳn vào phòng.

Phụ Đính:

Viết về tạp ghi văn nghệ của Nguyễn Mạnh Trinh

Ở đây ai cũng biết phê bình là một thể loại phức tạp và tế nhị, nhất là đối với những cây bút tự trọng và mến tặng tài năng. Ở Nguyễn Mạnh Trinh, qua nhiều bài điểm sách đã tạo được lòng tin cậy của người đọc. Khi đề cập đến tác phẩm ,ông là một độc giả thông minh và có lương tâm, luôn luôn nêu ra được những đặc điểm nổi bật và sâu sắc của từng tác giả cả về mặt xử dụng từ ngữ lẫn cấu trúc và bề sâu của các thể hiện cảm xúc và ý tưởng.  Một người viết điểm sách thành công là làm người đọc cảm xúc về những điều nêu ra tạo ra sự riêng biệt và khác biệt của một tác giả. Như vậy , ông ta đã đi được quá nửa của chặng đường phê bình rồi.

Phê bình luôn luôn phải khởi đầu bằng cách đọc đúng và hiểu đúng cái hay và chủ ý của tác giả và kể cả những nhược điểm hoặc những sơ ý của tác giả. Điều ấy không phải là sự phô trương cái uyên bác để che dấu những ý đồ kèm theo. Người phê bình phải có cái tâm trong sáng , viết chủ quan trong cái khách quan và nhận định chính xác . Với Nguyễn Mạnh Trinh , ông viết với sự cẩn trọng và  cố gắng không thiên kiến. Đề cập đến những tác giả trong Tạp Ghi Văn Nghệ, ông kiếm tìm trong núi sách vở  để tìm ra được những nét tiêu biểu cho từng người. Ông không viết dài dòng  mà luôn tìm ra những cái hay và lý thú của một áng văn thơ của tác phẩm, thuyết phục người đọc đồng ý với mình. , để cả độc giả và người phê bình cùng có được niềm vui chung hiếm có là cùng may mắn thưởng thức cái đẹp cái hay cũng như những nét thâm trầm sâu sắc của những tác phẩm văn chương.

Tạp ghi, tạp văn , hay tạp luận là một thể loại văn học khá thông dụng hiện nay trên các tạp chí văn học nghệ thuật và cả các nhật báo bề thế, thường do một vài thi sĩ , văn sĩ , hoặc ký mục  gia phụ trách. Với cấu trúc thoải mái, đề tài tỏa rộng không giới hạn  và lối viết dung dị tránh những phong cách cầu kỳ phức tạp, tạp ghi làm người đọc dễ cảm nhận và dễ chia sẻ. Không phải là những khuôn mẫu khô khan của tiểu luận văn học, nhưng cũng không phải là những đề tài dễ dãi, thể loại này đã trở nên quen thuộc với nhiều giới độc giả.  Đọc những bài viết như vậy , người đọc không cần những đòi hỏi  để tập trung suy nghĩ cao độ cũng như không cần thiết lắm sự vận dụng đủ loại  kiến thức trong nhiều lãnh vực trừu tượng để thấu đáo một bài viết thể loại tiểu luận văn chương chẳng hạn. Với Nguyễn Mạnh Trinh và Tạp Ghi VănNghệ , tác giả và tác phẩm  được đề cập đến với tất cả những chi tiết tuy sơ lược nhưng cũng đủ cho một ý niệm rõ ràng về chân dung tác giả cũng như nội dung  tác phẩm của tác giả mà ông viết.

Giống như tùy bút hay phiếm luận , tạp ghi dễ đến với độc giả hơn vì trong một vài trường hợp người viết mang cả sự sinh động của đời sống vào bài viết và đó cũng chính là một nét hấp dẫn người đọc.  Có lẽ trong thời đại của tin học, của internet, với sự thặng dư đến bão hòa lượng tin tức đủ loại, đọc một bài tạp ghi gọn gàng khúc chiết về một cuốn sách , một tập thơ mới hay về sự nghiệp văn chương của một tác giả  cũng đã trở nên  một giải trí thú vị và có phần thanh nhã là khác.

Nhìn như vậy, Tạp Ghi Văn Nghệ của Nguyễn Mạnh Trinh với các bài có thể xếp làm một số thể loại.

Thứ nhất là các bài tác giả tác phẩm, nhắc lại những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của một số tác giả. Ví dụ như các bài viết về Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Hiến Lê, Vũ Hoàng Chương , Vũ Khắc Khoan,..Những đề tài này tuy có nhiều người viết nhưng ở Tạp Ghi Văn nghệ , người đọc có thể tìm ra được nhiều nét mới lạ. Tôi thích bài viết về tác giả Thanh Tâm Tuyền nhất trong số rất nhiều bài viết mà tôi đã đọc ở những người viết khác. Nó có nét riêng và phác họa đúng được một chân dung thi sĩ…

Thứ hai , là các bài điểm sách thường là phân tích nội dung chủ đề của sách, ít hàng về tác giả , vài  nét tiêu biểu về văn phong  với giá trị của nội dung. Điểm sách ít khi đi sâu vào phần  phê bình, mổ xẻ và phân tích những ưu điểm và khuyết điểm của tác giả  một cách rốt ráo. Diểm sách chỉ có sự giới thiệu nhiều hơn.

Thứ ba, là các bài tạp ghi nhưng thực chất là các bài tự sự, bởi vì hay trình bày một vài ngẫu hứng của tác giả.Thường thì nguyễn Mạnh Trinh hay nhắc nhở về một vài câu thơ hay cả một bài thơ và lồng vào trong đó những xúc động cũng như suy nghĩ rất chủ quan  về nhân sinh quan, về thời thế hay thân phận của một nhà thơ, một người xuất thân gốc nhà binh hoặc một người sống ở nơi chốn không phải quê hương mình.Lối ngẫu hứng này có chất tùy bút nhiều hơn là tạp ghi . Vì Nguyễn Mạnh Trinh là một thi  sĩ nên sở trường xử dụng hình ảnh và ngôn ngữ vẫn được ông tận dụng làm cho giọng văn tha thiết truyền cảm đầy chất thơ trong những bài hồi ức hay tự sự. Đó là một phần thưởng đầy cảm xúc cho nhiều độc giả đã được hưởng khi đọc những bài tạp ghi này.

Tạp Ghi VănNghệ  cũng có một số bài viết như phong cách của sổ tay văn nghệ., kể lại những sinh hoạt văn học, nói về những suy nghĩ  từ buổi ngồi quán cà phê, để bàn rộng ra về mọi hiện tượng phổ quát xã hôi , tâm lý hay văn hóa. Những bài viết loại này thể hiện nhiều cái tâm của tác giả, lãng mạn , nhạy cảm và nhiều suy tư. Thêm vào đó , là chất sinh động của một đời sống vội vã ở đây. Tâm tư đó có lẽ cũng là chung của mọi người nên sự chia sẻ   và  cảm thông cũng  đến với người đọc dễ dàng hơn..

Nói chung,  tuy là tạp ghi nhưng Nguyễn Mạnh Trinh đã viết đủ mọi giọng mọi lối. Những bài tạp ghi đăng hàng  tuần trên nhật báo Người Việt và nhiều tạp chí  ở Uc châu, ở Canada, và ở vài tiểu bang Hoa kỳ  có  khá nhiều người đọc đã được chọn lựa để in trong tác phẩm Tạp Ghi Văn Nghệ, cuốn sách mà tôi đang đề cập đến. Qua thời gian dài thử nghiệm và qua những người đọc và theo dõi các bài viết của Nguyễn Mạnh Trinh,  cũng như những nghiên cứu xác đáng để đối chiếu minh chứng, tôi thấy rằng càng ngày ông viết càng sắc sảo hơn cả về hình thức lẫn nội dung. Nói rằng ông đang đạt đến trình độ cao của nghệ thuật văn chương cũng không phải là quá đáng.

Xem ra,  từ một thể loại văn chương tưởng như dễ dãi và dễ viết, như Tạp Ghi Văn Nghệ mà chúng ta có được một cuốn sách có giá trị  của một tác giả viết cẩn trọng  và khiêm cung. Tôi đọc tác phẩm và thấy được sự trân trọng với chữ nghĩa cũng như cái tâm trong sáng  của một người viết biểu hiện qua từng dòng chữ. Hình như , Nguyễn Mạnh Trinh đang sửa soạn để in cuốn thứ hai  cũng là những bài viết chon lựa trong những bài đã viết. Hy vọng chúng ta sẽ lại được đọc những trang sách lý thú…

 

Tài năng đa dạng của Khái Hưng

 

clip_image004

Nhiều người hâm mộ tài viết văn của ông Khái Hưng, cũng còn biết ông còn có nhiều tài trong những lãnh vực khác nữa, như tài vẽ tranh theo lối mộc bản và tài dịch thơ Pháp.

Hầu như ai đã từng đọc các tác phẩm của ông đều khó quên được bài Tình Tuyệt Vọng, bản dịch tiếng Việt của ông, dịch thơ Arvers, xuất hiện lần đầu tiên trong một truyện ngắn Tình Tuyệt Vọng cũng do chính ông sáng tác. Chẳng qua khi viết truyện ngắn này về một chàng thi sĩ thầm yêu vợ của người bạn thân mình, ngay từ buổi đầu gặp gỡ, khi anh ta cùng bạn đến xem mặt người vợ tương lai tại một làng quê. Mối tình tuyệt vọng ấy, thi sĩ Văn Châu đã giữ mãi trong lòng cho mãi đến một bữa ăn Reveillon đêm Noel tại nhà hai vợ chồng bạn, thi sĩ mới mượn lời thơ Arvers mà anh đã dịch sang tiếng Việt, để phần nào thổ lộ cho mọi người biết, với sự thông cảm thật cao thượng và nhân ái của chính người chồng, bạn thân của thi sĩ.

Cho đến nay đã bao nhiêu người cố gắng dịch bài thơ Tình Tuyệt Vọng của Arvers sang tiếng Việt, kể cả ông Nhất Linh, nhưng cuối cùng ai cũng phải công nhận bài dịch của ông Khái Hưng là thoát nhất, thơ nhất và hễ nhắc đến Arvers là lập tức trên đầu môi nhiều người hai câu thơ dịch của Khái Hưng lập tức đã vang lên “Lòng ta chôn một khối tình, Tình trong giây phút mà thành thiên thâu”. Và rồi người đọc những câu thơ đầu tiên này được ngay những người bên cạnh đọc tiếp đầy hứng thú luôn cả bài thơ.

Đến đây, tự nhiên tôi muốn có hai nhận xét, một về tính lãng mạn của văn xuôi Khái Hưng và tài dùng từ ngữ rất Việt Nam, rất thơ của văn dịch của ông. Xem ra Khái Hưng có thể được coi là nhà văn lãng mạn nhất của Tự Lực Văn Đoàn, vì ông luôn có những cốt truyện hấp dẫn và không thiếu những yếu tố ngang trái éo le. Trong truyện dài Đẹp ông đã để ông chú họ Ngọc yêu Lan cô gái trẻ của bạn mình, tình yêu chú cháu này được đưa ra trước Chu Tử rất nhiều năm. Trong truyện dài Thanh Đức hay Băn Khoăn, ông đã để hai bố con Thanh Đức cùng yêu một người đàn bà đẹp Hảo, để rồi nàng Hảo đã bất ngờ nhận lấy một ông huyện, khiến hai bố con chưng hửng thất vọng ngẩn ngơ. Truyện dài Trống Mái, ông đã mô tả và khiến độc giả hồi hộp theo dõi chẳng hiểu cuối cùng liệu cô Hiền, cô gái mới thời đại, có lúc nào rơi vào vòng tay khoẻ mạnh của chàng Vọi thuyền chài, phá cả mọi rào cản về lễ giáo đương thời, và Hiền mắc vào cái lưới của chính nền giáo dục Tây học mà Hiền đã tiêm nhiễm, thích cái đẹp thể chất của thân hình đẹp như một bức tượng thần Apolon của một người nam thuộc giai cấp bình dân. Nhưng Khái Hưng đã chỉ để chàng Vọi vẽ hai chữ Vọi Hiền quấn vào nhau cùng các hòn đá của Hòn Chồng, rồi được tin Vọi chết vì cá nhà táng, Hiền mới xúc động hiểu ra là Vọi đã yêu nàng, một thứ tình tuyệt vọng vượt qua các ranh giới của giai cấp. Chẳng hiểu Hiền có hiểu ra là nàng đã có một trò chơi hơi ác của một cô gái mới, là đã có một liên hệ khác đời, giao du với một chàng trai khỏe đẹp và kích thích sự quyến luyến không thiếu những sắc thái dồn ép của dục tình, với sắc đẹp thể chất của một cô gái mới đang độ là nàng. Tôi cứ nghĩ, giá ông Khái Hưng đưa dẫn hai trẻ đến chỗ chàng Vọi chịu không nổi ôm lấy Hiền làm bậy, chắc câu chuyện có những diễn biến ly kỳ và hấp dẫn hơn nữa, ít ra là đối với các người trẻ như tôi và Thế Uyên.

Bọn tôi khi đọc lại các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn  và mấy tác phẩm do hai ông Khái Hưng và Nhất Linh viết chung, đều khoái nhân vật Tuyết của Đời Mưa Gió. Các cô gái làng chơi nửa chừng, ngang ngược dí dỏm này luôn có những hành động vừa khác thường lại vừa cám dỗ đàn ông một cách bất ngờ nhất. Chuyện Tuyết xuất hiện ở bếp nhà giáo sư Chương, để làm bếp cho chàng ta, những lời đối đáp ngộ nghĩnh có duyên và ý nhị của nàng ta, và luôn cả cái lối Tuyết nhẩy fox trot theo một điệu Bình Bán, thật vừa khả ái và đê mê. Cái kết của Đời Mưa Gió thật xinê Hollywood là cho Tuyết trở về nhà Chương một đêm Giao Thừa, để đốt hết quần áo của nàng thật Tây, nhưng rất hợp khi chuyện dài này được quay thành phim. Đọc Đời Mưa Gió tôi lại liên tưởng đến Of Human Bondage của Someset, cũng như hệ lụy ghê gớm của tình yêu giữa một chàng sinh viên với một người đàn bà thay đổi đầy khó hiểu. Thế còn Chương? Rõ ràng chàng giáo sư mô phạm đứng đắn mực thước nổi tiếng ghét phụ nữ đã bị thân hình nẩy nở và tình yêu nặng xác thịt nàng Tuyết mang tới cuốn hút vào những phiêu lưu không định hướng, không lối ra. Quả thật thời đó các ông đã dám đề cập đến sự sa đọa tha hóa của người trí thức mô phạm khi đụng đầu với sự cuốn hút của dục tình, cũng phải nói là mạnh bạo.

Trở lại cách sử dụng từ ngữ vừa Việt Nam vừa rất Á Đông, rất thích hợp của Khái Hưng khi dịch thơ Arvers. Để dịch một bài thơ Pháp, ông đã rõ ràng cố ý chọn lựa những từ ngữ, những hình ảnh ý niệm rất quen thuộc với các độc giả Việt, vốn dễ bị xúc động khi đọc những từ ngữ, hình ảnh xem ra đã được bao thế hệ thi sĩ Trung Hoa cũng như các nho sĩ Việt sử dụng, để viết văn làm thơ, đến độ sẽ tự xúc động như đã bị điều kiện hóa bởi những từ ngữ hình ảnh cổ đã tồn tại lâu đời qua văn chương.

Đúng ra theo tôn chỉ viết văn của Tự Lực Văn Đoàn, viết một lối văn rất An Nam, giản dị trong sáng, tránh những từ ngữ gốc chữ Hán trừu tượng khó hiểu, tương tự như các nhà thơ mới trong nhóm như Xuân Diệu, Thế Lữ, nhưng Khái Hưng đã chọn một lối dùng từ ngữ cũng có phần cổ kính, để dịch thơ Arvers, khiến bản dịch hấp dẫn người đọc vì các âm điệu quen thuộc gợi hình gợi cảm và rất khó quên vì rất thơ. Ngay câu đầu ông đã dùng chữ “chôn” một mối tình, một hành động lãng mạn cũ, rồi khoảnh khắc và “thiên thâu”, hai từ kép Hán Việt. Rồi đến những tĩnh từ sáo cũ của văn chương ngôn ngữ bình dân như Thảm sầu, gieo thảm, thui thủi, đường trần, ngọc nói hoa cười, bước tiên, tiết liệt đoan trinh. Nhiều danh từ đọc lên ta có cảm tưởng đã thấy ở Cung Oán Ngâm Khúc hay Chính Phụ Ngâm.

Tóm lại, Khái Hưng đã Á Đông hóa tình tuyệt vọng qua những từ ngừ hình ảnh ông đã chọn dùng để dịch thơ Arvers. Cho nên không có gì ngạc nhiên đông đảo độc giả qua nhiều thế hệ vẫn mê thích bản dịch của ông, và dù có đọc lên bản tiếng Pháp, để đối chiếu với bản dịch, nhưng hiển nhiên chỉ đọc bản dịch của Khái Hưng người ta mới thấy những niềm xúc động sâu xa và bền vững hơn. Thật sự trong trường hợp này dịch còn là một hành động sáng tác rõ nét, vì người dịch nhờ tài năng và khả năng hiểu thơ nguyên bản, hiểu rồi cảm rồi thấm và rồi viết lại bằng tiếng mẹ đẻ của mình thoát và tự nhiên, đến nỗi người đọc đồng hóa nhập vào giống ngôn ngữ dịch nhiều hơn, thấm thía hơn, so với thưởng thức bài thơ trong nguyên bản của nó.

Đến đây tôi lại muốn trích một đoạn văn viết về dịch của Nhất Linh:

…Dịch văn là một việc rất khó, theo chúng tôi, phải làm sao cho lưu loát, khiến người đọc

không cảm thấy là văn dịch mà văn dịch vẫn giữ được sát ý và lột được hết tinh thần của

nguyên văn.

Dịch văn xuôi không phản ý tác giả đã khó, dịch văn vần lại càng khó gấp bội, cho nên ít

khi ta được thưởng thức một bài thơ dịch toàn bích. Tuy nhiên, ai cũng có thể nhận thấy dịch thơ Đường dễ hay hơn là dịch thơ Anh, Pháp,…

Ông Nhất Linh cũng rất thích thơ Đường và đôi khi ông cũng thử dịch vài bài thơ Đường mà ông thích, nhưng ông có nói với tôi khi tôi cộng tác với ông qua Văn Hóa Ngày Nay: Bác dịch cũng chỉ vì thích nhưng không thể hay bằng Tản Đà và cũng còn thua nhiều Khái Hưng. Khái Hưng cũng dịch một số thơ Đường bác chọn, và quả thật bác dịch thơ Tây thật hay và dịch thơ Đường cũng rất hay nữa, có thể vì học chữ nho từ nhỏ bác tinh thông hán học, hơn nữa văn xuôi của bác cũng có tính chất thơ cao nữa. ông Nhất Linh đúng là có mắt tinh đời, khi mời Tản Đà cộng tác, ông đã khéo nhờ thi sĩ phụ trách mục dịch thơ Đường cho nên đến nay những bài thơ dịch thơ Đường của Tản Đà đã mãi được độc giả nhiều thế hệ khâm phục và ưa thích. Tiện đây, để chứng minh cái tài dịch thơ Đường của nhà văn Khái Hưng, cái tài mà ít người lớp sau biết được, tôi xin trích sau đây một số bài thơ tiếng Việt dịch từ những bài thơ Đường của những thi sĩ lớn của thi đàn Trung Hoa. Phải công nhận ngoài những từ Hán Việt chuyển sang tiếng Việt, Khái Hưng đã khéo tận dụng tất cả cái uyển chuyển tinh tế của tiếng Việt để dịch, chuyển thể thì đúng hơn, một số bài thơ nổi tiếng của thi sĩ được tôn là tiền phong trong giòng thơ lãng mạn trữ tình Trung Hoa.

Dưới trăng uống rượu một mình

Lý Bạch

I

Trong hoa một hồ rượu

Ngồi uống, bạn không ai

Cất chén mời trăng sáng

Với bóng là ba người

Trăng không ngưng ta uống

Bóng theo ta chẳng rời,

Tạm bạn trăng cùng bóng

Đề chờ xuân tới nơi

Ta ca trăng bồi hồi,

Ta múa bóng linh loạn

Lúc tỉnh cùng giao hoan

Say mọi người phân tán

Bạn già nhưng vô tình

Hẹn nhau sông Vân Hán,.

II

Trời mà không thích rượu

“Sao rượu” ở chi trời?

Đất mà không thích rượu

Thích rượu không thẹn trời

Đã nói trong chữ thánh

Đọc tựa hiên thêm lời

Hiển thánh đều đã uống

Thần tiên còn cần ai?

Ba chén trong đạo lớn

Hấp tự nhiên một chai

Chỉ tìm thú trong rượu

Mặc người tỉnh lôi thôi

III

Ba tháng ở Hàm Dương

Nghìn hoa đẹp như gấm

Ai hay xuân mà sầu

Nên còn uống nhiều lắm

Cùng thông và ngắn dài

Tạo Hóa sẵn phú bẩm

Sống, chết, một chén thôi

Muôn việc khôn xét thẩm

Khi say quên trời đất

Ôm gối nằm ngủ lấp

Chẳng biết có thân mình

Vui ấy vui nào thấm

IV

Sầu lớn nghìn muôn mối

Ba trăm chén rượu ngon

Sầu nhiều rượu tuy ít

Rượu nghiêng sầu phải bon

Sở dĩ biết rượu thánh

Rượu say mở lòng son

Bá Di không nhận thóc

Nhân Hồi đói chết mòn

Thời ấy không thích uống

Hư danh sao vẫn còn?

Cua tôm là châu báu

Cỏ men là cõi Bồng

Và cần uống rượu tốt

Gác cao cười trăng tròn

Khái Hưng dịch

Lý Bạch

Thiếp ngắt hoa trước cửa

Tóc chấm trán vừa ngang

Chàng cưỡi ngựa trúc đến

Tung mơ chạy quanh giường

Làng Trường Sơn cùng ở

Hai trẻ một lòng thương

Mười bốn về làm vợ

Thiếp e thẹn bẽ bàng

Chúi đầu vào vách tối

Gọi, mãi chẳng quay sang

Mười lăm, mi mới nở

Nguyên ghi tạc đá vàng

Chàng không hề lỗi hẹn

Thiếp rất được yêu thương

Mười sáu, chàng ra đi

Trèo leo lối Cô Dương:

Tháng năm ai dám tới?

Tiếng vượn kêu thảm thương

Ngoài cổng thưa chân bước

Rêu xanh mọc thành hàng

Rêu đầy không thể quét

Lá rụng gió thu mang

Tháng tám ngoài vườn cỏ

Nhẩn nha đôi bướm vàng

Tự cảm đau lòng thiếp

Nhìn tàn tạ hồng nhan

Sớm chiều xuống ba quận

Mong ngóng đợi thư chàng

Đón nhau xa không ngại

Trường phong bao dặm đàng

(Khái Hưng dịch)

Đến đây, gọi là một cử chỉ tế nhị đối với các bạn trẻ, không thông thạo Pháp ngữ và có thể cũng chẳng nhớ đến Arvers, cũng như đối với các bạn tuy có đọc và nhớ lõm bõm bản dịch Tình Tuyệt Vọng thơ Arvers, Khái Hưng dịch, nên tôi cũng kèm vào đây toàn bộ bài thơ khó quên đó.

Tình tuyệt vọng

Arvers

Lòng ta chôn một mối tình

Tình trong giây phút mà thành thiên thâu

Tình tuyệt vọng nỗi thảm sầu

Mà người gieo thảm như hầu không hay

Hỡi ơi! Người đó ta đây

Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân?

Dẫu ta đi trọn đường trần,

Truyện riêng dễ dám một lần hé môi?

Người dù ngọc nói hoa cười

Nhìn ta như thể nhìn người không quen

Đường đời lặng lẽ bước tiên

Ngờ đâu chân đạp lên trên khối tình

Một niềm tiết liệt đoan trinh

Xem thơ nào biết có mình ở trong

Lạnh lùng lòng sẽ hỏi lòng

Người đâu tả ở mấy giòng thơ đây

(Khái Hưng dịch)

Chỉ có điều, như một nhà văn có tính tò mò cứ muốn biết nhiều hơn về sự nẩy sinh của các tác phẩm văn chương, tôi cứ thắc mắc hoài với chính mình. Ông Khái Hưng dịch thơ Arvers trước rồi mới viết một truyện ngắn, ở đây cũng có tên Tình Tuyệt Vọng, để tiện gài bài thơ ông dịch vào truyện, hay ông viết truyện trước và nhân tiện dịch bài thơ của Arvers, mà những người theo Tây học hồi đó ai cũng biết ? Tôi cũng tiếc không gạn hỏi bác Nhất Linh, chắc bác cũng đã giải tỏa cho thắc mắc của thằng cháu, nhà văn vốn nhiều chuyện lại tò mò.

Đọc lại truyện ngần Tình Tuyệt Vọng của Khái Hưng, tôi mới chợt nhận ra không khí một đêm Noel tụ tập các nghệ sĩ trí thức ở Hà Nội một thời tiền chiến tài hoa son trẻ, lại có nhiều nét tương đồng với những tụ họp sau này của bọn nhà văn nhà thơ lớp sau chúng tôi, cũng những lời đùa cợt ý nhị trêu chọc thân ái lẫn nhau, cũng những trò chúc rượu khen khéo sắc đẹp phe nữ và sự duyên dáng của nữ chủ nhân, cũng cái nét ham sống ham vui yêu đời của tuổi trẻ. Cho nên nói văn chương tiền chiến đã trở nên có phần xa lạ, cũ xưa, không hợp thời đối với tuổi trẻ các thế hệ sau, e ta phải đặt Khái Hưng sang một bên vì không ở tiểu thuyết nào có nhiều nhân vật nữ hấp dẫn đa dạng và có cách cư xử ăn nói có nhiều hiện đại tính như trong văn xuôi của Khái Hưng. Chẳng trách Khái Hưng được đông đảo độc giả trẻ trí thức thành thị yêu mến và sách của ông bán chạy hàng đầu trong các nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.

Để kết thúc bài tùy bút này, tôi muốn viết sơ qua về tài họa của Khái Hưng. Như Nhất

Linh đã chú thích khi cho đăng lại bức minh họa bài thơ Tương Biệt Dạ của Huyền Kiêu, do chính tay Khái Hưng vẽ. Lối minh họa của Khái Hưng khiến tôi liên tưởng đến lối vẽ tranh mộc bản của các họa sĩ Nhật, sáng tối làm nổi yếu tố khối, nét vẽ rõ ràng mạnh mẽ, để dễ cho thợ khắc lên bản gỗ. Chỉ tiếc một điều đây là bức tranh độc nhất còn lưu lại được của Khái Hưng, tại sao ông không minh họa nhiều hơn các truyện ngắn truyện dài của chính ông. Nếu ông làm như thế, có phải ngày nay chúng ta có được một bộ sưu tập các bức tranh với phong cách Á Đông, và như Nhất Linh xác nhận đẹp không thua gì các bức tranh của các danh họa. Có thể vì tính tình khiêm cung ý nhị, trong Tự Lực Văn Đoàn và Phong Hóa Ngày Nay, đã có đến hai danh họa Nguyễn Gia Trí và Tô Ngọc Vân phụ trách phần minh họa, nên Khái Hưng đã không khai triển một tài năng ẩn kín của ông là họa. Thật đáng tiếc.

Mùa Giáng Sinh 2007

Bài Mới Nhất
Search